






Preview text:
ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM ĐỀ SỐ 5
Dựa trên nội dung của Đại cương văn hóa Việt Nam, Anh (Chị) hãy cho biết:
Những luận điểm sau đúng hay sai? Tại sao?
Luận điểm 1 (2,5 điểm). Đối tượng nghiên cứu Đại cương văn hóa Việt Nam là
các yếu tố cấu thành bản sắc văn hóa Việt Nam.
Luận điểm 2 (2,5 điểm). Đạo Cao Đài là kết quả của sự kết hợp giữa Nho giáo,
Phật giáo và Đạo giáo.
Luận điểm 3 (2,5 điểm). Chủ nghĩa yêu nước là đặc trưng trong văn hóa nhà nước – dân tộc Việt Nam.
Luận điểm 4 (2,5 điểm). Phật giáo đại thừa ở Việt Nam là kết quả của giao lưu giữa
văn hóa Việt Nam với văn hóa Ấn Độ BÀI LÀM
Luận điểm 1: Đối tượng nghiên cứu Đại cương văn hóa Việt Nam là các yếu tố
cấu thành bản sắc văn hóa Việt Nam.
Nghiên cứu “Đại cương văn hóa Việt Nam” không nghiên cứu tất cả các yếu tố
cấu thành văn hóa dân tộc Việt Nam, mà chỉ nghiên cứu các yếu tố tạo thành bản
sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Các yếu tố cấu thành nên bản sắc văn hoá Việt
Nam bao gồm: các yếu tố phổ biến, các yếu tố đặc thù và các yếu tố đơn nhất.
A. Các yếu tố phổ biến
Đây là những yếu tố mang tính duy lý và phổ quát, chung cho toàn nhân loại
và chủ yếu là gắn với các hệ giá trị chuẩn của văn minh công nghiệp và hậu công
nghiệp. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa như hiện nay, những chuẩn mực về
kỹ thuật, tài chính, pháp lý, các tri thức khoa học, các giá trị đạo đức và thẩm mỹ
tiến bộ đang phát tán rộng khắp thế giới để hình thành nên các chuẩn mực ứng xử
chung cho mọi dân tộc. Chẳng hạn như việc áp dụng các quy phạm quốc tế về nhân
quyền, về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững , về vệ sinh dịch tễ và an toàn
thực phẩm… không còn là những yêu cầu riêng của một dân tộc. Xét từ góc độ văn
minh, nhân loại đang kiến tạo nên một nền văn hóa chung mang tính phổ quát.
B. Yếu tố mang tính đặc thù (khu vực)
Cái đặc thù, theo quan điểm biện chứng, được hiểu là sự thống nhất giữa tính
phổ biến và tính đơn nhất. Trạng thái hòa trộn giữa tính phổ biến với tính đơn nhất
trong văn hóa tạo nên những sắc thái đặc thù mang tính khu vực. Sắc thái này vừa
dùng để phân biệt một khu vực văn hóa này với những khu vực còn lại trên thế
giới; song lại vừa để xác định tính đồng nhất văn hóa trong bản thân khu vực ấy.
Văn hóa là sản phẩm của con người và tự nhiên nên nguồn gốc sâu xa của mọi sự
khác biệt về văn hóa chính là sự khác biệt về đều kiện tự nhiên (địa lý –khí hậu) và
xã hội (lịch sử-kinh tế). Ví dụ: Điều kiện môi trường tự nhiên của phương Đông và
phương Tây khác nhau do đó hình thành 2 nền văn hóa với những đặc trưng khác nhau.
Phương Tây: Khí hậu lạnh khô, chủ yếu là đồng cỏ, thích hợp với nghề chăn
nuôi, tạo nên lối sông du cư. Con người có tâm lý chinh phục thiên nhiên; lối tư
duy thiên về phân tích; trọng sức mạnh, trọng tài, trọng võ, trọng nam, có tính
nguyên tắc và quân chủ; trọng cá nhân, có tính độc tôn, cứng rắn, hiếu thắng=> lối
sống trọng động (du mục)
Phương Đông: Khí hậu nóng ẩm, có nhiều đồng bắng, thích hợp với nghề
trồng trọt, tạo nên lối sống định cư. Con người có xu hướng hòa hợp với thiên
nhiên; lối tư duy thiên về tổng hợp; trọng tình, trọng đức, trọng văn, trọng nữ, có
tính dân chủ; trọng cộng đồng, có tính dung hợp, mềm dẻo, hiếu hòa => lối sống
trọng tĩnh (gốc nông nghiệp)
Theo nghĩa đó, những yếu tố đặc thù trong văn hóa Việt Nam cũng chính là
những yếu tố đặc trưng của văn hóa nông nghiệp mang tính định cư
C. Yếu tố đơn nhất - không lặp lại (tính dân tộc)
Văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần, có tính biểu trưng, do con người
tạo ra, do đó, cộng đồng nào cũng có văn hóa, dân tộc nào cũng có văn hóa. Có
những giá trị văn hóa mang tính chất chung cho toàn nhân loại, lại có những giá trị
văn hóa mang tính chất đặc thù, chỉ có ở cộng đồng này, dân tộc này, không xuất
hiện ở cộng đồng khác, dân tộc khác và ngược lại. Những giá trị văn hóa mang tính
chất đặc thù đó chính là bản sắc văn hóa. Bản sắc văn hóa thể hiện ở tất cả các lĩnh
vực của đời sống - ý thức của cộng đồng bao gồm: cội nguồn, cách tư duy, cách
sống, dựng nước và giữ nước, sáng tạo văn hóa, khoa học – nghệ thuật.
Chính vì những lý do trên, luận điểm cho rằng: “Đối tượng nghiên cứu Đại
cương văn hóa Việt Nam là các yếu tố cấu thành bản sắc văn hóa Việt Nam” là
đúng. Văn hóa dân tộc Việt Nam có thể bao gồm nhiều yếu tố cấu thành nên, trong
đó bản sắc văn hóa Việt Nam chính là cốt lõi, là đặc trưng riêng có của dân tộc Việt
Nam trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp phân biệt dân tộc Việt Nam với dân tộc khác
Luận điểm 2: Đạo Cao Đài là kết quả của sự kết hợp giữa Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
Đạo Cao Đài tên gọi đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ, ra đời năm 1926 tại
ấp Long Trung, xã Long Thành, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh do một số công
chức, tư sản, địa chủ, trí thức sáng lập và phát triển chủ yếu ở các tỉnh, thành phố Nam Bộ.
Tín đồ Cao Đài tin rằng Thượng đế là Đấng sáng lập ra các tôn giáo và cả vũ
trụ này. Tất cả giáo lý, hệ thống biểu tượng và tổ chức đều được "Đức Cao Đài"
trực tiếp chỉ định. Và đạo Cao Đài chính là được Thượng đế trực tiếp khai sáng
thông qua Cơ bút cho các tín đồ với nhiệm vụ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ, có nghĩa
là Nền đạo lớn cứu khổ lần thứ Ba. Cao Đài là một tôn giáo dung hợp nhiều yếu tố
từ các tôn giáo lớn, gồm cả Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Hồi giáo, Cơ Đốc
giáo, Thần Đạo và cả một số tôn giáo đa thần thời cổ đại, thể hiện qua Ngũ Chi Đại Đạo.
Các yếu tố từ tôn giáo khác: Phật giáo
Phật giáo là một tôn giáo lớn tại Việt Nam nên có ảnh hưởng lớn đến tôn
giáo Cao Đài. Một số nhân vật Phật giáo cũng được tôn thờ trong đạo Cao Đài
như Phật Nhiên Đăng Cổ, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc. Pháp môn Tuyển độ của chi
phái Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi chịu ảnh hưởng rất lớn từ pháp môn Thiền của
Phật giáo Thiền tông. Phái Thái, một trong 3 phái trong tổ chức Nam phái của Hội
Thánh Cao Đài, được xem là tượng trưng của Phật đạo trong Đại đạo Cao Đài, với
đạo phục màu vàng tượng trưng cho áo cà sa của các nhà sư. Lão giáo
Chịu ảnh hưởng rất lớn từ Minh Sư đạo, một nhánh của Thiên Sư đạo, có thể
nói vũ trụ quan của Cao Đài gần sát với vũ trụ quan của Lão giáo. Phương pháp cơ
bút để các đấng vô hình truyền dạy, các con số linh thiêng như 1 (Thiên Nhãn), 2
(Lưỡng nghi), 3 (Tam giáo), 4 (tứ tượng), 5 (Ngũ chi), 8 (Bát Quái), 9 (Cửu
Trùng), 12 (Thời Quân),...... đều chịu ảnh hưởng rất lớn từ Lão giáo. Một số nhân
vật trong Lão giáo cũng được tôn thờ như Lão Tử...Trong tổ chức Hội Thánh, vị trí
Bát Quái Đài là khu vực thiêng liêng nhất, chỉ dành cho các vị tiên trưởng vô hình,
được xem như là nơi lập pháp của đạo. Hầu hết các văn bản pháp luật đạo, được
các tín đồ tin là được giáng cơ từ Bát Quái Đài. Trong tổ chức Nam phái, cách đặt
tên các phái cũng chịu ảnh hưởng từ Tam Thanh trong Lão giáo với biến cải đôi
chút; thậm chí, phái Thượng, một trong 3 phái của Nam phái, cũng được xem là đại
diện cho Lão giáo, với đạo phục màu xanh tượng trưng cho y phục các đạo sĩ. Vai
trò của phái Thượng còn được đề cao khi trong tổ chức Hội Thánh Cửu Trùng Đài,
chức phẩm của phái Thượng được xem là cao hơn so với 2 phái còn lại. Người giữ
ngôi vị Thượng Chưởng pháp được quy định có thể thay mặt cho chức vị Giáo tông
để chủ trì công việc của Cửu Trùng Đài. Nho giáo
Cũng như Phật giáo và Lão giáo, Nho giáo cũng được xem là có ảnh hưởng
rất lớn đến đạo Cao Đài. Nho giáo là nền đạo đầu tiên trong đạo Cao Đài được đề
xướng qua triết lý Nho tông chuyển thế. Nếu như Lão giáo ảnh hưởng nhiều về mặt
vũ trụ quan và cách thức tu tập thì Nho giáo ảnh hưởng rất nhiều về cách thức hành
lễ. Đại diện cho Nho giáo là Khổng Tử và Mạnh Tử trong Bát Quái Đài. Trong tổ
chức Hội Thánh Cao Đài, phái Ngọc, một trong 3 phái trong tổ chức Nam phái Cửu
Trùng Đài, được xem là tượng trưng của Nho giáo, với đạo phục màu đỏ.
Tín ngưỡng dân gian
Có thể nói tín ngưỡng dân gian Nam Kỳ đã có ảnh hưởng rất lớn đến đạo
Cao Đài. Hầu hết các hoạt động tôn giáo của đạo Cao Đài chú trọng đến các nghi lễ
trong gia đình liên quan đến phong tục truyền thống của người Việt ở Nam Kỳ như
cưới hỏi, tang ma, cầu siêu… Những nghi lễ ấy mặc dù được tổ chức theo nguyên
tắc và triết lý của đạo Cao Đài, nhưng lại không quá xa lạ với phong tục truyền
thống của người Việt. Hơn nữa, các nghi lễ này đều được tổ chức quy củ, có sự
tham gia đông đảo của chức sắc, chức việc và đạo hữu, làm không khí trong các
buổi lễ trở nên trang trọng, tôn nghiêm. Mặt khác, rất dễ nhận thấy nhạc lễ Cao Đài
(đặc biệt là Đại đàn) mang đậm văn hóa truyền thống Việt Nam với cung cách đi
trò lễ, nhạc cổ truyền trong các buổi lễ tại đình, miếu dân gian.
Chính vì những lý do trên, luận điểm cho rằng: “Đạo Cao Đài là kết quả
của sự kết hợp giữa Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo” là đúng. Cao Đài là một
tôn giáo có tính dung hợp các tôn giáo lớn và lâu đời tại Việt Nam, mà chủ yếu
là Tam giáo. Nhiều khái niệm cũng như hình thức của các tôn giáo lớn đều có thể
thấy biểu hiện một phần tại triết lí giáo của Cao Đài. Các tín đồ Cao Đài lý giải đấy
chính là ý đồ của Thượng đế đã hình thành các tôn giáo khác nhau để phù hợp với
thời điểm và địa điểm cụ thể, và tôn giáo Cao Đài chính là "tôn giáo duy nhất do
Thượng đế lập ra ở lần thứ 3 và là lần cuối cùng" để phổ độ cho chúng sinh, không
còn phân biệt tôn giáo, dân tộc hay ở bất kỳ nơi nào trên thế giới nữa. Chính vì vậy,
điểm đặc biệt trong tôn giáo Cao Đài là sự tôn trọng tín ngưỡng và phong tục,
không ép buộc tín đồ phải từ bỏ hoặc hạn chế các hoạt động liên quan đến tín
ngưỡng hay phong tục cổ truyền của mình.
Luận điểm 3: Chủ nghĩa yêu nước là đặc trưng trong văn hóa nhà nước – dân tộc Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước là "nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã hội
mà nội dung của nó là lòng trung thành với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ và
hiện tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc". Chủ nghĩa yêu
nước ở Việt Nam được bắt nguồn từ những tình cảm bình dị, đơn sơ của mỗi người
dân. Tình cảm đó, mới đầu, chỉ là sự quan tâm đến những người thân yêu ruột thịt,
rồi đến xóm làng, sau đó phát triển cao thành tình yêu Tổ quốc. Tình yêu đất nước
không phải là tình cảm bẩm sinh, mà là sản phẩm của sự phát triển lịch sử, gắn liền
với một đất nước nhất định.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là sự kết tinh của tư tưởng, tình cảm, tâm
hồn, cốt cách con người Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ
nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã trở thành hệ tư tưởng chủ đạo, giữ vai trò
định hướng và chi phối toàn bộ quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua
các thời kỳ. Hơn nữa, chủ nghĩa yêu nước còn trở thành giá trị văn hóa mang tính
phổ biến và được xã hội hóa sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, được các thế hệ
người Việt Nam xác định như một trong những tiêu chí, giá trị cao nhất quy định
phương châm sống và hành động của mình. Từ đó, tạo thành động lực tinh thần to
lớn, thúc đẩy những hành động tích cực vì đất nước của con người và cộng đồng người Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng đất nước, con người Việt Nam vừa thích nghi, vừa
khai phá những tài nguyên và phát huy những mặt thuận lợi của thiên nhiên để mở
mang ruộng đồng, xóm làng, phát triển sản xuất. Nhưng thiên nhiên cũng đem lại
cho con người nơi đây không ít khó khăn, hằng năm bão lụt, hạn hán hoành hành
dữ dội, cướp phá đi nhiều tài sản và sinh mệnh của con người. Vì vậy, trong quá
trình trụ lại khai phá, ông cha ta đã phải đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên, sự
đoàn kết, cố kết cộng đồng đó đã trở thành nhu cầu tự nhiên, tất yếu để tồn tại và
phát triển. Từ rất sớm nhân dân ta đã biết đắp đê để chống lũ lụt, đào kênh mương,
làm thủy lợi để chống hạn hán. Tất cả những thành tựu đó trong quá trình xây dựng
quê hương, đất nước đều thấm đượm mồ hôi,nước mắt và xương máu của bao thế
hệ, cũng vì lẽ đó mà mọi người Việt Nam đều nặng tình, nặng nghĩa với quê
hương, đó là cơ sở vững bền của tình yêu đất nước, sự gắn bó với xứ sở và là nền
tảng quan trọng để hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Mặt khác, Việt Nam lại nằm ở vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực và
thế giới, cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào và phong phú nên luôn là
mục tiêu nhòm ngó, lăm le xâm lược và thôn tính của các đế quốc ngoại bang. Vì
vậy, trong lịch sử thế giới, hiếm có một dân tộc nào phải chống ngoại xâm nhiều
lần và liên tục như dân tộc Việt Nam. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần (TK II
trước CN) đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dân tộc Việt
Nam đã có 12 thế kỷ phải tiến hành kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống ách
đô hộ của nước ngoài. Những cuộc đọ sức với các thế lực xâm lược lãnh thổ, dân
tộc, xâm lăng văn hóa... đã tạo cho con người Việt Nam một giá trị vô cùng quý
giá, đó là chủ nghĩa yêu nước với nội dung cốt lõi là ý thức về chủ quyền quốc gia
và tinh thần độc lập dân tộc. Giá trị tốt đẹp đó trở thành một trong những giá trị
truyền thống văn hóa cao quý nhất, bềnvững nhất, giữ ở vị trí hàng đầu và được
người Việt Nam coi là chuẩn mực cao nhất của đạo lý dân tộc. Và, trên thực tế,
thắng lợi của dân tộc ta trong các cuộc kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống
ách đô hộ của nước ngoài, không chỉ là chiến thắng thuần túy về mặt quân sự mà
còn cả về văn hóa và bằng văn hóa yêu nước của mình. Điển hình là cuộc đấu tranh
chống Hán hóa về chủng tộc, ngôn ngữ, phong tục, tập quán trong suốt chặng
đường hơn nghìn năm các triều đại phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ hay
cuộc đấu tranh chống lại chính sách văn hóa nô dịch, phản động của thực dân Pháp,
phát xít Nhật và đế quốc Mỹ trong TK XX.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không chỉ là một giá trị, mà điều quan trọng
hơn nữa nó còn là cội nguồn, cơ sở của hàng loạt các giá trị khác, là giá trị cao nhất
trong bảng thang giá trị củabản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Các giá trị văn hóa
khác đều là sự thể hiện dưới những khía cạnh, những góc độ và hình thức khác
nhau của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Điều đó có nghĩa, chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam không chỉ chứa đựng các giá trị chân, thiện, mỹ mà đã trở thành những yếu tố
tận chân, tận thiện, tận mỹ. Trong đó, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống
là cơ sở của chủ nghĩa anh hùng, tinh thần đoàn kết, đức tính cần cù, chịu khó, lối
sống lành mạnh, lạc quan, yêu đời của nhân dân Việt Nam, làm nên cốt cách Việt
Nam.Còn chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại là động lực để thực hiện độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, củng cố, tăng cường đại đoàn kết, thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Như vậy, luận điểm cho rằng: “Chủ nghĩa yêu nước là đặc trưng trong văn
hóa nhà nước – dân tộc Việt Nam” là hoàn toàn đúng. Yêu nước không chỉ là một
nét đẹp đạo đức, một nét văn hóa mà còn kết tinh thành giá trị bền vững, tiêu biểu
hàng đầucủa truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Chính giá trị này làm
nên sức sống của con người và dân tộc Việt Nam qua bao thăng trầm của lịch sử.
Yêu nước - giá trị văn hóa gắn liền với dân tộc Việt Nam, là yếu tố cơ bản hình
thành dân tộc, là linh hồn của dân tộc. Văn hóa còn, yêu nước còn thì dân tộc còn.
Văn hóa suy, yêu nước giảm thì dân tộc yếu. Văn hóa mất, chủ nghĩa yêu nước
không còn thì dân tộc diệt.
Luận điểm 4: Phật giáo đại thừa ở Việt Nam là kết quả của giao lưu giữa văn
hóa Việt Nam với văn hóa Ấn Độ
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm bằng hai con đường: con
đường biển từ phương Nam trực tiếp truyền sang; con đường bộ từ phương Bắc
truyền xuống. Bằng con đường biển từ phương Nam, Phật giáo truyền vào Việt
Nam rất sớm, có thể từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên và sớm hơn nhiều nếu
so với con đường bộ từ phương Bắc truyền xuống. Các tu sĩ đi theo thuyền buôn
Ấn Độ là những người đầu tiên truyền đạo Phật vào nước ta với tín ngưỡng đơn sơ:
thờ Phật, đốt trầm, tụng kinh, chữa bệnh, trừ tà và bày phép cúng dường, bố thí cho
dân bản địa cùng truyền pháp Tam quy Ngũ giới cho cư dân ở đây chứ chưa có sự
truyền giảng kinh điển.
Tiếp theo, Phật giáo với hệ thống kinh điển Đại thừa mang tính Thiền học
của Phật giáo vùng Nam Ấn đã truyền vào Việt Nam tại trung tâm Luy Lâu. Nam
Ấn là vùng đầu tiên dùng kinh văn hệ Bát nhã (Prajna) như Kim Cương, Tượng đầu
tịnh xá, Bát thiên tụng Bát nhã, Bát nhã tâm kinh, Bát nhã ba la mật, Đại bát Niết bàn v.v…
Kinh Kim Cương là một cuốn kinh Đại thừa Phật giáo thuộc kinh văn hệ Bát
nhã phổ biến và có vị trí quan trọng trong Phật giáo, trong Thiền giới Việt Nam,
Trung Quốc. Nhờ bộ kinh này mà Lục Tổ Huệ Năng ở Trung Quốc và nhà vua
Thiền sư Trần Thái Tông ở Việt Nam đắc pháp, ngộ đạo.
Nhờ hệ thống kinh văn Bát nhã mà thế kỷ thứ hai sau công nguyên, Long
Thọ Bồ Tát (Nagarjãna) đã viết bộ Trung Quán luận với tư tưởng vô trụ, siêu việt
hữu vô, chân không. Bộ luận này đã có ảnh hưởng sâu rộng trong Thiền giới ở Việt
Nam và Trung Quốc. Tư tưởng chân không của bộ luận cũng chính là chủ đề của
bộ kinh Bát thiên tụng Bát nhã mà Khương Tăng Hội đã dịch ở Giao Châu vào thế kỷ thứ III.
Tư tưởng Phật giáo Đại thừa ở Việt Nam cũng đã xuất hiện với tác phẩm Lý
hoặc luận của Mâu Tử ở thế kỷ thứ II. Tiếp đến là một loạt tác phẩm dịch, chú sớ,
đề tựa của nhiều nhà Phật học đều là những bộ kinh thuộc hệ thống Thiền học Đại
thừa như An ban thủ ý kinh bàn về phép Thiền quán sổ tức (phép đếm hơi thở) do
Khương Tăng Hội dịch, chú sớ Pháp hoa tam muội kinh do Cương Lương Lâu Chí và Đạo Thanh dịch.
Đây là bằng chứng khẳng định ở thời kỳ đầu, Phật giáo truyền vào nước ta
chủ yếu là Phật giáo Đại thừa với khuynh hướng Thiền học và kinh điển chủ yếu là
kinh văn hệ Bát nhã xuất hiện ở Nam Ấn. Do đó luận điểm cho rằng: Phật giáo đại
thừa ở Việt Nam là kết quả của giao lưu giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa Ấn
Độ là đúng. Và cũng chính Tư tưởng Phật giáo Đại thừa đã tạo nên Phật giáo thời
Lý - Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam.
Chính Phật giáo Lý - Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào
khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy
giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ
phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 sau công nguyên.
Document Outline
- ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM ĐỀ SỐ 5
- BÀI LÀM
- Luận điểm 1: Đối tượng nghiên cứu Đại cương văn hóa Việt Nam là các yếu tố cấu thành bản sắc văn hóa Việt Nam.
- A. Các yếu tố phổ biến
- B. Yếu tố mang tính đặc thù (khu vực)
- C. Yếu tố đơn nhất - không lặp lại (tính dân tộc)
- Luận điểm 2: Đạo Cao Đài là kết quả của sự kết hợp giữa Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
- Luận điểm 3: Chủ nghĩa yêu nước là đặc trưng trong văn hóa nhà nước – dân tộc Việt Nam.
- Luận điểm 4: Phật giáo đại thừa ở Việt Nam là kết quả của giao lưu giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa Ấn Độ