





Preview text:
A. Mở đầu
Đất nước Việt Nam là nơi không những được trời đất ban tặng điều kiện tự
nhiên thuận lợi mà còn sở hữu một nền văn hóa phong phú, đa dạng nhưng vẫn
mang đậm chất bản sắc dân tộc. Với lịch sử hình thành quốc gia từ sớm, nền
văn minh Đại Việt được xếp là một trong 34 nền văn minh đầu tiên của nhân
loại. Trong suốt chiều dài lịch sử bị áp bức và đô hộ bởi các nước phương Tây
và phương Bắc, Việt Nam ta vẫn giữ được cái “chất” riêng của nước nhà nhưng
chúng ta vẫn biết học hỏi và tiếp thu những tinh hoa. Trong đường lối cách
mạng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như đường lối xây dựng và phát triển
đất nước Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh định hướng đến phát triển
con người toàn diện và xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”. Tại hội nghị văn hóa toàn quốc vào tháng 11 năm
2021, trong bài phát biểu Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp tục nhấn mạnh: vị
trí cũng như vai trò quan trọng của văn hóa . “ Văn hóa là hồn cốt dân tộc, nói
lên bản sắc dân tộc…Đảng ta xác định: văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, quan trọng để phát triển đất
nước…” . Đặc trưng của văn hóa Việt Nam vừa mang đặc tính phổ biến của
văn hóa phương Đông nói chung vừa thể hiện được những cái riêng biệt, đặc
thù. Những đặc trưng riêng biệt này được hình thành, đúc kết từ điều kiện tự
nhiên, lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội, con người Việt Nam. Tóm lại, có
những nét chung tương đối khái quát gồm 5 đặc trưng cơ bản văn hóa (tính
cộng đồng làng xã, tính trọng âm, tính ưa hài hòa, tính kết hợp, tính linh hoạt).
Một trong số những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam là tính trọng âm
( thiên nhiều về tính Âm hơn tính Dương). Trong bài tiểu luận này, em sẽ tìm
hiểu tính trọng âm qua nhiều khía cạnh trong cuộc sống cũng như trong các
lĩnh vực văn hóa Việt Nam. B. Nội dung
1. Những biểu hiện của tính trọng âm trong các lĩnh vực của văn hóa Việt Nam
- Tính trọng âm trong văn hóa Việt Nam được biểu hiện rõ qua bảy phẩm chất cơ bản sau: (1) Tính ưa ổn định
(2) Tính hiền hòa, bao dung
(3) Tính trọng tình, đa cảm (4) Tính trọng nữ (5) Thiên hướng thơ ca
(6) Sức chịu đựng, nhẫn nhịn (7) Lòng hiếu khách
- Bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp thì tính trọng âm cũng là cội nguồn của
những căn bệnh xấu như: bệnh thụ động, khép kín; bệnh lề mề, chậm chạp;
bệnh tủn mủn, thiếu tầm nhìn; bệnh sùng ngoại v.v…
1.1 : Khai thác các phẩm chất cơ bản
- Một là, người Việt thích sự ổn định. Điều này được đúc kết từ xưa đến nay và
thể hiện trong các câu ca dao, tục ngữ như “an cư lạc nghiệp” ( ổn định về nơi
ở từ đó chuyên tâm làm việc, gầy dựng sự việc), “yên bề gia thất” (nhà cửa đã
yên một bề, chỉ người đàn ông, đàn bà đã có vợ, chồng không cần phải băn
khoăn, lo nghĩ). Chung quy lại, đều thể hiện sự yên ổn trong mọi thứ, hai câu
này đều được ông bà ta lấy làm quan niệm sống, kinh nghiệm để răn dạy qua
bao thế hệ từ công việc, cuộc sống đến gia đình. Tức là, trong tư tưởng của mỗi
cá nhân trong cộng đồng người Việt, “an” và “yên” là hai yếu tố quan trọng.
Khác biệt so với lối suy nghĩ Trọng Dương ở phương Tây, vì ở phương Tây họ
luôn thích trải nghiệm, tìm kiếm sự mới mẻ.
- Hai là, người Việt tính hiền hòa, bao dung. Điều đó được thể hiện qua lối suy
nghĩ “ Dĩ hòa vi quý”. Từ xa xưa, bậc bề trên luôn khuyên ngăn con cháu phải
biết đối nhân xử thế, phải biết ứng xử giữa người với người. Điều quan trọng
nhất trong giao tiếp là sự hòa nhã, biết lắng nghe, yêu thương người khác.
Không chỉ đơn giản về cách sống, mà còn mang ý nghĩa nhất định trong tình
hình chính trị-xã hội. Người Việt với bản chất hiền hòa, luôn chủ trương đối
nhân xử thế với tấm lòng bao dung, rộng lượng.
- Ba là, người Việt trọng tình, đa cảm. Mỗi khi xử lý vấn đề, họ luôn cân nhắc
giữa tình và lý, lấy sự yêu sự ghét làm nguyên tắc ứng xử trong giao tiếp. Nếu
trong tổng thể, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm nguyên lý chủ
đạo nhưng vẫn thiên về âm tính hơn, thì trong cuộc sống, người Việt Nam sống
có lý có tình thì tình được đặt cao hơn lý. Vì vậy, chúng ta có các câu ca dao
như:” Một trăm cái lý cũng không bằng một tý cái tình”; “ Đưa nhau đi đến cửa
quan. Bên ngoài là lý, bên trong là tình”. Ông bà, cha mẹ luôn giáo dục con
cháu mình phải luôn biết coi trọng tình nghĩa, tôn trọng tình cảm.
- Bốn là, người Việt có xu hướng coi trọng nữ. Bốn chữ “ Công, dung, ngôn,
hạnh” là phẩm chất của phụ nữ Việt Nam thời xưa, từ xưa họ đã có trách nhiệm
trong việc chăm sóc gia đình, quán xuyến việc nhà và giáo dục con cái. Tục
ngữ Việt Nam có không ít câu đề cao vai trò quan trọng của người phụ nữ như
“ Nhất vợ nhì trời”, “Phúc đức tại mẫu”,... Do đó, ngày nay bên cạnh kế thừa
và phát huy các đức tính truyền thống thì người phụ nữ hiện đại đã và đang
hướng đến bốn phẩm chất “ tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”. Có thể thấy
họ dần đang tự chủ cuộc sống, tự đứng trên đôi chân của mình, vừa có thể hoàn
thành tốt công việc, sự nghiệp vừa có thể làm tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ.
- Năm là, người Việt có thiên hướng thơ ca. Kurn Stern trong lời tựa một tập thơ
Việt Nam dịch ra tiếng Đức có nhận xét rằng “ Việt Nam là đất nước của thơ ca
và chiến tranh”. Đa số người dân Việt Nam đều biết làm thơ, với văn hóa gốc
nông nghiệp trọng âm, trọng tình cảm tất yếu sẽ có khuynh hướng thiên về thơ.
Trong suốt cả lịch sử mấy nghìn năm văn chương của Việt Nam đều là lịch sử
của thơ ca, Tiếng Việt ta là một ngôn ngữ giàu ngôn điệu, tự thân các thanh
điệu đã tạo nên nốt nhạc cho câu văn. Từ những bài văn xuôi viết theo lối biền
ngẫu hay viết theo lối tự do cho tới những lời văn nôm bình dân… ta đều gặp
một lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ và tiết tấu vần điệu. Thậm chí
trong việc chửi nhau, người Việt cũng chửi nhau một cách có bài bản, nhịp
nhàng, chất thơ,... Đồng thời, văn hóa nông nghiệp với bản tính tĩnh thiên về
trình bày nội dung tâm lý, tình cảm với bút pháp biểu trưng và lối diễn đạt cân
xứng nhẹ nhàng - tất cả những đặc trưng cho thấy sự biểu hiện tập trung trong thơ.
- Sáu là, người Việt có tính chịu đựng, nhẫn nhịn. Trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, qua các cuộc chiến đấu chống xâm lược phương Bắc, thực dân Pháp hay
đế quốc Mỹ, người Việt đã thể hiện tinh thần bền bỉ, kiên cường. Một trong
những đường lối dẫn đến thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là “
Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”. Đảng và vị lãnh tụ Hồ Chí Minh
đã xác định đánh lâu dài nhằm vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, chuyển yếu
thành mạnh đồng thời lựa chọn thời cơ thích hợp để giành thắng lợi. Ngoài ra,
trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng được rèn luyện tính kiên trì, nhẫn
nại, biết theo đuổi ước mơ, mục tiêu của bản thân: “ Có công mài sắt, có ngày nên kim”
- Bảy là, người Việt có lòng hiếu khách. Người Việt rất coi trọng việc phát triển
và giữ gìn các mối quan hệ xung quanh, họ đề cao việc giao tiếp, thăm hỏi.
Không chỉ dừng lại ở nhu cầu công việc, mà còn là để thể hiện tình cảm.
Truyền thống từ ông bà cha ta, khách đến nhà chơi, dù quen hay lạ, thân thiết
hay xã giao, gia chủ cũng đều tiếp đón chu đáo và bày ra mâm cơm thịnh soạn,
hoành tráng. Đây là một trong những ưu thế khi ngoại giao, con người Việt
Nam đã để lại một dấu ấn tuyệt đẹp với người nước ngoài và báo chí quốc tế là
một hình ảnh thân thiện, hiếu khách và chân thành.
1.2 : Những mặt tiêu cực của tính trọng âm
Văn hóa Trọng Âm của người Việt tạo ra được những giá trị tích cực nhưng đồng thời
cũng gây ra những phản giá trị.
- Đề cập đến những giá trị của văn hóa Trọng Âm, chúng ta có thể thấy người
Việt có tính cách hài hòa, mềm dẻo, linh hoạt, trọng tình trọng nghĩa. Trong
cuộc sống hằng ngày, người Việt luôn cố gắng để tìm kiếm sự ổn định trong
công việc, sự nghiệp thậm chí là hạnh phúc của bản thân. Con người chúng ta
được khuyên bảo rằng bản thân phải được “an”, “yên” thì cuộc sống mới hạnh
phúc. Người Việt luôn giáo dục thế hệ con cháu phải luôn biết cách đối nhân xử
thế, phải có lòng bao dung với mọi thứ xung quanh. Bởi vì bao dung người
khác chính là một cách khác đối xử tốt với chính mình. Không những vậy,
người Việt đã nhận thức rõ hơn về vai trò cũng như những sự hi sinh thầm lặng
cùng với sự đau khổ phải chịu của người phụ nữ. Khác với thời phong kiến,
tiếng nói của người phụ nữ luôn bị coi thường, hình ảnh bị chà đạp, chế giễu thì
ngày nay họ hướng tới một hình ảnh mang tính hiện đại nhưng vẫn giữ những
phẩm chất vốn có của một người phụ nữ Việt Nam. Họ có thể vừa đấu tranh
cho sự nghiệp riêng, vừa có thể làm tròn bổn phận của người vợ, người mẹ.
Mỗi công dân Việt Nam đều có chung tinh thần nhẫn nại, bền bỉ, họ thường
hướng tới mục tiêu lâu dài, nên họ luôn chuẩn bị một tâm thế kĩ càng, vững
chãi, không nóng vội trước những cám dỗ hay thất bại nhất thời. Đất nước
chúng ta nổi tiếng với lòng hiếu khách, đây cũng chính là cơ hội để xây dựng
những mối quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài và cũng gầy dựng một hình ảnh
nước Việt Nam đầy thân thiện trong mắt bạn bè nước ngoài. Ngoài ra, với
khuynh hướng thiên về thơ ca, người Việt đã tạo ra một kho tàng thơ văn từ xa
xưa mang đậm dấu ấn lịch sử cùng với chất trữ tình đọng lại trong mỗi câu chữ.
Để lại muôn vàn tác phẩm cho các thế hệ sau cùng chiêm nghiệm và thưởng thức.
- Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì cũng có những mặt hạn chế chúng ta
cần lưu ý. Đặc điểm quan trọng nhất của văn hóa truyền thống nước mình được
tóm gọn trong hai chữ “âm tính”. Người Việt xưa và nay đều có tâm lí chung là
tin vào thần linh, với mục đích là cầu bình an cho gia đình và người thân. Tuy
nhiên theo thời gian thì nhiều đối tượng xấu đã lợi dụng lòng tin mà rao bán
các bùa, chú, ngải với giá cắt cổ hay họ còn bóp méo sự thật các hiện tượng, sự
việc. Điều này không những ảnh hưởng tới người dân mà còn gây mất trật tự an
ninh xã hội. Xuất phát từ nền văn minh lúa nước, văn hóa Việt Nam rất âm
tính, nên người Việt thường có tính thụ động. Mỗi người chúng ta đều được
khuyên răn rằng nên cố gắng tìm sự yên ổn trong công việc, sự nghiệp, cuộc
sống. Hướng bản thân tới sự “an”, “yên”, thế nhưng điều này sẽ gây ra hiện
tượng trì trệ, dậm chân tại chỗ, không có sự cầu tiến trong công việc. Đặc biệt
đối với các bạn trẻ thì việc chủ động tìm kiếm các cơ hội để phát triển bản thân,
tích lũy kinh nghiệm là điều bắt buộc. Người ta có câu “ tuổi trẻ xin đừng lựa
chọn an nhàn”. Mặt hạn chế tiếp theo là người Việt chúng ta trọng tình trọng
nghĩa, sống thiên về cảm xúc. Vì vậy trong công việc họ thường bị mắc kẹt
giữa tình và lý, điều này dẫn đến kết quả công việc không mấy khách quan.
Ngày nay, tình trạng “con ông cháu cha” vẫn luôn là vấn đề nhức nhối trong xã
hội Việt Nam, làm xói mòn lòng tin của người dân và làm giảm đi chất lượng
của bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, chúng ta nổi tiếng với lòng nhẫn nhịn, chịu
đựng, đặc biệt là phụ nữ. Trong thời phong kiến xa xưa, với bản tính là thụ
động, chịu đựng nên người phụ nữ xưa luôn bị coi thường, chà đạp một cách
tàn bạo. Hầu như tình trạng này vẫn còn tồn đọng và tiếp tục diễn biến tới ngày nay.
2. Theo anh (chị), hiện nay Việt Nam có cần phải chuyển đổi đặc trưng văn hóa
này không? Tại sao?
- Theo em, nền văn hóa Việt Nam là sự kết tinh của 54 dân tộc trong quá trình
dựng nước và giữ nước, nó thể hiện trình độ, nghệ thuật ứng xử và mỗi cộng
đồng đều mang một màu sắc riêng. Đặc trưng của văn hóa không phải là phạm
trù bất biến, mà luôn vận động, phát triển cùng với những biến đổi của điều
kiện tự nhiên và con người, luôn thay đổi để phù hợp với dòng chảy văn minh
nhân loại. Tính trọng âm là một trong năm đặc trưng bản của văn hóa Việt Nam
tạo nên giá trị cốt lõi của con người Việt Nam là lòng yêu nước, yêu dân tộc,
lòng nhân ái, thương người, tính cộng đồng, làng xã; tính tinh tế. Có thể thấy
những giá trị mà tính trọng âm mang đến cho con người là tính mềm dẻo, linh
hoạt, trọng tình trọng nghĩa mặc dù nó cũng chính là nguyên nhân gây ra các
thói quen xấu cho chúng ta. Với tình hình hiện giờ, chúng ta không nhất thiết
phải chuyển đổi văn hóa đặc trưng này mà có thể tiếp tục phát huy những mặt
khách quan, tích cực, đồng thời đưa ra những chính sách khắc phục, hạn chế
những mặt tiêu cực. Tính trọng âm trong văn hóa người Việt thiên về âm tính,
từ đó đề cao giá trị văn hóa gia đình truyền thống. Mỗi quốc gia, dân tộc đều có
sự lựa chọn, đề cao những giá trị khác nhau trong văn hóa gia đình. Đối với
người Việt, giá trị văn hóa gia đình được đúc kết từ sự thích nghi và ứng phó,
kinh nghiệm của ông bà cha ta từ xa xưa. Người Việt có truyền thống thờ cúng
tổ tiên, ông bà nhằm thể hiện lòng biết ơn, luôn nhớ tới cội nguồn của mình.
Các thế hệ con cháu luôn được giáo dục kính trọng người già, yêu quý trẻ nhỏ,
tôn trọng những mối quan hệ xung quanh, phải biết trọng tình nghĩa. Nhờ tính
Trọng âm chúng ta có thể thấy xã hội dần đề cao vai trò người phụ nữ, quyền
phụ nữ ngày càng được thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Những người phụ nữ từ
hàng nghìn năm trước hy sinh vì nước, vì dân đều được thờ phụng trở thành liệt
nữ nêu gương cho con cháu như Bà Trưng, Bà Triệu… Ở thời hiện đại hình ảnh
người mẹ được tôn kính dựng tượng như Bà Mẹ Việt Nam anh hùng ở Quảng
Nam…… Dân chúng đã rút ra được vai trò, vị trí của người phụ nữ Việt Nam:
“ Lệnh ông không bằng cồng bà”.Mặc dù văn hóa Việt Nam thiên về âm tính
thường sẽ bị động, ngại giao tiếp, không cởi mở nhưng ở một phương diện
khác thì chúng ta vẫn không ngần ngại tiếp thu những cái mới. Có thể nói văn
hóa Việt Nam là một nền văn hóa mở nhưng tinh tế, khéo léo, mềm dẻo tiếp thu
cái hay, phù hợp, không cực đoan, lấn át, thể hiện cách ứng xử của người Việt.
C. Phần kết luận
- Tóm lại, văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển
đất nước. Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con
người và bản sắc, cốt cách dân tộc. Thông qua những kiến thức vừa tìm hiểu
được, em có thể nhận thấy được là tính trọng âm là một trong những đặc trưng
không thể thiếu để tạo ra những giá trị nhân phẩm của một con người Việt Nam
mặc dù đặc trưng ấy còn nhiều mặt hạn chế. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết của
Đảng về định hướng phát triển văn hóa trong giai đoạn mới, đó là: “ Phát triển
con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc….” và đặc biệt tập trung vào việc tuyên truyền, giáo dục các thế hệ
về vai trò và tầm quan trọng của văn hóa.
Document Outline
- A. Mở đầu
- B. Nội dung
- C. Phần kết luận