









Preview text:
1. Trình bày những hiểu biết của anh chị về Phật giáo ở Việt Nam và vai trò của
Phật giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay (ảnh hưởng
đến pháp luật)
Phật giáo chính thức du nhập vào nước ta thời Bắc thuộc theo chân quân xâm lược Trung
Hoa và đã nhanh chóng được người Việt tiếp nhận một cách tự nhiên, tự nguyện. Phật
giáo truyền vào nước ta gồm hai phái: Tiểu thừa và Đại Thừa.
Phật giáo Tiểu thừa (nguyên thủy) phát khởi từ miền nam Ấn Độ rồi truyền qua Srilanca
sau đó lan sang Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào và sau này vào miền Nam nước
ta. Phật giáo Đại thừa phát khởi từ miền bắc Ấn Độ rồi truyền sang Tây Tạn, trung Hoa
từ đó du nhập sáng Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật và Việt Nam. Phật giáo Đại thừa gồm ba
tông phái: Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Phật giáo Thiền tông lý giải nguyên
nhân gây nên mọi nỗi khổ cho con người là từ tâm mà ra. Do con người có nhiều ham
muốn tham sân si làm cho tâm luôn bất ổn, bức xúc, u mê, khiến cho lời nói, việc làm
không đúng đắn, lương thiện, là nguyên nhân gây nên nghiệp. nếu không tu luyện tâm
tính để gạt bỏ tham sân si sẽ bị luân hồi, nhân quả, nghiệp áo, gieo gió gặt bão. Từ đó,
phái Thiền tông lấy tâm làm gốc, coi tu tâm là vấn đề cốt tử, chỉ khi nào tâm yên tĩnh
tức là đã tìm thấy Phật sinh mới nhìn được mọi sự, mọi vật rõ ràng minh bạch. Vì vậy,
Phật giáo Thiền tông quan niệm Phật tại tâm, mỗi người đều có Phật tính trong tâm, tâm
là Niết bản, là Phật. Để đi đến “đốn ngộ” thì trước hết phải biến tâm mình thành hư
không (tức trở về với cái ban đầu). Từ đó tu theo Phật giáo Thiền tông đòi hỏi phải tập
trung trí tuệ để thiền (tịn tâm) sẽ giúp con người đạt đến giác ngộ (trạng thái thăng hoa
của tâm thức khi đạt đến trí tuệ tột cùng).
Khi đó, con người sẽ được giải thoát, trút bỏ được mọi nỗi phiền muộn, lo âu, vương
vấn, tâm hoàn toàn thanh thản, làm chủ được chính mình để tự tại trong cuộc sống.
Cũng tức là khi con người đạt tới cõi “Niết bàn”. Như vậy, phật giáo thiền tông quan
niệm “Niết bàn” nằm ngay trong thế giới trần tục, con người bằng “đốn ngộ” có thể trở
thành phật ngay trong thế giới này. Phái tịnh độ tông chủ trương dựa vào sự giúp đở từ
bên ngoài để cứu chúng sinh thoát khổ lấy niệm danh phật để cầu cho khi chết sẽ được
tái sinh ở đức tịnh độ (nơi yên tĩnh trong sáng), đó là cõi “Niết bàn” ở ngoài thế giới
trần tục, được quan niệm đó là một thế giới cực lạc do đức phật A di đà cai quản. Tín đồ
phật giáo tịnh độ tông dùng phương pháp niệm danh phật để “định tâm bất loạn”, đi
chùa dâng hương cầu kinh niệm phật. Tu theo phái tịnh độ tông không yêu cầu nhiều
thời gian và công sức nên đã dần dần thâm nhập được vào quảng đại dân chúng theo
đạo phật ở Việt Nam. Sự phát triển của phái này theo hướng dân gian hóa đã tạo nên
một truyền thống dân tộc của phật giáo Việt Nam nói riêng và văn hóa truyền thống nói
chung. Phái mật tông (bí mật) chủ trương dùng những phép tu huyền bí như linh phù,
mật chú, ấn quyết để mau chóng đạt đến giác ngộ và giải thoát. Vào Việt Nam, phái Mật
tông không tồn tại như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa vào dòng tín ngưỡng
dân gian với các hình thức cầu đồng, dùng pháp thuật yểm bùa trị tà ma và chữa bệnh.
Từ khi du nhập vào đến nay, Phật giáo đã cộng sinh trong văn hóa Việt Nam hơn 20 thế
kỷ, trở thành phương tiện biểu đạt tư tưởng nhân đạo và triết lý sống vị tha của người
việt trong cuộc hành trình của phật giáo Việt Nam có thể khái quát 3 giai đoạn tiến triển hưng thịnh.
Giai đoạn một là du nhập từ thế kỷ I đến thế kỷ III. Ngay từ khi chính thức du nhập vào
nước ta từ giai đoạn đầu thời bắc thuộc, những giáo lý cơ bản của phật đạo đã sớm được
cư dân việt chấp nhận rộng rãi và nhanh chóng có được chỗ đứng trong đời sống văn
hóa tinh thần người Việt. Lý do là bởi tư tưởng bình đẳng, dân chủ và từ bi bác ái của
đạo phật phù hợp với tư tưởng hiếu hòa, nhân ái, yêu thương con người. Vốn có từ
truyền thống văn hóa bản địa người việt. Giáo sư Nguyễn Văn Lang trong cuốn Việt
Nam phật giáo, sự ước luận đã nhận xét rằng, trong thời kỳ bắc thuộc đạo phật nhắm
vào lòng dân chúng. Về cũng như nước mưa ngấm vào đất mẹ từ thế kỷ I đến thế kỷ III,
vùng Luy Lâu (Bắc Ninh) trở thành trung tâm phật giáo lớn của khu vực, quy tụ hàng
trăm nhà tu hành từ Ấn Độ, Trung Hoa và Việt Nam đến đây để dịch kinh sách nhà phật,
thành đạo và truyền bá đạo phật. Chùa dâu được xây dựng vào thế kỷ III, được coi là tổ
đình của phật giáo Việt Nam.
Giai đoạn 2 thời lý trần từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII. Vào những thế kỷ đầu thời kỳ Đại
Việt, Phật giáo phát triển rất nhanh và để tới cực thịnh vào thời lý trần từ thế kỷ XI đến
thế kỷ XIII. Các vị vua từ triều đại nhà lý khởi đầu là Lý Công Uẩn, đều là các tín đồ
phật giáo. Các vị sư (như Vạn Hạnh, Đa Bảo, Viễn thông…) được mời tham gia chính
sự và có tiếng nói quan trọng trong các công việc của triều đình. Đặc biệt đến triều Trần,
vua Trần Nhân Tông đã giã từ ngôi báu khi đang ở phong độ đỉnh cao để xuất gia tu
hành lập nên thiền phái Trúc lâm Yên tử mà tư tưởng chủ đạo là nhập thế đem triết lý
của đạo phật ứng dụng vào việc trị nước. Đó là những lý do vì sao thời Lý Trần tư tưởng
triết lý của phật giáo đã chi phối sâu sắc không chỉ trong đường lối trị nước mà còn
thẩm thấu ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị đến tư tưởng,
đạo đức, ứng xử và văn chương nghệ thuật. Đây cũng là thời kỳ rất nhiều chùa tháp có
quy mô lớn và kiến trúc độc đáo được xây dựng như chùa Phật Tích, chùa Dạm, chùa
Diên Hựu, chùa Phổ Minh, chùa Quỳnh Lâm, hệ thống chùa Yên Tử. Thời gian này
chùa không chỉ là trung tâm tín ngưỡng tôn giáo mà còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa
cộng đồng của làng xã. Nhà nho Lê Quát từng nhận xét: “Phật chỉ lấy điều hòa phúc mà
động lòng người sao mà sâu xa và bền chặt đến vậy. Trên từ vương công dưới đến thứ
dân, hễ làm cái gì thuộc về việc phật thì hết cả gia tài cũng không tiếc. Nếu hôm nay
đem tiền của đi làm chùa xây tháp thì hớn hở vui vẻ như trong tay đã cầm được cái biên
lai để ngày mai đi nhận số tiền trả, bảo lại. Cho nên trong từ kinh thành ngoài đến châu
phú đường cùng ngõ hẻm hay ở chỗ nào có nhà ở thì ở đó có chùa phật, bỏ đi thì làm lại
hư đi thì sửa lại. Đến thế kỷ 15 thì nhà lê tuyên bố lấy nho giáo làm quốc giáo thì phật
giáo đã phải nhường chỗ cho sự lên ngôi của nho giáo.
Giai đoạn 3 thời nhà Nguyễn thế kỷ XIX cho đến nay. Sau thời kỳ chiến tranh loạn lạc,
Trịnh Nguyễn phân tranh, khi hòa bình lặp lại, đất nước thống nhất, giang sơn thu về
một mối, nhà Nguyễn lên ngôi, phật giáo cũng dần được khôi phục lại vị trí tinh thần
quan trọng của mình. Cùng với việc nhà Nguyễn xây dựng kinh đô ở Huế, nơi đây cũng
đồng thời là trung tâm Phật giáo của đất nước trong thời nhà Nguyễn. Đến nay Phật giáo
đang tiếp tục cuộc hành trình khôi phục lại vị trí của mình trong đời sống văn hóa tinh
thần của người việt. Có thể nói, trong các tôn giáo hiện có mặt ở Việt Nam, phật giáo
vẫn là tôn giáo lớn nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Theo viện nghiên cứu
tôn giáo, hiện Việt Nam có khoảng 7 đến 8 triệu tín đồ phật giáo, tức khoảng 10% dân
số. Số lượng tín đồ phật giáo nêu trên có thể là cao nếu chỉ tính trong phạm vi số người
quy y hay tu tại gia theo giới luật nhà phật. Nhưng có thể là thấp nếu căn cứ vào số
lượng người đi chùa có niềm tin vào thuyết nhân quả luân hồi ăn chay vào các ngày
rằm, mồng một có treo ảnh phật hay bàn thờ phật trong nhà.
Đặc điểm của phật giáo Việt Nam: đã có hơn 2000 năm lịch sử, từ khi du nhập phật giáo
đã được người Việt bản địa hóa, khiến nó nhanh chóng cộng sinh để hòa mình trong
dòng chảy của văn hóa dân tộc, tạo nên sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam với các đặc điểm.
Khuynh hướng nhập thế giáo lý của phật giáo là cứu khổ cứu nạn phổ độ. Chúng sinh
bản thân mục đích đấy đã bao hàm nhân tố nhập thế. Bởi vậy, phụ kiện ở Việt Nam luôn
đồng hành với cuộc sống của chúng sinh bằng những việc làm thiết thực. Nhà chùa mở
trường dạy học, tham gia đào tạo trí thức. Nhiều nhà sư cũng đồng thời là thầy thuốc
chữa bệnh cho dân chúng nhiều vị cao tăng được triều đình mời tham chính hoặc cố vấn
trong những việc hệ trọng (sư vạn hạnh đã vận động đưa lý công uẩn lên ngôi vua, lập
ra triều Lý; sư Đa bảo và Viễn Thông được tham dự bàn bạc và quyết định các việc
trong triều như cố vấn của nhà vua). Giáo lý của Phật giáo còn được một việc cụ thể hóa
trong các mối quan hệ đời thường (Tu đâu cho bằng tu nhà thờ cha kính, mẹ mới là chân
tu; Thứ nhất là tu tại gia; Thứ hai tu chợ; Thứ 3 tu chùa; Dù xây chín bậc phù đồ không
bằng làm phúc cứu cho một người…)
Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp. Bởi vậy, tính
tổng hợp cũng chi phối đến thái độ ứng xử với phật giáo của người Việt, làm ra sắc thái
riêng của Phật giáo Việt Nam. Biểu hiện ở chỗ phật giáo dung hợp với các tín ngường
và truyền thống văn hóa bản địa. Dung hợp với tính hướng sùng bái tự nhiên, các vị
thần mây mưa sấm chớp đã được việt hóa thành phật Pháp Vân phật Pháp Vũ, Pháp Lôi
và Pháp Điện. Dung hợp với tín ngưỡng thở Mẫu, Phật giáo Việt Nam có khuynh hướng
thiên về nữ tính. Phật giáo Việt Nam có rất nhiều vật bè có vị đức phật trong quan niệm
của phật giáo nguyên thủy Ấn độ vốn là đàn ông khi du nhập sang Việt Nam đã biến
thành phật bà. Bồ tát quán thế âm đã được biến thành phật bà quan âm nghìn mắt nghìn
tay. Các vùng miền trên đất nước đều có những ngôi chùa mang tên các bà: chùa Bà
Dâu, chùa Bà Đậu, bà Tướng, chùa Bà Dàn, chùa Bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu). Dung
hợp với tín ngưỡng thờ các vị Thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ Địa, các anh hùng
dân tộc: kiến trúc phổ biến của chùa Việt Nam là tiền Phật hậu Thần. Dung hợp giữa các
tông phái Phật giáo. Đây là một nét đặc trưng rất riêng biệt của phật giáo Việt Nam so
với phật giáo của các quốc gia láng giềng. Trong khi ở Myanmar, Thái Lan, Lào
Campuchia chỉ có Phật giáo Nam tông còn ở Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ
chỉ có Phật giáo Bắc tông thì ở Việt Nam có cả hai phái. Trong tông phái đại thừa cũng
có sự kết hợp giữa thiền tông với Mật tông (các vị thiền sư thời lý như Vạn Hạnh, Từ
Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không đều giỏi pháp thuật). Thiền tông kết hợp với Tịnh độ
tông (niệm phật A di đà và Bồ Tát). Nhiều điện thờ ở chùa miền bắc cũng thờ các loại
tượng phật của các tông phái khác nhau. Nhiều chùa ở miền nam có xu hướng kết hợp
Tiểu thừa và Đại thừa: hình thức là tiểu thừa nhưng lại theo giáo lý đại thừa dung hợp
giữa phật giáo với các tôn giáo khác. Dung hợp giữa Phật giáo và các tôn giáo khác.
Thời Đại Việt, Phật giáo với Nho giáo và Đạo giáo mặc dù khác nhau về tư tưởng, giáo
lý, thậm chí có sự đối lập nhau (Phật giáo bình đẳng, Nho giáo bất bình đẳng; Nho giáo
nhập thế, Đạo giá xuất thế). Nhưng các hệ tư tưởng và tôn giáo này không những không
có sự bài xích xung đột mà cùng tồn tại trong sự dung hợp và bổ sung cho nhau cùng
hướng về một mục đích để cuộc sống tốt đẹp cho con người (Nho giáo hướng tới mục
đích xây dựng xã hội bình yên; Đạo giáo chủ trương triết lý sống nhàn tàn; Phật giáo lo
việc tu tâm) gọi là hiện tượng tam giáo đồng quy. Vào đầu thế kỷ XX ở nam bộ đã hình
thành 2 tôn giáo bản địa đều dựa trên nền tảng phật giáo, đó là đạo Cao Đài và đạo Hòa
Hảo. Đạo Cao Đài là một tôn giáo bản địa (ra đời năm 1926, trung tâm là Tòa thánh Tây
Ninh) đó là sự kết hợp triết lý của Phật giáo với Nho giáo, Lão giáo, Thiên chúa để
hướng con người tới một cuộc sống an nhiên tự tại về thể xác và tinh thần. Đạo Hòa
Hảo (ra đời ở An Giang năm 1939) là sự cụ thể hóa triết lý của đạo phật với việc tu thân
bằng thực hành đạo đức “tứ ân hiếu nghĩa” (ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn tam bảo,
ơn đồng bào và nhân loại). Với tất cả những đặc điểm trên đây, Phật giáo đã bén rễ sâu
vào truyền thống, tín ngưỡng về văn hóa dân gian của quảng đại quần chúng, khẳng
định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên khắp mọi miền đất nước. Cùng với
những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc trong cuộc hành trình hơn 20 thế kỷ cộng
sinh trong văn hóa về các tư tưởng, triết lý của Phật giáo thấm thấu như một mạch ngầm
xuyên suốt trong chiều sâu văn hóa tinh thần của người Việt đóng vai trò là một trong
những trụ cột chi phối bản sắc văn hóa Việt Nam. Với mỗi người dân Việt, giáo lý của
phật giáo đã thẩm thấu vào tầng sâu nhất của triết lý sống. Ngôi chùa là nơi giáo dục
đạo đức và lòng hướng thiện, nơi an cơ của tâm hồn, là trung tâm sinh hoạt cộng đồng
cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống có lịch sử từ lâu đời. Mái chùa che
chở hồn dân tộc nếp sống ngàn năm của tổ tiên. Sự ảnh hưởng
Tác động tích cực: tư tưởng, giáo lý của Phật giáo đã góp phần quan trọng trong việc
điều chỉnh ý thức và hành vi của con người theo triết lý sống từ bi bác ái, nhẫn nhịn, vị
tha, “khuyến thiệt từ ác” đã giúp hạn chế xung đột, tranh chấp, kiện tụng, góp phần đem
lại sự bình yên, hòa mục cho cuộc sống. Bên cạnh đó Phật giáo vẫn đem lại một số tác
động tiêu cực. Với việc khuyên con người tự tiết chế các hành vi của mình bằng thái độ
nhường nhịn, cam chịu, thậm chí cả nhẫn nhục, Phật giáo đã góp phần làm hạn chế, thui
chột khả năng hành động và đấu tranh của con người khi cần phải bảo vệ công lý và lẽ
phải. Do ảnh hưởng bởi thuyết “luân hồi”, “quả báo” của Phật giáo, nhiều người Việt
thường không chủ động sử dụng luật pháp là công cụ bảo vệ mình khi quyền lợi bị xâm
hại mà chọn phương pháp im lặng, trông chờ vào quả báo, tin vào sự phạt của luật Trời
hơn là luật pháp, vì vậy từ đây cũng không hình thành thói quen sử dụng công cụ luật
phát trong đời sống dân sự.
2. Trình bày những hiểu biết của anh chị về Nho giáo ở Việt Nam và vai trò của Nho
giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay (ảnh hưởng đến pháp luật)
Nho giáo là một học thuyết chính trị đạo đức, một hệ thống quan niệm tư tưởng - giáo lý
nhằm tổ chức, duy trì sự ổn định của trật tự xã hội bằng biện pháp nhân trị - đức trị.
Khổng Tử được coi là người có công đứng đầu trong việc hệ thống hóa và hoàn chỉnh hệ
thống tư tưởng Nho giáo của Trung Hoa. Du nhập vào Việt Nam từ thời bắc thuộc, nhưng
do xu hướng cưỡng bức văn hóa nên suốt 1000 năm nho giáo chưa có được chỗ đứng
trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. Sang thời Đại Việt, tư tưởng nho giáo
ngày càng được phổ biến rộng rãi do nho giáo là nội dung chủ yếu được giảng dạy trong
nhà trường. Từ chỗ chiếm được địa hạt giáo dục, Nho giáo đã từng bước chậm mà chắc
chiếm lĩnh từng địa hạt chính trị và tư tưởng. Đến thế kỷ 15, Nho giáo đạt đến cực thịnh
khi nhà Lê tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo được biểu hiện trong hệ thống giáo lý tam
cương, ngủ thường và thuyết chính danh. Tam cương (ba mối quan hệ rường cột để duy
trì trật tự xã hội): quần thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (chồng vợ). Trong các
mối quan hệ này đòi hỏi bề trên (vua, cha, chồng) phải thương yêu, chăm sóc và bao
dung kẻ dưới, bề tôi (con, vợ). Kẻ dưới phải kính nhường thương yêu, phục tùng và biết
ơn bề trên. Bề tôi phải tuyệt đối trung với vua, đề cao chữ trung (Quân sử thần tử thần
bất tử bất trung), con phải tuyệt đối phục tùng cha đề cao chữ hiếu (Phụ xử tử vong tử
bất vong, bất hiếu), vợ phải phục tùng chồng (phu xướng phụ tùy). Trong đó mối quan
hệ vua tôi là trọng tâm, vì vậy chữ trung được đặc biệt đề cao. Ngũ thường (năm đức cơ
bản, thường hằng của con người, làm nền tảng đạo đức cho xã hội): nhân nghĩa, lễ, trí
tín trong đó nhân được coi là trung tâm, là nền tảng chi phối mối quan hệ ứng xử.
Nho giáo coi tam cương ngũ thường là các nguyên lý đạo đức cơ bản làm chuẩn mực
cho việc xây dựng nhân cách con người và quan hệ ứng xử giữa người với người trong
gia đình và ngoài xã hội. Coi đó là nền tảng để xây dựng xã hội thái bình, trật tự và ổn
định. Từ đó, Nho giáo cũng xác lập các tiêu chí để xây dựng mô hình, nhân cách của
con người lý tưởng. Hình mẫu của đấng nam nhi: người quân tử. Con đường phấn đấu
để trở thành người quân tử: tu nhân tề gia trị quốc bình thiên hạ. Hình mẫu của phụ nữ:
tam tòng (tại gia tòng phụ xuất giá tòng phu phu tử tòng tứ) và tứ đức (công dung ngôn
hạnh). Thuyết chính danh Nho giáo quan niệm muốn xây dựng xã hội ổn định lý tưởng
thì mỗi người phải làm đúng vai trò, danh phận của mình (Thượng bất chính thì hạ tắc
loạn). Các triều đại phong kiến Đại Việt dùng Nho giáo làm nền tảng để xây dựng hệ tư
tưởng, đạo đức, pháp luật giáo dục, qua đó để xây dựng mô hình nhân cách con người.
Tuy nhiên, do sự chi phối của văn hóa bản địa nên Nho giáo Trung Hoa đã được người
việt tiếp nhận một cách linh hoạt mềm dẻo.
Đặc điểm của nho giáo ở Việt Nam. Nếu Trung Hoa đặc biệt coi trọng tư tưởng trung
quân, quyền lực của nhà vua được đề cao tuyệt đối thì Nho giáo Việt Nam không cực
đoan đến mức đòi hỏi phải hy sinh tính mạng vì vua. Mặt khác, quan niệm trung quân ở
Việt Nam luôn gắn liền với ái quốc và trong nhiều trường hợp nước được đề cao hơn
vua. Các khái niệm cơ bản của nhà giáo như nhân nghĩa cũng đã bị khúc xạ qua lăng
kính của người Việt. Điều này được thể hiện rõ qua những đóng góp của Nguyễn Trãi
(anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới) khi ông mở rộng khái niệm nhân nghĩa
để nó không chỉ là một khái niệm đạo đức hạn hẹp trong ứng xử cá nhân mà trở thành
một lý tưởng xã hội cao đẹp về cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân (việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân). Tư tưởng trọng nam kinh ở của Nho giáo khi vào Việt Nam cũng
đã được giảm bớt tính cực đoan bởi sự ảnh hưởng của văn hóa mẫu hệ. Từ cuối thế kỷ
XVI cho đến thế kỷ XVIII là thời kỳ khủng hoảng của chế độ phong kiến Đại Việt do
Trịnh Nguyễn phân tranh, Nho giáo Việt Nam đi vào giai đoạn suy vong không thể cứu
vãn. Dù đã cố gắng bằng mọi cách để củng cố địa vị của nhà giáo trong đời sống tư
tưởng và văn hóa nhưng các vương triều phong kiến từ Gia Long đến Minh Mạng, Tự
Đức đều không thể làm cho Nho giáo có được vị thế như nó đã từng có ở thế kỷ XV.
Trong gần 10 thế kỷ xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến nho giáo khẳng định vai
trò là nền tảng tư tưởng chi phối đến mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam, được biểu
hiện rõ nét trên nhiều lĩnh vực: Là nền tảng tư tưởng chính trị để tổ chức bộ máy nhà
nước, Nho giáo chủ trương đề cao vai trò của đạo đức trong việc quản lý, duy trì sự ổn
định của xã hội dựa trên các mối quan hệ Tam Cương, Ngũ Thường. Hình ảnh chuẩn
mực đạo đức và xây dựng mô hình nhân cách con người Việt Nam truyền thống với các
tiêu chí: đạt đức (Trai thời trung hiếu làm đầu gái thời tiết hạnh làm câu sửa mình; một
lòng thờ mẹ kính cha cho tròn chữ hiếu mới là đạo con); đạt đạo (nhân nghĩa lễ trí tín).
Xây dựng nền giáo dục thi cử từ một đích đến nội dung và phương pháp giáo dục.
Với sự chi phối ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện mọi mặt đời sống tinh thần của xã hội
Việt Nam dưới tác động đến văn hóa Việt Nam với cả 2 mặt tích cực và tiêu cực. Tác
động tích cực ở chỗ tư tưởng và giáo lý Nho giáo đã góp phần xây dựng xã hội ổn định,
nề nếp theo tôn ti trật tự, thứ bậc kỷ cương từ trong gia đình đến ngoài xã hội, đề cao
các giá trị đạo đức, nhân cách và các giá trị tinh thần, xây dựng mô hình nhân cách mẫu
mực. Đối với nam giới tu thân tề gia trị quốc bình, thiên hạ; phụ nữ là tam tòng tứ đức.
Tác động tiêu cực là Nho giáo coi trọng, tôn ti thứ bậc phân biệt đối xử, bất bình đẳng,
vì thế xã hội, giới tính, tuổi tác là nguyên nhân tạo nên tư tưởng thượng tôn quan quyền,
gia trưởng, thiếu dân chủ (sống lâu lên lão làng; áo mặc không qua khỏi đầu; trứng
không khôn hơn vịt; cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy; phu xướng phụ tùy; muốn nói ngoa
làm cha mà nói, muốn nói oan làm quan mà nói). Tác động tiêu cực của nho giáo đến
văn hóa ứng xử với pháp luật. Việc tuyệt đối hóa tính tôn ti thứ bậc là nguyên nhân làm
hạn chế ý thức về quyền cá nhân và hệ quả trực tiếp là sự triệt tiêu ý thức phản biện,
phản kháng của con người. Đó cũng là nguyên nhân làm hạn chế việc sử dụng công cụ,
pháp luật để bảo vệ quyền cá nhân.Vì chủ trương để cao đức trị hơn pháp trị nên Nho
giáo khuyến khích vô tụng. Khổng tử cho rằng: “Xét xử việc kiện tụng ta cũng như
người. Tất phải làm cho dân không có việc kiện tụng”. Việc kết hợp, lồng ghép giữa đức
trị với pháp trị, khiến cho sự phân cách giữa đạo lý và pháp lý là một ranh giới mờ nhập
nhằng khó phân định. Bằng chứng là trong các bộ luật thời phong kiến Việt Nam, Tam
Cương, Ngũ Thường là đạo lý, nhưng cũng đồng thời là pháp lý. Điều này dẫn đến hệ
quả là việc xét xử các vụ án thường khó tránh khỏi hiện tượng “tội đồng luận dị” (tội
giống nhau nhưng phán xử lại khác nhau) do tính chất chủ quan, cảm tính tùy tiện làm
suy giảm niềm tin của người dân đối với pháp luật. Tóm lại, trong nền tảng văn hóa
truyền thống Việt Nam đi ảnh hưởng và chi phối sâu sắc. Và toàn diện mọi mặt của đời
sống xã hội. Xét cả 2 mặt tích cực và tiêu cực, nghiên cứu về bản sắc văn hóa Việt Nam,
giáo sư Phan Ngọc khẳng định rằng: “Từ thế kỷ XIX trở về trước, ở Việt Nam Nho giáo
phổ biến đến nỗi không có dấu vết nào của văn hóa Việt Nam mà không mang một biểu
hiện có thể xem là tính chất của Nho giáo, dù đó là văn học hay phong tục nghi lễ, nghệ
thuật, tín ngưỡng. Cũng không có người Việt Nam nào dù chống Nho giáo đến đâu mà
lại không chịu ảnh hưởng của Nho giáo”.