





Preview text:
NỘI DUNG ÔN TẬP
MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM
1. CHƯƠNG I. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VÀ VĂN MINH
2. CHƯƠNG II, HỌC ĐỊNH VỊ VĂN HOÁ VIỆT NAM
3. CHƯƠNG III, HỌC VĂN HOÁ VẬT CHẤT, VĂN HOÁ TINH THẦN, VĂN HOÁ XÃ HỘI
VĂN HOÁ VẬT CHẤT (ĂN, MẶC, Ở, ĐI LẠI) VĂN HOÁ TINH THẦN. - ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH
- TÔN GIÁO (NHO GIÁO, PHẬT GIÁO) - GIAO TIẾP ỨNG XỬ
VĂN HOÁ XÃ HỘI (NHÀ – LÀNG – NƯỚC)
VĂN HOÁ VIÊT NAM TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI
VĂN HOÁ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ.
ĐÓ LÀ TOÀN BỘ NỘI DUNG ÔN TẬP, PHẦN CÒN LẠI CÁC EM ĐỌC QUA.
ÔN TẬP THEO NHỮNG CÂU HỎI GỢI Ý TRONG TẬP BÀI GIẢNG.
CHÚC HỌC TỐT VÀ THI TỐT.
Các câu hỏi cụ thể:
Câu 1. Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hoá gốc chăn nuôi du mục
và văn hoá gốc nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, đó là tiêu chí
quan trọn để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn
hóa của mỗi dân tộc dù phong phú và đa dạng đến mấy cũng đều có nguốn
gốc xuất phát từ một trong hai loại hình văn hóa gốc là văn hóa gốc chăn
nuôi du mục và văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt. Giữa hai loại hình văn
hóa gốc này có sự khác nhau mang tính tương đối căn cứ vào yếu tố trội như sau:
Về điều kiện tự nhiên và môi trường: Loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du
mục là loại hình văn hóa gốc hình thành ở phương Tây, bao gồm toàn bộ
châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình chủ yếu là thảo nguyên,
xứ sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuội vì vậy nghề truyền thống của
cư dân phương Tây cổ xưa là chăn nuôi. Trong khi loại hình văn hóa gốc
nông nghiệp trồng trọt là nói đến văn hóa phương Đông gồm Châu Á và
Châu Phi, điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những con sông lớn,
những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển. Về đặc trưng:
– Đặc điểm đầu tiên là về lối sống, đối với loại hình văn hóa gốc chăn
nuôi du mục ở phương Tây phổ biến với nghề chăn nuôi gia súc, đến
mức trong Kinh Thánh từ cừu được nhắc tới 5.000 lần, tín đồ được
gọi là con chiên, Chúa là người chăn chiên. Lịch sử cho biết người
phương Tây xưa chủ yếu nuôi bò, cừu, dê, ăn thịt và uống sữa bò, áo
quần dệt bằng lông cừu hoặc làm bằng da thú vật. Như vậy, vì là loại
hình chăn nuôi gia súc đòi hỏi họ phải sống du cư, nay đây mai đó,
tạo thành thói quen, lối sống thích di chuyển, trọng động, hướng
ngoại. Còn loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông do
thuận lợi về điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những con
sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho
nghề trồng trọt phát triển. Do nghề trồng trọt buộc con người phải
sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kêt trái và thu hoạch. Và
với lối sống định cư dẫn đến cư dân nông nghiệp phải lo tạo dựng
cuộc sống lâu dài, không thích di chuyển, thích ổn định, trọng tĩnh, hướng nội.
– Ở đặc điểm thứ hai về cách ứng xử với môi trường tự nhiên, đối với
loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục vì luôn di chuyển nên cuộc
sống của dân du mục không phụ thuộc vào thiên nhiên, nảy sinh tâm
lý coi thường thiên nhiên và có tham vọng chinh phục, chế ngự tự
nhiên. Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông,
do nghề trồng trọt phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân rất tôn trọng
và sùng bái thiên nhiên, với mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên.
– Đối với đặc điểm thứ ba về tính chất xã hội, vì sống du cư nên tính
gắn kết cộng đồng của dân du mục không cao, đề cao tính cá nhân
dẫn đến tâm lý ganh đua, cạnh tranh, hiếu thắng, lối sống độc tôn,
độc đoán trong tiếp nhận,cứng rắn trong đối phó. Trong khi loại hình
văn hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông lại đề cao tính cộng đồng
do cuộc sống nông nghiệp, phụ thuộc vào tự nhiên, buộc cư dân phải
sống định cư, tính cộng đồng gắn kết, liên kết sức mạnh.
– Xét về nguyên tắc tổ chức cộng đồng, do cuộc sống du cư nên cần
đến sức mạnh để bảo vệ dân cư trong bộ tộc chống lại sự xâm chiếm
của các bộ tộc khác nên người đàn ông có vai trò quan trọng, tư
tượng trọng sức mạnh, trọng nam giới trong khi loại hình văn hóa
phương Đông lại trọng tình nghĩa, trọng văn, trọng phụ nữ, vai trò
của người phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ giữ vai trò quan trọng
trong gia đình, chăm lo vun vén cho gia đình và làmcác công việc
đồng án. - Về lối nhận thức tư duy, đối với loại hình văn hóa gốc
chăn nuôi du mục thiên về tư duy phân tích, coi trọng vai trò của các
yếu tố khách quan, vì nghề chăn nuôi du mục đòi hỏi sự khẳng định
vai trò cá nhân, đối tượng tiếp xúc hành ngày là đàn gia súc với từng
cá thể độc lập, từ đó hình thành kiểu tư duy phân tích chú trọng vào
từng yếu tố. Còn loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông
thì thiên về tư duy tổng hợp – biện chứng, coi trọng các mối qua hệ,
thiên về kinh nghiệm chủ quan cảm tính hơn là coi trọng khách quan
và khoa học thực nghiệm do trồng trọt của cư dân phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như trời, đất, nắng, mưa
– Và ở đặc điểm cuối cùng về cách thức ứng xử trong cộng đồng, loại
hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục có lối sống trọng lí, ứng xử theo
nguyên tắc, thói quen tôn trọng pháp luật khác với loại hình văn hóa
gốc nông nghiệp do cuộc sống cộng đồng, gắn kết với nhau nên sống
trọng tình, thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt. Trên đây là sự nhận
diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc với những đặc trưng nổi bật
khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều có những điểm mạnh và điểm
yếu của nó. Tuy nhiên, trong thực tế thường không có nền văn hóa
nào chỉ thuần túy mang tính chất nông nghiệp trồng trọt hay tính
chất chăn nuôi du mục, bởi vậy, sự phân biệt hai loại hình văn hóa
này mang tính tương đối và căn cứ vào các yếu tố, đặc điểm có tính trội.
Câu 6. Hãy trình bày những hiểu biết của anh/chị về phật giáo ở Việt Nam
và vai trò của phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay.
Phật giáo Việt Nam đã có hơn 2.000 năm lịch sử. từ khi du nhập, Phật giáo
đã được người Việt bản địa hóa, khiến nó nhanh chóng cộng sinh để hòa
mình trong dòng chảy của văn hóa dân tộc, tạo nên sắc thái riêng của Phật
giáo Việt Nam với các đặc điềm nổi bật như sau:
Về khuynh hướng nhập thế, giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ
độ chúng sinh, luôn đồng hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc
làm thiết thực, tham gia các hoạt động XH: nhà chùa mở trường dạy học,
tham gia đào tạo tri thức, nhiều nhà sư đồng thời nhà sư đồng thời là thầy
thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo được người Việt cụ thể hóa
trong các mối liên hệ đời thường.
Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi
phối đến thái độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo
Việt Nam. Phật giáo dung hợp các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản
địa; dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu
giữa việc thờ Phật với thờ các vị thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng, Thổ
địa…; dung hợp giữa các tong phái Phật giáo. Việc dung hợp giữa Phật
giáo với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và bổ sung cho nhau để
cùng hướng về một mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
Với nhứng đặc diểm trên, Phật giáo đã bén rễ sau vào truyền thống tín
ngưỡn văn hóa của mỗi gia đình, nhân dân Việt Nam. Với người dân Việt,
Phật giáo đã thấm sâu trong tiềm thức, chùa là nơi hướng thiện, giáo dục về
nhân cách, tâm hồn của mỗi người, nơi an cư của tâm hồn. Và đến ngày
nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt Nam, Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn
nhất, có ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Hiện nay, số lượng người đi
chùa ngày càng đông, có niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ở nước ta
hiện nay đang có truyền thống ăn chay vào những ngày rằm, tổ chức những
ngày lễ Phật đản, những buổi sinh hoạt tại chùa để một phần nào giúp con
người có tâm thanh tịnh tại chồn Sài Gòn hoa lệ. Qua đó, ta thấy được vai
trò Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt từ xưa đến nay.
Về vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt
xưa và nay (Ảnh hưởng đến Pháp luật ) gồm những tác động tích cực như
trong việc điều chinh ý thức và hành vi của con người theo triết lý sống từ
bi bác ái, nhẫn nhịn, vị tha, “khuyến thiện tử ác" đã giúp hạn chế sự xung
đột, tranh chấp, kiện tụng, góp phần dem Tư tưởng, giáo lý của Phật giáo
đã góp phần quan trọng lại sự bình yên, hòa mục cho cuộc sống. Tuy nhiên
vẫn có những tác động tiêu cực như việc khuyên con người tự tiết chế các
hành vi của mình mình bằng thái độ nhường nhịn, cam chịu, thậm chi cà
nhẫn nhục, Phật giáo đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả năng hành
động và đầu tranh của con người khi cần phải bào vệ công lý, lẽ phải. Do
ảnh hưởng bởi thuyết "luân hoi", "quả báo" của Phật giáo, nhiều người Việt
thường không chủ động sử dụng luật pháp là công cụ bảo vệ mình khi
quyền loi bị xâm hai, mà chon phương pháp im lặng trông chờ vào quả báo,
tin vào sự trừng phạt của luật Trời hơn là luật pháp, vì vậy từ đây cung
không hình thành thói quen sử dụng công cu luật pháp trong đời sống dân sự.
Document Outline
- NỘI DUNG ÔN TẬP
- Các câu hỏi cụ thể:
- Về đặc trưng: