

















Preview text:
MỤC LỤC
MỤC LỤC ...................................................................................................................... 1
THỜI KÌ VĂN HÓA PHONG KIẾN QUÝ TỘC ......................................................... 2
1. Vũ công với chế định văn hoá .............................................................................. 2
2. Chế định văn hoá từ sự hoà mục ......................................................................... 3
3. Tính chất văn hóa phong kiến quý tộc ................................................................ 4
4. Tiếp thu văn hóa ngoại nhập ............................................................................... 5
5. Nền văn học bác học Hán Nôm phong phú ......................................................... 6
6. Sự suy tàn của văn hóa phong kiến quý tộc ........................................................ 7
THỜI KÌ VĂN HÓA PHONG KIẾN QUAN LIÊU Ở ĐỈNH CAO ............................. 8
1. Ý nghĩa văn hóa của vũ công Lê Lợi thắng Minh ............................................... 8
2. Đặc trưng văn hóa phong kiến quan liêu ............................................................ 9
3. Phát triển văn hóa tinh thần ở thời Lê Sơ ......................................................... 12
4. Vua Lê Thánh Tông với đỉnh cao văn hóa phong kiến quan liêu ..................... 12
THỜI KÌ VĂN HÓA PHONG KIẾN QUAN LIÊU Ở ĐỈNH CAO ........................... 13
1. Khủng hoảng kinh tế xã hội triền miên ............................................................. 13
2. Văn hóa nông nghiệp lúa nước mở rộng về phương Nam ................................ 13
3. Đời sống tinh thần trong tình trạng chia đôi đất nước ..................................... 14
4. Ý nghĩa văn hóa của Tây Sơn - Quang Trung................................................... 15
5. Phong kiến nhà Nguyễn nhìn từ góc độ văn hóa học ........................................ 16
6. Về di sản văn hóa thời Nguyễn .......................................................................... 17
7. Lời kết chung...................................................................................................... 17 1
THỜI KÌ VĂN HÓA PHONG KIẾN QUÝ TỘC
Nói về thời kì văn hóa quý tộc Việt Nam từ khi giành được độc lập tự chủ năm
905 ở Khúc Thừa Dụ đến hết thời Trần năm 1400, không ít tác giả có cách gọi không
chính xác về thời kì văn hóa này. Không phải văn hóa Nho giáo hay văn hóa Phật giáo
chỉ là sự tiếp thu văn hóa ngoại nhập để củng cố, bổ sung thêm cho các nền văn hóa độc
lập tự chủ, bản chất tên gọi của nền văn hóa phải thể hiện thật đúng tinh thần “văn hóa
vừa là mục tiêu vươn tới, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội”.
Nhìn vào thời Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần, bản chất văn hóa được biểu hiện ra bằng
tên gọi là “Văn hóa phong kiến quý tộc” với những nội dung cơ bản sau:
- Chế độ phong hầu kiến ấp (vua thưởng cho công hầu bằng cách cấp đất và cư dân
sống trên đất đó, người được thưởng tổ chức nhân dân trong đó cày cấy thu hoa lợi
làm bổng lộc thay cho lương bổng từ nhà nước trả)
- Chế độ nhiệm tử (con em tầng lớp quý tộc đời đời hưởng lộc cha anh, ra làm quan
không cần khoa cử, bằng cấp)
Từ chế độ phong hầu kiến áp như trên là gọi thành chế độ phong kiến do vua làm
chủ, cũng gọi là chế độ quân chủ.
Từ hai nội dung cơ bản trên với nền tảng kinh tế nông nghiệp lúa nước, hình thành
nên quan hệ sản xuất hay quan hệ xã hội là lãnh chúa nông nô. Quan hệ này tạo ra được
sự hòa mục giữa Vua với dân, đã làm cho văn hóa phong kiến quý tộc phát triển đến cuối đời Trần thì suy tàn.
1. Vũ công với chế định văn hoá
Văn hóa phong kiến phương Bắc xâm lược luôn diễn ra với mưu đồ xâm lược -
thống trị nước ta ngày một quyết liệt hơn, không có vũ công không đánh đuổi được
chúng. Từ năm 905, vũ công của Khúc Thừa Dụ lật đổ ách thống trị nhà Đường bước đầu
xây dựng văn hoá độc lập tự chủ đến vũ công oanh liệt trước vó ngựa hung hãn nhất thời
đại của quân Nguyên Mông đã từng ngang dọc khắp vùng Đông Nam Á vào các năm
1258, 1285, 1288 của nhà Trần, có thể nói ông cha ta đã liên tục, bền bỉ đấu tranh để lại
những vũ công đáng tự hào vì bảo vệ độc lập non sông bờ cõi nước Việt. Nói về vũ công
với chế định văn hoá còn có tình tiết vì tranh giành quyền lực mà đánh nhau liên miên
ngang dọc khắp đồng bằng Bắc Bộ gần nửa thế kỷ của 3 họ Đoàn, Nguyễn, Trần. Cuối
cùng bằng vũ công chiến thắng hai họ kia mới dẫn đến họ Trần trở thành họ hoàng tộc
bằng tình tiết nhường ngôi như trên đây. Từ vũ công này mà nhà Trần sau đó huy động
được sức mạnh văn hoá dân tộc chiến thắng Nguyên Mông.
Vũ công gắn liền với các với chế định văn hoá. Qua bài "Nam quốc sơn hà" mà Lý
Thường Kiệt để lại giá trị tinh thần bình đẳng từ văn hoá nông nghiệp lúa nước đẻ ra và
tinh thần bình đẳng từ Phật giáo, cho nên văn hoá được khẳng định: sông núi nước Nam
chỉ có vua Nam ở, và bằng tinh thần Nho giáo (tuyệt đối đề cao mệnh trời) là điều đã
được khẳng định từ sách trời, cho nên kẻ nào đến xâm phạm, chúng bay sẽ bị đánh tơi
bời. Vũ công với chế định văn hoá mà Trần Hưng Đạo để lại giá trị tinh thần “Ta thường
tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối. Ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa. Chỉ tiếc rằng chưa
xẻ thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. ”, “kẻ thù tràn đến chẳng những thái ấp của
ta chẳng còn mà vợ con các người cũng bị hãm vào vòng khốn đốn...:” đã gây lên tinh
thần "Sát thát" mãnh liệt chiến thắng giặc Nguyên Mông lúc bấy giờ. Và ông còn căn dặn
lại "Nới sức dân là kế sách giữ nước quan trọng hàng đầu". Chính ý chí là sức mạnh văn
hoá của những vũ công thời đó, cụ thể là sức mạnh văn hoá nông nghiệp lúa nước đã tạo nên những vũ công đó.
2. Chế định văn hoá từ sự hoà mục
Biểu hiện ra những khía cạnh sau:
- Nghề nuôi sống con người cũng là nghề mang sức mạnh văn hoá dân tộc –
nghề canh tác nông nghiệp lúa nước – nên không thể không chăm lo đến nó. Thời Đinh
thì chưa thấy sử chép, nhưng từ thời tiền Lê cho đến suốt thời Lý - Trần đều có thấy nói
đến ruộng tịch điền, nơi mà hàng năm vào đầu xuân các vua ra đó cày tượng trưng vài
luống gọi là cày tịch điền (cày mở ruộng). Ý nghĩa văn hoá mà biểu tượng này là nhằm
nêu gương động viên khuyến khích nhân dân yêu mến chăm lo cái nghề nuôi sống con người.
Để đảm bảo cho sức sản xuất nông nghiệp, pháp luật thời Lý (Hình thư) quy định
tuyển quân lính chỉ tuyển ở những gia đình đông đinh, còn gia đình ít định cho ở nhà sản
xuất. Hoặc luật pháp quy định kẻ nào ăn trộm trâu, giết trâu không đúng quy định sẽ bị
phạt 80 trượng đồ làm khao giáp, vợ bị phạt 80 trượng, đồ làm tang thất phụ và phải bồi
thường trâu, nhà láng giềng không cáo giác cũng bị phạt 80 trượng. Đến pháp luật triều
Trần (Quốc triều hình luật) vẫn tiếp tục theo hướng pháp luật thời Lý là những điều luật
bảo vệ trâu bò và các công trình thuỷ lợi. Đặc biệt là chế độ "Ngụ binh ư nông" ở cả hai
triều Lý – Trần đều thực hiện triệt để, lần lượt thay phiên nhau một bộ phận binh sĩ về
nhà làm ruộng tăng sức lao động cho sản xuất nông nghiệp.
- Tiếp đến nói về vấn đề trị thuỷ - điều kiện quan trọng hàng đầu của canh tác
nông nghiệp lúa nước mà Vua Nước có thực hiện được hay không để hoà mục được với
Dân Làng, thì có thể nói suốt thời tiền Lê – Lý – Trần, nhà nước phong kiến quý tộc đều
thực hiện rất tốt vấn đề này, từ đào sông, vét kênh đắp đường đến đắp đê trị thủy. 3
- Động lực tạo lên sự hoà mục giữa Vua Nước với Dân Làng là cốt cách của con
người văn hoá nông nghiệp lúa nước giàu lòng tương thân tương ái, tình nghĩa xóm
làng vẫn còn lưu giữ được ở Vua Nước quý tộc. Như vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072)
lo cho những người bị giam cầm trong ngục, “khổ sở vì gông cùm ngay gian chưa định
rõ, bụng không đủ cơm no, áo không kín thân thể, mỗi khi gặp cơn gió bấc thổi há không
phải là vô tội mà chết oan", nên hạ lệnh cho Hữu ti phát chăn chiếu và mỗi ngày cơm hai
bữa cho họ. Hay như Nguyên phi Ỷ Lan vợ vua Lý Thánh Tông, mẹ vua Lý Nhân Tông
giải phóng nhiều cung nữ đem gả cho những trai nghèo không có tiền lấy vợ.
Các vua Trần vốn xuất thân từ dân hạ bạn chài lưới nên vẫn còn giữ được tinh thần
khoan dung hoà mục. Vua Trần Thái Tông (1226 – 1258) làm vua như sùng đạo Phật,
suốt đời tâm niệm "Phàm đã làm vua trị vì thiên hạ thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm
ý muốn của mình, phải lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình". Năm 1250 vua
Trần Thái Tông, xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là quốc gia".
Như vậy kéo dài 5 thế kỷ (X - XIV), trải qua các triều Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần,
không có những vũ công liên tục diễn ra thì nền văn hóa vẫn có nguy cơ trở lại như thời
Bắc thuộc, không có những vũ công đó thì làm sao trụ nổi mà phát triển. Ngược lại, chính
sự phát triển đó lại là sức mạnh văn hóa nội lực để làm nên những vũ công. Sức mạnh
văn hóa nội lực đó chính là sức mạnh của văn hóa nông nghiệp lúa nước khi đã tạo ra
được sự hòa mục giữa vua và dân, bởi những công việc mang tính vĩ mô mà vua đã làm
được trong việc chăm lo phát triển sản xuất nông nghiệp và trị thủy. Đặc biệt, vua còn giữ
được cốt cách con người nông nghiệp lúa nước giàu lòng tương thân tương ái, làm cho sự
hòa mục văn hóa tăng lên gấp bội.
3. Tính chất văn hóa phong kiến quý tộc
Như đã nói ở phần đầu, bản chất văn hóa được biểu hiện ra bằng tên gọi là “Văn
hóa phong kiến quý tộc” với 2 nội dung cơ bản là chế độ phong hầu kiến ấp và chế độ nhiệm tử.
Dưới chế độ văn hóa phong kiến quý tộc, đất đai và thần dân trên đất đai đó đều là
của vua. Do nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc, quốc khố nhà vua chủ yếu là thóc, từ
đó vua trả lương cho mỗi một quan lại bằng cách phong cấp một vùng đất và cư dân trên
đó làm bổng lộc sinh sống, gọi là phong hầu. Các công hầu từ đó lập ra thái ấp của mình
gọi là kiến ấp, tổ chức cày cấy làm ra của cải nông nghiệp nuôi sống cư dân trên đó và
chủ yếu làm giàu cho quý tộc được phong cấp đất. Từ chế độ phong hầu kiến ấp này mà
gọi thành chế độ phong kiến. Tầng lớp quý tộc được phong hầu kiến ấp đời đời Cha
truyền con nối, làm quan với triều đình trị dân. Tầng lớp ấy cũng thường là tầng lớp có vũ công.
Sử chép: “Ở thời Đinh - Tiền Lê, việc tuyển lựa quan lại chưa có chế độ cụ thể.
Những người được nắm quyền chủ yếu là võ tướng đã từng tham gia đánh dẹp các sứ
quân hoặc là các hoàng tử được cất nhắc lên giữ vị trí thân cận với vua. Nhà nước phong
cấp đất đai và hộ nông dân cho các quan tướng làm bổng lộc suốt đời”. Ở thời Lý - Trần,
việc tuyển lựa quan lại qua chế độ khoa cử cũng chưa phải là phổ biến mà tuyển quan lại
chủ yếu vẫn từ trong dòng họ quý tộc cất nhắc lên, dòng họ quý tộc cha truyền con nối thay nhau làm vua làm quan.
4. Tiếp thu văn hóa ngoại nhập
Xây dựng nền văn hóa độc lập tự chủ mang tính chất phong kiến quý tộc, các triều
đại Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần đã tiếp thu cả Phật giáo và Nho giáo trong việc xây dựng
nền văn hóa phong kiến quý tộc của mình. Nhiều tác giả thiếu suy xét rằng thời Lý - Trần
chỉ có tiếp thu Phật giáo nên gọi là văn hóa Phật giáo, thời Lê Sơ Nho giáo được đề cao
gọi là văn hóa Nho giáo, hoàn toàn không phải là như vậy. Trong lịch sử nước ta từ đầu
công nguyên cho đến cận hiện đại, bao giờ Nho giáo và Phật giáo cũng song song thịnh
hành, ở thời Bắc thuộc cung đã diễn ra như thế, thời Đinh Tiền Lê Lý Trần cũng diễn ra như thế.
- Tiếp thu văn hóa Phật giáo
Khai quật trong lòng đất Kinh đô Hoa Lư phát hiện hàng chục cột đá khắc kinh
Pphật do vua Đinh Tiên Hoàng cho tiến hành, nhà vua cho dựng chùa Nhất Trụ (một cột)
ở trong kinh thành làm nơi thờ Phật. Thời nhà Tiền Lê, nhà sư Ngô Chấn Lưu được tôn là
Khuông Việt đại sư (nhà sư lớn của nước Việt) tham gia triều chính bản quốc sự. Vua Lê
Đại Hành cửa nhà sư giỏi Đỗ Thuận đóng làm người lái đò cho sứ Tống Lý Giác qua
sông để lại câu chuyện ứng đối thơ thú vị. Đến thời Lý thì Vua Lý Thái Tổ chính là do
nhà sư Lý Vạn Hạnh nuôi dưỡng dựng lên và lên ngôi mới được 2 năm đã cho xây dựng
chùa tới 8 sở ở phủ Thiên Đức quê nhà vua, lại còn cho trùng tu nhiều chùa quán ở kinh
sư. Vua Lý Nhân Tông cùng mẹ là Nguyên Phi Ỷ Lan bỏ tiền quốc khố dựng hàng trăm
ngôi chùa. Sang thời Trần, vua Trần Thái Tông rất mực tu Phật, viết sách Thiền Tông chỉ
nam. Trần Nhân Tông nhường ngôi vua cho con để ra núi Yên Tử tu Phật lập ra dòng
Thiền Trúc Lâm để lại không ít ảnh hưởng đến sau này. Và cho đến cuối đời Trần thì
chùa chiền sư sãi chiếm phân nửa dân cư.
Phật giáo đã vào nước ta từ những thế kỷ đầu Công Nguyên và cứ luồn sâu bám rễ
vào xóm làng người Việt cho đến ngày nay. Triết lý nhà Phật phù hợp với triết lý thác
sinh của dân cư nông nghiệp. Phật giáo nêu cao tinh thần bình đẳng bác ái cũng rất phù
hợp với bình đẳng tương thân tương ái của cư dân nông nghiệp, và tinh thần bình đẳng vô 5
ngã của Phật giáo đã giúp nêu cao tinh thần đấu tranh chống xâm lược thời Bắc thuộc thì
nay, tinh thần ấy vẫn được coi trọng trong xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, từ chính ngay
yêu cầu của các dòng họ quý tộc tôn thờ Đức Phật Thích Ca tối cao tâm linh thần quyền
để củng cố, đề cao đức vua tối cao vương quyền và lý do “phú quý sinh lễ nghĩa” của
tầng lớp quý tộc mà Phật giáo lại được tôn sùng đến vậy. Tầng lớp quý tộc không phải bỏ
nhiều thì giờ công sức dùi mài kinh sử thi cử đỗ đạt mới được bổ nhiệm làm quan mà cứ
nghiễm nhiên lên theo chế độ nhiệm tử con nối nghiệp cha ra làm quan. Điền trang, thái
ấp bổng lộc giàu có thì tất nhiên diễn ra “phú quý sinh lễ nghĩa”, họ cần phải có nhiều nơi
chùa quán để lễ bái thưởng ngoạn phong cảnh. Vì thế mà thời Lý và sang thời Trần, hễ
nơi nào có núi cao cảnh đẹp thì vua chúa quý tộc bỏ tiền ra dựng chùa làm nơi thờ Phật.
Cũng do đó, chùa thời ấy thường gắn với núi rừng. Đặc biệt ở thời Lý còn lại đến ngày
nay ngôi chùa Một Cột thể hiện rất rõ thờ Phật gắn liền với văn hóa nông nghiệp lúa nước.
- Tiếp thu văn hóa Nho giáo
Xây dựng chế độ phong kiến thì không thể không rất mực tôn vua - thiên tử (con
trời), mà rất mực tôn vua thì ở đâu bằng Nho giáo. Mà vua là cha truyền con nối thì ở đâu
bằng Nho giáo, rất mực đề cao gia đình phụ quyền, quyền huynh thế phụ, vua chết con
trai trưởng thay cha làm vua. Từ những lý do trên, suốt đời Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần
cùng với Phật giáo còn tiếp thu cả Nho giáo để xây dựng văn hóa phong kiến quý tộc.
Đồng thời còn có một khía cạnh, suốt các thời Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần đều lấy
chữ Nho là văn tự, dùng chữ Nho làm công cụ tư duy trong văn bản hành chính và sáng
tác văn thơ. Muốn biết chữ Nho không thể không học Nho giáo, từ đó tất yếu đã để ra
tầng lớp Nho sĩ giỏi như Trạng Nguyên Lê Văn Thịnh ở thời Lý. Sang tới thời Trần thì
tầng lớp Nho sĩ ngày một đông hơn như nhà Nho viết sử Lê Văn Hưu hoặc các nhà Nho
nổi tiếng như Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát,...
Như thế thời kỳ văn hóa phong kiến quý tộc Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần tiếp thu
Phật giáo với sự thăng hoa của nó đã tạo ra những giá trị văn hóa vật thể chùa, tháp,
tượng Phật gắn với núi cao cảnh đẹp của kinh đô, của các làng quê, gắn liền với sinh hoạt
Phật giáo trong đó để gây ra nếp sống xã hội thờ Phật, lễ Phật. Còn tiếp thu Nho giáo, mở
rộng ra là văn hóa Trung Hoa mới góp vào dòng chảy chính xây dựng văn hóa phong kiến quý tộc.
5. Nền văn học bác học Hán Nôm phong phú
Từ khi Khúc Thừa Dụ lật đổ chính quyền đô hộ nhà Đường năm 905 cho đến hết
thời Trần năm 1400, gần 5 thế kỷ phát triển văn hóa độc lập tự chủ đủ các mặt chính trị,
quân sự, ngoại giao, tôn giáo đã sinh ra tầng lớp trí thức dân tộc. Tuy vẫn phải sử dụng
chữ Hán những chữ Hán ấy đã được Hán Việt, rồi văn nào tự ấy, tiếng nói nào chữ viết
ấy, từ cuối thời Lý sang đến thời Trần đã xuất hiện chữ Nôm, Trên cơ sở văn tự ấy đã
khiến tầng lớp tri thức dân tộc tư duy phát triển thơ văn Hán Nôm phong phú, bao gồm
các thể loại như: Văn học chức năng (văn học mang chức năng ghi chép sự kiện lịch sử),
Văn học Phật giáo (do các nhà sư hoặc vua, quý tộc hâm mộ Phật giáo, sáng tác văn học
nhằm ca tụng nhà Phật), Văn học với tầng lớp Nho sĩ (các tầng lớp nho sĩ sáng tác thơ
văn để lại nhiều tên tuổi nổi tiếng).
6. Sự suy tàn của văn hóa phong kiến quý tộc
Động lực văn hóa cho sự phát triển là con người. Con người dân làng dưới thời Lý
- Trần chỉ sống bằng cái nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp còn phụ thuộc rất nhiều
vào thiên nhiên, hạn lụt thì mất mùa, đói kém diễn ra ra, xã hội lâm vào bất ổn định. Đặc
biệt con người làm ra của cải nuôi sống xã hội bấy lâu nay, thân phận họ chỉ là những
người nông nô ăn cơm chủ, cày ruộng chủ, đi lính cho chủ, đã cùng chủ làm nên vũ công
oanh liệt chiến thắng quân xâm lược, nhưng sau đó công đó thân phận họ chẳng có gì
thay đổi. Sự thăng hoa chiến thắng rồi cũng nguội đi, trong khi bụng họ đang đói, họ phải
vùng lên đấu tranh đòi thay đổi tình trạng bao đời cày ruộng nhưng không hề được làm
chủ trên những mảnh ruộng mà họ cày cấy. Họ mong có được mảnh ruộng riêng.
Các vua cuối Triều Trần đã không còn là những minh quân, đã không còn giữ
được tinh thần Bạch Đằng sáng chói, đã đi vào sa đọa, thoái hóa, không giữ được mối
hòa mục với dân làng, nên họ đã vùng lên khởi nghĩa mạnh mẽ. Điều đó nói lên văn hóa
phong kiến quý tộc vào cuối thời Trần đã không còn sức sống, đi vào chỗ suy tàn.
Điều này làm cho Hồ Quý Ly - ngoại thích họ Trần làm tới chức Đồng binh,
chương sự quyền như tể tướng. Năm 1420, thay ngôi họ Trần lập ra nhà Hồ, đã thức thời
đề ra những cải cách nhằm biến đổi văn hóa phong kiến quý tộc cuối thời Trần thành một
nền văn hóa khác nó với những cải cách. Đồng thời Hồ Quý Ly tích cực tổ chức kháng
chiến chống Minh xâm lược, như cho con trai trưởng Hồ Nguyên Trừng tiến hành đóng
tàu chiến, đúc súng đạn, đắp chiến lũy ở những nơi xung yếu, cho xây dựng thành nhà Hồ
ở miền rừng núi Vĩnh Lộc - Thanh Hóa.
Lấy cớ họ Hồ cướp ngôi họ Trần, phong kiến nhà Minh phát động chiến tranh nói
là để cứu con cháu họ Trần nhưng thực chất là để xâm lược chiếm đóng nước ta. Đây là
âm mưu cố hữu của phong kiến phương Bắc đối với dân ta. Giặc minh xâm lược chỉ
trong vòng hơn 1 năm, chúng đã hoàn toàn chiếm đóng trong nước ta, nhà Trần hoàn toàn
bị khuất phục. Có thể khẳng định, sự suy tàn của văn hóa phong kiến quý tộc cuối thời 7
Trần không còn đủ sức để chống lại văn hóa phong kiến phương Bắc xâm lược, trong đó
có cả Hồ Quý Ly. Những cải cách của Hồ Quý Ly là tiến bộ lúc bấy giờ nhưng chưa đủ
tác động để làm thay đổi căn bản một nền văn hóa, chưa mang lại sinh khí mới cho văn
hóa Việt Nam lúc đó. Đã mất đi sự hòa mục với dân làng nghĩa là mất đi niềm tin trong
nhân dân, thì mọi chuẩn bị kháng chiến của Hồ Quý Ly chỉ là phần ngọn, còn phần gốc
cơ bản nhất thì ngay Hồ Nguyên trừng đã nói ra: “Tôi không sợ đánh giặc mà chỉ sợ lòng
dân không theo lòng dân không theo” nên đã thất bại.
Tóm lại sự thất bại nhanh chóng của Hồ Quý Ly trước sự xâm lược của phong
kiến nhà Minh đã nói lên một điều, là văn hóa phong kiến quý tộc Việt Nam cuối triều
Trần, trong đó có Hồ Quý Ly đã ở vào lúc suy tàn, không còn đủ sức chiến thắng văn hóa
phương Bắc xâm lược, dẫn đến nước ta bị giặc Minh chiếm đóng thống trị. Văn hóa Việt
Nam lại đứng trước một thách thức gay go quyết liệt.
THỜI KÌ VĂN HÓA PHONG KIẾN QUAN LIÊU Ở ĐỈNH CAO
Khi Lê Lợi đánh đuổi được giặc Minh giải phóng đất nước, coi trọng chế độ khoa
bảng Nho học để xây dựng chế độ phong kiến, nhưng coi trọng khoa bảng Nho học chỉ là
điều kiện chứ không phải mang tính chất văn hóa của chế độ phong kiến nên không thể
gọi là văn hóa phong kiến Nho giáo mà phải gọi là “Văn hóa phong kiến quan liêu”.
Phong kiến quan liêu vẫn là vua làm chủ đất nước nên cũng gọi là chế độ quân
chủ, ngôi vua vẫn là cha truyền con nối, dòng họ nhà vua vẫn gọi là dòng họ hoàng tộc,
vẫn là “một người làm quan cả họ được nhờ” nhưng nó khác phong kiến ở chỗ: quan hệ
sản xuất cũng là quan hệ xã hội là quan hệ địa chủ - tá điền; chế độ tuyển dụng quan lại
cho bộ máy nhà nước là người được bổ nhiệm làm quan phải qua học tập khoa bảng có
bằng cấp, kể cả dòng họ làm vua cũng phải khoa bảng có học vị mới được bổ nhiệm làm
quan. Từ hai nội dung cơ bản trên, vẫn trên nền tảng kinh tế nông nghiệp lúa nước nhưng
quan hệ xã hội khác hẳn với quan hệ xã hội thời Lý - Trần đã tạo ra được sự hoà mục
giữa vua - nước với dân - làng, tạo ra được động lực văn hóa cho sự phát triển.
1. Ý nghĩa văn hóa của vũ công Lê Lợi thắng Minh
Minh xâm lược thống trị nước ta, chúng ý thức rất rõ ràng là lần này phải làm sao
triệt phá tận gốc hủy diệt tận rễ văn hóa Việt Nam. Chúng xóa tên nước Đại Việt, biến
nước ta thành một quận của Trung Hoa, gọi là quận Giao Chỉ. Chúng hủy bỏ cơ cấu tổ
chức làng xã trước đây. Khi chúng đi đến đâu, hễ cho là chống lại là chúng chém giết
không ghê tay, thây chất thành đống, đàn bà trẻ em bị bắt thành đoàn đưa về Trung Hoa
nhằm triệt phá giống nòi Việt Nam,... Giặc Minh đã gây ra biết bao tang tóc giác đau
thương diễn ra trên đất nước ta.
Thế mới thấy khi nào dân mất đi vua, thì dân tình trở nên khốn đốn. Văn hóa dân
tộc đứng trước một thử thách hiểm nghèo, vấn đề đặt ra là không có vũ công thì không
thể giải quyết được bế tắc của tình trạng đó. Vũ công với chế định văn hóa liền diễn ra,
sức tàn của văn hóa phong kiến quý tộc cuối triều Trần cũng đã đứng lên đảm đương
trách nhiệm đó nhưng đều thất bại, không thể thắng nổi văn hóa phong kiến phương Bắc
xâm lược lúc đó. Cuối cùng của tụ nghĩa Lam Sơn đã làm được điều đó: chiến thắng văn
hóa phong kiến phương Bắc xâm lược trong tình thế lúc đó có thể nói văn hóa Việt Nam
đang như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Có thể nói giặc Minh xâm lược thống trị dân ta, hủy diệt văn hóa ta một cách tàn
bạo đã đụng chạm quyết liệt với sức mạnh văn hóa nông nghiệp lúa nước Việt Nam vẫn
tiềm ẩn trong những văn minh xóm làng. Thời Bắc thuộc từ các văn minh xóm làng mà đi
lên giải phóng đất nước, thì thời thuộc Minh cũng thế. Cũng từ cái văn minh xóm làng
mà Lam Sơn đi lên huy động được sức mạnh của các văn minh xóm làng trong cả nước,
tổ hợp thành sức mạnh văn hóa dân tộc để chiến thắng kẻ thù xâm lược phong kiến
phương Bắc là giặc Minh.
Chiến tranh là hành động quân sự ở mặt trước sân khấu chính trị để giải quyết sự
bất hòa về văn hóa ở phía sau sân khấu chính trị, ý nghĩa văn hóa của vũ công Lê Lợi
thắng Minh cũng là như thế, nhằm giải quyết sự bất hòa cố hữu giữa văn hóa phong kiến
phương Bắc xâm lược với quyết tâm khẳng định xây dựng nền văn hóa độc lập tự chủ
của nhân dân ta đã hình thành nên từ buổi đầu dựng nước, là nghề nông nghiệp lúa nước
làng - nhà - nước gắn liền làm một.
2. Đặc trưng văn hóa phong kiến quan liêu
2.1. Văn hóa sản xuất
Ở thời Lê Sơ ngay từ đầu đã không có phong hầu kiến ấp (thành phong kiến).
Nhưng từ lâu ngay các nhà sử học cũng cứ thế gọi là chế độ phong kiến, nên cũng đặt
theo là văn hóa phong kiến quan liêu. Nền tảng kinh tế nuôi sống xã hội vẫn là nông
nghiệp lúa nước nhưng tính chất văn hóa biểu hiện ra khác nhau là vấn đề chiếm dụng
ruộng đất. Ở thời Lê Sơ, danh nghĩa ruộng đất và thần dân trong cả nước đều thuộc về
nhà vua, nhưng ruộng đất thực chất không phải do vua nắm giữ hết mà được phân ra như sau:
- Ruộng quốc khố (thu hoa lợi nhập vào kho nhà nước): lập đồn điền do những tội
đồ, dân lưu vong tập trung lại cày cấy, hoặc phát canh cho tá điền cày cấy nộp tô vào kho nhà nước. 9
- Ruộng đem làm lộc điền thưởng cho người có công trạng: cha truyền con nối
hoặc hết đời thu lại.
- Ruộng công làng xã: thực hiện phép quân điền chia cho quan lại cấp thấp, binh
lính, dân đinh, vợ góa con côi,... tự cày cấy, nộp thuế cho nhà nước.
- Ruộng đất tư hữu của nông dân hoặc địa chủ bình dân: tự cày cấy, hoặc phát
canh cho tá điền cày cấy nộp tô cho địa chủ, chủ nộp thuế cho nhà nước.
Diễn trình sản xuất ở thời Lê Sơ là do người nông dân tư hữu tự cày cấy trên mảnh
ruộng của mình hoặc là tá điền lĩnh ruộng của địa chủ, cày cấy thu hoạch nộp phần tài sản
thỏa thuận cho chủ ruộng, còn lại mình hưởng. Mối quan hệ xã hội kiểu này là mối quan
hệ địa chủ - tá điền (mượn ruộng), trên vĩ mô mọi người sản xuất kiểu nào cũng là tá điền
của địa chủ lớn nhất là vua, phải nộp tô đóng thuế cho vua. Tuy nhiên, động lực văn hóa
cho sự phát triển kinh tế xã hội ở đây là con người sản xuất dù kiểu nào thì cũng được tự
do suy nghĩ trên mảnh ruộng của mình đang cày cấy. Tá điền cũng phải tăng năng suất để
sau khi nộp tô cho chủ ruộng thì phần còn lại của mình được nhiều hơn, người nông dân
tự do thì cũng vậy để sau khi nộp thuế cho nhà nước, bồ thóc của mình đầy hơn. Như vậy,
quan hệ địa chủ - tá điền đã giải phóng được sức lao động đưa đến nông nghiệp phát
triển, nhiều năm về sau người dân nhớ lại cảnh phồn thịnh được mùa thời Lê Sơ với câu ca:
“Đời vua Thái Tổ Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”.
Với quan hệ xã hội giải phóng sức lao động trên đây các vua triều Lê sơ cũng ra
sức chăm lo đến việc trị thủy - khía cạnh quan trọng hàng đầu của sản xuất nông nghiệp
lúa nước. Tình hình ấy đã tạo ra được sự hòa mục giữ vua và dân, động lực văn hóa quan
trọng hàng đầu cho sự phát triển.
Nông nghiệp phát triển, sản xuất nông nghiệp dư thừa trở thành hàng hóa, yêu cầu
phải có chợ để trao đổi đặt ra, mạng lưới các chợ quê ra đời. Đời sống được nâng lên thì
nhu cầu hàng tiêu dùng cũng tăng lên, nhiều làng thủ công nghiệp chuyển sang chuyên
sản xuất các mặt hàng thủ công nghiệp hoặc dịch vụ trao đổi buôn bán. Ở thời Lê Sơ,
ngoại thương cũng đã mở ra, thuyền buôn các nước láng giềng vẫn thường qua lại buôn
bán, các mặt hàng sành sứ vải lụa, lâm sản quý vẫn là những thứ mà thương nhân nước
ngoài ham thích. Ruộng đất từ cuối triều Trần sang đến thời Lê Sơ thực sự đã trở thành hàng hóa.
Nhìn lại ta vẫn thấy trên nền tảng kinh tế nông nghiệp lúa nước nhưng đến thời Lê
Sơ mở ra mối quan hệ mới trong diễn trình sản xuất là quan hệ địa chủ - tá điền đã giải
phóng được sức lao động, đưa năng suất nông nghiệp lên cao hơn, sản phẩm nông nghiệp 10
dư thừa trở thành hàng hóa kéo theo yếu tố công thương nghiệp phát triển. Như thế có
nghĩa là trong lòng văn hóa phong kiến quan liêu thời Lê Sơ đã xuất hiện những yếu tố
văn hóa tiền tư bản chủ nghĩa, để rồi dần thay thế nó, nên ta cứ nói Thời lê sơ là đỉnh cao
văn hóa phong kiến quan liêu là vì nó đã tạo ra yếu tố khác nó để thay thế nó.
2.2. Văn hóa chính trị xã hội
Ở thời Lê Sơ, ngay từ đời vua Lê Thái Tổ đã đặt ra lệ không giao cho con cháu
chức vụ quan trọng trong triều nếu họ không có tài học hành kém. Từ đó việc học tập
khoa bảng ở thời Lê Sơ và kéo dài mãi đến sau này ở thời Nguyễn chủ yếu là xoay quanh
kinh sách của Nho giáo, gồm Ngũ kinh và Tứ thư cùng bác sử, thơ phú,... qua các kì thi
Hương, thi Hội, thi Đình. Từ khoa bảng đã sinh ra không biết bao nhiêu nhân tài cho đất nước.
Thời Lê Sơ ngay từ đầu đã đề cao khoa bảng Nho học là vì để đáp ứng yêu cầu
của tầng lớp xã hội mới đã hình thành từ cuối đời Trần, đó là tầng lớp địa chủ bình dân
mà Lê Lợi chính là đại biểu cho tầng lớp này. Tầng lớp đó có tiềm lực kinh tế, hộ yêu cầu
vươn lên nắm quyền lực chính trị. Lê Lợi là đại biểu cho sức mạnh văn hóa dân làng Việt
Nam vươn lên chiến thắng văn hóa phong kiến phương Bắc xâm lược nhưng cũng là đỉnh
cao của tầng lớp địa chủ bình dân có tiềm lực kinh tế vươn lên đoạt lấy quyền lực chính
trị cao nhất là làm vua. Khoa bảng được nhanh chóng đề cao mở ra ấy là tạo động lực văn
hóa thúc đẩy phát triển kinh tế và văn hóa lúc bẩy giờ. Tầng lớp địa chủ bình dân kể các
tầng lớp nông dân tự do càng phải chăm lo cày cấy phát triển sản xuất để có tiềm lực kinh
tế cho con em lo học tập khoa bảng, đỗ đạt có học vị ra làm quan nắm lấy quyền lực
chính trị, nắm được quyền lực chính trị có bổng lộc nhiều thì lại quay lại phát triển sản
xuất nâng cao kinh tế. Một vòng liên hoàn động lực văn hóa phù hợp nhất cho phát triển
kinh tế xã hội lúc bấy giờ.
Đồng thời coi trọng đề cao khoa bảng còn mang một ý nghĩa văn hóa tích cực là
tạo ra được sự hòa mục giữa vua với dân. Dân làng có lối thoát cả về kinh tế và chính trị
càng tăng thêm lòng tin vào vua, càng tạo được sự ổn định xã hội, mà ổn định xã hội là
động lực văn hóa cực kỳ quan trọng cho sự phát triển. Còn một ý nghĩa văn hóa nữa là
vua Lê Thái Tổ tổ chức thi “Minh kinh” ở kinh đô cho phép mọi người có học đều có thể
tham dự sự không phân biệt giàu nghèo sang hèn, bất cứ ai có trình độ học vấn đều có thể
tham gia khoa bảng thi Hương thi Hội. Điều này có nghĩa là mở ra một khái niệm tự do
bình đẳng trong việc tiến thân.
Như thế đề cao khoa bảng ai có tiềm lực kinh tế thì có thể vươn lên nắm lấy quyền
lực chính trị để lại quay lại làm giàu về kinh tế, một kiểu vận hành văn hóa mang tính 11
chất tư bản chủ nghĩa, hoặc như mọi người đều được tự do bình đẳng trong vận hành văn
hóa ấy thì cũng mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Tóm lại văn hóa phong kiến quan liêu
thời Lê Sơ cả về hạ tầng kinh tế và thượng tầng kiến trúc xã hội đều có được những yếu
tố văn hóa tư bản chủ nghĩa trong lòng nó, nếu được phát triển bình thường thì nó sẽ thay
thế văn hóa phong kiến quan liêu từ những thế kỷ XVI - XVII trở đi.
3. Phát triển văn hóa tinh thần ở thời Lê Sơ
Do việc coi trọng khoa Bảng nho học dẫn đến khuyến khích các sĩ tử đua nhau dùi
mài kinh sử, trau dồi kiến thức mong chiếm ngôi bảng ngôi cao bảng vàng. Từ đó nhân
tài nở rộ, phát triển văn hóa tinh thần ở thời Lê Sơ biểu hiện ra các mặt văn học, sử học, địa lý, âm nhạc,...
4. Vua Lê Thánh Tông với đỉnh cao văn hóa phong kiến quan liêu
Lê Thánh Tông làm vua trong những năm 1460 - 1497, sử học đánh giá về ông
như sau: “Vua sáng lập chế độ, vạn vật khả quan, mở mang đất đai bờ cõi khá rộng, thực
là bậc vua anh hùng tài lược, đến Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể
hơn được”. Nói về thời kỳ văn hóa phong kiến quan liêu ở đỉnh cao thì những lời ca tụng
trên đây quả là vua Lê Thánh Tông đã có công rất lớn trong việc xây dựng đỉnh cao văn hóa ấy biểu hiện ở:
- Khuyến khích phát triển nông nghiệp: Ngay sau khi lên ngôi (1461) nhà vua đã
xuống chiếu Từ nay về sau trong việc làm ruộng phải khuyến khích quân dân đều chăm
nghề nghiệp sinh nhai để đủ ăn mặc. Người nào có ruộng đất mà không trăm cày cấy thì
quan cai trị bắt trình trị tội. Năm Hồng Đức 12 (1281) vua xuống chiếu mở đồn điền để
dùng hết tiềm lực của nghề nông mở rộng nguồn tích trữ của nhà nước. Nông nghiệp gắn
liền với đê điều thủy lợi, năm Hồng Đức thứ 2 (1471) vua ra sức chỉ cho các sở tri phủ
huyện phải xem xét những nơi núi chằm sông biển trong hạt, chỗ nào hình thế có thể khơi
đắp ngòi kè đê đập để làm ruộng, chỗ nào có hàm sói làm lại,cường hào thao túng đau
khổ sinh dân,... trong 100 ngày phải trình báo, để sót thấy thì các quan ti phải bãi chức,...
- Khuyến khích phát triển công thương nghiệp: Mở thêm chợ mới cho tiện mua
sắm, phê chuẩn lời tâu giữ nguyên dân ở các huyện khác đến kinh đô mở phó phường
buôn bán để hoạt động kinh doanh ở chốn thiên kinh được sầm uất,...
- Về khoa bảng Nho học: lấy người đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng đời
sau không thể sánh kịp, trong nước không để sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém
- Xây dựng nhà nước pháp quyền đạt đến đỉnh cao phong kiến quan liêu. 12
Cả nền tảng kinh tế xã hội cả về thượng tầng kiến trúc, vua Lê Thánh Tông thực
sự đã có công lớn tạo ra văn hóa phong kiến quan liêu đến đỉnh cao của nó, biểu hiện ra
là đã thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp để trong lòng nó mở ra yếu tố kinh tế hàng
hóa công thương nghiệp. Đồng thời xây dựng mẫu mực về một nhà nước pháp quyền
phong kiến quan liêu và sự tuyển lựa quan lại cho bộ máy nhà nước ấy đạt đến đỉnh cao
mẫu mực có nghĩa là tiếp theo các đời vua trước, vua Lê Thánh Tông đã tạo ra trong xã
hội Việt Nam lúc đó đủ bốn hạng người là sĩ, nông, công, thương. Nếu như bình thường
lớp người công thương cũng được coi trọng phát triển như lớp sĩ nông thì yếu tố văn hóa
tiền tư bản chủ nghĩa công thương nghiệp sẽ dần mạnh lên vào thế kỷ XVI - XVII thay
thế văn hóa phong kiến thành văn hóa tư bản chủ nghĩa, thế giai cấp phong kiến cầm
quyền và mở đầu từ vua Lê Thánh Tông tiếp thu Nho giáo cứ giữ nguyên cái sai lầm chết
người là tư tưởng bảo thủ về kinh tế là “vi phú bất nhân, vi nhân bất phú” (làm giàu là bất
nhân, giữ chữ nhân thì đừng làm giàu), tư tưởng “trọng nông ức thương” đã làm cho yếu
tố công thương nghiệp tiền tư bản chủ nghĩa bị khựng lại không phát triển lên được văn
hóa tư bản chủ nghĩa ở nước ta khi ấy.
THỜI KÌ VĂN HÓA QUAN LIÊU KHỦNG HOẢNG BẾ TẮC
1. Khủng hoảng kinh tế xã hội triền miên
Tầng lớp phong kiến thống trị không ưu tiên mở mang công thương nghiệp mà cứ
giữ mãi kinh tế nông nghiệp lúa nước tự cấp tự túc. Nông nghiệp lúa nước mà vua sa đọa
không chăm lo đến dân thì mất mùa diễn ra liên miên, dân tình đói kém thì lại vùng lên
khởi nghĩa, tình hình chính trị xã hội lại lâm vào khủng hoảng.
Sau nhà Lê Sơ, nhà Mạc xác lập cũng không kém gì thế, vẫn là một chính quyền
phong kiến quan liêu từ trung ương đến địa phương vốn đã khá hoàn chỉnh từ thời Lê Sơ,
Lê triều hình luật vẫn được áp dụng, vẫn lại tiếp tục 3 năm một lần tổ chức thi tuyển lựa
quan lại, dựng bia tiến sĩ,... Các vua Mạc như Mạc Đăng Doanh cũng lại đi vào ăn chơi
hưởng lạc, hoang dâm vô độ, vẫn là kinh tế nông nghiệp lúa nước cho nên lại diễn ra
tranh giành quyền lực chính trị để khống chế được nhiều đất nhiều dân, bóc lột được
nhiều của cải cải. Chiến tranh diễn ra kéo dài, chân tình khốn khổ, nạn đói diễn ra liên
miên cho đến năm 1592, quân Nam triều đánh bại nhà Mạc, nhà Mạc rút khỏi kinh đô
kéo lên cố thủ ở Cao Bằng, kéo dài được 4 đời nữa thì tàn hẳn. Chiếm được kinh đô, nhà
Lê được khôi phục gọi là Lê mạt, thực ra quyền hành nằm trong tay chúa Trịnh, vua Lê
chỉ là hư vị, gây ra tình trạng vua Lê Chúa Trịnh kéo dài mãi mãi về sau này.
Vua Lê Chúa Trịnh được dựng lên thì ngay liền diễn ra thế đối đầu mới. Năm
1620, chiến tranh Đàng ngoài và Đàng trong nổ ra, vùng đất Quảng Bình - Nghệ An trở 13
thành bãi chiến trường. Quân chúa Trịnh và chúa Nguyễn đánh nhau liên miên gây ra biết
bao tai ương và đau khổ cho dân chúng. Cuối cùng năm 1672, quân sĩ cả hai bên đều hao
tổn chán nản, chúa Trịnh chúa Nguyễn phải ngừng chiến, lấy sông Gianh làm giới tuyến
chia đôi đất nước. Việc chia đôi đất nước cũng chỉ là phản ánh văn hóa phong kiến quan
liêu nông nghiệp lúa nước Việt Nam sâu sắc hơn trong tình trạng khủng hoảng bế tắc chưa tìm ra lối thoát.
2. Văn hóa nông nghiệp lúa nước mở rộng về phương Nam
Nhận xét về sự mở rộng văn hóa nông nghiệp lúa nước của người Việt về phương Nam ta thấy:
- Một là - văn hóa vẫn vận hành theo cách truyền thống là lập làng rồi mới dựng
nước. Nghề nông thiếu đất thì con người cứ bảo nhau tự động đi mở đất khai canh khai
cư lập làng sinh sống làm ăn. Mô hình ấy tự tổ chức bầu ra những người đại biểu tự trị tự
quản lấy nhau trong hoạt động sản xuất sinh hoạt văn hóa xã hội ở trong làng ấp.
- Hai là - bản chất của văn hóa nông nghiệp lúa nước là nhân ái bao dung nên
trong quá trình người Việt tiến về phương Nam mở rộng địa bàn cư trú theo mô hình văn
hóa làng, thì xen giữa những cái làng ấp, họ không hề hủy diệt văn hóa Chămpa, văn hóa
Khmer Nam Bộ. Họ vẫn lưu giữ tôn trọng cho đến ngày nay trên dải đất miền Trung
những tòa tháp Chàm, trên nhiều vùng đất miền Tây Nam Bộ những Phum Sóc và ngôi
chùa Khmer Nam Bộ. Chẳng những thế mà người Việt còn tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa
Chămpa và văn hóa KhMer Nam Bộ thành văn hóa của mình.
- Ba là - về tính chất văn hóa thì Việt Nam đã có một nền văn hóa đồng nhất từ
Bắc vào Nam từ cuối thế kỷ thứ XVII. Đó là nền văn hóa nông nghiệp lúa nước dùng sức
kéo trâu bò làm đất và cư trú theo đơn vị làng (ấp). Văn hóa làng suốt từ Bắc vào Nam
đều thống nhất như nhau ở mô thức cày ruộng - thờ thần - mở lễ hội và trong mối quan hệ
làng gắn liền với nước.
3. Đời sống tinh thần trong tình trạng chia đôi đất nước
Sự chia đôi đất nước chỉ là phản ảnh các dòng họ phong kiến chúa Trịnh Đàng
ngoài, chúa Nguyễn Đàng trong đều không đủ lực để thôn tính lẫn nhau chứ tính chất văn
hóa đều vẫn là phong kiến quan liêu nông nghiệp lúa nước, nên văn hóa tinh thần diễn ra
ở cả Đàng trong và Đàng ngoài đều giống nhau về sự biểu hiện.
Sự tiếp thu Nho giáo làm nội dung và hình thức khoa cử để tuyển lựa quan lại cho
bộ máy nhà nước phong kiến quanh liêu lúc đầu thì tốt đẹp như ở thời Lê Sơ, nhưng
chẳng bao lâu văn hóa phong kiến quan liêu đi vào khủng hoảng bế tắc thì khoa cử Nho 14
giáo cũng bị tha hóa không còn là khuôn vàng thước ngọc cho văn hóa tinh thần của xã
hội. Nho giáo đã làm cho văn hóa Việt Nam cứ mãi khủng hoảng bế tắc trong văn hóa
nông nghiệp lúa nước, và trong tình hình khủng hoảng ấy, Nho giáo cũng chẳng làm cho
con người giữ được khuôn vàng thước ngọc của nó, tham nhũng từ phong kiến quan liêu
đã tha hóa đi nếp sống văn hóa khoa bảng. Từ thời Lê Sơ trở đi, vai trò của Phật giáo
không còn giữ được vị trí trong đời sống chính trị ở thời Lý - Trần mà lui vào ẩn sâu
trong đời sống tâm linh. Bước vào thời kỳ khủng hoảng, con người bế tắc về tinh thần tư
tưởng trong thực tế cuộc sống, con người đi vào tìm lối thoát bằng con đường tôn giáo.
Điều này không chỉ diễn ra trong dân làng mà cả ở tầng lớp vua quan.
Bế tắc trong hiện thực cuộc sống, con người chưa tìm được lối ra thì lại dẫn sâu
vào tìm lối thoát trong tôn giáo. Vì thế đạo Thiên Chúa cũng đã được người Việt đón
nhận khá sớm. Do nhu cầu mở rộng truyền kinh giảng đạo trên cơ sở tiếng Việt đã có
thanh điệu, giàu âm sắc, tương đối dễ cho việc ký hiệu hóa tiếng Việt theo mẫu tự Latinh,
vào cuối thế kỷ XVI, một giáo sĩ người Pháp và một số giáo sĩ khác đã ký hiệu hóa tiếng
Việt theo mẫu tự Latinh thành một thứ chữ gọi là chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ tuy xuất
hiện và phổ cập muộn nhưng có một ý nghĩa văn hóa rất lớn đó là làm cho văn tự nước ta
đúng với quy luật văn nào tự ấy, tiếng nói nào chữ viết ấy, thoát ra khỏi vùng vây trùng
điệp của chữ tượng hình và chữ khoa đầu rộng khắp châu Á.
Vê đời sống văn hóa nghệ thuật, mặc dù bước vào thời kỳ khủng hoảng Nho giáo
và khoa bảng Nho học không còn được trong sáng nghiêm minh như trước nhưng vẫn sản
sinh ra những nhà Nho có tinh thần dân tộc, bất mãn với thời cuộc đi vào sáng tác văn thơ
bằng chữ Hán và chữ Nôm. Về thơ không còn chỉ có thể thơ Đường Luật chữ Hán như
trước đây mà xuất hiện loại thơ đúng với vần điệu ngôn ngữ dân tộc đó là thể thơ lục bát
và sau đó là song thất lục bát. Về văn, xuất hiện những áng văn xuôi bằng chữ Hán tiêu
biểu như “Truyền Kì Mạn Lục” của Nguyễn Dữ. Về nghệ thuật, xuất hiện hàng loạt
những pho tượng thờ Phật trong chùa, trong đó đáng chú ý là pho tượng nghìn mắt nghìn
tay. Nói về nghệ thuật cần phải nói đến nghệ thuật điêu khắc đình làng. Nó chứa đựng
biết bao những mảnh chạm khắc phản ánh mọi mặt của cuộc sống người nông dân lao
động như đi cày, bừa, bắt cá, đi săn, đánh vật, chơi đu, đánh cờ, tình yêu lứa đôi,... đặc
biệt là những mảnh chạm khắc thể hiện tinh thần đấu tranh chống vua quan phong kiến
như cảnh lôi kéo râu rồng, phụ nữ cưỡi lên đầu rồng,...
4. Ý nghĩa văn hóa của Tây Sơn - Quang Trung
Khởi nghĩa Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ khởi
xướng, không chịu nổi cảnh dân làng “10 con dê mà tới 9 kẻ chăn”, quan tham ô lại hùa
nhau bòn rút của dân, ba anh em đã liên kết với các bạn bè cùng chí hướng liên kết với 15
các già làng trưởng bản của các dân tộc ít người trên miền thượng đạo dựng cờ khởi
nghĩa ở ngay ở ấp Kiên Mỹ, Tây Sơn năm 1771. Cuộc khởi nghĩa được nhân dân đón
nhận như đại hạn gặp mưa rào. Sử sách đã hạ bút: “30 năm không phải là một thời gian
dài nhưng phong trào nông dân Tây Sơn và người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang
Trung đã làm nên cả một sự nghiệp tự hào đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp
cần suy ngẫm cho đến thế hệ mai sau”. Sử học thì chỉ mô tả diễn biến của phong trào
nông dân Tây Sơn và vương triều Quang Trung rồi buông ngỏ lời kết luận như trên. Còn
đứng về mặt văn hóa học Việt Nam cho rằng:
- Một là - đây là lần thứ 3 sức sống của những văn minh nông nghiệp xóm làng
vùng dậy làm nên lịch sử, làm nên văn hóa vĩ đại, trong phản kháng lại văn hóa Vua -
Nước mục nát và văn hóa phong kiến phương Bắc xâm lược; lật nhào mọi chính quyền
Vua - Nước đã quá mục nát lúc mấy giờ là chúa Nguyễn ở Đàng trong và chúa Trịnh ở
Đàng ngoài; chiến thắng được giặc ngoại xâm ở cả hai đầu đất nước là quân Xiêm ở đầu
Nam và nhất là quân Thanh ở đầu Bắc, bảo vệ được độc lập chủ quyền của đất nước; xóa
đi cái bờ giậu sông Gianh tội nghiệp kéo dài gần 150 năm chia cắt đất nước một cách giả tạo.
- Hai là - vương triều Quang Trung đã mở ra những điều tiến bộ cho văn hóa Việt
Nam lúc đó. Nhà vua xuống chiếu khuyến nông chăm lo thủy lợi - là điều cần thiết hàng
đầu để hòa mục với dân làng Sau bao năm chiến tranh, đối với ngoại thương, Quang
Trung đề nghị nhà Thanh cho thương nhân hai nước qua lại buôn bán ở vùng Lạng Sơn,
Cao Bằng, Nam Ninh, khuyến khích thương nhân nước ngoài chở hàng đến trao đổi. Về
văn hóa giáo dục, Quanh Trung chủ trương nhất mực đề cao chữ Nôm trong mọi chiếu
chỉ, mệnh lệnh, văn tế, thư từ đều phải viết bằng chữ Nôm. Về chính sách tôn giáo,
Quang Trung vẫn chủ trương coi trọng Phật giáo, cho tu bổ một số chùa chiền. Vương
triều quang trung tồn tại quá ngắn ngủi nhưng những chính sách của nó đề ra trên đây đã
nhằm khuyến khích mở mang công thương nghiệp, coi trọng văn hóa dân tộc, khuyến
khích nhân tài, có ý nghĩa văn hóa rất lớn trong tình hình văn hóa Việt Nam phong kiến
quan liêu nông nghiệp đang khủng hoảng bế tắc trầm trọng lúc bấy giờ.
- Ba là - phong trào nông dân Tây Sơn một lần nữa khẳng định sức mạnh to lớn
của những văn minh nông nghiệp xóm làng. Khi nó được lên liên kết lại thành sức mạnh
văn hóa dân tộc thì nó có thể lật nhào mọi thế lực Vua - Nước hủ bại và nó có thể chiến
thắng văn hóa phong kiến phương Bắc xâm lược, nhưng khi cần làm đại diện cho một
phương thức sản xuất mới, tức là xây dựng một nền văn hóa mới khác nền văn hóa phong
kiến quan liêu nông nghiệp, thì nó không làm được bởi tính tiểu nông phân tán của nó.
5. Phong kiến nhà Nguyễn nhìn từ góc độ văn hóa học 16
Có thể nói phong kiến nhà Nguyễn được xác lập chỉ là tiếp tục kéo dài thêm văn
hóa phong kiến quan liêu nông nghiệp lúa nước đã triền miên khủng hoảng bế tắc và Vua
- Nước nhà Nguyễn đã đẩy sự khủng hoảng bế tắc đó lên tới đỉnh cao trầm trọng. Đỉnh
cao của thế đối đầu văn hóa giữa Vua - Nước với Dân - Làng biểu hiện ở việc nông dân
vùng lên khởi nghĩa mạnh mẽ vẽ nằm lật đổ cái Vua - Nước đã quá lỗi thời mục nát.
Trong tình hình đối kháng văn hóa với Dân - Làng mãnh liệt như thế, năm 1858, đế quốc
Pháp nổ súng xâm lược nước ta ở Đà Nẵng, nhà Nguyễn không dám phát động dân làng
đứng lên kháng chiến, bỏ rơi các cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân, vì sợ phát
động nhân dân kháng chiến họ sẽ có cơ hội tập hợp lực lượng chống lại triều đình. Mặt
khác, vua nhà Nguyễn với tư tưởng bảo thủ Nho giáo đã nhanh chóng khiếp nhược trước
sức mạnh vũ khí, kỹ thuật của tư bản Pháp nên không dám vũ trang kháng chiến mà chỉ
cầu hòa, chuộc đất để rồi văn hóa phong kiến quan liêu bảo thủ mục vỡ dần từng mảng.
6. Về di sản văn hóa thời Nguyễn
Di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được sản sinh ra ở thời Nguyễn trước hết phải
nói về kinh thành, lăng tẩm Huế. Đó là sự sinh sản văn hóa tất yếu và có nhu cầu sinh
hoạt vật chất và tinh thần của các vua triều Nguyễn, được thể hiện bởi trí tuệ và bàn tay
khéo léo của các nghệ nhân.
Di sản văn hóa tinh thần đáng trọng là vào năm 1822, Minh Mạng cho lập Quốc sử
quán với nhiệm vụ thu thập sử sách thời xưa, in lại Quốc sử triều Lê, biên soạn các bộ sử
mới. Đây là những di sản văn hóa quý giá cho sử học ngày nay.
Về thơ văn, đặc biệt có “Truyện Kiều” của Nguyễn Du nói lên nỗi đau của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến buổi suy tàn, cũng phản ánh khát khao hạnh phúc lứa đôi.
“Truyện Kiều” còn là bản cáo trạng xã hội đảo điên đương thời. Đến thơ Nôm, Hồ Xuân
Hương với hàng loạt bài thơ mang nặng ý thức đòi bình đẳng nam nữ và cũng có khí
phách nam nhi, còn thơ của Bà Huyện Thanh Quan mang nặng chất hòai cổ nhưng cũng
đau lòng trước cảnh đất nước chẳng còn thịnh đạt. Thơ chữ Hán của Cao Bá Quát thì đầy khí phách hiên ngang,...
Dù lịch sử xã hội có diễn ra như thế nào ở dưới triều Nguyễn, truyền thống văn
hóa kiên cường bất khuất của dân tộc vẫn được tiếp nối để khi văn hóa Việt Nam bước
vào thời kỳ cận hiện đại, nó lại thức dậy làm nên nghiệp lớn.
7. Lời kết chung
Ở thời Lê Sơ đã xuất hiện đủ Tứ dân - 4 lớp người: sĩ, nông, công, thương, nhưng
do tư tưởng bảo thủ về kinh tế chi phối là “trọng nông ức thương”, “dĩ nông vi bản” mở 17
đầu từ vua Lê Thánh Tông và các tầng lớp phong kiến cầm quyền sau này đã làm cho
động lực văn hóa của sự phát triển con người diễn ra không bình thường. Con người công
thương chỉ nép vào dịch vụ cho nông nghiệp, nông dân, văn hóa Việt Nam không mở ra
được văn hóa công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Động lực văn hóa cho sự phát triển con người chỉ quấn quanh diễn ra ở hai lớp
người theo kiểu “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ”, học hành khoa
bảng đỗ đạt làm quan làm thầy làm vua thì thành kẻ sĩ, nếu không thì vẫn mãi là người
nông. Vì thế văn hóa Việt Nam kéo dài hơn 400 năm từ khi nhà Mạc thay thế nhà Lê Sơ
cho đến hết thời Nguyễn là thời kỳ văn hóa phong kiến quan liêu triền miên khủng hoảng bế tắc.
Đồng thời cứ tiếp tục mãi kinh tế nông nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào thiên
nhiên, hạn hán lụt lội và mất mùa diễn ra, dân làng đói kém lại vùng lên khởi nghĩa trở
thành như một điệp khúc văn hóa không thể nào gỡ ra được, và đỉnh cao của nó là vào
thời Nguyễn. Cũng có nghĩa là phong kiến nhà Nguyễn đã hoàn toàn làm mất đi sự hòa
mục với dân làng, không những thế mà nó còn sợ dân làng, không dám phát động dân
làng đứng lên kháng chiến chống Pháp, để trong nước ta bị rơi vào tay đế quốc Pháp. 18
Document Outline
- MỤC LỤC
- 3. Tính chất văn hóa phong kiến quý tộc
- 4. Tiếp thu văn hóa ngoại nhập
- - Tiếp thu văn hóa Phật giáo
- - Tiếp thu văn hóa Nho giáo
- 2. Đặc trưng văn hóa phong kiến quan liêu
- 2.1. Văn hóa sản xuất
- 1. Khủng hoảng kinh tế xã hội triền miên
- 2. Văn hóa nông nghiệp lúa nước mở rộng về phương Nam
- 3. Đời sống tinh thần trong tình trạng chia đôi đất nước
- 7. Lời kết chung