TỪ KÍCH THƯỚC CỘNG ðỒNG ðẾN KÍCH THƯỚC NHÂN NHỮNG VẤN ðỀ
THUYẾT PHƯƠNG PHÁP LUN
Nguyễn ðức Lộc
Trường ðại học Khoa học hội & Nhân n, ðHQG-HCM
M TẮT: Bài viết tập trung ñiểm lun tiến trình song ñề thuyết, giữa quan ñiểm cộng ñồng
luận nhân luận. Hai quan ñiểm này cũng là tiêu ñiểm của c cuộc tranh luận thuyết từng kéo
dài nhiều m trong giới học thuật khoa học xã hội trên thế giới giữa phái cấu trúc luận và phái c
nhân luận (structure/agency). Thông qua bài viết y, chúng tôi hướng tới một vấn ñề thuyết và
phương pháp lun trong nghiên cứu mối quan hcá nhân và cộng ñồng. Khi nói tới "cá nhân" và "xã
hội", người ta thường lầm tưởng rằng ñây hai thực thể riêng rẽ, m như thể chúng thể tồn tại biệt
lập nhau thực ra ñây một tổng thể với hai cấp ñkhông thể tách rời. ðiều này cho thấy rằng bên
cạnh tính quy ñịnh của c cấu trúc hội, c chiến c ứng xử khác nhau của các nhân cũng
ñóng vai trò quan trọng kng nhỏ trong việc duy trì, củng choặc ñiều chỉnh và thay ñổi chính c
cấu trúc ấy.
Từ khóa: cộng ñồng, nhân, cấunh hội, chiến ợc ứng xử.
như một hạt cát trong hàng ngàn hạt cát của
Cộng ñồng nhân, lñây hai vấn
ñề kgần gũi, thiết thực trong ñời sống hội
của chúng ta. Bởi ai sống kng mối
liên hệ với các tập thể hội như gia ñình,
dòng họ, nớc.v.v. ðó hai vấn ñề ơng
c qua lại giữa tính nhân tính tập thể xã
hội. Tuy nhiên, từ lâu trong giới khoa học
hội thế giới lại luôn tồn tại cuộc tranh luận lý
thuyết giữa phái cấu trúc lun phái tác nhân
luận (structure/agency). Phái chức ng cấu
trúc vốn xem các thành phần cấu thành cộng
ñồng vai trò quan trọng trong việc chi phối
nh vi nhân (Émile Durkheim, 1895) hay
nói cách khác, cộng ñồng chính là b khung
chứa ñựng những giá trị sống của những
nhân (Nguyn ðức Lộc, 2010). ñó, mỗi
nhân chỉ ñưc xem một ñơn vị o ñó ging
một tổng th của ñời sống hội. Trong khi ñó,
những người theo phái c nn luận (agency)
ñã ppn kịch liệt li diễn giải ñậm chất
học như trên, ñồng thời họ cũng hướng tới nhìn
nhận vấn ñề nhân với vai trò chủ th ng
tạo trong ñời sống xã hội. kể từ ñó nhiều
tranh lun trong giới khoa học hội thế giới
ñã luôn diễn ra cho ñến tận ngày nay. Chẳng
hạn như Émile Durkheim (1858 - 1917), xem
c “sự kiện hội” (Social facts) quy ñịnh
nh ñộng hội ñn kết các nhân ñ
tạo ra trật t hội. Khi nghiên cứu hội,
Durkheim muốn biện minh cho sự cần thiết của
“trật tự hội”. Nhưng, ờng như Durkheim
ñã ñặt hội nói chung, cấu hội nói riêng
ñối lập với con nời. Trong khi ñó, Weber
Trang 55
không quan tâm ñến hệ thống hội n một
tng thể (khác với Durkheim Marx), mà ñ
cao trọng tâm nghiên cứu những ñộng cơ của
nh ñộng của cá nn, những ý nghĩa hoặc lý
do nh ñộng của họ. ðây th xem một
quá trình nh thành các trường phái lý thuyết
khá phức tạp trong lịch sử tư tưng nhân loại.
Trong khuôn khổ của bài viết y, chúng
tôi chỉ xem xét một vài c ñ lý thuyết cấu
trúc - chức năng hành ñộng xã hội, vốn ñại
diện cho những trường phái cộng ñồng luận
nhân luận u trên.Từ ñó, chúng tôi cũng
xin ñề xướng một vài gợi ý về vấn ñề lý thuyết
phương pháp luận trong nghiên cứu mối
quan hnhân và xã hội.
1. CỘNG ðỒNG VÀ NHÂN BẾN B
CỦA SỰ KHÁC BIỆT
Trong ñời sống hội, khái niệm cộng
ñồng ñược sử dụng một ch ơng ñối rộng
rãi, ñể chỉ nhiều ñối tượng những ñc ñiểm
tương ñối kc nhau về quy mô, ñặc tính
hội. Danh từ cộng ñồng ñược sử dụng cho c
ñơn vị hội bản gia ñình, làng-, hay
một nhóm xã hội o ñó những ñặc tính
hội chung về m thc ởng xã hội, hay
về lứa tuổi, giới, hay về ngh nghiệp, về thân
phận xã hi. Chính vậy, khái niệm cộng
ñồng ñược hiểu ới nhiều chiều ch kc
nhau như: cộng ñồng, tập thể, nhóm
Việt Nam khái niệm ñược sử dụng khá ph
biến làng-xã, tn, p cũng ñưc xem như
loại nh cộng ñồng. Theo ơng Hồng Quang,
nghiên cứu về cộng ñồng là “nghiên cứu các
ñặc trưng văn hóa biểu thị qua các mặt: tôn
giáo tín ngưng, phong tc tập quán, cách
giao tiếp ng xử, khả năng chinh phục thiên
nhiên, khnăng ng to nghệ thuật, tính cách
m của dân trong cộng ñồng”. (Lương
Hồng Quang, 1997:18).
Trong khi ñó, cộng ñồng theo quan nim
Marxist : Mối liên hệ qua lại giữa các
nhân, ñược quyết ñịnh bởi c lợi ích chung
của các thành viên sự giống nhau về c
ñiều kiện tồn tại và hoạt ñộng của những con
người hợp thành cộng ñồng ñó, bao gồm các
hoạt ñộng sản xuất vật chất các hoạt ñộng
khác của họ, sự gần gũi giữa họ về ởng,n
ngưỡng, hệ giá trị chuẩn mực, nền sản xuất,
sự ơng ñồng về ñiều kiện sống cũng như các
quan niệm chủ quan của họ về c mục tiêu
phương tiện hoạt ñộng” (Viện Thông tin khoa
học hội, 1990: 19). Tất cả c nh thức t
t chức chúng ta ñã biết của con nời ñều
các kiểu cộng ñồng, chỉ khác nhau phạm vi
không gian-thời gian nội dung c lợi ích
liên kết chung. ðó c hình thc t chức gia
ñình, cộng ñồng dân cư, c cộng ñồng ñược
xếp theo th hạng hội, theo nghề nghiệp, tộc
người, theo lãnh th quốc gia cuối cùng, loài
người nói chung. n theo Ferdinand Tönnies,
cộng ñồng c ñặc tng sau: Thứ nhất,
những quan hxã hội o mang tính chất tinh
thần, thân thiện, mang ñcố kết có ý nghĩa tự
nhiên thì ñấy nh cộng ñồng. Th hai tính
bền vững. Tính cộng ñồng ñược khẳng ñịnh
theo dòng chảy của lịch sử. Thời gian có một
vai tlà yếu tkết nh các thành viên trong
cộng ñồng. Thứ ba nh cộng ñồng khi ñưc
xét từ quan ñiểm ñánh giá vị thế hội của
Trang 56
các thành viên hội t ñó vị thế hội
ñược gán sn nhiều hơn là vị thế phấn ñấu mà
ñưc. Cuối cùng, tính cộng ñồng lấy quan
hệ dòng họ là quan niệm cơ bản và mang c
hai ñặc trưng: ng hhuyết thống ng
họ trthành khuôn mẫu văn hóa của sinh hoạt
cộng ñồng ( Duy Hợp, ơng Hồng Quang
, 2000: 13).
Việt Nam, ng- ñược xem là một
dạng cộng ñồng gắn liền với ñơn vị trú
truyền thống của nời Việt. Chính vậy,
làng-xã ng ñược xem là ñối tượng nghiên
cứu của nhiều nnh như sử học, n tộc học,
nhân học Theo Phan Huy Lê, làng Việt
cộng ñồng t của những người tiểu nông
trồng lúa nước kết hợp với một số nghề th
công buôn bán nhỏ dựa trên nh công
nông tn dần dần phong kiến hóa (Phan
Huy - Vũ Minh Giang, 1996:143). Làng-xã
của người Việt thoát thai từ công nông thôn,
dựa tn nh thái t chc xã hi này hình
thành n ng-xã. ðiều này có nghĩa s ra
ñời của nó không theo kiểu phủ ñịnh ng
nông thôn. Nền tảng kinh tế của ng-xã
nghtrồng a ớc với những nời sử dụng
liệu sản xuất tờng qui rất nhỏ. Ngh
trồng lúa skinh tế của sự tồn tại làng-xã
nhưng sau y, do sức ép dân s diện tích
ruộng ñất nh quân tn ñầu người giảm, xu
ớng kết hợp nghề nông với c nghtiểu th
công buôn n nh phổ biến nh diện
hộ-cộng ñồng. Khi hội phát triển theo xu
ớng tơng mại hóa, tính t cấp tự túc dần
dần không trở thành một ñặc nh cố hữu của
làng xã, song do những do về mặt kinh tế
lịch sử phát triển, như mứcnh qn ruộng ñất
theo ñầu nời thấp, ñã hạn chế nhiều kh ng
phá vỡ nh tự cấp t túc. Nhà n tộc học
Nguyễn Từ Chi là người ñầu tiên cố gắng hệ
thống hóa một cách ñầy ñ về cấu tchc
hội làng Việt. Theo ông, tổng thể cấu
hội làng- cổ truyền ñược tạo tnh bởi năm
hình thức tập hợp nời như sau: (1) Tập hợp
người theo ñịa vực; (2) Tập hợp người theo
huyết thống - họ tc;
(3) Tập hợp nời theo lớp tuổi; (4) Tập hợp
người trong by chính quyền cấp ; (5)
Tập hợp người trong những t chức dựa trên
lòng tự nguyn tham gia của từng nhân -
phe, hội, phưng. (Trần Từ,1984).
Trong khi ñó, Duy Hợp, ơng Hồng
Quang trong ng tnh Phát triển cộng ñồng lý
thuyết thực tiễn, cho rằng cần phải pn ch
trên một chiều ch khác v cộng ñồng, ñó
chỉ ra c thành phần tạo lập n một cộng
ñồng. ( Duy Hợp, ơng Hồng Quang,
2000). Theo hai tác giy, những cuộc nghiên
cứu tại khắp nơi trên thế giới cho thấy một
s yếu tchính của cộng ñồng ñịa vực, yếu
tố kinh tế hay nghnghip, cuối ng là c
yếu tố nh văn hoá. Những yếu tố y to ra
sự cố kết cộng ñồng tnhững ñặc ñiểm chung,
c thành viên thể chia sẻ với nhau.
vẻ như, lâu nay khi nghiên cứu về cộng
ñồng,ng-xã, các nnghiên cứu thường ñứng
trên quan ñiểm cấu trúc-chc ng luận của
Radcliffe Brown
1
, với quan ñiểm: một nh
1
ðại diện cho trường phái cấu trúc-chức năng luận xuất
hiện vào nửa ñầu thế kỷ 20 là Radcliffe Brown (1881-
1955). Ông quan m ñến chức năng văn hóa theo hướng
Trang 57
trạng trong ñó tất cả mọi thành phần của một
hệ thống hội cùng làm việc với nhau một
mức ñ hài hòa hoặc thống nhất nội bộ (ñể tiếp
tục tồn tại như mt hệ thống), tức không tạo
ra những xung ñột kéo i không giải quyết
hoặc ñiều chỉnh ñưc” (Robert Layton, 1997:
37). Mục ñích của Radcliffe Brown không
giải tch sự ña dạng của xã hội loài nời
khám phá những quy luật của nh vi hội.
Bằng ch quan sát trong những loại hội
nhất ñịnh, nời ta stìm thấy một squan
hệ hội ñặc trưng o ñó. Theo ông, không
phải mọi tập tục ñều nhất thiết cần một chức
ng ch cực một s hệ thống xã hội y
thể cao hơn những hệ thống hội khác do
mức ñộ tích hợp (integration) của nó. Radcliffe
Brown nhận ñịnh rằng, trong khi cấu của
một thể ñộng vật hiển thị một ch trực tiếp,
thì cấu hội lại không th nhìn thấy trc
tiếp ñược, phải suy luận ra tviệc quan sát
những ñiều lặp ñi lặp lại trong các nh ñộng
của những người tham dự. Ông thừa nhận rng,
trong một hthống hội, một tập tc hay thể
chế thñưc thay thế bởi một cái kc
không bị tan vỡ chính hệ thống xã hi. Các
hội th thay ñổi theo cách c thể
ñộng vật thường không thay ñổi ñược. Quan
ñiểm thuyết y chịu ảnh hưởng những
thuyết của E.Durkheim. ðiều khác biệt chính
cấu trúc. Ông dựa trên quan ñiểm của Durkheim khi cho
rằng xã hội một thực thể ñặc biệt không ñồng nhất với
thể. Bất kỳ một hệ thống nào cũng ñược xác ñịnh bằng các
ñơn vị (yếu tố) cấu thành nó các quan hệ giữa chúng. Do
vậy, chức ng của một tập tục sự ñóng góp của o
ñời sống liên tục của “cơ thể xã hội”.
yếu Radcliffe-Brown nghiên cu những dạng
thức ñều ñặn (regularities) trong hành ñộng xã
hội, cái ông cho biểu hiện của cấu trúc xã
hội ñược tạo thành bởi những mạng ới c
nhóm. Trong khi ñó, vi-Strauss c ñịnh vị
trí cấu trúc tư tưởng con người, và xem s
giao tiếp hội nbiểu hiện ngoại tại của
c cấu trúc nhận thức y. thuyết cấu trúc
xem cấu trúc của hội sản phẩm của ý
tưởng thay của những ñiều kiện vật chất của
tn tại xã hội. Những người tham gia o một
hệ thống, cần phải ý thức về những hậu quả cấu
trúc của nó ñến mức ñộ o.
Hiện nay, ng ý kiến cho rng
ch tiếp cận dưới c ñộ cấu trúc chc ng
luận ñã tr nên lạc hậu vì nhìn nhận c hin
tượng hội trạng thái tĩnh không cho
thấy sự biến ñổi hội. Tuy vậy, chúng tôi
nhận thấy rng cấu trúc - chc năng luận ñóng
vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu quá
trình tái sản xuất hội, và suy cho cùng p
phần o việc tìm hiểu quá trình củng cố sc
kết xã hội của c cộng ñồng ñịa pơng:
chúng tạo ñiều kiện duy trì s liên kết hội
(Gluckman, 1954). Từ ñây, chúng tôi quan
niệm, cấu trúc xã hội không hẳn là một b
khung học, không vận ñộng mà bkhung
chứa ñựng những giá trị, quan niệm ñể nhân
hấp thụ c giá trị sống, qua ñó xây dựng cho
mình những chiến c ứng xử trong c mối
quan hxã hội giữa nhân với những người
xung quanh. Nói một cách kc, muốn hiểu
ñược ý nghĩa quá trình vận ñộng của cấu
trúc xã hội, chúng ta cần hiểu ñược ý nghĩa
nh ñộng của nhân với vai trò ch th của
Trang 58
hội. Chính vậy, sự phân tích cấu trúc
(structural analysis) cũng cần ñược b sung
bởi một sự phân ch chiến lược (strategical
analysis) của các nhân. ðồng thời, các lối
ứng xử của n chúng ng cần ñược nhìn
nhận diễn giải dưới c ñộ hậu cảnh kinh tế,
hội của c nh vi ứng xử.
Khác với duy của những nời theo
trường phái cấu tc chức năng luận, những
người khuynh ng theo nhân luận thì
cho rằng mọi hành vi chúng ta quan sát ñược
chỉ là nh thc bngoài của một quá trình tư
duy nhân, n chứa “tảng băng chìm” ñộng
hành ñộng của chủ th trong c thiết chế
hội họ ñang sống. Thuyết nh ñộng xã hội
của Max Weber
2
ñã không quan tâm ñến hệ
thống hội như một tng thể (khác với
Durkheim Marx), mà ñề cao trọng tâm
nghiên cứu những ñộng cơ của nh ñộng của
nn, những ý nghĩa hoặc do nh ñộng
của họ. hội học của Weber nhấn mạnh tới
thuật ngữ tiếng ðức Verstehen (sự tng hiểu,
sự hiểu biết). ðó một nền xã hội học hiểu”
cảm thông”, nhằm ñặt nh o vị thế
người khác”, nắm bắt ñược những ñộng của
người ñó, những lựa chọn người ñó phải ñối
diện tiến nh quyết ñịnh trong những ñiều
kiện sẵn. Xã hội học Verstehen, nói một
ch kc, ñặt trng m vào những ý nghĩa
khác nhau của thế giới ñối với từng nhân
2
Thuyết hành ñộng xã hội: Max Weber (1864-1920), nhà
tưởng hội ðức, chịu ảnh hưởng của thông diễn học
(hermeneutics) ðức châu Âu nói chung: thông diễn
học một khoa học về s nhận thức diễn giải quan
ñiểm của một nền văn hóa khác..
con người. hội học “thấu hiểu của Weber
chính nền tảng cho ngành nhân học diễn giải
biểu trưng (interpretive anthropology) sau y.
Max Weber ñược xem là nhà hội học ñầu
tiên khởi ớng quan ñim nh ñộng hội.
Theo ông, ñi tượng ñích thực của hội học
hành ñộng hội. Ông cho rằng hội học
một khoa học cố gắng hiểu theo kiểu din
giải hành ñộng hội ñể bằng cách ñó ñạt tới
việc giải thích nhân quả về chuỗi nh ñộng
c ñộng của nó. Với Weber, nh ñộng xã hội
hành ñộng ý nghĩa ớng ñến cái ch
thể gán cho một ý nghĩa chủ quan. Ông cho
rằng việc giải tch hội học ñối với hành
ñộng phải bắt ñầu bằng vic quan sát lý giải
trạng thái tinh thần chủ quan. Trong khi các
nhà thực chứng luận nhấn mạnh ñến sự kiện
quan hệ nhân quả, tc nhà nh ñộng luận
nhấn mnh ñến sự thu hiểu. Vì không thể ñi
o bên trong ñời sống tinh thần của chủ thể
n nhà xã hội học phải phát hiện c ý nghĩa,
ñạt ñưc s thấu hiểu bằng phương pháp
giải, không thể bằng ño lường khách quan.
các ý nghĩa tờng xuyên ñưc dàn xếp
trong quá trình tương tác, n không thể thiết
lập ñưc c quan hệ nhân quñơn giản. Max
Weber thừa nhận sự tồn tại của các phạm trù
như giai cấp, ñảng phái, nhóm vị thế, quan lu.
Nhưng ông cho rằng tất cả những khái niệm tập
thể ñó ñều ñưc to n bởi những nhân
ñang thực hiện nh ñộng hi.
Max Weber còn cho rằng, việc tham gia
c hội ñoàn ñược xem n là những nấc
thang thăng tiến xã hội (Max Weber, 2008:
341) ông cũng ñưa ra sự kc biệt trong sự
Trang 59
tham gia các hội ñoàn n giáo giữa truyền
thống của nời ðc người Mỹ. Nếu như
người ðức tham gia các hội ñoàn chỉ thuần
túy theo phong tục, chỉ nhắm tới hợp thức
nhân hội của h (Max Weber, 2008:
341), thì M việc ñược gia nhp các câu lc
bộ nói trên tương ñương với việc ñược chiếc
trong xã hội và trước hết chứng nhận, tc
diễn ñàn vphẩm ch cá nhân, “là ñã chứng
minh ñược phẩm cách của nh(Max Weber,
2008: 341).
Max Weber cũng cho rằng xã hội học c
gắng din giải nh ñộng nhờ phương pháp
luận về kiểu loại lý tưởng. Ông thực nh
phương pháp này ñể y dựng một phân loại
học về hành ñộng xã hội gồm bốn kiểu: (1)
kiểu hành ñộng truyn thống ñược thực hiện
bởi vẫn ñượcm n thế từ a ñến nay;
(2) kiểu hành ñộng cảm tính bị dẫn dắt bởi cảm
xúc, (3) kiểu hành ñộng ớng tới các giá trị
ti hậu, (4) kiểu nh ñộng mục ñích hay n
gọi là kiểu hành ñộng mang tính ng cụ.
Diễn trình pơng pháp luận Weber
tiến hành gần n ñi lập, hay ñúng hơn là
khác hẳn quan nim Émile Durkheim ñã
trình bày ch ñó hơn 10 m trong quyển
Những Quy tắc của phương pháp hội học
(1895). Khi E.Durkheim cho rằng Chỉ thể
giải thích một hiện tượng xã hội này bằng một
hiện tưng hội khác”, do ñó cần tập trung
chú ý tới c “sự kiện hội” khách quan n
ngoài chứ kng cần quan m ñến ñộng hay
ý ñịnh chủ quan của nn (Max Weber,
2008:20), tMax Weber lại cho rằng: chúng ta
không thể nhận diệnc sự kiện hội như các
sự kiện vật lý. ðiều y vẫn tờng thy trong
c phân ch của những n cấu trúc chc
ng. c s kiện hội luôn luôn ñưc
hình tnh hay y dựng từ n trong bởi
những tác nhân hi. Cnh do sự tự y
dựng này các skiện xã hội hiện hữu mới
thxy ra. vậy, chúng ta cần hiểu ñưc
“ý nghĩa ni sinh” của nh ñộng hội (Max
Weber, 2008:20).
Trong một công tnh khác, Wirtschaft und
Gesellschaft (Kinh tế hội), M.Weber phát
biểu rõ rằng chỉ thể giải thích ñược cấu trúc
hội nếu hiểu ñưc giải tch ñược ch
ứng xử của c nn. Ông viết: (…) ñối với
việc giải nh ñộng theo ớng tng hiểu
b n hội học tiến hành, những cấu
trúc ấy chỉ là những kết quả những tập hợp
kết nối của những hành ñộng ñặc t của
những con nời cá th, bởi lcon nời y
tác nn duy nhất thhiểu ñược, của một
hành ñộng hướng tới ý nghĩa (Max Weber,
2008:21). Theo ớng này chúng ta thấy Max
Weber không hoàn tn tách ớng nghiên cứu
ra ngoài việc giải tch cấu trúc hội, mà
mối liên hệ với nhau. Cấu trúc vừa là tập
hợp kết qu ñặc thù của những thể, nng
cũng c nhân duy nhất thể hiểu nh
ñộng xã hội.
Trong ng tnh nghiên cứu kinh tế xã
hội của nh, ông ñã ñưa ra ñịnh nghĩa về c
loại nh quyn uy (authority) trong mối tương
quan giữa cấu trúc hội hành ñộng
nhân. Ông cho rằng quyền uy giống như
những hội ñưc ñiều khiển sự phục tùng của
những nhóm nời cụ thể. Quyền uy chính
Trang 60
thống th ñưc nhận diện giống n nh
hợp pp hợp của cả người cai trị kẻ bị
cai trị. Ông ñã nhận diện phân biệt ba loại
hình thống trị chính thống bao gồm: (1) Quyền
uy pháp - nh (Rational-legal authority) là
hình thức của quyền uy phụ thuộc o nh
chính pháp (legitimacy). Biểu hiện của quyn
uy y những nh thức cai trị chính thức
ñược thiết lập bởi hệ thống luật pháp của nhà
ớc, thưng ñưc quy ñịnh bng n
bản pháp luật rất phức tạp. Sc mạnh của
quyền uy pháp lý ñược quy ñịnh trong hiến
pháp. Các hội hiện ñại thì phụ thuộc o
quyền uy pháp lý. Bộ y chính quyn khắp
nơi trên toàn thế giới dtt nhất cho nh
thức y. (2) Quyền uy truyền thống
(Traditional authority) xuất phát từ những
phong tục tập quán, thói quen c cấu tc
hội kéo dài từ ñời y sang ñời kc. Khi
quyền uy ñược duy trì từ ñời này sang ñời khác
thì nó ñược biết ñến như quyn uy truyền
thống. Quyền cha truyn con ni (hereditary
monarchs) trong hội phong kiến một d
ràng về trường hợp y. (3) Quyền uy thiên
phú (Charismatic authority - hay ng thể
dịch là hấp lực) là loại quyn uy ñưc do
người ta khâm phục nh trọng sự thánh
thiện, sự anh ng, hay sự ơng mẫu ñối với
một người nào ñó. thôi thúc s tuân phc
của dân chúng ñối với người nắm giquyền uy
y bằng những giá trị mang ý nghĩa tinh thần.
Nói cách khác, quyền uy thiên p ñưc nhờ
hấp lực của nời lãnh ñạo ñối với n chúng
thông qua lòng ñạo ñc, tính anh ng của họ.
2. CỘNG ðỒNG NHÂN: HAI CẤP
ðỘ KHÔNG THỂ TÁCH RI
Cho ñến hiện nay, trong lịch sử triết học
khoa học hi ñã nh tnh c trưng phái
thuyết theo tiến trình song ñề, giữa quan
ñiểm cộng ñồng luận nhân luận. Thoạt
nhiên vẻ ntiến trình song ñề lý thuyết
hai nhánh quan ñiểm ñối lập nhau, nng với
ch tiếp cận trong nnh nhân học hiện ñại,
chúng tôi nghĩ rằng ch tiếp cận song ñề sẽ bổ
sung cho nhau những khiếm khuyết trong quá
trình lý giải hiện ợng hội. ðiều y hn
toàn phù hợp với xu hướng trong nghn cứu
khoa học hội hiện nay nghiên cứu cấu
hình hội. Những người chủ tơng nghiên
cứu về một thuyết cấu nh hội nhằm
ợt qua những tồn tại khuyết ñiểm của c lý
thuyết cấu trúc chức ng luận pơng
pháp luận nn trong nghiên cứu khoa học
hội (Elias 2001b:148). Từ cách nhìn nhận
y, theo thiển ý của chúng tôi, chúng ta ng
n sử dụng dần từ cấu nh thay cho t
cấu, hay cấu trúc, vốn bị ñịnh danh bị ñồ vật
hóa trong duy của những người theo phái
cấu trúc chức năng.
Khái niệm cấu hình (configuration) trong
bộ từ ñiển tiếng Việt nghĩa ñơn giản nh
tượng/nh dạng, nhưng khái nimy lại ñược
dùng ph biến trong ngành ng nghệ tng tin
nhằm nói ñến những sự chọn lựa ñược thực
hiện trong qtrình thiết lập một hệ y nh
hoặc một chương trình ứng dụng sao cho nó
phù hp với những yêu cầu của nời sử dụng.
Thông thường mỗi loại cấu hình s ñược vận
nh với hệ ñiều hành riêng ñòi hòi tính
Trang 61
tương thích của các phần tử trong hệ thống
ñược cài ñặt.
Trong khoa học hội, Norbert Elias
(1897-1990) người ñầu tiên ñề xuất việc sử
dụng khái niệm cấu nh hội (Social
configuration) trong công trình hội học
? xuất bản m 1970. Ông cho rằng thuật ngữ
y không bị nh ởng bởi nội dung ý
nghĩa của những kiểu mẫu trong khoa học t
nhiên vốn những kiểu mẫu ñược c nhà
khoa học hội vay n ñể y dựng n c
hình ñiều tra hội học, ñồng thời góp
phần củng cố bản chất luận ẩn trong cả hai khái
niệm nhân hội. Nói ñến khía cạnh này,
vẻ như ông ñang phê phán Durkheim về
ch nhìn ñồ vật hóa “sự kiện hi trong
Những qui tắc của phương pp hội học
(1895) cho rằng ñó là h quả của vic t
nhiên hóa hiện thực xã hội bắt nguồn từ vic
vật chất hóa các cấu trúc ngôn ngữ. Ông ñưa ra
dụ giống như khi chúng ta nói gió ñang
thổi, như thgió bị tách bit khỏi sthổi của
nó, như th một cơn gió có thể tồn tại mà
không cần thổi (Elias 1999:112). Những thói
quen diễn ngôn tư duy của chúng ta khiến
chúng ta coi những khái nim nhân
hội n những ñối tượng tách biệt
tĩnh”, hoặc cao nhất những ñối tượng của c
quá trình. Do vậy, tương tự với khuynh ớng
của c nkhoa học tự nhiên, chúng ta cũng
ch biệt nhân hội, như thnhân
thể tồn tại không cần hội, xã hội
không cần những nhân, dẫn tới những
cuộc tranh lun bất tận không hồi kết về vấn
ñề cá nhân hi.
Việc quy giản các tiến trình tnh những
trạng thái tĩnh gây khó hiểu về mạng lưới con
người trong s chuyển ñổi tng xuyên, dẫn
tới việc nhận thức về nhân hội như
những thc thể riêng biệt. Chính vậy, ông tin
rằng khái niệm cấu nh có ñủ khả năng giải
quyết những u thuẫn lâu ñời của bản thể học
nhân- hội, tác nncấu tc. nh
tượng thuật ngữ chung dùng ñ miêu tả
mạng ới ph thuộc ln nhau hình thành
giữa những con nời kết nối họ; thnói
rằng, một cu trúc những người ph
thuộc và ñịnh ớng lẫn nhau (Elias
1990:249). vậy, ông ñã cho rằng khái niệm
nhân ñ cập ñến những con người mối
liên hệ ph thuộc ln nhau; khái niệm hội
nói ñến những con nời mối liên hệ ph
thuộc lẫn nhau dạng s nhiều" (Elias
1999:136). Việc khắc phục những dạng phân
cực này sẽ tạo ñiều kiện ñể mọi nời nhn ra
bản thân mình một con người giữa những
người khác, và xã hội là một nh tượng y
dựng bởi số nhân có mối ln h phụ
thuộc ln nhau(Elias 2001b:149).
Như vậy, khái niệm cấu nh không th
ch rời khỏi các phạm trù sự phụ thuộc lẫn
nhau, chức năng, ỡng chế. c nhân
cũng như tập thể ph thuc vào nhau mỗi
người ñều ñáp ng một snhu cầu của những
người khác. ðồng thời, việc kiểm soát những
nguồn lực cho phép ñáp ng nhu cầu của người
khác tự thể hiện nh trong mối liên hệ với
quyền lực trong khả ng ỡng chế của
mỗi bên ln quan. Do vậy, một cấunh tồn tại
khi hai hay nhiều nhân hoặc nhóm người tạo
Trang 62
n một kiểu ln kết ñưc nuôi ng bởi sự
phụ thuộc của họ vào người khác, giúp h
th sử dụng một dạng ỡng chế qua lại nào
ñó trong một cấunh hội nhất ñịnh. Bởi nói
thực chất mạng ới những con người, nm
người phụ thuộc lẫn nhau cùng hành ñộng
hoặc ñối lập nhau theo một hướng xác ñịnh
(Elias 1990:249).
khía cạnh nào ñó, c ñặc trưng cấu nh
hi thể ñược xem nnhững cưng chế
những nguồn lực ñối vớic tác nn xã hội
- những cưỡng chế những nguồn lực y
thể khác biệt nhau tu theo các vị trí ơng ng
của c tác nhân y trong cấu trúc hội.
Nhưng mỗi hoàn cảnh xã hi cụ thể không ch
phụ thuộc o một hệ thống chuẩn mực, mà
thể nhiu hệ thống chuẩn mực, ñiều y cho
phép c c nhân xã hội thể chọn lựa y
theo hoàn cảnh (option) giữa các chuẩn mực
khác nhau. Nói ch khác, c tác nhân th
tự nh nh x với những ỡng chế
những nguồn lực cấu trúc khác nhau, trong
khuôn khổ một kng gian hành ñộng o ñó.
n nữa, mỗi tác nhân không chỉ thuộc về một
cấu trúc duy nhất, mỗi nời thường phải ñóng
nhiều vai trò kc nhau, ứng xử với nhiều tư
ch khác nhau (Lương Văn Hy, 2006 : 25).
Tuy nhiên, bản thân nh ñộng của c nhân
trong một cấu hình xã hi không ñơn giản chỉ
những thể thụ ñộng, bị phụ thuộc hoàn
toàn o những ỡng chế của cấu nh hội
n c ñộng ngưc trlại cu nh
hội ñó. Chẳng hạn như quá trình tái cấu trúc
cộng ñồng (restructuration) hay nói theo cách
khác nâng cấp cu nh hội. ðây một
quá trình sắp xếp lại các tnh phần cấu trúc
cộng ñồng cho phợp với ñiều kin thay ñổi
của hội, nhằm duy t tính ổn ñịnh phát
triển của chúng trong những ñiu kiện luôn
thay ñổi của hội, vốn do những ñòi hỏi thay
ñổi của những chủ th hành ñộng nhân trong
cộng ñồng hội. Thông tờng, c cuộc
ng cấp cu hình xã hội thưng diễn ra trong
c ñiều kiện khi c giá tr chun mực của
cấu nh hội hiện hành trnên lỗi thời ñi
với nhn thức ch thức hành xử của các
nhân trong cộng ñồng.
Như vậy, cấu hình hội thxem n
một cấu trúc hội ña hệ thống. ñó, mỗi
nhân hay các nhóm hội sẽ mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau, trầm ch o nhau trong
một tổng thể thống nhất của ñời sống hội.
ðặc biệt, mỗi cấunh hội ng biểu hiện s
tương thích với hệ tưởng văn hóa hay hệ
thống chuẩn mực nhất ñịnh.
Từ viễn ng y, chúng ta thể thấy
mỗi nhân sống trong một cộng ñồng xã hi
cụ th luôn ñưa ra những chiến ợc ng xử
phù hợp cho mục ñích của nh, tùy o hoàn
cảnh, ñiều kiện hội mình sinh sống. ñó,
người ta luôn luôn ñặt cho nh câu hỏi chúng
ta phải xử sự như thế o ñể p hợp với
những quy tc, chuẩn mực hội mình
ñang sống? Chúng ta thỏa hiệp, phục ng hay
chống lại những chuẩn mực của cộng ñồng?
Thậm chí cuộc sống xã hội một dòng chảy
không ngừng của c quyết ñịnh của bản thân
trong sự chồng chéo c mối quan hệ phc tạp
của cộng ñồng hội. Trong tất cả c tình
huốngy, nhân không hành ñộng trong i
Trang 63
trường chân không, c quyết ñịnh của mỗi
nhân luôn chịu s c ñộng hay nói ch
khác là chịu sự chi phối bởi c chiều ch cấu
trúc xã hội như gia ñình, dòng họ, tôn giáo, n
ớc.v.v. nhưng ngược lại chính mỗi nn
cũng p phần o to ra những thay ñổi trong
ñời sống hội. Nói theo cách của Peter
Berger: hi tm nhập o chúng ta, ñồng
thời bao trùm lấy chúng ta. Sự ràng buộc của
chúng ta vào hội ñược thiết lập không hẳn
bằng sự chinh phc, thông qua sự cu
kết... Chúng ta bị mắc o cái bẫy của cái bản
chất mang tính hi của chính chúng ta.
Những bức ờng của cái n tù giam hãm
chúng ta ñã sẵn ñấy trước khi chúng ta
xuất hiện trên sân khấu (cuộc ñời), nhưng
chúng ng ñưc chính chúng ta không ngừng
y dựng lại. Chúng ta bị phản bội bị cầm tù
bởi chính s hợp c của chúng ta”. (Peter L.
Berger, 1969: 141); (Trần Hữu Quang, 1996:4).
ơng tự quan ñiểm y, n hội học
người Mỹ, Talcott Parsons (1902-1979) cũng
ñã vay mượn quan ñiểm của Weber khi cho
rằng cốt lõi của mọi nh ñộng hội ý
nghĩa, do ñó ñể hiểu ñược hành ñộng phải hiểu
ñược ý nghĩa gắn với hành ñộng ñó. Mặt khác,
Parsons cũng chấp nhn quan ñiểm của
Durkheim rằng một trật tự ñạo ñức ñiều
khiển hội. Từ ñó, Parsons y dựng khái
niệm khung tham chiếu hành ñộng”
(voluntarism), theo nghĩa n những q
trình ra quyết ñịnh mang nh ch quan của chủ
thể, nng những quyết ñịnh này lại là kết quả
của những cấu trúc mang tính chuẩn mực cũng
như của tình huống. N vậy, với mục ñích cụ
thể hóa hơn lập luận của Max Weber, Parsons
Trang 64
cho rằng ñể hiểu nh ñộng, cần hiểu ñược bản
chất chủ quan của hành ñộng, tc hiểu ý
nghĩa của nó, nhưng ñồng thời phải tiến ñến
phân tích c mục tiêu phương tiện xung
quanh hành ñộng, những ñiu y nảy sinh
trong bối cảnh các giá trị chuẩn mực hình
thành một ch tập thể. ðây chính khung
tham chiếu nh ñộng, trong ñó s ñịnh
ớng mang tính chuẩn mc của con nời
ñịnh ng o các niềm tin, giá trị, chuẩn
mực. Như vậy, khi nói tới "cá nn" "cộng
ñồng", người ta tờng lầm tưởng rằng ñây là
hai bến bờ của skhác biệt, nhưng thực ra, ñấy
chỉ hai cấp ñ khác nhau nhưng không th
ch rời nhau trong q trình ñời sống xã hội.
3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN TƯƠNG TÁC
BIỂU TRƯNG
Khi nghiên cứu về cấu hình hội, ñc biệt
trong bối cảnh Việt Nam, vốn gắn liền với
nhiều yếu tn a, lch sử, chính trị, chúng
tôi nhận thấy cần giải vấn ñề y nhiều
góc ñ về mặt phương pháp luận. ðặc biệt,
chúng ta nên xem xét hai vấn ñề nhân
cộng ñồng nlà một tổng thể thống nhất với
hai cấp ñộ khác nhau. Chính vậy, về mặt
phương pháp luận, chúng ta thể lựa chọn
ch thức noi theo phương pháp luận nghiên
cứu ơng c biểu trưng (symbolic
interactionism) mà Clifford Geertz (1926-
2007)
3
một ñại diện tiêu biểu. Bởi Geertz lập
3
Nhân học giải diễn giải do Geertz khởi xướng nguồn
gốc từ hội học diễn giải của Weber. Nghiên cứu về nhân
học tôn giáo, ñặc biệt cuộc tranh luận giữa Geertz
Asad về nền tảng của tôn giáo ñược xem xét lại thông qua
sự tham khảo hội học n giáo của Weber (Charles F.
luận rằng n a kng phải là một nh
trong ñầu con nời, mà thể hiện trong những
biểu tượng hành ñộng công cộng. Ông ñã
kết hp ñược nhiều truyền thống tri thức trong
công trình của mình, bao gồm xã hội học Âu
châu, nhân học kiểu Boas, thậm chí cả sinh
thái học n a của Steward giai ñoạn ñầu
4
,
cũng khá rõ.
Trong s những nhà hội học Âu châu,
Geertz sử dụng những ý ởng của c
Durkheim lẫn Weber, n cạnh ñó Alfred
Schutz (1899-1959), một nhà hiện ợng học
hội ðức, nhấn mạnh lối tiếp cn din giải
ñối với nh ñộng. Nng nguồn ởng
mang nh quyết ñịnh trong c ng trình giai
ñoạn sau của Geertz là xuất phát t nhà triết
học Pháp Paul Ricoeur (1913-2005), người cho
rằng hi (hoặc văn hóa) thể ñưc diễn
giải như một văn bn, có thể sử dụng những
phương pháp diễn giải của chú giải học ñể din
giải n bản. Phương pháp này coi một n bản
Keyes, 2002:233 255). Một trong những ñại biểu của
trường phái nhân học biểu trưng là Clifford Geertz (1926-
2007). Ông ñược xem kiến trúc sư trưởng của nhân học
biểu trưng”, ông cũng ñược cho ñã chịu ảnh hưởng ít
nhiều tquan ñiểm hội học thấu hiểu của Max Weber.
Tuy nhiên, ông không chỉ kế thừa các quan ñiểm của Max
Weber mà còn kế thừa quan ñiểm của Durkheim, vốn ñược
xem quan ñiểm ñối lập với Weber. Geertz ñược ñào tạo
Harvard vào thời ñiểm mà Parsons (trong hội học)
Kluckhohn (trong nhân học), chai nằm trong Department
of Social Relations của Harvard (gồm hội học, nhân học
văn hóa, tâm học, do Parsons lập ra), cộng tác rất
khắng khít.
4
Sinh thái học văn hóa ñược thể hiện phần nào trong quyển
Agricultural Involution của Geertz, nhưng sau ñó thì ảnh
hưởng của trường phái này không còn rõ nét trong những
công trình của Geertz.
ñồng thời sự kết hp của những phần thể
một tổng th không chia cắt, diễn giải
một n bản cần sự di chuyn qua lại giữa
hai thái cực y. Geertz ñã ñưa ý tưởng y
o nhân học nhằm cố gắng xóa bỏ sự pn
biệt giữa pơng pháp luận nhân tập thể,
hội kng thể hiểu ñược nếu nkhông
nhìn nhận từ cả hai góc ñộ.
ðối với Geertz, c hiện ng hội cần
phải ñược ñọc”, không chỉ bởi c nhà nhân
học, bởi chính bản tn thành viên của xã
hội ñó. ðối lập với c n nhân học Anh, tp
trung o nhân như một người hành ñộng
(theo c chuẩn mực chiến ợc), Geertz ñề
ra cá nn nmột ñộc giả.
ðối lập với giñịnh của họ cho rằng hội
ñược cấu tnh một ch duy lý nhân
thể tham gia o ñó tng qua những nh
ñộng duy lý, Geertz cho rằng thế giới thường
không thể hiểu ñưc, rằng chủ thể phải diễn
giải một ch ch cực những người ñó thấy.
Ông xem biểu tượng phương tiện chuyển tải
ý nghĩa. Trong những ng trình giai ñoạn ñầu
của mình, Clifford Geertz thn trọng pn biệt
giữa hai kiểu “logic của sự thống nhất: 1)
hội, hoặc cấu trúc hội, ñược thống nhất một
ch chc ng-nhân quả”; 2) văn hóa, hoặc
miền biểu trưng, ñược thống nhất một ch ý
nghĩa logic”. Hai tiểu hệ thống này, theo
Geertz, là khp với “thỏa ưc” của những năm
1950, thể ñược nghiên cứu một ch ñộc lp
không liên quan ñến nhau (Tơng Huyn Chi,
2007).
Khi hiểu ý nghĩa của biểu ợng, Geertz
viết: Theo sau Max Weber, tin rằng con người
Trang 65
một ñộng vật treo trên một mạng ới những
ý nghĩa do cnh nh tự dt nên, tôi coi văn
hóa là những mạng lưới ñó, phân tích n
hóa, vậy, không phải một khoa học m
kiếm quy luật, mà một nnh diễn giải ñi tìm ý
nghĩa (Clifford Geertz, 1973:5). Muốn chỉ ra
ñược những ý nghĩa của biu ng, n nhân
học phải biết diễn giải ch hiểu của bản thân
mình ch hiểu của nhiều ch thể trong từng
ñiều kiện hội mà họ ñang sống. Một khía
cạnh o ñó, quan ñiểm của Geertz ñối lập với
cấu trúc luận của Claude vi-Strauss, Geertz
quan m ñến phân ch biểu trưng t quan
ñiểm của người nh ñộng. Ông tin rằng
phương pháp phân ch biểu tng phù hợp
tả chiều sâu” (thick description), tức là
nhà nn học pn loại những tư liệu n tộc
học của mình, tìm hiểu tập trung o nghiên
cứu n hóa, ñc biệt là biểu ợng văn a,
thay hội cấu trúc xã hi. ch rời n
hóa khỏi hội, hay nói một ch kc, họ
chịu ảnh hưởng của “thỏa ước” tạm thời về sự
phân công lao ñộng gia hội học nn
học, c nhà nhân học M theo ng biểu
trưng ñã tập trung o nghiên cứu văn hóa, ñc
biệt là những biểu tượng, ch rời khỏi cấu trúc
hội nghiên cứu n hóa nmột tổng thể
thống nhất ñộc lập
5
. Phần ln những nhà
nhân học biểu trưng tu nhận ñược ñều do q
trình tkiến tạo về những nn n hóa cụ th
hoặc sự kiện trong những nền văn hóa ñó. Kết
quả là, những tư liệu của hthu nhận ñược t
những cộng ñồng ñịa phương cụ thể không
cung cấp một nền tảng thuyết nào nhằm giúp
hiểu văn a như một hiện tượng ph biến. Các
nhà nhân học biểu trưng ít chỉ ra phương pháp
luận pơng pháp cụ thể ñểm hiểu ý nghĩa
của biểu tượng. Geertz cho rằng phân tích văn
hóa (hoặc cần là) ñoán ra ý nghĩa, ñánh giá
những sự phng ñoán ñó, ñưa ra những kết
luận giải thích từ những phỏng ñoán gần ñúng
hơn” (Clifford Geertz,1973:20).
m lại, nghiên cứu về những ñặc tng
của cấu trúc cộng ñồng chiến lược ng xử
của nhân, vốn bị ñịnh khung bởi song ñề lý
thuyết cộng ñồng luận nhân luận. Nhiều
công trình nghn cứu với những quan ñiểm ñi
lập nhau v nhận thc tư duy khoa học ñã
khiến cho những cuộc tranh luận lý thuyết kéo
dài nhiều năm trong giới học thuật khoa học
hội trên thế giới ng chừng như không hồi
kết. Tuy nhiên, việc phân ñịnh giữa song ñlý
thuyết y dường như chỉ h quả của vic
khoa học hội bị ảnh ởng bởi nội dung
ý nghĩa của những kiểu mẫu trong khoa học tự
nhiên. Thc tế, vấn ñế nhân hội hai
vấn ñề mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cộng
5
Trường phái nhân học biểu trưng ng nhận ñược sự phê
phán nhất ñịnh trong những thiếu sót của việc phân tích
biểu trưng chủ yếu mangnh tả không tạo ñiều
kiện cho những phát biểu mang tính phương pháp luận
thuyết. Cũng như những người theo F.Boas, các nhà
nhân học biểu trưng tuyên bố ñi tìm sphổ biến của nhận
thức loài người thông qua việc thu thập các liệu cụ thể
tại ñịa phương (Trương Huyền Chi, 2007). Những nhà
Trang 66
nhân học biểu trưng chưa bao giờ giải thích một cách c
thể phương pháp ñ “ñoán ra ý nghĩa” ñó như thế nào.
Những người pphán nhân học biểu trưng cho rằng ñây
chính khiếm khuyết bản: ñộ ñáng tin cậy của cách
diễn giải biểu trưng hoàn toàn dựa trên knăng giải thích
và sự thẩm thấu các hiện tượng quan sát của nhà nhân học.
ñồng xã hội thể xem bộ khung chứa ñựng
c giá trị chi phối hành ñộng nn, nhưng
ñồng thời những chiến lược ứng xử khác nhau
của các nhân ng ñóng vai trò quan trọng
không nh trong việc duy trì, củng cố hoặc
ñiều chỉnh thay ñổi chính các cấu trúc ấy.
Khi nói tới " nhân" "xã hội", người ta
thường lầm ng rằng ñây hai thực thể
riêng rẽ, làm như th chúng thể tồn tại biệt
lập nhau thc ra ñây là một tổng thvới hai
cấp ñộ không th tách rời. Chính vậy, về mặt
nhận thức, duy khoa học phương pháp
luận trong vic nghiên cứu c hiện ợng
hội, lẽ chúng ta không nên ñịnh khung ch
tiếp cận biệt lập “duy khách thể” hay duy ch
thể cần ch tiếp cận dung hòa hai cách
tiếp cận vừa mang ch nn của người trong
cuộc và tư duy khoa học của nnghiên cứu.
FROM COMMUNITY DIMENTION TO INDIVIDUAL DIMENTION THEORY
AND METHODOLOGY
Nguyen Duc Loc
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM
ABSTRACT: The paper focuses on the review of dilemma theory process, between public theory
and personal one. These two viewpoints are the focus of theoretical debate lasting many years in
academic community in the field of social science all over the world between the school of structuralism
and that of agency theory. The paper aims to describe theoretical and methodological issues in the
research of community and personal relationships. When it comes to the "individual" and "society",
people often mistakenly believe that these are two separate entities, as if they could exist independently
of each other, but in fact this is a whole with two inseparable levels. This suggests that in addition to the
provisions of social structures, different individual behavior strategies also play an important role in
the efforts to maintain, strengthen or adjust and change these structures.
Key words: community, individual, social structures, behavior strategies.
Trang 67
I LIỆU THAM KHẢO
[6]. Peter L. Berger, Invitation to Sociology, A
Humanistic Perspective, Harmondsworth,
Penguin Books (1969).
[7].
Nguyễn Từ Chi, Góp phần tìm hiểu lịch s
văn hóa Việt Nam, NXB KHXH, Nội,
(1996).
[8]. Trương Huyn Chi, Chuyên ñ thuyết
nhân học, Khoa nhân học,
ðH.KHXH&NV TP.HCM (2007).
[9]. Émile Durkheim, Các quy tắc của pơng
pháp hội học, ðinh Hồng Phúc dịch, lời
giới thiệu của Trần Hữu Quang, NXB Tri
Thức (2012).
[10]. Norbert Elias, Problems of Involvement
and Detachment, British Journal of
Sociology, London, 7:226-52 (1956).
[11]. Norbert Elias, O processo civilizador, Ruy
Jungmann dịch, Rio de Janeiro: Jorge
Zahar, v.1 (1990).
[12]. Norbert Elias, A sociedade dos indiduos,
Vera Ribeiro dịch, Rio de Janeiro: Jorge
Zahar (1994).
[13]. Norbert Elias, Introducción, ELIAS, N.;
DUNNING, Eric. Deporte y ocio en el
proceso de la civilización, Purificación
Jiménez dịch, México: Fondo de Cultura
Económica [31-81] (1995).
[14]. Norbert Elias, Introdução à sociologia,
Maria Luísa Ribeiro Ferreira dịch, Lisboa:
Edições 70 (1999).
[15]. Norbert Elias, A sociedade de corte:
investigação sobre a sociologia da realeza
Trang 68
e da aristocracia de corte, Pedro
Süssekind dịch, Rio de Janeiro: Jorge
Zahar (2001a).
[16]. Norbert Elias, Norbert Elias por ele
mesmo, André Telles dịch. Rio de Janeiro:
Jorge Zahar (2001b).
[17]. Clifford Geertz, Thick Description:
Toward an Interpretative Theory of
Culture, The Interpretation of Cultures,
New York: Basic Books, Inc. Publisher
(1973).
[18]. Gluckman, The judicial process among the
Barotse of Northern Rhodesia, Berg
Publishing Ltd (1954).
[19]. Duy Hợp, ơng Hồng Quang, Phát
triển cộng ñồng thuyết thực tiễn,
NXB VHTT, Ni (2000).
[20]. ơng V. Hy, hội, Văn a phát
triển con người trong thời kỳ ñổi mới, Hội
thảo Hai ơi năm ðổi mới tại Việt Nam
do UNDP Viện Khoa học hội Việt
Nam tchức (2006).
[21]. Charles F Keyes, Weber and
Anthropology, Annual Review of
Anthropology, s 3, 233 255 (2002).
[22]. Robert Layton (bản dịch tiếng Việt), Nhập
n thuyết nhân học, NXB ðHQG
TP.HCM (2007).
[23]. Phan Huy Lê, Minh Giang, Các giá trị
truyền thống con người Việt Nam hiện
nay, T2, ðề tài KX 07 - 02. H (1996).
[24]. Nguyn ðc Lộc, Cấu trúc cộng ñng
ng giáo di năm 1954 tại Nam bộ
(nghiên cứu trường hợp Hố Nai ðồng
Nai Cái Sắn Cần Thơ, Luận án tiến sĩ,
Trường ðH KHXH & NV ðHQG-HCM
(2008).
[25]. Trần Hữu Quang, Mối quan h giữa con
người với xã hội theo Peter L. Berger, Hà
Nội (1996).
[26]. Tânia Quintaneiro, The concept of
figuration or configuration in Norbert
Elias’ sociological theory, Teor. soc.vol.2
no.se Belo Horizonte (2006).
[27]. Ferdinand nnies, Community and
Society (Gemeinschaft und Gesellschaft),
trans. and ed. C.P. Loomis (first published
in 1887) New York (1963).
[28]. Max Weber, Nền ñạo ñức Tin nh tinh
thần của ch nga bản (Die
protestantische Ethik und der Geist des
Kapitalismus), Bùi n Nam Sơn, Nguyn
Nghị, Nguyễn Tùng Trần Hữu Quang
dịch, Lời giới thiệu” của Trần Hữu
Quang Bùi n Nam Sơn, Nội,
NXB Tri thức (2008).
Trang 69

Preview text:


TỪ KÍCH THƯỚC CỘNG ðỒNG ðẾN KÍCH THƯỚC CÁ NHÂN NHỮNG VẤN ðỀ
LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN Nguyễn ðức Lộc
Trường ðại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, ðHQG-HCM
TÓM TẮT: Bài viết tập trung ñiểm luận tiến trình song ñề lý thuyết, giữa quan ñiểm cộng ñồng
luận và cá nhân luận. Hai quan ñiểm này cũng là tiêu ñiểm của các cuộc tranh luận lý thuyết từng kéo
dài nhiều năm trong giới học thuật khoa học xã hội trên thế giới giữa phái cấu trúc luận và phái tác
nhân luận (structure/agency). Thông qua bài viết này, chúng tôi hướng tới một vấn ñề lý thuyết và
phương pháp luận trong nghiên cứu mối quan hệ cá nhân và cộng ñồng. Khi nói tới "cá nhân" và "xã
hội", người ta thường lầm tưởng rằng ñây là hai thực thể riêng rẽ, làm như thể chúng có thể tồn tại biệt
lập nhau mà thực ra ñây là một tổng thể với hai cấp ñộ không thể tách rời. ðiều này cho thấy rằng bên
cạnh tính quy ñịnh của các cấu trúc xã hội, các chiến lược ứng xử khác nhau của các cá nhân cũng
ñóng vai trò quan trọng không nhỏ trong việc duy trì, củng cố hoặc ñiều chỉnh và thay ñổi chính các cấu trúc ấy.
Từ khóa: cộng ñồng, cá nhân, cấu hình xã hội, chiến lược ứng xử.
như một hạt cát trong hàng ngàn hạt cát của
Cộng ñồng và cá nhân, có lẽ ñây là hai vấn
một tổng thể của ñời sống xã hội. Trong khi ñó,
ñề khá gần gũi, thiết thực trong ñời sống xã hội
những người theo phái tác nhân luận (agency)
của chúng ta. Bởi có ai sống mà không có mối
ñã phê phán kịch liệt lối diễn giải ñậm chất cơ
liên hệ với các tập thể xã hội như gia ñình,
học như trên, ñồng thời họ cũng hướng tới nhìn
dòng họ, nhà nước.v.v. ðó là hai vấn ñề tương
nhận vấn ñề cá nhân với vai trò chủ thể sáng
tác qua lại giữa tính cá nhân và tính tập thể xã
tạo trong ñời sống xã hội. Và kể từ ñó nhiều
hội. Tuy nhiên, từ lâu trong giới khoa học xã
tranh luận trong giới khoa học xã hội thế giới
hội thế giới lại luôn tồn tại cuộc tranh luận lý
ñã luôn diễn ra cho ñến tận ngày nay. Chẳng
thuyết giữa phái cấu trúc luận và phái tác nhân
hạn như Émile Durkheim (1858 - 1917), xem
luận (structure/agency). Phái chức năng – cấu
các “sự kiện xã hội” (Social facts) quy ñịnh
trúc vốn xem các thành phần cấu thành cộng
hành ñộng xã hội và ñoàn kết các cá nhân ñể
ñồng có vai trò quan trọng trong việc chi phối
tạo ra trật tự xã hội. Khi nghiên cứu xã hội,
hành vi cá nhân (Émile Durkheim, 1895) hay
Durkheim muốn biện minh cho sự cần thiết của
nói cách khác, cộng ñồng chính là bộ khung
“trật tự xã hội”. Nhưng, dường như Durkheim
chứa ñựng những giá trị sống của những cá
ñã ñặt xã hội nói chung, cơ cấu xã hội nói riêng
nhân (Nguyễn ðức Lộc, 2010). Ở ñó, mỗi cá
ñối lập với con người. Trong khi ñó, Weber
nhân chỉ ñược xem là một ñơn vị nào ñó giống Trang 55
không quan tâm ñến hệ thống xã hội như một
giáo – tín ngưỡng, phong tục tập quán, cách
tổng thể (khác với Durkheim và Marx), mà ñề
giao tiếp ứng xử, khả năng chinh phục thiên
cao trọng tâm nghiên cứu những ñộng cơ của
nhiên, khả năng sáng tạo nghệ thuật, tính cách
hành ñộng của cá nhân, những ý nghĩa hoặc lý
tâm lý của cư dân trong cộng ñồng”. (Lương
do hành ñộng của họ. ðây có thể xem là một Hồng Quang, 1997:18).
quá trình hình thành các trường phái lý thuyết
Trong khi ñó, cộng ñồng theo quan niệm
khá phức tạp trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Marxist là: “Mối liên hệ qua lại giữa các cá
Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng
nhân, ñược quyết ñịnh bởi các lợi ích chung
tôi chỉ xem xét một vài góc ñộ lý thuyết cấu
của các thành viên có sự giống nhau về các
trúc - chức năng và hành ñộng xã hội, vốn ñại
ñiều kiện tồn tại và hoạt ñộng của những con
diện cho những trường phái cộng ñồng luận và
người hợp thành cộng ñồng ñó, bao gồm các
cá nhân luận nêu trên.Từ ñó, chúng tôi cũng
hoạt ñộng sản xuất vật chất và các hoạt ñộng
xin ñề xướng một vài gợi ý về vấn ñề lý thuyết
khác của họ, sự gần gũi giữa họ về tư tưởng, tín
và phương pháp luận trong nghiên cứu mối
ngưỡng, hệ giá trị và chuẩn mực, nền sản xuất,
quan hệ cá nhân và xã hội.
sự tương ñồng về ñiều kiện sống cũng như các
quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và
1. CỘNG ðỒNG VÀ CÁ NHÂN – BẾN BỜ
phương tiện hoạt ñộng” (Viện Thông tin khoa
CỦA SỰ KHÁC BIỆT
học xã hội, 1990: 19). Tất cả các hình thức tự
Trong ñời sống xã hội, khái niệm cộng
tổ chức mà chúng ta ñã biết của con người ñều
ñồng ñược sử dụng một cách tương ñối rộng
là các kiểu cộng ñồng, chỉ khác nhau ở phạm vi
rãi, ñể chỉ nhiều ñối tượng có những ñặc ñiểm
không gian-thời gian và nội dung các lợi ích
tương ñối khác nhau về quy mô, ñặc tính xã
liên kết chung. ðó là các hình thức tổ chức gia
hội. Danh từ cộng ñồng ñược sử dụng cho các
ñình, cộng ñồng dân cư, các cộng ñồng ñược
ñơn vị xã hội cơ bản là gia ñình, làng-xã, hay
xếp theo thứ hạng xã hội, theo nghề nghiệp, tộc
một nhóm xã hội nào ñó có những ñặc tính xã
người, theo lãnh thổ quốc gia và cuối cùng, loài
hội chung về tâm thức và lý tưởng xã hội, hay
người nói chung. Còn theo Ferdinand Tönnies,
về lứa tuổi, giới, hay về nghề nghiệp, về thân
cộng ñồng có các ñặc trưng sau: “Thứ nhất,
phận xã hội. Chính vì vậy, khái niệm cộng
những quan hệ xã hội nào mang tính chất tinh
ñồng ñược hiểu dưới nhiều chiều kích khác
thần, thân thiện, mang ñộ cố kết có ý nghĩa tự
nhau như: cộng ñồng, tập thể, nhóm …và ở
nhiên thì ñấy là tính cộng ñồng. Thứ hai là tính
Việt Nam khái niệm ñược sử dụng khá phổ
bền vững. Tính cộng ñồng ñược khẳng ñịnh
biến là làng-xã, thôn, ấp… cũng ñược xem như
theo dòng chảy của lịch sử. Thời gian có một
loại hình cộng ñồng. Theo Lương Hồng Quang,
vai trò là yếu tố kết dính các thành viên trong
nghiên cứu về cộng ñồng là “nghiên cứu các
cộng ñồng. Thứ ba là tính cộng ñồng khi ñược
ñặc trưng văn hóa biểu thị qua các mặt: tôn
xét từ quan ñiểm ñánh giá và vị thế xã hội của Trang 56
các thành viên xã hội thì ñó là vị thế xã hội
lịch sử phát triển, như mức bình quân ruộng ñất
ñược gán sẵn nhiều hơn là vị thế phấn ñấu mà
theo ñầu người thấp, ñã hạn chế nhiều khả năng
có ñược. Cuối cùng, tính cộng ñồng lấy quan
phá vỡ tính tự cấp tự túc. Nhà dân tộc học
hệ dòng họ là quan niệm cơ bản và mang cả
Nguyễn Từ Chi là người ñầu tiên cố gắng hệ
hai ñặc trưng: dòng họ là huyết thống và dòng
thống hóa một cách ñầy ñủ về cơ cấu tổ chức
họ trở thành khuôn mẫu văn hóa của sinh hoạt
xã hội làng Việt. Theo ông, tổng thể cơ cấu xã
cộng ñồng” (Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang
hội ở làng-xã cổ truyền ñược tạo thành bởi năm , 2000: 13).
hình thức tập hợp người như sau: (1) Tập hợp
Ở Việt Nam, làng-xã ñược xem là một
người theo ñịa vực; (2) Tập hợp người theo
dạng cộng ñồng gắn liền với ñơn vị cư trú huyết thống - họ tộc;
truyền thống của người Việt. Chính vì vậy,
(3) Tập hợp người theo lớp tuổi; (4) Tập hợp
làng-xã cũng ñược xem là ñối tượng nghiên
người trong bộ máy chính quyền ở cấp xã; (5)
cứu của nhiều ngành như sử học, dân tộc học,
Tập hợp người trong những tổ chức dựa trên
nhân học …Theo Phan Huy Lê, làng Việt là
lòng tự nguyện tham gia của từng cá nhân -
cộng ñồng tụ cư của những người tiểu nông
phe, hội, phường. (Trần Từ,1984).
trồng lúa nước kết hợp với một số nghề thủ
Trong khi ñó, Tô Duy Hợp, Lương Hồng
công và buôn bán nhỏ dựa trên mô hình công
Quang trong công trình Phát triển cộng ñồng lý
xã nông thôn dần dần phong kiến hóa (Phan
thuyết và thực tiễn, cho rằng cần phải phân tích
Huy Lê - Vũ Minh Giang, 1996:143). Làng-xã
trên một chiều kích khác về cộng ñồng, ñó là
của người Việt thoát thai từ công xã nông thôn,
chỉ ra các thành phần tạo lập nên một cộng
dựa trên hình thái tổ chức xã hội này mà hình
ñồng. (Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang,
thành nên làng-xã. ðiều này có nghĩa là sự ra
2000). Theo hai tác giả này, những cuộc nghiên
ñời của nó không theo kiểu phủ ñịnh công xã
cứu tại khắp nơi trên thế giới cho thấy có một
nông thôn. Nền tảng kinh tế của làng-xã là
số yếu tố chính của cộng ñồng là ñịa vực, yếu
nghề trồng lúa nước với những người sử dụng
tố kinh tế hay nghề nghiệp, và cuối cùng là các
tư liệu sản xuất thường ở qui mô rất nhỏ. Nghề
yếu tố có tính văn hoá. Những yếu tố này tạo ra
trồng lúa là cơ sở kinh tế của sự tồn tại làng-xã
sự cố kết cộng ñồng từ những ñặc ñiểm chung,
nhưng sau này, do sức ép dân số mà diện tích
mà các thành viên có thể chia sẻ với nhau.
ruộng ñất bình quân trên ñầu người giảm, xu
Có vẻ như, lâu nay khi nghiên cứu về cộng
hướng kết hợp nghề nông với các nghề tiểu thủ
ñồng, làng-xã, các nhà nghiên cứu thường ñứng
công và buôn bán nhỏ là phổ biến ở bình diện
trên quan ñiểm cấu trúc-chức năng luận của
hộ-cộng ñồng. Khi xã hội phát triển theo xu
Radcliffe Brown1, với quan ñiểm: “một tình
hướng thương mại hóa, tính tự cấp tự túc dần
dần không trở thành một ñặc tính cố hữu của
1 ðại diện cho trường phái cấu trúc-chức năng luận xuất
làng xã, song do những lý do về mặt kinh tế và
hiện vào nửa ñầu thế kỷ 20 là Radcliffe Brown (1881-
1955). Ông quan tâm ñến chức năng văn hóa theo hướng Trang 57
trạng trong ñó tất cả mọi thành phần của một
yếu là Radcliffe-Brown nghiên cứu những dạng
hệ thống xã hội cùng làm việc với nhau ở một
thức ñều ñặn (regularities) trong hành ñộng xã
mức ñộ hài hòa hoặc thống nhất nội bộ (ñể tiếp
hội, cái mà ông cho là biểu hiện của cấu trúc xã
tục tồn tại như một hệ thống), tức là không tạo
hội ñược tạo thành bởi những mạng lưới và các
ra những xung ñột kéo dài mà không giải quyết
nhóm. Trong khi ñó, Lévi-Strauss xác ñịnh vị
hoặc ñiều chỉnh ñược” (Robert Layton, 1997:
trí cấu trúc ở tư tưởng con người, và xem sự
37). Mục ñích của Radcliffe Brown là không
giao tiếp xã hội như là biểu hiện ngoại tại của
giải thích sự ña dạng của xã hội loài người mà
các cấu trúc nhận thức này. Lý thuyết cấu trúc
là khám phá những quy luật của hành vi xã hội.
xem cấu trúc của xã hội là sản phẩm của ý
Bằng cách quan sát trong những loại xã hội
tưởng thay vì của những ñiều kiện vật chất của
nhất ñịnh, người ta sẽ tìm thấy có một số quan
tồn tại xã hội. Những người tham gia vào một
hệ xã hội ñặc trưng nào ñó. Theo ông, không
hệ thống, cần phải ý thức về những hậu quả cấu
phải mọi tập tục ñều nhất thiết cần có một chức
trúc của nó ñến mức ñộ nào.
năng tích cực và một số hệ thống xã hội này có
Hiện nay, cũng có ý kiến cho rằng
thể cao hơn những hệ thống xã hội khác do
cách tiếp cận dưới góc ñộ cấu trúc –chức năng
mức ñộ tích hợp (integration) của nó. Radcliffe
luận ñã trở nên lạc hậu vì nhìn nhận các hiện
Brown nhận ñịnh rằng, trong khi cơ cấu của
tượng xã hội ở trạng thái tĩnh và không cho
một cơ thể ñộng vật hiển thị một cách trực tiếp,
thấy sự biến ñổi xã hội. Tuy vậy, chúng tôi
thì cơ cấu xã hội lại không thể nhìn thấy trực
nhận thấy rằng cấu trúc - chức năng luận ñóng
tiếp ñược, mà phải suy luận ra từ việc quan sát
vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu quá
những ñiều lặp ñi lặp lại trong các hành ñộng
trình tái sản xuất xã hội, và suy cho cùng góp
của những người tham dự. Ông thừa nhận rằng,
phần vào việc tìm hiểu quá trình củng cố sự cố
trong một hệ thống xã hội, một tập tục hay thể
kết xã hội của các cộng ñồng ñịa phương:
chế có thể ñược thay thế bởi một cái khác mà
chúng tạo ñiều kiện duy trì sự liên kết xã hội
không bị tan vỡ chính hệ thống xã hội. Các xã
(Gluckman, 1954). Từ ñây, chúng tôi quan
hội có thể thay ñổi theo cách mà các cơ thể
niệm, cấu trúc xã hội không hẳn là một bộ
ñộng vật thường không thay ñổi ñược. Quan
khung cơ học, không vận ñộng mà là bộ khung
ñiểm lý thuyết này chịu ảnh hưởng những lý
chứa ñựng những giá trị, quan niệm ñể cá nhân
thuyết của E.Durkheim. ðiều khác biệt chính
hấp thụ các giá trị sống, qua ñó xây dựng cho
mình những chiến lược ứng xử trong các mối
cấu trúc. Ông dựa trên quan ñiểm của Durkheim khi cho
rằng xã hội là một thực thể ñặc biệt không ñồng nhất với cá
quan hệ xã hội giữa cá nhân với những người
thể. Bất kỳ một hệ thống nào cũng ñược xác ñịnh bằng các
xung quanh. Nói một cách khác, muốn hiểu
ñơn vị (yếu tố) cấu thành nó và các quan hệ giữa chúng. Do
ñược ý nghĩa và quá trình vận ñộng của cấu
vậy, chức năng của một tập tục là sự ñóng góp của nó vào
trúc xã hội, chúng ta cần hiểu ñược ý nghĩa
ñời sống liên tục của “cơ thể xã hội”.
hành ñộng của cá nhân với vai trò chủ thể của Trang 58
xã hội. Chính vì vậy, sự phân tích cấu trúc
con người. Xã hội học “thấu hiểu” của Weber
(structural analysis) cũng cần ñược bổ sung
chính là nền tảng cho ngành nhân học diễn giải
bởi một sự phân tích chiến lược (strategical
biểu trưng (interpretive anthropology) sau này.
analysis) của các cá nhân. ðồng thời, các lối
Max Weber ñược xem là nhà xã hội học ñầu
ứng xử của dân chúng cũng cần ñược nhìn
tiên khởi xướng quan ñiểm hành ñộng xã hội.
nhận và diễn giải dưới góc ñộ hậu cảnh kinh tế,
Theo ông, ñối tượng ñích thực của xã hội học
xã hội của các hành vi ứng xử.
là hành ñộng xã hội. Ông cho rằng xã hội học
Khác với tư duy của những người theo
là một khoa học cố gắng hiểu theo kiểu diễn
trường phái cấu trúc – chức năng luận, những
giải hành ñộng xã hội ñể bằng cách ñó ñạt tới
người có khuynh hướng theo cá nhân luận thì
việc giải thích nhân quả về chuỗi hành ñộng và
cho rằng mọi hành vi chúng ta quan sát ñược
tác ñộng của nó. Với Weber, hành ñộng xã hội
chỉ là hình thức bề ngoài của một quá trình tư
là hành ñộng có ý nghĩa hướng ñến cái mà chủ
duy cá nhân, ẩn chứa “tảng băng chìm” ñộng
thể gán cho một ý nghĩa chủ quan. Ông cho
cơ hành ñộng của chủ thể trong các thiết chế xã
rằng việc giải thích xã hội học ñối với hành
hội mà họ ñang sống. Thuyết hành ñộng xã hội
ñộng phải bắt ñầu bằng việc quan sát và lý giải
của Max Weber2 ñã không quan tâm ñến hệ
trạng thái tinh thần chủ quan. Trong khi các
thống xã hội như một tổng thể (khác với
nhà thực chứng luận nhấn mạnh ñến sự kiện và
Durkheim và Marx), mà ñề cao trọng tâm
quan hệ nhân quả, thì các nhà hành ñộng luận
nghiên cứu những ñộng cơ của hành ñộng của
nhấn mạnh ñến sự thấu hiểu. Vì không thể ñi
cá nhân, những ý nghĩa hoặc lý do hành ñộng
vào bên trong ñời sống tinh thần của chủ thể
của họ. Xã hội học của Weber nhấn mạnh tới
nên nhà xã hội học phải phát hiện các ý nghĩa,
thuật ngữ tiếng ðức Verstehen (sự thông hiểu,
ñạt ñược sự thấu hiểu bằng phương pháp lý
sự hiểu biết). ðó là một nền xã hội học “hiểu”
giải, mà không thể bằng ño lường khách quan.
và “cảm thông”, nhằm “ñặt mình vào vị thế
Vì các ý nghĩa thường xuyên ñược dàn xếp
người khác”, nắm bắt ñược những ñộng cơ của
trong quá trình tương tác, nên không thể thiết
người ñó, những lựa chọn người ñó phải ñối
lập ñược các quan hệ nhân quả ñơn giản. Max
diện và tiến hành quyết ñịnh trong những ñiều
Weber thừa nhận sự tồn tại của các phạm trù
kiện có sẵn. Xã hội học Verstehen, nói một
như giai cấp, ñảng phái, nhóm vị thế, quan liêu.
cách khác, ñặt trọng tâm vào những ý nghĩa
Nhưng ông cho rằng tất cả những khái niệm tập
khác nhau của thế giới ñối với từng cá nhân
thể ñó ñều ñược tạo nên bởi những cá nhân
ñang thực hiện hành ñộng xã hội.
2 Thuyết hành ñộng xã hội: Max Weber (1864-1920), nhà
Max Weber còn cho rằng, việc tham gia
tư tưởng xã hội ðức, chịu ảnh hưởng của thông diễn học
các hội ñoàn ñược xem như là “những nấc
(hermeneutics) ở ðức và châu Âu nói chung: thông diễn
học là một khoa học về sự nhận thức và diễn giải quan
thang thăng tiến xã hội” (Max Weber, 2008:
ñiểm của một nền văn hóa khác..
341) và ông cũng ñưa ra sự khác biệt trong sự Trang 59
tham gia các hội ñoàn tôn giáo giữa truyền
sự kiện vật lý. ðiều này vẫn thường thấy trong
thống của người ðức và người Mỹ. Nếu như
các phân tích của những nhà cấu trúc – chức
người ðức tham gia các hội ñoàn “chỉ thuần
năng. Vì các sự kiện xã hội luôn luôn ñược
túy theo phong tục, chỉ nhắm tới hợp thức cá
hình thành hay xây dựng từ bên trong bởi
nhân và xã hội của họ” (Max Weber, 2008:
những tác nhân xã hội. Chính do sự tự xây
341), thì ở Mỹ “việc ñược gia nhập các câu lạc
dựng này mà các sự kiện xã hội hiện hữu mới
bộ nói trên tương ñương với việc có ñược chiếc
có thể xảy ra. Vì vậy, chúng ta cần hiểu ñược
vé trong xã hội và trước hết chứng nhận, trước
“ý nghĩa nội sinh” của hành ñộng xã hội (Max
diễn ñàn về phẩm cách cá nhân, “là ñã chứng Weber, 2008:20).
minh ñược phẩm cách của mình” (Max Weber,
Trong một công trình khác, Wirtschaft und 2008: 341).
Gesellschaft (Kinh tế và xã hội), M.Weber phát
Max Weber cũng cho rằng xã hội học cố
biểu rõ rằng chỉ có thể giải thích ñược cấu trúc
gắng diễn giải hành ñộng nhờ phương pháp
xã hội nếu hiểu ñược và giải thích ñược cách
luận về kiểu loại lý tưởng. Ông thực hành
ứng xử của các cá nhân. Ông viết: “(…) ñối với
phương pháp này ñể xây dựng một phân loại
việc lý giải hành ñộng theo hướng thông hiểu
học về hành ñộng xã hội gồm bốn kiểu: (1)
mà bộ môn xã hội học tiến hành, những cấu
kiểu hành ñộng truyền thống ñược thực hiện
trúc ấy chỉ là những kết quả và những tập hợp
bởi vì nó vẫn ñược làm như thế từ xưa ñến nay;
kết nối của những hành ñộng ñặc thù của
(2) kiểu hành ñộng cảm tính bị dẫn dắt bởi cảm
những con người cá thể, bởi lẽ con người này
xúc, (3) kiểu hành ñộng hướng tới các giá trị
là tác nhân duy nhất có thể hiểu ñược, của một
tối hậu, (4) kiểu hành ñộng mục ñích hay còn
hành ñộng hướng tới ý nghĩa” (Max Weber,
gọi là kiểu hành ñộng mang tính công cụ.
2008:21). Theo hướng này chúng ta thấy Max
Diễn trình phương pháp luận mà Weber
Weber không hoàn toàn tách hướng nghiên cứu
tiến hành gần như ñối lập, hay ñúng hơn là
ra ngoài việc giải thích cấu trúc xã hội, mà nó
khác hẳn quan niệm mà Émile Durkheim ñã
có mối liên hệ với nhau. Cấu trúc vừa là tập
trình bày cách ñó hơn 10 năm trong quyển
hợp kết quả ñặc thù của những cá thể, nhưng
Những Quy tắc của phương pháp xã hội học
cũng là tác nhân duy nhất có thể hiểu hành
(1895). Khi E.Durkheim cho rằng “Chỉ có thể ñộng xã hội.
giải thích một hiện tượng xã hội này bằng một
Trong công trình nghiên cứu kinh tế và xã
hiện tượng xã hội khác”, và do ñó cần tập trung
hội của mình, ông ñã ñưa ra ñịnh nghĩa về các
chú ý tới các “sự kiện xã hội” khách quan bên
loại hình quyền uy (authority) trong mối tương
ngoài chứ không cần quan tâm ñến ñộng cơ hay
quan giữa cấu trúc xã hội và hành ñộng cá
ý ñịnh chủ quan của cá nhân (Max Weber,
nhân. Ông cho rằng quyền uy giống như là
2008:20), thì Max Weber lại cho rằng: chúng ta
những cơ hội ñược ñiều khiển sự phục tùng của
không thể nhận diện các sự kiện xã hội như các
những nhóm người cụ thể. Quyền uy chính Trang 60
thống là thứ ñược nhận diện giống như tính
2. CỘNG ðỒNG VÀ CÁ NHÂN: HAI CẤP
hợp pháp và hợp lý của cả người cai trị và kẻ bị
ðỘ KHÔNG THỂ TÁCH RỜI
cai trị. Ông ñã nhận diện và phân biệt ba loại
Cho ñến hiện nay, trong lịch sử triết học và
hình thống trị chính thống bao gồm: (1) Quyền
khoa học xã hội ñã hình thành các trường phái
uy pháp lý - lý tính (Rational-legal authority) là
lý thuyết theo tiến trình song ñề, giữa quan
hình thức của quyền uy phụ thuộc vào tính
ñiểm cộng ñồng luận cá nhân luận. Thoạt
chính pháp (legitimacy). Biểu hiện của quyền
nhiên có vẻ như tiến trình song ñề lý thuyết là
uy này là những hình thức cai trị chính thức và
hai nhánh quan ñiểm ñối lập nhau, nhưng với
ñược thiết lập bởi hệ thống luật pháp của nhà
cách tiếp cận trong ngành nhân học hiện ñại,
nước, và nó thường ñược quy ñịnh bằng văn
chúng tôi nghĩ rằng cách tiếp cận song ñề sẽ bổ
bản pháp luật và rất phức tạp. Sức mạnh của
sung cho nhau những khiếm khuyết trong quá
quyền uy pháp lý ñược quy ñịnh trong hiến
trình lý giải hiện tượng xã hội. ðiều này hoàn
pháp. Các xã hội hiện ñại thì phụ thuộc vào
toàn phù hợp với xu hướng trong nghiên cứu
quyền uy pháp lý. Bộ máy chính quyền khắp
khoa học xã hội hiện nay là nghiên cứu cấu
nơi trên toàn thế giới là ví dụ tốt nhất cho hình
hình xã hội. Những người chủ trương nghiên
thức này. (2) Quyền uy truyền thống
cứu về một lý thuyết cấu hình xã hội nhằm
(Traditional authority) xuất phát từ những
vượt qua những tồn tại khuyết ñiểm của các lý
phong tục tập quán, thói quen và các cấu trúc
thuyết cấu trúc – chức năng luận và phương
xã hội kéo dài từ ñời này sang ñời khác. Khi
pháp luận cá nhân trong nghiên cứu khoa học
quyền uy ñược duy trì từ ñời này sang ñời khác
xã hội (Elias 2001b:148). Từ cách nhìn nhận
thì nó ñược biết ñến như là quyền uy truyền
này, theo thiển ý của chúng tôi, chúng ta cũng
thống. Quyền cha truyền con nối (hereditary
nên sử dụng dần từ cấu hình thay cho từ
monarchs) trong xã hội phong kiến là một ví dụ
cấu, hay cấu trúc, vốn bị ñịnh danh và bị ñồ vật
rõ ràng về trường hợp này. (3) Quyền uy thiên
hóa trong tư duy của những người theo phái
phú (Charismatic authority - hay cũng có thể cấu trúc – chức năng.
dịch là hấp lực) là loại quyền uy có ñược do
Khái niệm cấu hình (configuration) trong
người ta khâm phục và kính trọng sự thánh
bộ từ ñiển tiếng Việt có nghĩa ñơn giản là hình
thiện, sự anh hùng, hay sự gương mẫu ñối với
tượng/hình dạng, nhưng khái niệm này lại ñược
một người nào ñó. Nó thôi thúc sự tuân phục
dùng phổ biến trong ngành công nghệ thông tin
của dân chúng ñối với người nắm giữ quyền uy
nhằm nói ñến những sự chọn lựa ñược thực
này bằng những giá trị mang ý nghĩa tinh thần.
hiện trong quá trình thiết lập một hệ máy tính
Nói cách khác, quyền uy thiên phú có ñược nhờ
hoặc một chương trình ứng dụng sao cho nó
hấp lực của người lãnh ñạo ñối với dân chúng
phù hợp với những yêu cầu của người sử dụng.
thông qua lòng ñạo ñức, tính anh hùng của họ.
Thông thường mỗi loại cấu hình sẽ ñược vận
hành với hệ ñiều hành riêng và ñòi hòi tính Trang 61
tương thích của các phần tử trong hệ thống
Việc quy giản các tiến trình thành những ñược cài ñặt.
trạng thái tĩnh gây khó hiểu về mạng lưới con
Trong khoa học xã hội, Norbert Elias
người trong sự chuyển ñổi thường xuyên, dẫn
(1897-1990) là người ñầu tiên ñề xuất việc sử
tới việc nhận thức về cá nhân và xã hội như
dụng khái niệm cấu hình xã hội (Social
những thực thể riêng biệt. Chính vì vậy, ông tin
configuration) trong công trình Xã hội học là gì
rằng khái niệm cấu hình có ñủ khả năng giải
? xuất bản năm 1970. Ông cho rằng thuật ngữ
quyết những mâu thuẫn lâu ñời của bản thể học
này không bị ảnh hưởng bởi nội dung và ý
– cá nhân-xã hội, tác nhân–cấu trúc. Hình
nghĩa của những kiểu mẫu trong khoa học tự
tượng là thuật ngữ chung dùng ñể miêu tả
nhiên vốn là những kiểu mẫu ñược các nhà
mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau hình thành
khoa học xã hội vay mượn ñể xây dựng lên các
giữa những con người và kết nối họ; có thể nói
mô hình ñiều tra xã hội học, ñồng thời góp
rằng, nó là một cấu trúc những người phụ
phần củng cố bản chất luận ẩn trong cả hai khái
thuộc và ñịnh hướng lẫn nhau” (Elias
niệm cá nhân và xã hội. Nói ñến khía cạnh này,
1990:249). Vì vậy, ông ñã cho rằng “khái niệm
có vẻ như ông ñang phê phán Durkheim về
cá nhân ñề cập ñến những con người có mối
cách nhìn ñồ vật hóa “sự kiện xã hội” trong
liên hệ phụ thuộc lẫn nhau; khái niệm xã hội
Những qui tắc của phương pháp xã hội học
nói ñến những con người có mối liên hệ phụ
(1895) và cho rằng ñó là hệ quả của việc tự
thuộc lẫn nhau ở dạng số nhiều" (Elias
nhiên hóa hiện thực xã hội bắt nguồn từ việc
1999:136). Việc khắc phục những dạng phân
vật chất hóa các cấu trúc ngôn ngữ. Ông ñưa ra
cực này sẽ tạo ñiều kiện ñể mọi người nhận ra
ví dụ giống như khi “chúng ta nói gió ñang
bản thân mình là một con người giữa những
thổi, như thể gió bị tách biệt khỏi sự thổi của
người khác, “và xã hội là một hình tượng xây
nó, như thể một cơn gió có thể tồn tại mà
dựng bởi vô số cá nhân có mối liên hệ phụ
không cần thổi” (Elias 1999:112). Những thói
thuộc lẫn nhau” (Elias 2001b:149).
quen diễn ngôn và tư duy của chúng ta khiến
Như vậy, khái niệm cấu hình không thể
chúng ta coi những khái niệm “cá nhân” và “xã
tách rời khỏi các phạm trù sự phụ thuộc lẫn
hội” như là “những ñối tượng tách biệt và
nhau, chức năng, và cưỡng chế. Các cá nhân
tĩnh”, hoặc cao nhất là những ñối tượng của các
cũng như tập thể phụ thuộc vào nhau vì mỗi
quá trình. Do vậy, tương tự với khuynh hướng
người ñều ñáp ứng một số nhu cầu của những
của các nhà khoa học tự nhiên, chúng ta cũng
người khác. ðồng thời, việc kiểm soát những
tách biệt cá nhân và xã hội, như thể cá nhân có
nguồn lực cho phép ñáp ứng nhu cầu của người
thể tồn tại mà không cần xã hội, và xã hội
khác tự thể hiện mình trong mối liên hệ với
không cần có những cá nhân, dẫn tới những
quyền lực và trong khả năng cưỡng chế của
cuộc tranh luận bất tận không có hồi kết về vấn
mỗi bên liên quan. Do vậy, một cấu hình tồn tại
ñề cá nhân và xã hội.
khi hai hay nhiều cá nhân hoặc nhóm người tạo Trang 62
nên một kiểu liên kết ñược nuôi dưỡng bởi sự
quá trình sắp xếp lại các thành phần cấu trúc
phụ thuộc của họ vào người khác, và giúp họ
cộng ñồng cho phù hợp với ñiều kiện thay ñổi
có thể sử dụng một dạng cưỡng chế qua lại nào
của xã hội, nhằm duy trì tính ổn ñịnh và phát
ñó trong một cấu hình xã hội nhất ñịnh. Bởi nói
triển của chúng trong những ñiều kiện luôn
thực chất “mạng lưới những con người, nhóm
thay ñổi của xã hội, vốn do những ñòi hỏi thay
người phụ thuộc lẫn nhau cùng hành ñộng
ñổi của những chủ thể hành ñộng cá nhân trong
hoặc ñối lập nhau theo một hướng xác ñịnh
cộng ñồng xã hội. Thông thường, các cuộc (Elias 1990:249).
nâng cấp cấu hình xã hội thường diễn ra trong
Ở khía cạnh nào ñó, các ñặc trưng cấu hình
các ñiều kiện khi các giá trị và chuẩn mực của
xã hội có thể ñược xem như những cưỡng chế
cấu hình xã hội hiện hành trở nên lỗi thời ñối
và những nguồn lực ñối với các tác nhân xã hội
với nhận thức và cách thức hành xử của các cá
- những cưỡng chế và những nguồn lực này có nhân trong cộng ñồng.
thể khác biệt nhau tuỳ theo các vị trí tương ứng
Như vậy, cấu hình xã hội có thể xem như
của các tác nhân ấy trong cấu trúc xã hội.
là một cấu trúc xã hội ña hệ thống. Ở ñó, mỗi
Nhưng mỗi hoàn cảnh xã hội cụ thể không chỉ
cá nhân hay các nhóm xã hội sẽ có mối quan hệ
phụ thuộc vào một hệ thống chuẩn mực, mà có
phụ thuộc lẫn nhau, trầm tích vào nhau trong
thể là nhiều hệ thống chuẩn mực, ñiều này cho
một tổng thể thống nhất của ñời sống xã hội.
phép các tác nhân xã hội có thể “chọn lựa tùy
ðặc biệt, mỗi cấu hình xã hội cũng biểu hiện sự
theo hoàn cảnh” (option) giữa các chuẩn mực
tương thích với hệ tư tưởng văn hóa hay hệ
khác nhau. Nói cách khác, các tác nhân có thể
thống chuẩn mực nhất ñịnh.
tự mình hành xử với những cưỡng chế và
Từ viễn tượng này, chúng ta có thể thấy
những nguồn lực cấu trúc khác nhau, trong
mỗi cá nhân sống trong một cộng ñồng xã hội
khuôn khổ một không gian hành ñộng nào ñó.
cụ thể luôn ñưa ra những chiến lược ứng xử
Hơn nữa, mỗi tác nhân không chỉ thuộc về một
phù hợp cho mục ñích của mình, tùy vào hoàn
cấu trúc duy nhất, mỗi người thường phải ñóng
cảnh, ñiều kiện xã hội mình sinh sống. Ở ñó,
nhiều vai trò khác nhau, ứng xử với nhiều tư
người ta luôn luôn ñặt cho mình câu hỏi chúng
cách khác nhau (Lương Văn Hy, 2006 : 25).
ta phải xử sự như thế nào ñể phù hợp với
Tuy nhiên, bản thân hành ñộng của các cá nhân
những quy tắc, chuẩn mực xã hội mà mình
trong một cấu hình xã hội không ñơn giản chỉ
ñang sống? Chúng ta thỏa hiệp, phục tùng hay
là những cá thể thụ ñộng, bị phụ thuộc hoàn
chống lại những chuẩn mực của cộng ñồng?
toàn vào những cưỡng chế của cấu hình xã hội
Thậm chí cuộc sống xã hội là một dòng chảy
mà nó còn tác ñộng ngược trở lại cấu hình xã
không ngừng của các quyết ñịnh của bản thân
hội ñó. Chẳng hạn như quá trình tái cấu trúc
trong sự chồng chéo các mối quan hệ phức tạp
cộng ñồng (restructuration) hay nói theo cách
của cộng ñồng xã hội. Trong tất cả các tình
khác là nâng cấp cấu hình xã hội. ðây là một
huống này, cá nhân không hành ñộng trong môi Trang 63
trường chân không, mà các quyết ñịnh của mỗi
cho rằng ñể hiểu hành ñộng, cần hiểu ñược bản
cá nhân luôn chịu sự tác ñộng hay nói cách
chất chủ quan của hành ñộng, tức là hiểu ý
khác là chịu sự chi phối bởi các chiều kích cấu
nghĩa của nó, nhưng ñồng thời phải tiến ñến
trúc xã hội như gia ñình, dòng họ, tôn giáo, nhà
phân tích các mục tiêu và phương tiện xung
nước.v.v. nhưng ngược lại chính mỗi cá nhân
quanh hành ñộng, những ñiều này nảy sinh
cũng góp phần vào tạo ra những thay ñổi trong
trong bối cảnh các giá trị và chuẩn mực hình
ñời sống xã hội. Nói theo cách của Peter
thành một cách tập thể. ðây chính là khung
Berger: “Xã hội thâm nhập vào chúng ta, ñồng
tham chiếu hành ñộng, trong ñó là sự ñịnh
thời bao trùm lấy chúng ta. Sự ràng buộc của
hướng mang tính chuẩn mực của con người
chúng ta vào xã hội ñược thiết lập không hẳn
ñịnh hướng vào các niềm tin, giá trị, chuẩn
bằng sự chinh phục, mà là thông qua sự cấu
mực. Như vậy, khi nói tới "cá nhân" và "cộng
kết... Chúng ta bị mắc vào cái bẫy của cái bản
ñồng", người ta thường lầm tưởng rằng ñây là
chất mang tính xã hội của chính chúng ta.
hai bến bờ của sự khác biệt, nhưng thực ra, ñấy
Những bức tường của cái nhà tù giam hãm
chỉ là hai cấp ñộ khác nhau nhưng không thể
chúng ta ñã có sẵn ở ñấy trước khi chúng ta
tách rời nhau trong quá trình ñời sống xã hội.
xuất hiện trên sân khấu (cuộc ñời), nhưng
chúng cũng ñược chính chúng ta không ngừng
3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN TƯƠNG TÁC BIỂU TRƯNG
xây dựng lại. Chúng ta bị phản bội và bị cầm tù
bởi chính sự hợp tác của chúng ta”. (Peter L.
Khi nghiên cứu về cấu hình xã hội, ñặc biệt
Berger, 1969: 141); (Trần Hữu Quang, 1996:4).
là trong bối cảnh Việt Nam, vốn gắn liền với
Tương tự quan ñiểm này, nhà xã hội học
nhiều yếu tố văn hóa, lịch sử, chính trị, chúng
người Mỹ, Talcott Parsons (1902-1979) cũng
tôi nhận thấy cần lý giải vấn ñề này ở nhiều
ñã vay mượn quan ñiểm của Weber khi cho
góc ñộ về mặt phương pháp luận. ðặc biệt,
rằng cốt lõi của mọi hành ñộng xã hội là ý
chúng ta nên xem xét hai vấn ñề cá nhân và
nghĩa, do ñó ñể hiểu ñược hành ñộng phải hiểu
cộng ñồng như là một tổng thể thống nhất với
ñược ý nghĩa gắn với hành ñộng ñó. Mặt khác,
hai cấp ñộ khác nhau. Chính vì vậy, về mặt
Parsons cũng chấp nhận quan ñiểm của
phương pháp luận, chúng ta có thể lựa chọn
Durkheim rằng có một trật tự ñạo ñức ñiều
cách thức noi theo phương pháp luận nghiên
khiển xã hội. Từ ñó, Parsons xây dựng khái
cứu tương tác biểu trưng (symbolic
niệm “khung tham chiếu hành ñộng”
interactionism) mà Clifford Geertz (1926-
(voluntarism), theo nghĩa như là những quá
2007)3 là một ñại diện tiêu biểu. Bởi Geertz lập
trình ra quyết ñịnh mang tính chủ quan của chủ
3 Nhân học giải diễn giải do Geertz khởi xướng có nguồn
thể, nhưng những quyết ñịnh này lại là kết quả
gốc từ xã hội học diễn giải của Weber. Nghiên cứu về nhân
của những cấu trúc mang tính chuẩn mực cũng
học tôn giáo, và ñặc biệt là cuộc tranh luận giữa Geertz và
như của tình huống. Như vậy, với mục ñích cụ
Asad về nền tảng của tôn giáo ñược xem xét lại thông qua
thể hóa hơn lập luận của Max Weber, Parsons
sự tham khảo xã hội học tôn giáo của Weber (Charles F. Trang 64
luận rằng văn hóa không phải là một mô hình
ñồng thời là sự kết hợp của những phần cá thể
trong ñầu con người, mà thể hiện trong những
và một tổng thể không chia cắt, và diễn giải
biểu tượng và hành ñộng công cộng. Ông ñã
một văn bản cần có sự di chuyển qua lại giữa
kết hợp ñược nhiều truyền thống tri thức trong
hai thái cực này. Geertz ñã ñưa ý tưởng này
công trình của mình, bao gồm xã hội học Âu
vào nhân học nhằm cố gắng xóa bỏ sự phân
châu, nhân học kiểu Boas, và thậm chí cả sinh
biệt giữa phương pháp luận cá nhân và tập thể,
thái học văn hóa của Steward ở giai ñoạn ñầu4,
vì xã hội không thể hiểu ñược nếu như không cũng khá rõ.
nhìn nhận từ cả hai góc ñộ.
Trong số những nhà xã hội học Âu châu,
ðối với Geertz, các hiện tượng xã hội cần
Geertz sử dụng những ý tưởng của cả
phải ñược “ñọc”, không chỉ bởi các nhà nhân
Durkheim lẫn Weber, bên cạnh ñó có Alfred
học, mà bởi chính bản thân thành viên của xã
Schutz (1899-1959), một nhà hiện tượng học
hội ñó. ðối lập với các nhà nhân học Anh, tập
xã hội ðức, nhấn mạnh lối tiếp cận diễn giải
trung vào cá nhân như một người hành ñộng
ñối với hành ñộng. Nhưng nguồn tư tưởng
(theo các chuẩn mực và chiến lược), Geertz ñề
mang tính quyết ñịnh trong các công trình giai
ra cá nhân như một ñộc giả.
ñoạn sau của Geertz là xuất phát từ nhà triết
ðối lập với giả ñịnh của họ cho rằng xã hội
học Pháp Paul Ricoeur (1913-2005), người cho
ñược cấu thành một cách duy lý và cá nhân có
rằng xã hội (hoặc văn hóa) có thể ñược diễn
thể tham gia vào ñó thông qua những hành
giải như một văn bản, và có thể sử dụng những
ñộng duy lý, Geertz cho rằng thế giới thường
phương pháp diễn giải của chú giải học ñể diễn
không thể hiểu ñược, và rằng chủ thể phải diễn
giải văn bản. Phương pháp này coi một văn bản
giải một cách tích cực những gì người ñó thấy.
Ông xem biểu tượng là phương tiện chuyển tải
Keyes, 2002:233 – 255). Một trong những ñại biểu của
ý nghĩa. Trong những công trình giai ñoạn ñầu
trường phái nhân học biểu trưng là Clifford Geertz (1926-
của mình, Clifford Geertz thận trọng phân biệt
2007). Ông ñược xem là “kiến trúc sư trưởng của nhân học
biểu trưng”, ông cũng ñược cho là ñã chịu ảnh hưởng ít
giữa hai kiểu “logic của sự thống nhất”: 1) xã
nhiều từ quan ñiểm xã hội học thấu hiểu của Max Weber.
hội, hoặc cấu trúc xã hội, ñược thống nhất “một
Tuy nhiên, ông không chỉ kế thừa các quan ñiểm của Max
cách chức năng-nhân quả”; 2) văn hóa, hoặc
Weber mà còn kế thừa quan ñiểm của Durkheim, vốn ñược
miền biểu trưng, ñược thống nhất một cách “ý
xem là quan ñiểm ñối lập với Weber. Geertz ñược ñào tạo
ở Harvard vào thời ñiểm mà Parsons (trong xã hội học) và
nghĩa logic”. Hai tiểu hệ thống này, theo
Kluckhohn (trong nhân học), cả hai nằm trong Department
Geertz, là khớp với “thỏa ước” của những năm
of Social Relations của Harvard (gồm xã hội học, nhân học
1950, có thể ñược nghiên cứu một cách ñộc lập
văn hóa, và tâm lý học, do Parsons lập ra), cộng tác rất
không liên quan ñến nhau (Trương Huyền Chi, khắng khít.
4 Sinh thái học văn hóa ñược thể hiện phần nào trong quyển 2007).
Agricultural Involution của Geertz, nhưng sau ñó thì ảnh
Khi hiểu ý nghĩa của biểu tượng, Geertz
hưởng của trường phái này không còn rõ nét trong những
viết: “Theo sau Max Weber, tin rằng con người công trình của Geertz. Trang 65
là một ñộng vật treo trên một mạng lưới những
nhân học biểu trưng thâu nhận ñược ñều do quá
ý nghĩa do chính mình tự dệt nên, tôi coi văn
trình tự kiến tạo về những nền văn hóa cụ thể
hóa là những mạng lưới ñó, và phân tích văn
hoặc sự kiện trong những nền văn hóa ñó. Kết
hóa, vì vậy, không phải là một khoa học tìm
quả là, những tư liệu của họ thu nhận ñược từ
kiếm quy luật, mà một ngành diễn giải ñi tìm ý
những cộng ñồng ñịa phương cụ thể không
nghĩa” (Clifford Geertz, 1973:5). Muốn chỉ ra
cung cấp một nền tảng lý thuyết nào nhằm giúp
ñược những ý nghĩa của biểu tượng, nhà nhân
hiểu văn hóa như một hiện tượng phổ biến. Các
học phải biết diễn giải cách hiểu của bản thân
nhà nhân học biểu trưng ít chỉ ra phương pháp
mình và cách hiểu của nhiều chủ thể trong từng
luận và phương pháp cụ thể ñể tìm hiểu ý nghĩa
ñiều kiện xã hội mà họ ñang sống. Một khía
của biểu tượng. Geertz cho rằng “phân tích văn
cạnh nào ñó, quan ñiểm của Geertz ñối lập với
hóa là (hoặc cần là) ñoán ra ý nghĩa, ñánh giá
cấu trúc luận của Claude Lévi-Strauss, Geertz
những sự phỏng ñoán ñó, và ñưa ra những kết
quan tâm ñến phân tích biểu trưng từ quan
luận giải thích từ những phỏng ñoán gần ñúng
ñiểm của người hành ñộng. Ông tin rằng
hơn” (Clifford Geertz,1973:20).
phương pháp phân tích biểu trưng phù hợp là
Tóm lại, nghiên cứu về những ñặc trưng
“mô tả chiều sâu” (thick description), tức là
của cấu trúc cộng ñồng và chiến lược ứng xử
nhà nhân học phân loại những tư liệu dân tộc
của cá nhân, vốn bị ñịnh khung bởi song ñề lý
học của mình, tìm hiểu tập trung vào nghiên
thuyết cộng ñồng luận và cá nhân luận. Nhiều
cứu văn hóa, ñặc biệt là biểu tượng văn hóa,
công trình nghiên cứu với những quan ñiểm ñối
thay vì xã hội và cấu trúc xã hội. Tách rời văn
lập nhau về nhận thức và tư duy khoa học ñã
hóa khỏi xã hội, hay nói một cách khác, họ
khiến cho những cuộc tranh luận lý thuyết kéo
chịu ảnh hưởng của “thỏa ước” tạm thời về sự
dài nhiều năm trong giới học thuật khoa học xã
phân công lao ñộng giữa xã hội học và nhân
hội trên thế giới tưởng chừng như không có hồi
học, các nhà nhân học Mỹ theo hướng biểu
kết. Tuy nhiên, việc phân ñịnh giữa song ñề lý
trưng ñã tập trung vào nghiên cứu văn hóa, ñặc
thuyết này dường như chỉ là hệ quả của việc
biệt là những biểu tượng, tách rời khỏi cấu trúc
khoa học xã hội bị ảnh hưởng bởi nội dung và
xã hội và nghiên cứu văn hóa như một tổng thể
ý nghĩa của những kiểu mẫu trong khoa học tự
thống nhất và ñộc lập5. Phần lớn những gì nhà
nhiên. Thực tế, vấn ñế cá nhân và xã hội là hai
vấn ñề có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cộng
5 Trường phái nhân học biểu trưng cũng nhận ñược sự phê
phán nhất ñịnh trong những thiếu sót của việc phân tích
nhân học biểu trưng chưa bao giờ giải thích một cách cụ
biểu trưng là nó chủ yếu mang tính mô tả và không tạo ñiều
thể phương pháp ñể “ñoán ra ý nghĩa” ñó như thế nào.
kiện cho những phát biểu mang tính phương pháp luận và
Những người phê phán nhân học biểu trưng cho rằng ñây
lý thuyết. Cũng như những người theo F.Boas, các nhà
chính là khiếm khuyết cơ bản: ñộ ñáng tin cậy của cách
nhân học biểu trưng tuyên bố ñi tìm sự phổ biến của nhận
diễn giải biểu trưng hoàn toàn dựa trên kỹ năng giải thích
thức loài người thông qua việc thu thập các tư liệu cụ thể ở
và sự thẩm thấu các hiện tượng quan sát của nhà nhân học.
tại ñịa phương (Trương Huyền Chi, 2007). Những nhà Trang 66
ñồng xã hội có thể xem là bộ khung chứa ñựng
lập nhau mà thực ra ñây là một tổng thể với hai
các giá trị chi phối hành ñộng cá nhân, nhưng
cấp ñộ không thể tách rời. Chính vì vậy, về mặt
ñồng thời những chiến lược ứng xử khác nhau
nhận thức, tư duy khoa học và phương pháp
của các cá nhân cũng ñóng vai trò quan trọng
luận trong việc nghiên cứu các hiện tượng xã
không nhỏ trong việc duy trì, củng cố hoặc
hội, có lẽ chúng ta không nên ñịnh khung cách
ñiều chỉnh và thay ñổi chính các cấu trúc ấy.
tiếp cận biệt lập “duy khách thể” hay “duy chủ
Khi nói tới "cá nhân" và "xã hội", người ta
thể” mà cần có cách tiếp cận dung hòa hai cách
thường lầm tưởng rằng ñây là hai thực thể
tiếp cận vừa mang cách nhìn của người trong
riêng rẽ, làm như thể chúng có thể tồn tại biệt
cuộc và tư duy khoa học của nhà nghiên cứu.
FROM COMMUNITY DIMENTION TO INDIVIDUAL DIMENTION – THEORY AND METHODOLOGY Nguyen Duc Loc
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM
ABSTRACT: The paper focuses on the review of dilemma theory process, between public theory
and personal one. These two viewpoints are the focus of theoretical debate lasting many years in
academic community in the field of social science all over the world between the school of structuralism
and that of agency theory. The paper aims to describe theoretical and methodological issues in the
research of community and personal relationships. When it comes to the "individual" and "society",
people often mistakenly believe that these are two separate entities, as if they could exist independently
of each other, but in fact this is a whole with two inseparable levels. This suggests that in addition to the
provisions of social structures, different individual behavior strategies also play an important role in
the efforts to maintain, strengthen or adjust and change these structures.
Key words: community, individual, social structures, behavior strategies. Trang 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
e da aristocracia de corte, Pedro
Süssekind dịch, Rio de Janeiro: Jorge
[6]. Peter L. Berger, Invitation to Sociology, A Zahar (2001a).
Humanistic Perspective, Harmondsworth,
[16]. Norbert Elias, Norbert Elias por ele Penguin Books (1969).
mesmo, André Telles dịch. Rio de Janeiro:
[7]. Nguyễn Từ Chi, Góp phần tìm hiểu lịch sử Jorge Zahar (2001b).
văn hóa Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội, [17]. Clifford Geertz, Thick Description: (1996).
Toward an Interpretative Theory of
[8]. Trương Huyền Chi, Chuyên ñề lý thuyết
Culture, The Interpretation of Cultures, nhân học, Khoa nhân học,
New York: Basic Books, Inc. Publisher
ðH.KHXH&NV TP.HCM (2007). (1973).
[9]. Émile Durkheim, Các quy tắc của phương
[18]. Gluckman, The judicial process among the
pháp xã hội học, ðinh Hồng Phúc dịch, lời
Barotse of Northern Rhodesia, Berg
giới thiệu của Trần Hữu Quang, NXB Tri Publishing Ltd (1954). Thức (2012).
[19]. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang, Phát
[10]. Norbert Elias, Problems of Involvement
triển cộng ñồng lý thuyết và thực tiễn,
and Detachment, British Journal of NXB VHTT, Hà Nội (2000).
Sociology, London, 7:226-52 (1956).
[20]. Lương V. Hy, Xã hội, Văn hóa và phát
[11]. Norbert Elias, O processo civilizador, Ruy
triển con người trong thời kỳ ñổi mới, Hội
Jungmann dịch, Rio de Janeiro: Jorge
thảo Hai mươi năm ðổi mới tại Việt Nam Zahar, v.1 (1990).
do UNDP và Viện Khoa học Xã hội Việt
[12]. Norbert Elias, A sociedade dos indivíduos, Nam tổ chức (2006).
Vera Ribeiro dịch, Rio de Janeiro: Jorge [21]. Charles F Keyes, Weber and Zahar (1994). Anthropology, Annual Review of
[13]. Norbert Elias, Introducción, ELIAS, N.;
Anthropology, số 3, 233 – 255 (2002).
DUNNING, Eric. Deporte y ocio en el
[22]. Robert Layton (bản dịch tiếng Việt), Nhập
proceso de la civilización, Purificación
môn Lý thuyết nhân học, NXB ðHQG
Jiménez dịch, México: Fondo de Cultura TP.HCM (2007). Económica [31-81] (1995).
[23]. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Các giá trị
[14]. Norbert Elias, Introdução à sociologia,
truyền thống và con người Việt Nam hiện
Maria Luísa Ribeiro Ferreira dịch, Lisboa:
nay, T2, ðề tài KX 07 - 02. H (1996). Edições 70 (1999).
[24]. Nguyễn ðức Lộc, Cấu trúc cộng ñồng
[15]. Norbert Elias, A sociedade de corte:
Công giáo di cư năm 1954 tại Nam bộ
investigação sobre a sociologia da realeza
(nghiên cứu trường hợp Hố Nai – ðồng Trang 68
Nai và Cái Sắn Cần Thơ, Luận án tiến sĩ,
trans. and ed. C.P. Loomis (first published
Trường ðH KHXH & NV – ðHQG-HCM in 1887) New York (1963). (2008).
[28]. Max Weber, Nền ñạo ñức Tin lành và tinh
[25]. Trần Hữu Quang, Mối quan hệ giữa con
thần của chủ nghĩa tư bản (Die
người với xã hội theo Peter L. Berger, Hà
protestantische Ethik und der Geist des Nội (1996).
Kapitalismus), Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn [26]. Tânia Quintaneiro, The concept of
Nghị, Nguyễn Tùng và Trần Hữu Quang
figuration or configuration in Norbert
dịch, “Lời giới thiệu” của Trần Hữu
Elias’ sociological theory, Teor. soc.vol.2
Quang và Bùi Văn Nam Sơn, Hà Nội, no.se Belo Horizonte (2006). NXB Tri thức (2008). [27]. Ferdinand Tönnies, Community and
Society (Gemeinschaft und Gesellschaft), Trang 69
Document Outline

  • TỪ KÍCH THƯỚC CỘNG ðỒNG ðẾN KÍCH THƯỚC CÁ NHÂN NHỮNG VẤN ðỀ
    • Nguyễn ðức Lộc
    • Trang 55
    • 1. CỘNG ðỒNG VÀ CÁ NHÂN – BẾN BỜ CỦA SỰ KHÁC BIỆT
    • Trang 56
    • Trang 57
    • Trang 58
    • Trang 59
    • Trang 60
    • 2. CỘNG ðỒNG VÀ CÁ NHÂN: HAI CẤP
    • Trang 61
    • Trang 62
    • Trang 63
    • Trang 64
    • 3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN TƯƠNG TÁC BIỂU TRƯNG
    • Trang 65
    • Trang 66
  • FROM COMMUNITY DIMENTION TO INDIVIDUAL DIMENTION – THEORY AND METHODOLOGY
    • Nguyen Duc Loc
    • Trang 67
    • Trang 68