Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
Môn 1: sở n hóa Việt Nam
Nội dung môn học:
Học liệu:
1. sở văn hóa Việt Nam Trần Ngọc Thêm
Phương pháp học:
1. Tn suất trả li càng nhiều t mức độ cộng điểmng cao
2. Hình thức thi: tự luận hoặc tiểu luận
3. Tự đọc tài liệu theo gi ý ca giảng viên, giảng viên chỉ giảng về những vấn đề
khó hiểu, cách khai thác vấn đề; sinh viên tự khai thác ở nhà
Cấu trúc môn hc:
I Đại cương về VHH (giáo trình)
1. Các khái niệm
2. Các thuộc tính bản
3. Cấu trúc, thành tố, loại hình
4. Phương pháp tiếp cận
II Văn hóa Việt Nam
1. Tọa độ văn hóa VN
2. Din trình văn hóa VN
3. Không gian vùng văn hóa VN
4. Văn hóa vật chất
5. Văn hóa tinh thần
6. Văn hóa tổ chức đời sống
Nội dung bài học:
I
1. Các khái niệm
- Các lớp nghĩa VH thường dùng:
o Nghĩa thường dùng: để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống, giai
đoạn phát triển lịch sử (VD văn háo ĐÔng Sơn),…
o Nghĩa rộng: VH bao gm tất cả, từ sản phẩm văn minh cho đến đời sống
tinh thn, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lao động, pháp luật,… của
mt xã hội con người
- VH có tính đa nghĩa
o đến 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa
o Định nghĩa của Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa một hệ thống hữu các
giá trị vật chất và tinh thn do con người sáng tạo và tích lũy qua q
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
trình hoạt động thực tiễn, trong sự ơng tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hi.
Tóm lại: VH bao gm tất cả yếu tố cấu thành nên đời sống con người:
o Đời sống tinh thần, văn hóa nghệ thuật, sinh hoạtm linh, tôn giáo
o Ứng xử của con người với thiên nhiên, con người vi con người cộng
đồng rộng lớn
o Phương thức thể hiện tri thức bản địa, phương thức sinh kế
o VH sp do con người tạo ra, th chi phối, quyết định sự tồn tại, bản
sắc và sự phát trin bền vững ca một cộng đồng người.
- Phân biệt văn hóa văn minh văn vật – n hiến
Khái
niệm
n vật
n hiến
na
n minh
Giá tr
Thiên về giá tr
vật chất
Thiên về giá tr
tinh thn
Chứa cả giá tr
vật chất tinh
thần
Thiên về giá tr
vật chất – kỹ
thuật
Lịch sử
Chỉ về trình độ
phát triển
Thuộc
tính
cộng
đồng
tính quốc tế
ng
địa lý, tổ
chức
hội
Gắn liền vi
phương y,
đô thị
- Mở rộng:
o Phong kiến”: cất đất chia cho vương hầu, mi ơng hầu tự cai quản;
đế chỉ cai quản các vương hầu
o “Quân chủ trung ương tập quyền”
- Khái niệm trong môn văn hóa học (giáo trình)
- Những vn đề nghiên cứu văn hóa:
o Tính chủ th và bản sắc
o Tính sắc tộc, chủng tộc và dân tộc
o Tình dục, tính chủ th và sự th hiện
o Truyền hình, văn bản khán gi
o Truyền thông thuật số
o Không gian văn hóa địa đim thành th
o Tuổi trẻ, phong cách và sự kháng cự
o Chính trị văn hóa chính sách văn hóa
- Các thuộc tính bản của VH (giáo trình phần I)
o Tính hệ thống:
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
Đặc trưng cần của VH. VH tính hệ thống, tức không chỉ
mt tập hợp
Nhờ tính hệ thống, VH với tư cách là một thực th bao trùm
mi hoạt động hội đã thực hiện được chức năng tổ chức hi
của nó.
o Tính giá tr
o Tính nhân sinh
o Tính lịch sử
- Cấu trúc VH hình trộn lẫn của TNT (giáo trình đọc và giải thích)
- Các thành tố văn hóa Trần Quốc Vượng
- 2 loại hình văn hóa bản: du mục và nông nghiệp
- Tuần sau: định vị văn hóa thành tố
Nhu cầu chữ viết ca tầng lớp trung lưu, dân lao động chỉ tiếng nói. Nhu cầu chữ
viết thuộc về tinh thần (âm nhạc, văn thơ; ng ld có ca dao tục ngữ
Chương III: Mối quan hệ giữa văn hóa truyền thống pháp lut
I Đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam
- Nền vh hình thành từ nền tảng nông nghiệp trồnga ớc
- Nền n hóa trọng nông, xa rừng, nhạt biển
- Nền n hóa ậm tính cộng đồng, tự trị của văn hóa làng
- Nền văn hóa đề cao giá trị văn hóa gia đình truyền thống
- Nền n hóa thấm đậm, bao trùm tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia dân tộc
- Nền văn hóa m, thích ứng tiếp biến hài hòa các nền n minh nhân loại
II Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật
1. Ảnh ng của văn hóa nông nghiệp a nước
Đặc trưng ca n hóa phương Đông.
a. sở hình thành: n hóa trồng trọt
- Địa hình: đồng bằng (m, thấp); sông ngoi chng chịt; khí hu nóng, ẩm mưa
nhiu; có nhiu đồng bằng p nhiêu màu m
- Nghề nghiệp: trồng trọt
- Cách sống: Định cư, không thích di chuyển -> trọng tĩnh
Văn hóa nông nghiệp trồng trọt (lúc nước)
- Ứng xử với môi trường tự nhiên: Tôn trọng, sống hòa hợp vi thiên nhiên
- Lối nhn thức duy: Thiên về tổng hợp biện chứng (trong quan hệ); chủ
quan, cảm tính và kinh nghiệm
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
- Tổ chức cộng đồng: Cuộc sống định tạo nên tính cộng đồng cao -> Trọng
tình, trọng đức, trọng văn, trọng nữ. Linh hoạt và dân chủ trong cộng đồng
Văn hóa trọng tĩnh
b. Ảnh hưởng tích cực:
- Tính cách mềm dẻo, lối ứng xử linh hoạt
- Tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng tạo n sức mạnh
- Giản dị, khoan dung, nhân ái
- duy dung hòa
c. Hạn chế
- Tính cộng đồng ca văn hóa làng -> ý thức con người, ý c nhân bị thủ
tiêu; thói dựa dẫm, ỷ li, “nước nổi bèo ni”, tư tưởng cầu an, cả nể, sợ “rút
dây động rừng”; chủ trương đóng cửa dạy nhau, thói cào bằng, đố k
- Tính tự trị -> hữu, ích kỷ. nhà ai người ấy chng, ai thân thì lo, “của
mình t giữ bo bo, của người thì để cho bò nó ăn”
- Nguyên tắc tổ chức nông thôn theo huyết thống -> tưởng gia trưởng, tôn ty,
tạo nên tâm ý quyền huynh thế phụ, áp đặt ý muốn của mình vào người khác;
sống lâu ra lão làng”,
- Văn háo tiu nông tư duy manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tư duy lý lun lĩnh vực
hoạch định chính sách pháp luật, soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật và
thực thi pháp luật; sự tùy tiện, chủ quan, cảm tính, sự thiếu đồng bộ nhất
quán trong việc soạn thảo ban hành các văn bản pháp luật cũng như việc tổ
chức và thực thi pháp luật (nhiu quy phm mâu thuẫn, không tạo ra lộ trình
mrộng quy phạm không đi từ gốc; phải học tập kĩ thuật lập pháp nước
ngoài vì tư duy mình không tự nhận thức được)
2. Ảnh ng của Nho giáo
- Quan điểm trị ớc của Nho giáo: Lễ, nhạc, hình, chính
- Ảnh hưởng đến văn hóa người Việt
o Lễ -> người Việt sống điu độ, chừng mực, biết kính trên nhường dưới
(sống quần cư trong đơn vị làng xã)
o Nhạc -> chế ước, điu hòa, làm con người tương thân, tương kính nhau
- Ảnh hưởng đến pháp luật việt nam: Quốc triu hình luật:
o Điều chỉnh những quan hệ bản: kết hôn, ly hôn, quan hệ nhân thân và
quan hệ i sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái => bảo vệ chế
độ tông pháp, bảo vệ thuần phong mỹ tục ca dtoc
o Đạo đức được coi cái gốc để điu chỉnh hành vi ca con người (trung
hiếu)
o Hình phạt, pht để ngưi vpham pluat điều chỉnh hành vi, kphai nhằm
nhục mạ, áp đặt
o 315/722 điều -> thể hiện đặc trưng văn hóa việt
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
- Chỉ tuân thủ quy tắc khi sự cưỡng bức chứ không phải ý thức hay thượng
tôn pháp luật. Con người chỉ coi pluat 1 giải pháp khi không biện pháp
nào giải quyết nữa
o Áp dụng tập quán trong xét xử
o Quyền bình đẳng về tài sản
o Quyền sở hữu vớii sản riêng
o Quyền sở hữu vớii sản chung
o Trách nhiệm của người chồng với gia đình
Điều 308: “Phàm chng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi li (vợ
được trình vi quan sở tại và xã quan làm chứng) thì mất vợ”
o Hình phạt nhân đạo:
Điều 1 quy định trượng hình chỉ đàn ông phải chịu:từ 60 đến
100 trưng, chia làm 5 bậc: 60 trượng, 70 trượng, 80 trượng, 90
trượng, 100 trượng, tùy theo tội mà thêm bớt. Xử tội này có thể
cùng với tội lưu, tội đồ, biếm chức, hoặc xử riêng chỉ đàn ppng
phải chịu.”
Điều 680: đànphải tội tử hình trở xuống nếu đang thai, t
phải để sinh đẻ sau 100 ngày mi đem hành hình thì ngục quan bị
xử biếm hai tư; ngục quản bị đồ làm bản cục đinh. đã sinh rồi,
nhưng chưa đủ hạn một trăm ngày mà đem hành hình, thì ngục
quan và ngục lại b tội nhẹ hơn tội trên hai bậc. Nếu đã đủ 100
ngày mà không đem nh hình, t ngục quan hay ngục li bị tội
biếm hay tội phạt
o Chính sách khoan hng: Khi phm tội chưa già cả tàn tật, đến khi già cả
tàn tật mưới bị phát giác thì xử theo luật già cả tàn tật. Khi ở nơi bị đồ
thì già cả tàn tật cũng thế. Khi còn bé nhỏ đến khi ln mới phát hin thì
xử tội theo luật lúc còn nhỏ
- QUốc triều hình luật còn thể hiện chính sách khoan hng đối với người phạm
tội tuy chưa bị phát giác tự thú trước (trừ phm tội thập ác hoặc giết người):
o Điều 18 điều 19: phàm ăn trộm tài vật của người sau lại tự t với
người mất của thì cũng coi như là thú ở cửa quan
o Điều 21,22,23,24 quy định cho chuộc tội bằng tiền (trừ hình phạt đánh
roi vì cho rằng đánh roi tính chất n bảo dạy dỗ nên không phi cho
chuộc
- Tội không tố giác tội phm, tr trưng hợp con cái/ ông tố giác cha mẹ
- Từ bi hỉ xả, tự trả quảo\
NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HOÁ PHÁP LÝ VIỆT NAM
PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
1. Những vn đề chung về pơng pháp tiếp cận.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) và Nghị quyết Hội nghị BCH Trung
ương Đảng ln thứ 5 (Khoá VIII) đã đề ra nhim vụ xây dựng nn văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hi Đảng toàn quốc lần thứ X khng định: tiếp
tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nn văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát trin kinh tế - xã hội,
làm cho văn hoá thm sâu vào mi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Đó là một trong
những định ng phát triển lớn ca đất nước đến m 2020 những m tiếp theo.
Trong nền văn hoá y, văn hoá pháp vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn
tới quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi vì văn
hoá pháp một trong những tiêu cđể đánh giá về trình độ văn minh, dân chủ, về
sự chặt chcủa kỷ cương, pháp luật trong mỗi quốc gia.
Văn hoá pháp lý được nhận diên theo ba yếu tố hợp thành, đó là: a/ ý thức pháp luật;
b/ hệ thống pháp luật; c/ hành vi, li sống theo pháp luật của từng nhân, cộng đồng
và cách thức, trình độ sử dụng các công c pháp luật của nhà nước trong quá trình
quản lý nhà ớc xã hi. Cũng như những bộ phận khác của nền văn hoá dân tộc,
văn hoá pháp Việt Nam đang trong quá trình hn thiện để vừa mang tính tiên tiến,
vừa thể hiên bản sắc dân tộc, góp phn thiết thực vào việc xây dựng Nnước pháp
quyền Việt Nam hi chủ nghĩa. Trong nhà nước pháp quyền xã hi chủ nghĩa,
khía cạnh quan hệ giữa văn hoá pháp lý với những đặc trưng cơ bản như việc bảo
đảm tính tối cao của lut, trách nhiệm qua lại giữa nhà nước công dân, nền pháp
độc lập…, có thể thấy rõ sự tác động và ảnh hưởng trực tiếp của văn hoá pháp tới
hoạt động lập pháp và tổ chức thi hành pháp luật.
th thống nhất về phương pháp luận về quy luật hình thành phát triển của văn
hoá pháp như sau:
Bất kỳ một nền văn hoá pháp lý nào cũng đều bị tác động của hoàn cảnh lịch sử và
mang dấu ấn của thời đại. Sự hình thành, tồn tại và phát trin của văn hpháp
thế chịu sự ảnh hưởng của đặc điểm, tính chất thời đại. Trước hết, quá trình hình
thành của văn hoá pháp lý chịu sự tác động của kinh tế, đặc biệt là sự vận động của
hình thái kinh tế - hi. Sau nữa, quá trình này mi quan hệ sâu sắc với diễn biến
chính trị, tư tưởng của thi đại, đặc biệt là hộ tư tưởng và vai trò lịch sử ca giai cấp
đang chiếm vị trí trung tâm. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định lực lượng sản xuất
là nhân tố đầu tiên và sâu xa tạo nên động lực phát triển xã hội nói chung và văn hoá
nói riêng, trong đó văn hoá pháp lý. Cùng với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
là nền tảng để xây dựng kiến trúc thượng tầng về chính trị, pháp lý, văn hoá... cùng
các th chế thiết chế tương ng. Khi nói đến vai trò của kinh tế đối với đời sống
hội, các nhà nghiên cứu thưng nhấn mnh đến tính chất xã hội của các quan hệ sn
xuất, trước hết là quan hsản xuất giữ vai trò thng tr hi.
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
Quá trình hình thành văn hoá pháp lý chịu sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
kiến trúc thượng tầng, giữa tồn tại hi ý thức hội. Mối quan hệ sở kinh
tế - kiến trúc thượng tầng - n hlà quan hệ nhân quả, vừa tạo ra sự phát triển của
xã hội, vừa tạo ra sự hoàn thiện cho từng nhân tố trong mối quan hệ bin chứng giữa
chúng với nhau.
Mặt khác, truyền thống dân tộc cũng có ảnh hưởng nht định đến quá trình hình
thành n hoá. Nếu kế thừa, phát huy được các giá trị truyền thống kinh nghiệm
lịch sử ca dân tộc sẽ làm cho văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc hơn.
Trong quy luật phát trin đó của văn hoá, những yếu tố tác động nh hưởng
rệt. Dưới đây sẽ phân tích các yếu tố này:
2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát trin văn hoá pháp
lý.
2.1. Ý thức pháp luật nh hưởng củađến quá trình hỉnh thành phát triển
văn hoá pháp lý.
Để giữ gìn trật thội, cần tạo lập được một thói quen trong đời sống xã hội, đó
thói quen chấp hành pháp luật, thái độ thượng tôn pháp luật. Nghĩa là phải xây dựng
được ý thức chấp hành pháp luật trình độ cao của tất cả các thành viên trong hội.
Ý thức pháp luật - đó trình độ hiu biết của các tầng lớp nhân dân về pháp luật. Đó
còn là thái độ đối với pháp luật như tôn trọng hay coi thường pháp luật, thái độ đối
với những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm .
Xây dựng ý thức pháp luật, hình thành lối sống theo pháp luật chỉđược định
hướng đúng và với nội dung phù hợp khi xã hi, nhà nước và mỗi công dân hiểu hết
và hiểu đúng đắn tính chất của pháp lut, các mi liên hệ của pháp luật vi những
chuẩn giá trị và các công cụ điều chỉnh khác của xã hội. Điu đó góp phần khắc phục
tư tưởng coi thường pháp luật, thái độ “ vô” pháp luật - điều đáng lo lng nhất
trong đời sống hi, đồng thi cũng góp phn khắc phục tình hình duy ý chí” trong
việc điều chỉnh pháp luật mà thực chất là giảm hiu lực và hiu quả pháp luật, làm
gim giá trị và uy tín ca pháp luật trong đời sống xã hội.
một bộ phn của hình thái ý thức hội, ý thức pháp luật chịu ảnh ng những
mức độ khác nhau của các yếu tố xã hội và các yếu tố nhận thức khác.
Để hiu được ý thức pháp luật của người Việt Nam để được sở cho việc hình
thành ý thức pháp luật cao và lối sống theo pháp luật, điu quan trọng là phải làm rõ
những ảnh ng ca nó trong quá khứ và hiện tại. Trong số những vấn đề cần
nghiên cứu, sự chú ý lớn nhất được dành cho ảnh hưởng của những phương thức sản
xuất, ca các hệ tư tưởng, của văn hóa, đạo đức và tập quán truyền thống, của điều
kin phát triển đất nước và các cơ chế quản kinh tế, quản hi. Đặc biệt, cũng
cần c ý cơ sở xã hội, cơ sở nhận thức của thái độ “hư vô” pháp luật, coi thường
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
pháp luật. Sự coi thường pháp luật có thể diễn ra trên tất cả các mức độ: trong quá
trình xây dựng pháp lut, trong hoạt động áp dụng pháp luật, trong đời sống hàng
ngày của mỗi cá nhân. Thái độ này, nhìn từ phía các cơ quan công quyền có thể thấy
từng xuất hin tình hình tuỳ tiện trong công việc sử dụng công cụ pháp luật để qun
hội, coi pháp luật như công cụ “bỏ túi”, khi “tiện” tdùng, khi không tiện thì
bỏ. Về mặt nhn thức, cần thấy rõ mt điu là nhà nước chỉthể thể hiện ý chí phổ
biến và uy quyềnng khai của mình thông qua pháp luật với tính cách là một loại
đại lượngtính phổ biến, có tính đin hình, tính công bằng và tính bắt buộc chung.
Thực tế cho thấy, trong nhiều năm tồn tại cơ chế tập trung, quan liêu, giá trị công
bằng, bình đẳng trong quan hệ sản xuất kinh doanh không được thể hiện rõ. Do đó,
pháp luật phản nh những giá trị đó đã không được coi trọng đúng mức. Nhưng khi
bước vào giai đoạn mi, khi các quan hệ chiều ngang, bình đẳng trong kinh tế, trong
chế độ sở hữu đang dần dần hình thành và phát trin thì có một xu hướng ngược lại.
Đó sự phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái cái mới, giữa cơ chế ca nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN vi chế tập trung, bao cấp trước đây còn chưa được
khắc phục. Trong lĩnh vực pháp luật, biu hiện tập trung nhất ca cơ chế cũ còn rơi
rớt lại, đó là sự gia tăng lượng văn bản của ngành quản , ca các cơ quan qun lý,
so với các đạo luật được Quốc hội thông qua. Các văn bản đó trong một số trường
hợp đã trở thành công cụ của lợi ích cục bộ của các bộ, ngành. Dần dần, trong suy
nghĩ của người dân, những quy định đó được coi là pháp luật, chiếm vị trí pháp luật.
Tình trạng đó đã kéo dài chế cấp phát, làm chm mt quá trình hình thành phát
triển cơ chế bình đẳng. Một phần nào đó làm giảm uy tín của pháp luật, niềm tin vào
khả năng điu chỉnh của pháp luật.
Uy tín của pháp luật sở không được đề cao, trong nhiều trường hợp còn do quan
nim sai về cơ chế tác động của nó. Cho đến nay, trong ý thức chung của nhiều người
vẫn còn ý nghĩ,thể quản xã hội, quản nhà nước bằng pháp luật thông qua
việc làm luật và chỉ dừng lại ở đó. Ban hành được một đạo luật tốt được coi là điểm
cuối của công việc. Có thể gọi đó là “ảo tưởng về luật”. Ảo tưởng đó dẫn đến chỗ,
sau khi ban hành xong luật, các cơ quan, các cá nhân có trách nhiệm không còn quan
m đến việc thi hành luật, kiểm tra, giám sát quá trình đó, tạo điều kiên cho pháp luật
đi vào cuộc sống và xem xét hiệu quả thực tế của nó. Sự nhàm chán và khinh nhờn
pháp luật cũngthể phát sinh từ đấy. Vì thế, nếu chỉ đề cao vai trò ca pháp luật,
chỉ tuyên truyền về những giá tr và khnăng của nó mà không đi lin với kiểm tra
việc thực hiện pháp luật, không quan tâm đến hiệu quả thực tế, mt mnh, mặt yếu
của nó từ khi được ban hành cho đến khi luật được áp dụng t dễ làm mất uy tín ca
pháp luật. Theo sliu điều tra gần đây của tổ chức UNDP tại Việt Nam về khả năng
tiếp cận pháp luật ca người Việt Nam cho thấy, qua phỏng vn 1000 người dân sống
ở 6 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở các vùng, miền khác nhau trên cả nước
thì 38% số người được hỏi không biết nhiều về Uỷ ban nhân dân, 7% không hề biết
về uỷ ban nhân dân, 29% số ngưi được hỏi không biết đến Toà án, 19% số người
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
biết về các cải cách pháp luật, nhưng lại tới 29% không hề biềt về các cải
cách này (chủ yếu là nhóm người có thu nhập thấp và ở nông thôn).
Bên cạnh đó, 71% không trả li được câu hỏi rằng họ thể tìm kiếm thông tin pháp
luật ở đâu1.
Trong hoạt động áp dụng pháp luật, phải triệt để thực hiện nguyên tắc về tính tối
thượng của lut, trong đó, hoạt động áp dụng pháp luật vừa bảo đảm tính sáng tạo,
vừa bảo đảm được đặt trong khuôn khổ, trên cơ sở và để thi hành Hiến pháp và pháp
luật. Ở đây, sẽ thấy rõ hơn ý nghĩa của việc giámt sự tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật trong hoạt động xây dựng pháp luật, trong hoạt động áp dụng pháp lut. Từ góc
độ của yêu cầu nâng cao ý thức pháp luật, nguyên tắc pháp chế có mt ý nghĩa rất
ln, thể hin n hoá pháp đầy đủ hơn, hơn trong đời sống hàng ngày. Pháp luật
phải trở thành chế độ pháp chế, được thhiện thông qua hoạt động của các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. Việc áp dụng pháp luật sai sẽ dẫn đến tình
trạng dân không tin vào pháp luật, dẫn đến xem thường và bỏ qua pháp luật.
2.2. Sự ảnh hưởng của các định chế xã hội như lệ làng, hương ước, luật tục.
Một trong những đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bảo đảm
tính tối cao của pháp luật. Vậy trong điều kiện Việt Nam, với đặc điểm ca phương
thức sản xuất Á Đông, với truyn thống tồn tại bền lâu của thiết chế làng xã với
những quy ước dưới dạng hương ước, lut tục hàng thế kỷ thì vấn đề bảo đảm tính tối
thượng của pháp luật như thế nào? Vai trò của hương ước, luật tục trong việc tổ chức
thực hin pháp luật ra sao? Ảnh hưởng của nó đến sự vận động và phát trin của văn
hoá pháp như thế nào?
Làng Việt Nam tồn tại qua hàng ngàn năm lịch sử thiết chế làng một trong
những yếu tố ảnh ng rất mạnh mẽ đến quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
Hương ước của vùng đồng bằng và luật tục của vùng miền núi nơi có đồng bào thiểu
số sinh sống là sự thhiện rất rõ vai trò của làng, bản, xã trong hệ thng chính tr của
xã hội và các quy định tự quản của cơ sở bên cạnh luật pháp của nhà nước. Hương
ước, luật tc được coi là một công c quan trọng góp phn quản hội trong phm
vi thôn, làng Việt Nam từ nhiều thế kỷ qua. Xét về mặt lịch sử ra đời, hương ước ở
Việt Nam xuất hiện từ thế kỷ XV, được củng cố qua các thế kỷ XVI, XVII, XVIII và
đầu thế k XX. Còn luật tục t hình thành và tồn tại theo chiều dài tồn tại của mỗi
cộng đồng dân tộc thiểu số. Trong chế độ phong kiến, hương ước cũng như luật tục
tồn tại song song vi pháp luật của nhà nước phong kiến Việt Nam.
Thực tế xây dựng và phát trin nông thôn ở nước ta trong những năm qua đã chứng
minh rằng, nếu chỉ sử dụng thuần tuý pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội ở
nông tn thì chưa đầy đủ và chưa đạt hiu quả cao. Việc xoá bỏ hương ước, xoá bỏ
vai trò của nó với tư cách là một công c để góp phần quản lý xã hội ở nông thôn là
đã bỏ qua một số nét văn hoá truyền thống, hn chế sự phát triển thun phong mỹ tục,
để lại những khoảng trống mà pháp lut cho dù hoàn thiện đến đâu cũng khồng thể
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
bao quát hết được. Đây những định chế ảnh hưởng không nhỏ đến văn hoá pháp lý
hin nay.
Đến nay, hương ước được thừa nhận trở li, luật tục thì vẫn tiếp tục thể hin thông
qua hương ước, quy ước chứng tỏ sự tồn tại của nó và đang trở thành một công c
cần thiết trong thể chế quản nông thôn. Chủ trương “khuyến khích xây dựng
Hương ước” mà Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) đã
đang trở thành phong trào nhiu địa phương trong cả nước. Hương ước được coi
như một công cụ hỗ trợ cho pháp luật để duy trì, phát triển thuần phong mỹ tục, đề
cao các chun mực đạo đức truyền thống, đề cao tính tự quản của các thôn, làng.
Điều này p hợp vi mục đích phát huy và tăng cườngn chủnông thôn của
Đảng và Nhà nước ta khi ban hành và trin khai Quy chế thực hin dân chủ ở xã
(theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/05/1998) nhằm phát huy quyền làm chủ,
sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng
cường đoàn kết nông thôn, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, góp phần vào sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hing bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện chủ
trương về xây dựng hương ước; ngày 31/3/2000, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá - Thông
tin, Ban tng trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành
Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT hướng dẫn xây dựng và thực hin hương ước,
quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụmn cư. Cho đến nay, hàng ngàn đã hương
ước theo quy định mi, góp phần tích cực vào việc củng cnhững nét văn hoá và ổn
định trật tự xã hội ở nông thôn.
Việc thừa nhận sự tồn tại của hương ước ở thôn, làng, bản, ấp (gọi chung là làng)
trong tình hình hiện nay được dựa trên những căn cứ khoa học, lịch sử, chính trị
hội, bao gồm:
Thứ nhất, con người không những chịu sự điều chỉnh của pháp luật mà các hành vi
của con người còn b chi phối bởic quy phạm khác tồn tạisức nặng nhất định
như đạo đức, tôn giáo, tập quán v.v... mà các quy định của pháp luật không thể bao
quát hết được. Trong khi đó, cộng đồng cư dân cơ sở có rất nhiều các mối quan hệ
đa dạng, phức tạp, nếu chỉ có pháp lut thôi thì chưa đủ để điều tiết. Mặt khác, trình
độ dân trí của nhânnn hạn chế và chênh lệch nhau giữa các vùng miền, giữa các
dân tộc, bản thân người nông dân lại càng chưa quen với nếp sống pháp luật. Bởi vậy,
việc y dựng hương ước ở làng sẽ góp phần đưa người dân đi dần vào k cương
phép nước, đảm bảo cho mọi người đều thực hin nghĩa vụ và quyền lợi mt cách
công bằng, hợp lý trong từng cộng đồngn cư ở cơ sở.
Thứ hai, xét vmặt lịch sử, làng là một đơn vị tụ cư ca những người nông dân tồn
tại từ lâu đờitính gắn bó, bền vững, ổn định về nhiu mặt. Tuy làng không phải là
cấp chính quyn, nhưng nó được coi là điểm nối dài trong bàn tay qun lý của chính
quyền tỉnh - huyện - xã vươn tới cơ sở. Cho đến nay, làng vẫn được coi là đơn vị t
quản (xuất phát từ yếu tố đặc thù của làng trong lịch sử tính tự quản cao). đây là
nơi cộng đồngn cư sinh sống, là nơi thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
rãi nhằm giải quyết các công việc nội bộ của thôn làng, bảo đảm đoàn kết, giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội và vệ sinh môi trường, xây dựng cuộc sống mới... Cũng từ trong
lịch sử cho thấy rằng, mỗi làng đều có lệ riêng, được ghi nhận dưới hình thức hương
ước, là sản phẩm thành văn do cộng đồng dân cư thoả thuận lập ra. Nó chứa đựng
mt hệ thống các quy phạm xã hội phong phú, đa dạng, đóng vai trò cương lĩnh tinh
thn của làng và là công cụ điều chỉnh các mối quan hệ trong nội bộ cộng đồng dân
cư ở thôn làng.
Thứ ba, quá trình xây dựng hương ước đã phn ánh tínhn chủ của nó. vmt nội
dung, hương ước chứa đựng những vn đề cơ bản liên quan đến đời sống, quyền lợi
nghĩa vụ của dân trong làng, thể hin nhu cầu nguyện vọng của thôn làng, về
nguyên tắc xây dựng các quy phạm tự qun, tính dân chủ thhiện ở chỗ các quy
phạm này do chính các cư dân trong làng tự nguyện thoả thun ý chí cùng hình thành
và thống nhất với nhau. Có thể nói, nét bản sắc của hương ước xét từ góc độ quyền
làm chủ của nhân dân ở cơ sở chính là việc bản thân các cư dân đó đu có quyền
tham gia bàn bạc, xây dựng các quy định của hương ước, cùng thống nhất vi nhau
trên tinh thn bình đẳng, n chủ. Cũng bởi vậy, hương ước luôn được mọi người tự
nguyện, tự giác thực hiện.
Nhưng cũng cần phi làm gii hạn can thiệp, phạm vi, mức độ ảnh hưởng ca
hương ước đối với đời sống hội nông thôn trong điều kiệny dựng Nhà ớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về nguyên tắc, pháp luật giữ vị trí chủ đạo trong việc điu chỉnh các mối quan hệ
trong xã hội ở nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề trong xã hội phát
síih mà pháp luật chưa điu chỉnh hoặc pháp luật đã có những quy định chung nhưng
chưa vươn tới sở, nên thể rất cần sự can thiệp của những quy ước do thành viên
các thôn, làng tự nguyện thoả thuận đặt ra. Bên cạnh đó, mi dân tộc, mỗi vùng dân
cư có những phong tục, tập quán truyn thống tốt đẹp cần lưu giữ trong tâm hồn con
người mà pháp luật không thể điều chỉnh cụ thể. Bởi vậy, phát huy vai trò của hương
ước cùng với pháp luật trong quản hi sẽ tạo điều kiện nâng cao nhận thức pháp
luật cho qun chúng nhân dân, đồng thời giữ gìn bản sắc truyền thống văn hoá của
dân tộc.
Hội nghị ln thứ 5 Ban chấp nh Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá VII đã
chủ trương khuyến khích xây dựng và thực hiện ơng ước, phát huy tính tự quản
của nhânn trên cơ sở quyn làm chủ của họ trong những lĩnh vực mà pháp luật
không điều chỉnh coi đó như một công cụ qun quan trọng của nhà nước đối với
xã hội. Tuy nhiên, cần phi có những định hướng c thể để hương ước thực sự là một
công cụ hỗ trợ cho pháp luật trong việc quản lý nhà nước ở nông thôn.
Mặc mt văn bản quy phạm xã hội do cộng đồng dân cư thoả thuận cùng nhau
xây dựng, song hương ước với cách một công cụ hỗ trợ tích cực cho quản nhà
nước ở nông thôn, cho nên, nội dung và trình tự soạn thảo hương ước cũng cần phải
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
tuân theo sự quy định ca pháp luật như Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày
11/05/1998 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã; Pháp lệnh dân
chủ ở cơ sở năm 2007, Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 19/06/1998 của Thủ tướng Chính
phủ quy định vviệc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước; Thông tư liên tịch
của Bộ pháp, Bộ n hoá - Thông tin Ban thường trực uỷ ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam như đã nói ở trên.
Nội dung ca hương ước phải có sự phân biệt rõ ràng với pháp luật. Pháp luật
những quy địnhtính chất bắt buộc chung đối vi mọi thành viên khi tham gia các
quan hệ hội. Còn hương ước chỉ quy ước tự thoả thuận mang tính tự nguyện của
cư dân trong phạm vi thôn làng. ơng ước chỉthnằm trong phạm vi những
mà pháp luật không điều chỉnh và được thực hin một cách tự nguyện. Quy định xử
phạt của hương ước chỉ là nghĩa vụ tự nguyện, tự nguyên đóng góp, tự nguyện chịu
trách nhiệm. Về bản chất, quy định xử phạt ca hương ước chỉ có thể mang tính giáo
dục, tự nguyện, không thể ẩn dưới các hình thức của quy định xử phạt như pháp luật.
Các nghĩa vụ đặt ra đối vi cư dân thôn làng cũng không được vượt ra ngoài khuôn
khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật. Ở đây, cần xác định rõ mối quan hệ giữa
hương ước và pháp luật để tìm ra con đường, pơng thức tác động qua lại, bổ sung
hỗ trợ nhau giữa “lệ làng” và “phép nước”, tạo ra hành lang pháp lý chun mực cho
hương ước. Một nhà nước mạnh thì không thể hin tượng lệ làng thắng phép vua”
như ở thời k của các nhà nước suy vong.
Các quy định của hương ước phải khuyến khích duy trì và phát triển thuần phong m
tục, định ng các nội dung sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng, xây dựng nếp sống văn
hoá mới, củng cố tình làng nghĩa xóm, đoàn kết tương thân, tương ái, tạo ra sự phong
phú, đa dạng, đáp ng nhu cầu n hoá tinh thần của n trong cộng đồng của một
xã hội côngn.
Vì vậy, cần đặt hương ước trong mối liên hệ với các thiết chế chính trị - xã hội ở
nông thôn, đề cao tính tự quản, thể hin được tinh thần tự nguyện thoả thuận ý chí
của tập thể cộng đồng dân cư trong những thôn, làng nhất định và đó chính là một
trong những hình thức thực hin dân chủ nét nhất nông thôn Việt Nam hiện nay,
nơi có đa số dân cư sinh sống.
2.3. Ảnh hưởng ca Nho giáo.
Lịch sử đã chỉ rõ, ngay sau khi được chính quyền phong kiến Việt Nam thừa nhn
làm nền tảng tư tưởng và đường li trị trước, Nho giáo đã phát huy được tác dụng,
đóng vai trò tích cực nhất định trong hi. Nho giáo đã nêu lên được một số những
nguyên lý, những nguyên tắc, một số đường lối và phương pháp có thể bảo đảm cho
xã hội một sự ổn định nhất định để phát triển. Với những nguyên lý đó, Nho giáo
thực sự đã một động lực n định yà phát triển xã hội. Nó giúp chấm dứt tinh trạng
chia cắt và chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến mà chế độ kinh tế - chính tr
phong kiến tông pháp luôn là nguyên nhân tạo ra. Nó thống nhất được quốc gia đa
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
dân tộc như Trung Hoa đất rộng, người đông, làm cho quốc gia này sự cố kết bên
trong và đủ sức chống được nn ngoại xâm từ phương Bắc và Tây Bắc tràn tới.
hạn chế được một phần tốc độ phân hóa giàu nghèo và sự bóc lột tàn nhẫn vốn gn
lin với chế độ xã hội đó, làm cho xã hội sự ổn định để phát trin sản xuất.
Ngoài những mặt tiến bộ, ưu điểm, Nho giáo cũng nhiều hn chế, ảnh hưởng
không nhỏ tới xã hội ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Cụ th:
Thứ nhất, Nho giáo không coi trọng mi quan hệ hội - mi quan hệ giữa con người
với con người nên không tạo cho mối quan hệ này phát triển. Nho giáo chỉ chú trọng
tới mối quan hgia đình, quan hệ nhà nước.
Việc ly quan hệ gia đình áp dụng trong quan hệ hội lấy quan hệ hội áp dụng
trong quan hệ gia đình, việc biến nhà nước, biến cả xã hội trở thành gia đình là một
đặc điểm của Nho giáo.
Thứ hai, Nho giáo thủ tiêu đấu tranh vì công . Trong lịch sử nhân loại, đấu tranh
cho công bằng, cho tự do, cho bình đẳng một động lực phát triển của hội đây
cũng chính là chủ nghĩa nhân đạo.
Quan niệm của Nho giáo gia đình, hội nhà nước như nhau nên không cần
việc đấu tranh vì công lý. Trước đây, khi gặp cái gì kng vừa ý, bất công, người ta
thường đòi được thông cảm, đòi được chiếu cố, chứ không phải m cho ra lẽ. Do
vậy, ở xã hội lúc đó chỉ có sự bất bình, tiết lộ cái uất ức và đồng thi mong được
người ta chiếu cố chứ khôngđấu tranh cho công bằng, cho bình đẳng nên thiếu
động lực làm cơ sở cho xã hội phát triển.
Thứ ba, Nho giáo không đề cao nhân con người. Nho giáo đã đồng nhất nhân
với cộng đồng. Con người mà Nho giáo đề cập tới là con người không mưu cầu
hạnh phúc, nếu ai đòi hỏi hnh phúc thì người đó khôngđạo đức.
Do có quan niệm này nên người phương Đông rất ít khi dám i tới hạnh phúc, bởi
nếu nói gì đụng đến sự sung sướng như: ăn ngon, mặc đẹp, tình yêu nam nữ... thì b
coi ti tiện, không thanh cao. Nho giáo khuyến khích con người sống an bần lạc
đạo”, tự hào với hoàn cảnh nghèo khó, coi khinh tin bạc, giàu sang. Và đây hn
chế, không làm cho xã hi tiến lên được.
Thứ tư, Nho giáo ít đề cao tài mà thường là đề cao đức. Dư âm này vẫn còn tồn tại
dai dẳng trong hội ta. Ch đề cao đức, không coi trọng trí tu sức lao động trong
xã hội là một hạn chế ln của tư tưởng Nho giáo. Đó là chưa kể đến những triết lý
sống ca Nho giáo đã tạo thành những lớp lang thâm căn cố để trong tiềm thức văn
hoá ứng xử của con người. Nho giáo tác động thuận chiều, đồng thời cũng tác động
nghịch chiều đến văn hoá pháp , “bó” văn h pháp trong sắc màu của Nho giáo.
2.4. Tác động của hệ thống pháp luật
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
Một trong những quan điểmbản của việc xây đựng và hn thiện Nhà ớc cộng
hoà xã hi chủ nghĩa Việt Nam đã được xác định trong Báo cáo chính trị tại Đại hội
VIII Tăng cường pháp chế hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam. Quản hội bằng pháp luật,…” Quan đim này lại tiếp tục được khẳng định
trong Báo cáo chính tr tại Đại hội IX,Kin toàn tổ chức, đổi mới phương thức và
nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập
pháp, xây dựng chương trình dài hn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi
mi quy trình ban hành và hướng dẫn thi hành luật” . Chiến lược xây dựng và hoàn
thin hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 theo
Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị và Đại hội đại biu toàn quốc lần thứ X tiếp tục
khẳng định nhiệm vụ này. Để hoàn thiện hệ thng pháp luật t phải tiến hành đồng
loạt đối với ba phạm vi thể hiện của nó, đó là các quy định pháp luật, thực tin áp
dụng pháp lut, ý thức pháp luật. Các quy định pháp lut phải thể hin một trình độ
văn hoá pháp lý cao, tạo thành một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai và minh bạch, vừa phản ánh sự kết hợp hài hoà bản sắc văn hoá truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, vừa thể hiện được tính hiện đại, đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế, bảo đảmmức cao nhất quyền con người, quyn công dân.
Chất lượng và sự hoàn thin của hệ thống pháp luật mặc dù phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, nhưng có mt yếu tố rất quan trọng, đó là vai trò to lớn của kỹ thuật lập pháp. Kỹ
thut lập pháp những biu hin của n hoá, văn minh nhân loại, lịch sử phát
triển từ xa a luôn luôn được kế thừa, đòi hỏi ban hành những văn bản pháp luật
với những quy định c thể, dễ hiểu, dễ thực hiện. Giảm dầnc luật, pháp lệnh chỉ
dừng lạinhững nguyên tắc chung, muốn thực hin được phải có nhiều văn bản
hướng dẫn thi hành” . Và từ đó, xây dựng mt hệ thống pháp luật công khai, minh
bạch, dễ hiểu, dễ thực hin, đủ sức điu chỉnh các quan hệ căn bản trong xã hội. Đây
cũng chính là sự đòi hi về việc kết hợp đúng đắnc mức độ điều chỉnh của pháp
luật đối với các quan hxã hội khi ban hành pháp luật. Thiếu sự kết hợp đó sẽ không
thtránh khỏi sự chậm trễ hoặc kém hiu lực của việc thi hành và áp dụng pháp luật.
2.5. Những yếu tố đương đại nh hưởng đến quá trình hình thành, tồn tại phát
triển ca văn hóa pháp lý.
Trong thời gian qua, quan hệ sản xuất của nước ta đã những bước đổi mới phù hợp
hơn với trình độ phát trin của lực ng sản xuất và đã thúc đẩy sự hình thành nền
kinh tế thị tng định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, quan hệ kinh tế vi hầu
khắp các nước trên thế gii của nước ta cũng rất phát triển. Như vậy, có thể thy, đây
là cơ sở cho việc tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dânnước ta.
Khi đề cập đến sở xã hi của sự chi phối đối vi việc xây văn hoá pháp lý, chúng
ta đã biết đến hai hệ qu ca sự phát trin phân công lao động trong nền kinh tế hàng
hoá. Thứ nhất, sự phát triển nhu cầu dân chủ hoá trong kinh tế. Kinh tế hàng hoá là
phương thức xã hội hoá mọi hoạt động sản xuất và tiêu dùng của con người. Thông
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
qua trao đổi và cạnh tranh, người ta thừa nhận lợi ích của nhau, đồng thời cũng hình
thành các tớc đo xã hội. Các quan hệ trao đổi này dần dần được nhận thức và thể
chế hoá về mặt nhà nước. Thứ hai, đó sự biến đổi cấu hội - dân cư. Từ đó đã
hình tnh nên mi quan hệ các lợi ích, các nhu cầu, địa vị xã hi của các tầng lớp,
giai cấp khác nhau. Trong những năm gần đây, đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng
động trong xã hội được nâng lên đáng kể. Như vậy, thể thấy, đây là tiền đề, cơ sở
quan trọng cho việc xây dựng văn hoá pháp hiện nay.
Tuy nhiên, những thành tựu tiến bộ đã đạt được về mt kinh tế - xã hội trong thời
gian qua ca đủ để ợt qua tình trạng nước kém phát triển, chưa tương xứng với
tim năng của đất nước. Lực lượng sản xuất còn thấp, quan hệ sản xuất có mặt chưa
phù hợp, hạn chế việc gii phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Đời sống một bộ
phận nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, số lao động chưa có việc làm và thiu việc
làm còn ln. Như vậy, có thể thy, nước ta mi bắt đầu phát triển kinh tế hàng hoá,
trình độ phân công lao động hội còn thấp, cấu hội mi chưa hình thành, các
quan hệ kinh tế - xã hi mi đang ra đời vi nhiều khiếm khuyết. Điều này vn còn
ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển của văn hoá pháp lý.
2.6. Ảnh hưởng ca những yếu tố quốc tế
Tình hình thế giới đang đứng trước những biến đổi sâu sắc, phức tạp và khó lường,
tác động đến mọi quốc gia dân tộc trên tất cả các lĩnh vực đời sống hội. Nhất là
sau khi chế độ hi chủ nghĩa Liên Đông Âu sụp đổ, cục din thế giới thay
đổi. Mặcvy, chủ nghĩa hội vẫn điều kiện kh năng phát triển, vẫn con
đường tất yếu của các dân tộc. Chủ nghĩa tư bản đang chiếm ưu thế vvốn, khoa học
công nghệ, thị trường, song trong lòng nó chứa đầy mâu thuẫn kng thể điều hoà
được. Các mâu thuẫn cơ bản của thời đại tiếp tục tồn tại, có nhiều mặt sâu sắc hơn.
Các nước theo xu hướng độc lập dân tộc tiếp tục và kiên trì đấu tranh để tự lựa chn
con đường đi chon tộc mình phợp với xu thế thời đại. Thế giới đã đang đứng
trước những vấn đề toàn cầu cấp bách như: môi trường sinh thái, bùng nổ dân số, đẩy
lùi bệnh tật him nghèo, khủng bố quốc tế... Cách mng khoa học công nghệ thế gii
tiếp tục phát triển mnh mẽ, xu thế toàn cầu hoá, nht toàn cầu hoá về kinh tế đã và
đang tác động đến mi quốc gia. Xu thế hoà bình, hợp tác tuỳ thuộc lẫn nhau cùng
phát triển trở thành nhu cầu và mênh lnh của các quốc gia dân tộc. Đặc biệt gần đây
tình hình thế gii ng biến đổi, sau sự kiện 11/9 (ở Mỹ), Mỹ đồng minh tiến công
và chiếm đóng Irắc... Điều đó tác động đến mọi quốc gia dân tộc, nhất là những nước
nhỏ chịu sức ép ca tình hình quốc tế rất mạnh mẽ, trên tất cả các phương diện chính
trị - tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và an ninh, trong đó có Việt Nam.
thể thy những yếu tố quốc tế tác động đến quá trình xây dựng Nớc pháp
quyền xã hi chủ nghĩa Việt Nam hiện nay như sau:
Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Mai
Thứ nhất, cách mng khoa học và công nghệ phát trin như vũ bão - cơ sở phát triển
mnh mlực lượng sản xut đòi hỏi mở rộng quan hệ sản xuất trên quy mô toàn cầu,
phù hợp vi sự phát triển và xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Cách mạng khoa học
công nghệ trở thành lực ng sản xuất trực tiếp vi sự phát triển của công nghệ sinh
học, công nghệ thông tin, công nghvật liu mới... tạo cơ sở vật chất, phương tin để
các quốc gia dân tộc hiểu biết nhau hơn, khắc phục khoảng cách giữa họ. Đặc biệt,
nền kinh tế tri thức phát trin làm thay đổi căn bản trong tư duy và cơ chế vn hành
của xã hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò quan trọng trong qun lý xã hội của
nhà nước. Trình độ làm chủ thông tin và tri thức có ý nghĩa quyết định đến sự phát
triển của hội. Như vậy, cách mng khoa học công nghệ tạo ra thời thách thức
rất lớn đối vi các nước, nhất những nước nghèo như chúng ta. Việc xây dựng và
phát triển văn hoá pháp luật còn là quá trình xây dựng, hoàn thiện để khắc phục
những hạn chế nội tại, do đó, cách mạng khoa học công nghệ tạo cơ hội cho q trình
này là:
- hội giao lưu tiếp biến, kế thừa kinh nghiệm ứng dụng tiến bộ khoa học -
công nghệ trên cả ba lĩnh vực: lập pháp, hành pháp pháp, kể cả phương din
lun cũng như thực tiễn.
- hội mở rộng quan hệ song pơng đa phương, tận dụng sự giúp đỡ, vin
trợ, hợp tác của các nước phát triển.
Thứ hai, toàn cầu hoá là xu thế khách quan, nhất là toàn cầu hoá kinh tế lôi cuốn tất
cả các nước, bao gm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng cường sức
ép cạnh tranh gay gắt và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước. Toàn cầu hoá vừa có
tính tích cực, vừa có tính tiêu cực, vừa tạo cơ hội và thách thức rất lớn đối với các
nước. Toàn cầu hoá và hội nhp vững chắc của Việt Nam là nhu cầu cần thiết hết sức
cấp bách, tạo cơ hội để tăng trưởng và phát triển bền vững. Toàn cầu htạo sự m
rộng giao lưu song phương và đa phương, tạo cơ hội tiếp cận vốn, công nghệ, kinh
nghiệm quản lý nhm khai thác tiềm năng trong nước để phát triển, tạo ra đòi hỏi, đặt
ra nhu cầu ngặt nghèo đối với nhà nước trong thực thi chức năng, nhiệm vụ ca mình,
nhất là xây dựng, củng cố và phát triển văn hoá pháp lý lành mnh, tiên tiến với bản
sắc và diện mạo riêng ca Việt Nam.

Preview text:

Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
Môn 1: Cơ sở văn hóa Việt Nam Nội dung môn học: Học liệu:
1. Cơ sở văn hóa Việt Nam – Trần Ngọc Thêm Phương pháp học:
1. Tần suất trả lời càng nhiều thì mức độ cộng điểm càng cao
2. Hình thức thi: tự luận hoặc tiểu luận
3. Tự đọc tài liệu theo gợi ý của giảng viên, giảng viên chỉ giảng về những vấn đề
khó hiểu, cách khai thác vấn đề; sinh viên tự khai thác ở nhà Cấu trúc môn học:
I – Đại cương về VHH (giáo trình) 1. Các khái niệm
2. Các thuộc tính cơ bản
3. Cấu trúc, thành tố, loại hình
4. Phương pháp tiếp cận II – Văn hóa Việt Nam 1. Tọa độ văn hóa VN 2. Diễn trình văn hóa VN
3. Không gian vùng văn hóa VN 4. Văn hóa vật chất 5. Văn hóa tinh thần
6. Văn hóa tổ chức đời sống Nội dung bài học: I – 1. Các khái niệm
- Các lớp nghĩa VH thường dùng:
o Nghĩa thường dùng: để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống, giai
đoạn phát triển lịch sử (VD văn háo ĐÔng Sơn),…
o Nghĩa rộng: VH bao gồm tất cả, từ sản phẩm văn minh cho đến đời sống
tinh thần, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lao động, pháp luật,… của một xã hội con người - VH có tính đa nghĩa
o Có đến 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa
o Định nghĩa của Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội.
➔ Tóm lại: VH bao gồm tất cả yếu tố cấu thành nên đời sống con người:
o Đời sống tinh thần, văn hóa nghệ thuật, sinh hoạt tâm linh, tôn giáo
o Ứng xử của con người với thiên nhiên, con người với con người và cộng đồng rộng lớn
o Phương thức thể hiện tri thức bản địa, phương thức sinh kế
o VH là sp do con người tạo ra, có thể chi phối, quyết định sự tồn tại, bản
sắc và sự phát triển bền vững của một cộng đồng người.
- Phân biệt văn hóa – văn minh – văn vật – văn hiến Khái Văn vật Văn hiến Văn hóa Văn minh niệm
Thiên về giá trị Thiên về giá trị Chứa cả giá trị Thiên về giá trị Giá trị vật chất tinh thần vật chất và tinh vật chất – kỹ thần thuật Lịch Có bề dày lịch sử Chỉ về trình độ sử phát triển Thuộc
Có tính dân tộc (tính dân tộc mạnh mẽ nhất ở văn Có tính quốc tế tính
hiến; văn hóa có tính quốc tế nhiều hơn) cộng đồng Vùng
Gắn liền với phương Đông, nông nghiệp Gắn liền với địa lý, tổ phương Tây, chức xã đô thị hội - Mở rộng:
o “Phong kiến”: cất đất chia cho vương hầu, mỗi vương hầu tự cai quản;
đế chỉ cai quản các vương hầu
o “Quân chủ trung ương tập quyền”
- Khái niệm trong môn văn hóa học (giáo trình)
- Những vấn đề nghiên cứu văn hóa:
o Tính chủ thể và bản sắc
o Tính sắc tộc, chủng tộc và dân tộc
o Tình dục, tính chủ thể và sự thể hiện
o Truyền hình, văn bản và khán giả
o Truyền thông kĩ thuật số
o Không gian văn hóa và địa điểm thành thị
o Tuổi trẻ, phong cách và sự kháng cự
o Chính trị văn hóa và chính sách văn hóa
- Các thuộc tính cơ bản của VH (giáo trình phần I) o Tính hệ thống: Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
▪ Đặc trưng cần có của VH. VH có tính hệ thống, tức không chỉ là một tập hợp
▪ Nhờ có tính hệ thống, mà VH với tư cách là một thực thể bao trùm
mọi hoạt động xã hội đã thực hiện được chức năng tổ chức xã hội của nó. o Tính giá trị o Tính nhân sinh o Tính lịch sử
- Cấu trúc VH – mô hình trộn lẫn của TNT (giáo trình – đọc và giải thích)
- Các thành tố văn hóa – Trần Quốc Vượng
- 2 loại hình văn hóa cơ bản: du mục và nông nghiệp
- Tuần sau: định vị và văn hóa thành tố
Nhu cầu chữ viết là của tầng lớp trung lưu, dân lao động chỉ là tiếng nói. Nhu cầu chữ
viết thuộc về tinh thần (âm nhạc, văn thơ; ng ld có ca dao tục ngữ
Chương III: Mối quan hệ giữa văn hóa truyền thống và pháp luật
I – Đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam
- Nền vh hình thành từ nền tảng nông nghiệp trồng lúa nước
- Nền văn hóa trọng nông, xa rừng, nhạt biển
- Nền văn hóa ậm tính cộng đồng, tự trị của văn hóa làng xã
- Nền văn hóa đề cao giá trị văn hóa gia đình truyền thống
- Nền văn hóa thấm đậm, bao trùm tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia – dân tộc
- Nền văn hóa mở, thích ứng và tiếp biến hài hòa các nền văn minh nhân loại
II – Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật
1. Ảnh hưởng của văn hóa nông nghiệp lúa nước
• Đặc trưng của văn hóa phương Đông.
a. Cơ sở hình thành: Văn hóa trồng trọt
- Địa hình: đồng bằng (ẩm, thấp); sông ngoi chằng chịt; khí hậu nóng, ẩm mưa
nhiều; có nhiều đồng bằng phì nhiêu màu mỡ
- Nghề nghiệp: trồng trọt
- Cách sống: Định cư, không thích di chuyển -> trọng tĩnh
⇨ Văn hóa nông nghiệp trồng trọt (lúc nước)
- Ứng xử với môi trường tự nhiên: Tôn trọng, sống hòa hợp với thiên nhiên
- Lối nhận thức tư duy: Thiên về tổng hợp và biện chứng (trong quan hệ); chủ
quan, cảm tính và kinh nghiệm Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
- Tổ chức cộng đồng: Cuộc sống định cư tạo nên tính cộng đồng cao -> Trọng
tình, trọng đức, trọng văn, trọng nữ. Linh hoạt và dân chủ trong cộng đồng ⇨ Văn hóa trọng tĩnh
b. Ảnh hưởng tích cực:
- Tính cách mềm dẻo, lối ứng xử linh hoạt
- Tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng tạo nên sức mạnh
- Giản dị, khoan dung, nhân ái - Tư duy dung hòa c. Hạn chế
- Tính cộng đồng của văn hóa làng xã -> ý thức con người, ý chí cá nhân bị thủ
tiêu; thói dựa dẫm, ỷ lại, “nước nổi bèo nổi”, tư tưởng cầu an, cả nể, sợ “rút
dây động rừng”; chủ trương đóng cửa dạy nhau, thói cào bằng, đố kỵ
- Tính tự trị -> tư hữu, ích kỷ. Bè nhà ai người ấy chống, ai có thân thì lo, “của
mình thì giữ bo bo, của người thì để cho bò nó ăn”
- Nguyên tắc tổ chức nông thôn theo huyết thống -> tư tưởng gia trưởng, tôn ty,
tạo nên tâm ý quyền huynh thế phụ, áp đặt ý muốn của mình vào người khác;
“sống lâu ra lão làng”,…
- Văn háo tiểu nông tư duy manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tư duy lý luận lĩnh vực
hoạch định chính sách pháp luật, soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật và
thực thi pháp luật; sự tùy tiện, chủ quan, cảm tính, sự thiếu đồng bộ và nhất
quán trong việc soạn thảo ban hành các văn bản pháp luật cũng như việc tổ
chức và thực thi pháp luật (nhiều quy phạm mâu thuẫn, không tạo ra lộ trình
mở rộng quy phạm vì không đi từ gốc; phải học tập kĩ thuật lập pháp nước
ngoài vì tư duy mình không tự nhận thức được)
2. Ảnh hưởng của Nho giáo
- Quan điểm trị nước của Nho giáo: Lễ, nhạc, hình, chính
- Ảnh hưởng đến văn hóa người Việt
o Lễ -> người Việt sống điều độ, chừng mực, biết kính trên nhường dưới
(sống quần cư trong đơn vị làng xã)
o Nhạc -> chế ước, điều hòa, làm con người tương thân, tương kính nhau
- Ảnh hưởng đến pháp luật việt nam: Quốc triều hình luật:
o Điều chỉnh những quan hệ cơ bản: kết hôn, ly hôn, quan hệ nhân thân và
quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái => bảo vệ chế
độ tông pháp, bảo vệ thuần phong mỹ tục của dtoc
o Đạo đức được coi là cái gốc để điều chỉnh hành vi của con người (trung – hiếu)
o Hình phạt, phạt để người vpham pluat điều chỉnh hành vi, kphai nhằm nhục mạ, áp đặt
o 315/722 điều -> thể hiện đặc trưng văn hóa việt Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
- Chỉ tuân thủ quy tắc khi có sự cưỡng bức chứ không phải ý thức hay thượng
tôn pháp luật. Con người chỉ coi pluat là 1 giải pháp khi không có biện pháp nào giải quyết nữa
o Áp dụng tập quán trong xét xử
o Quyền bình đẳng về tài sản
o Quyền sở hữu với tài sản riêng
o Quyền sở hữu với tài sản chung
o Trách nhiệm của người chồng với gia đình
▪ Điều 308: “Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ
được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng) thì mất vợ” o Hình phạt nhân đạo:
▪ Điều 1 quy định trượng hình chỉ đàn ông phải chịu: “từ 60 đến
100 trượng, chia làm 5 bậc: 60 trượng, 70 trượng, 80 trượng, 90
trượng, 100 trượng, tùy theo tội mà thêm bớt. Xử tội này có thể
cùng với tội lưu, tội đồ, biếm chức, hoặc xử riêng chỉ đàn ppng phải chịu.”
▪ Điều 680: “đàn bà phải tội tử hình trở xuống nếu đang có thai, thì
phải để sinh đẻ sau 100 ngày mới đem hành hình thì ngục quan bị
xử biếm hai tư; ngục quản bị đồ làm bản cục đinh. Dù đã sinh rồi,
nhưng chưa đủ hạn một trăm ngày mà đem hành hình, thì ngục
quan và ngục lại bị tội nhẹ hơn tội trên hai bậc. Nếu đã đủ 100
ngày mà không đem hành hình, thì ngục quan hay ngục lại bị tội biếm hay tội phạt
o Chính sách khoan hồng: Khi phạm tội chưa già cả tàn tật, đến khi già cả
tàn tật mưới bị phát giác thì xử theo luật già cả tàn tật. Khi ở nơi bị đồ
thì già cả tàn tật cũng thế. Khi còn bé nhỏ đến khi lớn mới phát hiện thì
xử tội theo luật lúc còn nhỏ
- QUốc triều hình luật còn thể hiện chính sách khoan hồng đối với người phạm
tội tuy chưa bị phát giác và tự thú trước (trừ phạm tội thập ác hoặc giết người):
o Điều 18 và điều 19: “phàm ăn trộm tài vật của người sau lại tự thú với
người mất của thì cũng coi như là thú ở cửa quan”
o Điều 21,22,23,24 quy định cho chuộc tội bằng tiền (trừ hình phạt đánh
roi vì cho rằng đánh roi có tính chất răn bảo dạy dỗ nên không phải cho chuộc
- Tội không tố giác tội phạm, trừ trường hợp con cái/ ông bà tố giác cha mẹ
- Từ bi hỉ xả, tự trả quả báo\
NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HOÁ PHÁP LÝ VIỆT NAM PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai 1.
Những vấn đề chung về phương pháp tiếp cận.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) và Nghị quyết Hội nghị BCH Trung
ương Đảng lần thứ 5 (Khoá VIII) đã đề ra nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: “tiếp
tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội,
làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Đó là một trong
những định hướng phát triển lớn của đất nước đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
Trong nền văn hoá ấy, văn hoá pháp lý có vai trò rất quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn
tới quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bởi vì văn
hoá pháp lý là một trong những tiêu chí để đánh giá về trình độ văn minh, dân chủ, về
sự chặt chẽ của kỷ cương, pháp luật trong mỗi quốc gia.
Văn hoá pháp lý được nhận diên theo ba yếu tố hợp thành, đó là: a/ ý thức pháp luật;
b/ hệ thống pháp luật; c/ hành vi, lối sống theo pháp luật của từng cá nhân, cộng đồng
và cách thức, trình độ sử dụng các công cụ pháp luật của nhà nước trong quá trình
quản lý nhà nước và xã hội. Cũng như những bộ phận khác của nền văn hoá dân tộc,
văn hoá pháp lý Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện để vừa mang tính tiên tiến,
vừa thể hiên bản sắc dân tộc, góp phần thiết thực vào việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ở
khía cạnh quan hệ giữa văn hoá pháp lý với những đặc trưng cơ bản như việc bảo
đảm tính tối cao của luật, trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân, nền tư pháp
độc lập…, có thể thấy rõ sự tác động và ảnh hưởng trực tiếp của văn hoá pháp lý tới
hoạt động lập pháp và tổ chức thi hành pháp luật.
Có thể thống nhất về phương pháp luận về quy luật hình thành và phát triển của văn hoá pháp lý như sau:
Bất kỳ một nền văn hoá pháp lý nào cũng đều bị tác động của hoàn cảnh lịch sử và
mang dấu ấn của thời đại. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của văn hoá pháp lý vì
thế chịu sự ảnh hưởng của đặc điểm, tính chất thời đại. Trước hết, quá trình hình
thành của văn hoá pháp lý chịu sự tác động của kinh tế, đặc biệt là sự vận động của
hình thái kinh tế - xã hội. Sau nữa, quá trình này có mối quan hệ sâu sắc với diễn biến
chính trị, tư tưởng của thời đại, đặc biệt là hộ tư tưởng và vai trò lịch sử của giai cấp
đang chiếm vị trí trung tâm. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định lực lượng sản xuất
là nhân tố đầu tiên và sâu xa tạo nên động lực phát triển xã hội nói chung và văn hoá
nói riêng, trong đó có văn hoá pháp lý. Cùng với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
là nền tảng để xây dựng kiến trúc thượng tầng về chính trị, pháp lý, văn hoá... cùng
các thể chế và thiết chế tương ứng. Khi nói đến vai trò của kinh tế đối với đời sống xã
hội, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh đến tính chất xã hội của các quan hệ sản
xuất, trước hết là quan hệ sản xuất giữ vai trò thống trị xã hội. Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
Quá trình hình thành văn hoá pháp lý chịu sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Mối quan hệ cơ sở kinh
tế - kiến trúc thượng tầng - văn hoá là quan hệ nhân quả, vừa tạo ra sự phát triển của
xã hội, vừa tạo ra sự hoàn thiện cho từng nhân tố trong mối quan hệ biện chứng giữa chúng với nhau.
Mặt khác, truyền thống dân tộc cũng có ảnh hưởng nhất định đến quá trình hình
thành văn hoá. Nếu kế thừa, phát huy được các giá trị truyền thống và kinh nghiệm
lịch sử của dân tộc sẽ làm cho văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc hơn.
Trong quy luật phát triển đó của văn hoá, có những yếu tố tác động và ảnh hưởng rõ
rệt. Dưới đây sẽ phân tích các yếu tố này: 2.
Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển văn hoá pháp lý.
2.1. Ý thức pháp luật và ảnh hưởng của nó đến quá trình hỉnh thành và phát triển văn hoá pháp lý.
Để giữ gìn trật tự xã hội, cần tạo lập được một thói quen trong đời sống xã hội, đó là
thói quen chấp hành pháp luật, thái độ thượng tôn pháp luật. Nghĩa là phải xây dựng
được ý thức chấp hành pháp luật ở trình độ cao của tất cả các thành viên trong xã hội.
Ý thức pháp luật - đó là trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân về pháp luật. Đó
còn là thái độ đối với pháp luật như tôn trọng hay coi thường pháp luật, thái độ đối
với những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm .
Xây dựng ý thức pháp luật, hình thành lối sống theo pháp luật chỉ có được định
hướng đúng và với nội dung phù hợp khi xã hội, nhà nước và mỗi công dân hiểu hết
và hiểu đúng đắn tính chất của pháp luật, các mối liên hệ của pháp luật với những
chuẩn giá trị và các công cụ điều chỉnh khác của xã hội. Điều đó góp phần khắc phục
tư tưởng coi thường pháp luật, thái độ “hư vô” pháp luật - điều đáng lo lắng nhất
trong đời sống xã hội, đồng thời cũng góp phần khắc phục tình hình “duy ý chí” trong
việc điều chỉnh pháp luật mà thực chất là giảm hiệu lực và hiệu quả pháp luật, làm
giảm giá trị và uy tín của pháp luật trong đời sống xã hội.
Là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật chịu ảnh hưởng ở những
mức độ khác nhau của các yếu tố xã hội và các yếu tố nhận thức khác.
Để hiểu được ý thức pháp luật của người Việt Nam và để có được cơ sở cho việc hình
thành ý thức pháp luật cao và lối sống theo pháp luật, điều quan trọng là phải làm rõ
những ảnh hưởng của nó trong quá khứ và hiện tại. Trong số những vấn đề cần
nghiên cứu, sự chú ý lớn nhất được dành cho ảnh hưởng của những phương thức sản
xuất, của các hệ tư tưởng, của văn hóa, đạo đức và tập quán truyền thống, của điều
kiện phát triển đất nước và các cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Đặc biệt, cũng
cần chú ý cơ sở xã hội, cơ sở nhận thức của thái độ “hư vô” pháp luật, coi thường Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
pháp luật. Sự coi thường pháp luật có thể diễn ra trên tất cả các mức độ: trong quá
trình xây dựng pháp luật, trong hoạt động áp dụng pháp luật, trong đời sống hàng
ngày của mỗi cá nhân. Thái độ này, nhìn từ phía các cơ quan công quyền có thể thấy
từng xuất hiện tình hình tuỳ tiện trong công việc sử dụng công cụ pháp luật để quản
lý xã hội, coi pháp luật như công cụ “bỏ túi”, khi “tiện” thì dùng, khi không “tiện” thì
bỏ. Về mặt nhận thức, cần thấy rõ một điều là nhà nước chỉ có thể thể hiện ý chí phổ
biến và uy quyền công khai của mình thông qua pháp luật với tính cách là một loại
đại lượng có tính phổ biến, có tính điển hình, tính công bằng và tính bắt buộc chung.
Thực tế cho thấy, trong nhiều năm tồn tại cơ chế tập trung, quan liêu, giá trị công
bằng, bình đẳng trong quan hệ sản xuất kinh doanh không được thể hiện rõ. Do đó,
pháp luật là phản ảnh những giá trị đó đã không được coi trọng đúng mức. Nhưng khi
bước vào giai đoạn mới, khi các quan hệ chiều ngang, bình đẳng trong kinh tế, trong
chế độ sở hữu đang dần dần hình thành và phát triển thì có một xu hướng ngược lại.
Đó là sự phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa cơ chế của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN với cơ chế tập trung, bao cấp trước đây còn chưa được
khắc phục. Trong lĩnh vực pháp luật, biểu hiện tập trung nhất của cơ chế cũ còn rơi
rớt lại, đó là sự gia tăng lượng văn bản của ngành quản lý, của các cơ quan quản lý,
so với các đạo luật được Quốc hội thông qua. Các văn bản đó trong một số trường
hợp đã trở thành công cụ của lợi ích cục bộ của các bộ, ngành. Dần dần, trong suy
nghĩ của người dân, những quy định đó được coi là pháp luật, chiếm vị trí pháp luật.
Tình trạng đó đã kéo dài cơ chế cấp phát, làm chậm một quá trình hình thành và phát
triển cơ chế bình đẳng. Một phần nào đó làm giảm uy tín của pháp luật, niềm tin vào
khả năng điều chỉnh của pháp luật.
Uy tín của pháp luật sở dĩ không được đề cao, trong nhiều trường hợp còn do quan
niệm sai về cơ chế tác động của nó. Cho đến nay, trong ý thức chung của nhiều người
vẫn còn ý nghĩ, có thể quản lý xã hội, quản lý nhà nước bằng pháp luật thông qua
việc làm luật và chỉ dừng lại ở đó. Ban hành được một đạo luật tốt được coi là điểm
cuối của công việc. Có thể gọi đó là “ảo tưởng về luật”. Ảo tưởng đó dẫn đến chỗ,
sau khi ban hành xong luật, các cơ quan, các cá nhân có trách nhiệm không còn quan
tâm đến việc thi hành luật, kiểm tra, giám sát quá trình đó, tạo điều kiên cho pháp luật
đi vào cuộc sống và xem xét hiệu quả thực tế của nó. Sự nhàm chán và khinh nhờn
pháp luật cũng có thể phát sinh từ đấy. Vì thế, nếu chỉ đề cao vai trò của pháp luật,
chỉ tuyên truyền về những giá trị và khả năng của nó mà không đi liền với kiểm tra
việc thực hiện pháp luật, không quan tâm đến hiệu quả thực tế, mặt mạnh, mặt yếu
của nó từ khi được ban hành cho đến khi luật được áp dụng thì dễ làm mất uy tín của
pháp luật. Theo số liệu điều tra gần đây của tổ chức UNDP tại Việt Nam về khả năng
tiếp cận pháp luật của người Việt Nam cho thấy, qua phỏng vấn 1000 người dân sống
ở 6 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở các vùng, miền khác nhau trên cả nước
thì 38% số người được hỏi không biết nhiều về Uỷ ban nhân dân, 7% không hề biết
gì về uỷ ban nhân dân, 29% số người được hỏi không biết đến Toà án, 19% số người Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
có biết về các cải cách pháp luật, nhưng lại có tới 29% không hề biềt gì về các cải
cách này (chủ yếu là nhóm người có thu nhập thấp và ở nông thôn).
Bên cạnh đó, 71% không trả lời được câu hỏi rằng họ có thể tìm kiếm thông tin pháp luật ở đâu1.
Trong hoạt động áp dụng pháp luật, phải triệt để thực hiện nguyên tắc về tính tối
thượng của luật, trong đó, hoạt động áp dụng pháp luật vừa bảo đảm tính sáng tạo,
vừa bảo đảm được đặt trong khuôn khổ, trên cơ sở và để thi hành Hiến pháp và pháp
luật. Ở đây, sẽ thấy rõ hơn ý nghĩa của việc giám sát sự tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật trong hoạt động xây dựng pháp luật, trong hoạt động áp dụng pháp luật. Từ góc
độ của yêu cầu nâng cao ý thức pháp luật, nguyên tắc pháp chế có một ý nghĩa rất
lớn, thể hiện văn hoá pháp lý đầy đủ hơn, rõ hơn trong đời sống hàng ngày. Pháp luật
phải trở thành chế độ pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. Việc áp dụng pháp luật sai sẽ dẫn đến tình
trạng dân không tin vào pháp luật, dẫn đến xem thường và bỏ qua pháp luật.
2.2. Sự ảnh hưởng của các định chế xã hội như lệ làng, hương ước, luật tục.
Một trong những đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bảo đảm
tính tối cao của pháp luật. Vậy trong điều kiện Việt Nam, với đặc điểm của phương
thức sản xuất Á Đông, với truyền thống tồn tại bền lâu của thiết chế làng xã với
những quy ước dưới dạng hương ước, luật tục hàng thế kỷ thì vấn đề bảo đảm tính tối
thượng của pháp luật như thế nào? Vai trò của hương ước, luật tục trong việc tổ chức
thực hiện pháp luật ra sao? Ảnh hưởng của nó đến sự vận động và phát triển của văn
hoá pháp lý như thế nào?
Làng xã Việt Nam tồn tại qua hàng ngàn năm lịch sử và thiết chế làng xã là một trong
những yếu tố ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
Hương ước của vùng đồng bằng và luật tục của vùng miền núi nơi có đồng bào thiểu
số sinh sống là sự thể hiện rất rõ vai trò của làng, bản, xã trong hệ thống chính trị của
xã hội và các quy định tự quản của cơ sở bên cạnh luật pháp của nhà nước. Hương
ước, luật tục được coi là một công cụ quan trọng góp phần quản lý xã hội trong phạm
vi thôn, làng Việt Nam từ nhiều thế kỷ qua. Xét về mặt lịch sử ra đời, hương ước ở
Việt Nam xuất hiện từ thế kỷ XV, được củng cố qua các thế kỷ XVI, XVII, XVIII và
đầu thế kỷ XX. Còn luật tục thì hình thành và tồn tại theo chiều dài tồn tại của mỗi
cộng đồng dân tộc thiểu số. Trong chế độ phong kiến, hương ước cũng như luật tục
tồn tại song song với pháp luật của nhà nước phong kiến Việt Nam.
Thực tế xây dựng và phát triển nông thôn ở nước ta trong những năm qua đã chứng
minh rằng, nếu chỉ sử dụng thuần tuý pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội ở
nông thôn thì chưa đầy đủ và chưa đạt hiệu quả cao. Việc xoá bỏ hương ước, xoá bỏ
vai trò của nó với tư cách là một công cụ để góp phần quản lý xã hội ở nông thôn là
đã bỏ qua một số nét văn hoá truyền thống, hạn chế sự phát triển thuần phong mỹ tục,
để lại những khoảng trống mà pháp luật cho dù hoàn thiện đến đâu cũng khồng thể Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
bao quát hết được. Đây là những định chế ảnh hưởng không nhỏ đến văn hoá pháp lý hiện nay.
Đến nay, hương ước được thừa nhận trở lại, luật tục thì vẫn tiếp tục thể hiện thông
qua hương ước, quy ước chứng tỏ sự tồn tại của nó và đang trở thành một công cụ
cần thiết trong thể chế quản lý ở nông thôn. Chủ trương “khuyến khích xây dựng
Hương ước” mà Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) đã
và đang trở thành phong trào ở nhiều địa phương trong cả nước. Hương ước được coi
như là một công cụ hỗ trợ cho pháp luật để duy trì, phát triển thuần phong mỹ tục, đề
cao các chuẩn mực đạo đức truyền thống, đề cao tính tự quản của các thôn, làng.
Điều này phù hợp với mục đích phát huy và tăng cường dân chủ ở nông thôn của
Đảng và Nhà nước ta khi ban hành và triển khai Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
(theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/05/1998) nhằm phát huy quyền làm chủ,
sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng
cường đoàn kết nông thôn, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, góp phần vào sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện chủ
trương về xây dựng hương ước; ngày 31/3/2000, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá - Thông
tin, Ban thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành
Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT hướng dẫn xây dựng và thực hiện hương ước,
quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư. Cho đến nay, hàng ngàn xã đã có hương
ước theo quy định mới, góp phần tích cực vào việc củng cố những nét văn hoá và ổn
định trật tự xã hội ở nông thôn.
Việc thừa nhận sự tồn tại của hương ước ở thôn, làng, bản, ấp (gọi chung là làng)
trong tình hình hiện nay được dựa trên những căn cứ khoa học, lịch sử, chính trị và xã hội, bao gồm:
Thứ nhất, con người không những chịu sự điều chỉnh của pháp luật mà các hành vi
của con người còn bị chi phối bởi các quy phạm khác tồn tại có sức nặng nhất định
như đạo đức, tôn giáo, tập quán v.v... mà các quy định của pháp luật không thể bao
quát hết được. Trong khi đó, cộng đồng cư dân ở cơ sở có rất nhiều các mối quan hệ
đa dạng, phức tạp, nếu chỉ có pháp luật thôi thì chưa đủ để điều tiết. Mặt khác, trình
độ dân trí của nhân dân còn hạn chế và chênh lệch nhau giữa các vùng miền, giữa các
dân tộc, bản thân người nông dân lại càng chưa quen với nếp sống pháp luật. Bởi vậy,
việc xây dựng hương ước ở làng sẽ góp phần đưa người dân đi dần vào kỷ cương
phép nước, đảm bảo cho mọi người đều thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi một cách
công bằng, hợp lý trong từng cộng đồng dân cư ở cơ sở.
Thứ hai, xét về mặt lịch sử, làng là một đơn vị tụ cư của những người nông dân tồn
tại từ lâu đời có tính gắn bó, bền vững, ổn định về nhiều mặt. Tuy làng không phải là
cấp chính quyền, nhưng nó được coi là điểm nối dài trong bàn tay quản lý của chính
quyền tỉnh - huyện - xã vươn tới cơ sở. Cho đến nay, làng vẫn được coi là đơn vị tự
quản (xuất phát từ yếu tố đặc thù của làng trong lịch sử có tính tự quản cao). Ở đây là
nơi cộng đồng dân cư sinh sống, là nơi thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
rãi nhằm giải quyết các công việc nội bộ của thôn làng, bảo đảm đoàn kết, giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội và vệ sinh môi trường, xây dựng cuộc sống mới... Cũng từ trong
lịch sử cho thấy rằng, mỗi làng đều có lệ riêng, được ghi nhận dưới hình thức hương
ước, là sản phẩm thành văn do cộng đồng dân cư thoả thuận lập ra. Nó chứa đựng
một hệ thống các quy phạm xã hội phong phú, đa dạng, đóng vai trò cương lĩnh tinh
thần của làng và là công cụ điều chỉnh các mối quan hệ trong nội bộ cộng đồng dân cư ở thôn làng.
Thứ ba, quá trình xây dựng hương ước đã phản ánh tính dân chủ của nó. về mặt nội
dung, hương ước chứa đựng những vấn đề cơ bản liên quan đến đời sống, quyền lợi
và nghĩa vụ của dân cư trong làng, thể hiện nhu cầu và nguyện vọng của thôn làng, về
nguyên tắc xây dựng các quy phạm tự quản, tính dân chủ thể hiện ở chỗ các quy
phạm này do chính các cư dân trong làng tự nguyện thoả thuận ý chí cùng hình thành
và thống nhất với nhau. Có thể nói, nét bản sắc của hương ước xét từ góc độ quyền
làm chủ của nhân dân ở cơ sở chính là việc bản thân các cư dân đó đều có quyền
tham gia bàn bạc, xây dựng các quy định của hương ước, cùng thống nhất với nhau
trên tinh thần bình đẳng, dân chủ. Cũng bởi vậy, hương ước luôn được mọi người tự
nguyện, tự giác thực hiện.
Nhưng cũng cần phải làm rõ giới hạn can thiệp, phạm vi, mức độ ảnh hưởng của
hương ước đối với đời sống xã hội ở nông thôn trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về nguyên tắc, pháp luật giữ vị trí chủ đạo trong việc điều chỉnh các mối quan hệ
trong xã hội ở nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề trong xã hội phát
síih mà pháp luật chưa điều chỉnh hoặc pháp luật đã có những quy định chung nhưng
chưa vươn tới cơ sở, nên có thể rất cần sự can thiệp của những quy ước do thành viên
các thôn, làng tự nguyện thoả thuận đặt ra. Bên cạnh đó, mỗi dân tộc, mỗi vùng dân
cư có những phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp cần lưu giữ trong tâm hồn con
người mà pháp luật không thể điều chỉnh cụ thể. Bởi vậy, phát huy vai trò của hương
ước cùng với pháp luật trong quản lý xã hội sẽ tạo điều kiện nâng cao nhận thức pháp
luật cho quần chúng nhân dân, đồng thời giữ gìn bản sắc truyền thống văn hoá của dân tộc.
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá VII đã
chủ trương khuyến khích xây dựng và thực hiện hương ước, phát huy tính tự quản
của nhân dân trên cơ sở quyền làm chủ của họ trong những lĩnh vực mà pháp luật
không điều chỉnh và coi đó như một công cụ quản lý quan trọng của nhà nước đối với
xã hội. Tuy nhiên, cần phải có những định hướng cụ thể để hương ước thực sự là một
công cụ hỗ trợ cho pháp luật trong việc quản lý nhà nước ở nông thôn.
Mặc dù là một văn bản quy phạm xã hội do cộng đồng dân cư thoả thuận cùng nhau
xây dựng, song hương ước với tư cách là một công cụ hỗ trợ tích cực cho quản lý nhà
nước ở nông thôn, cho nên, nội dung và trình tự soạn thảo hương ước cũng cần phải Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
tuân theo sự quy định của pháp luật như Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày
11/05/1998 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã; Pháp lệnh dân
chủ ở cơ sở năm 2007, Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 19/06/1998 của Thủ tướng Chính
phủ quy định về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước; Thông tư liên tịch
của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá - Thông tin và Ban thường trực uỷ ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam như đã nói ở trên.
Nội dung của hương ước phải có sự phân biệt rõ ràng với pháp luật. Pháp luật là
những quy định có tính chất bắt buộc chung đối với mọi thành viên khi tham gia các
quan hệ xã hội. Còn hương ước chỉ là quy ước tự thoả thuận mang tính tự nguyện của
cư dân trong phạm vi thôn làng. Hương ước chỉ có thể nằm trong phạm vi những gì
mà pháp luật không điều chỉnh và được thực hiện một cách tự nguyện. Quy định xử
phạt của hương ước chỉ là nghĩa vụ tự nguyện, tự nguyên đóng góp, tự nguyện chịu
trách nhiệm. Về bản chất, quy định xử phạt của hương ước chỉ có thể mang tính giáo
dục, tự nguyện, không thể ẩn dưới các hình thức của quy định xử phạt như pháp luật.
Các nghĩa vụ đặt ra đối với cư dân thôn làng cũng không được vượt ra ngoài khuôn
khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật. Ở đây, cần xác định rõ mối quan hệ giữa
hương ước và pháp luật để tìm ra con đường, phương thức tác động qua lại, bổ sung
hỗ trợ nhau giữa “lệ làng” và “phép nước”, tạo ra hành lang pháp lý chuẩn mực cho
hương ước. Một nhà nước mạnh thì không thể có hiện tượng “lệ làng thắng phép vua”
như ở thời kỳ của các nhà nước suy vong.
Các quy định của hương ước phải khuyến khích duy trì và phát triển thuần phong mỹ
tục, định hướng các nội dung sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng, xây dựng nếp sống văn
hoá mới, củng cố tình làng nghĩa xóm, đoàn kết tương thân, tương ái, tạo ra sự phong
phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của cư dân trong cộng đồng của một xã hội công dân.
Vì vậy, cần đặt hương ước trong mối liên hệ với các thiết chế chính trị - xã hội ở
nông thôn, đề cao tính tự quản, thể hiện được tinh thần tự nguyện thoả thuận và ý chí
của tập thể cộng đồng dân cư trong những thôn, làng nhất định và đó chính là một
trong những hình thức thực hiện dân chủ rõ nét nhất ở nông thôn Việt Nam hiện nay,
nơi có đa số dân cư sinh sống.
2.3. Ảnh hưởng của Nho giáo.
Lịch sử đã chỉ rõ, ngay sau khi được chính quyền phong kiến Việt Nam thừa nhận
làm nền tảng tư tưởng và đường lối trị trước, Nho giáo đã phát huy được tác dụng,
đóng vai trò tích cực nhất định trong xã hội. Nho giáo đã nêu lên được một số những
nguyên lý, những nguyên tắc, một số đường lối và phương pháp có thể bảo đảm cho
xã hội một sự ổn định nhất định để phát triển. Với những nguyên lý đó, Nho giáo
thực sự đã là một động lực ổn định yà phát triển xã hội. Nó giúp chấm dứt tinh trạng
chia cắt và chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến mà chế độ kinh tế - chính trị
phong kiến tông pháp luôn là nguyên nhân tạo ra. Nó thống nhất được quốc gia đa Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
dân tộc như Trung Hoa đất rộng, người đông, làm cho quốc gia này có sự cố kết bên
trong và đủ sức chống được nạn ngoại xâm từ phương Bắc và Tây Bắc tràn tới. Nó
hạn chế được một phần tốc độ phân hóa giàu nghèo và sự bóc lột tàn nhẫn vốn gắn
liền với chế độ xã hội đó, làm cho xã hội có sự ổn định để phát triển sản xuất.
Ngoài những mặt tiến bộ, ưu điểm, Nho giáo cũng có nhiều hạn chế, ảnh hưởng
không nhỏ tới xã hội ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, Nho giáo không coi trọng mối quan hệ xã hội - mối quan hệ giữa con người
với con người nên không tạo cho mối quan hệ này phát triển. Nho giáo chỉ chú trọng
tới mối quan hệ gia đình, quan hệ nhà nước.
Việc lấy quan hệ gia đình áp dụng trong quan hệ xã hội và lấy quan hệ xã hội áp dụng
trong quan hệ gia đình, việc biến nhà nước, biến cả xã hội trở thành gia đình là một
đặc điểm của Nho giáo.
Thứ hai, Nho giáo thủ tiêu đấu tranh vì công lý. Trong lịch sử nhân loại, đấu tranh
cho công bằng, cho tự do, cho bình đẳng là một động lực phát triển của xã hội và đây
cũng chính là chủ nghĩa nhân đạo.
Quan niệm của Nho giáo là gia đình, xã hội và nhà nước là như nhau nên không cần
việc đấu tranh vì công lý. Trước đây, khi gặp cái gì không vừa ý, bất công, người ta
thường đòi được thông cảm, đòi được chiếu cố, chứ không phải làm cho ra lẽ. Do
vậy, ở xã hội lúc đó chỉ có sự bất bình, tiết lộ cái uất ức và đồng thời mong được
người ta chiếu cố chứ không có đấu tranh cho công bằng, cho bình đẳng nên thiếu
động lực làm cơ sở cho xã hội phát triển.
Thứ ba, Nho giáo không đề cao cá nhân con người. Nho giáo đã đồng nhất cá nhân
với cộng đồng. Con người mà Nho giáo đề cập tới là con người không có mưu cầu
hạnh phúc, nếu ai đòi hỏi hạnh phúc thì người đó không có đạo đức.
Do có quan niệm này nên người phương Đông rất ít khi dám nói tới hạnh phúc, bởi
nếu nói gì đụng đến sự sung sướng như: ăn ngon, mặc đẹp, tình yêu nam nữ... thì bị
coi là ti tiện, là không thanh cao. Nho giáo khuyến khích con người sống “an bần lạc
đạo”, tự hào với hoàn cảnh nghèo khó, coi khinh tiền bạc, giàu sang. Và đây là hạn
chế, không làm cho xã hội tiến lên được.
Thứ tư, Nho giáo ít đề cao tài mà thường là đề cao đức. Dư âm này vẫn còn tồn tại
dai dẳng trong xã hội ta. Chỉ đề cao đức, không coi trọng trí tuệ và sức lao động trong
xã hội là một hạn chế lớn của tư tưởng Nho giáo. Đó là chưa kể đến những triết lý
sống của Nho giáo đã tạo thành những lớp lang thâm căn cố để trong tiềm thức văn
hoá ứng xử của con người. Nho giáo tác động thuận chiều, đồng thời cũng tác động
nghịch chiều đến văn hoá pháp lý, “bó” văn hoá pháp lý trong sắc màu của Nho giáo.
2.4. Tác động của hệ thống pháp luật Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
Một trong những quan điểm cơ bản của việc xây đựng và hoàn thiện Nhà nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được xác định trong Báo cáo chính trị tại Đại hội
VIII là “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật,…” Quan điểm này lại tiếp tục được khẳng định
trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX, “Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và
nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập
pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi
mới quy trình ban hành và hướng dẫn thi hành luật” . Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 theo
Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục
khẳng định nhiệm vụ này. Để hoàn thiện hệ thống pháp luật thì phải tiến hành đồng
loạt đối với ba phạm vi thể hiện của nó, đó là các quy định pháp luật, thực tiễn áp
dụng pháp luật, ý thức pháp luật. Các quy định pháp luật phải thể hiện một trình độ
văn hoá pháp lý cao, tạo thành một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai và minh bạch, vừa phản ánh sự kết hợp hài hoà bản sắc văn hoá truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, vừa thể hiện được tính hiện đại, đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế, bảo đảm ở mức cao nhất quyền con người, quyền công dân.
Chất lượng và sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật mặc dù phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, nhưng có một yếu tố rất quan trọng, đó là vai trò to lớn của kỹ thuật lập pháp. Kỹ
thuật lập pháp là những biểu hiện của văn hoá, văn minh nhân loại, nó có lịch sử phát
triển từ xa xưa và luôn luôn được kế thừa, đòi hỏi ban hành những văn bản pháp luật
với những quy định cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện. Giảm dần các luật, pháp lệnh chỉ
dừng lại ở những nguyên tắc chung, muốn thực hiện được phải có nhiều văn bản
hướng dẫn thi hành” . Và từ đó, xây dựng một hệ thống pháp luật công khai, minh
bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, đủ sức điều chỉnh các quan hệ căn bản trong xã hội. Đây
cũng chính là sự đòi hỏi về việc kết hợp đúng đắn các mức độ điều chỉnh của pháp
luật đối với các quan hệ xã hội khi ban hành pháp luật. Thiếu sự kết hợp đó sẽ không
thể tránh khỏi sự chậm trễ hoặc kém hiệu lực của việc thi hành và áp dụng pháp luật.
2.5. Những yếu tố đương đại ảnh hưởng đến quá trình hình thành, tồn tại và phát
triển của văn hóa pháp lý.
Trong thời gian qua, quan hệ sản xuất của nước ta đã có những bước đổi mới phù hợp
hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và đã thúc đẩy sự hình thành nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, quan hệ kinh tế với hầu
khắp các nước trên thế giới của nước ta cũng rất phát triển. Như vậy, có thể thấy, đây
là cơ sở cho việc tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân ở nước ta.
Khi đề cập đến cơ sở xã hội của sự chi phối đối với việc xây văn hoá pháp lý, chúng
ta đã biết đến hai hệ quả của sự phát triển phân công lao động trong nền kinh tế hàng
hoá. Thứ nhất, sự phát triển nhu cầu dân chủ hoá trong kinh tế. Kinh tế hàng hoá là
phương thức xã hội hoá mọi hoạt động sản xuất và tiêu dùng của con người. Thông Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
qua trao đổi và cạnh tranh, người ta thừa nhận lợi ích của nhau, đồng thời cũng hình
thành các thước đo xã hội. Các quan hệ trao đổi này dần dần được nhận thức và thể
chế hoá về mặt nhà nước. Thứ hai, đó là sự biến đổi cơ cấu xã hội - dân cư. Từ đó đã
hình thành nên mối quan hệ các lợi ích, các nhu cầu, địa vị xã hội của các tầng lớp,
giai cấp khác nhau. Trong những năm gần đây, đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng
động trong xã hội được nâng lên đáng kể. Như vậy, có thể thấy, đây là tiền đề, cơ sở
quan trọng cho việc xây dựng văn hoá pháp lí hiện nay.
Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt được về mặt kinh tế - xã hội trong thời
gian qua chưa đủ để vượt qua tình trạng nước kém phát triển, chưa tương xứng với
tiềm năng của đất nước. Lực lượng sản xuất còn thấp, quan hệ sản xuất có mặt chưa
phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Đời sống một bộ
phận nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, số lao động chưa có việc làm và thiểu việc
làm còn lớn. Như vậy, có thể thấy, nước ta mới bắt đầu phát triển kinh tế hàng hoá,
trình độ phân công lao động xã hội còn thấp, cơ cấu xã hội mới chưa hình thành, các
quan hệ kinh tế - xã hội mới đang ra đời với nhiều khiếm khuyết. Điều này vẫn còn
ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển của văn hoá pháp lý.
2.6. Ảnh hưởng của những yếu tố quốc tế
Tình hình thế giới đang đứng trước những biến đổi sâu sắc, phức tạp và khó lường,
tác động đến mọi quốc gia dân tộc và trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Nhất là
sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cục diện thế giới thay
đổi. Mặc dù vậy, chủ nghĩa xã hội vẫn có điều kiện và khả năng phát triển, vẫn là con
đường tất yếu của các dân tộc. Chủ nghĩa tư bản đang chiếm ưu thế về vốn, khoa học
công nghệ, thị trường, song trong lòng nó chứa đầy mâu thuẫn không thể điều hoà
được. Các mâu thuẫn cơ bản của thời đại tiếp tục tồn tại, có nhiều mặt sâu sắc hơn.
Các nước theo xu hướng độc lập dân tộc tiếp tục và kiên trì đấu tranh để tự lựa chọn
con đường đi cho dân tộc mình phù hợp với xu thế thời đại. Thế giới đã và đang đứng
trước những vấn đề toàn cầu cấp bách như: môi trường sinh thái, bùng nổ dân số, đẩy
lùi bệnh tật hiểm nghèo, khủng bố quốc tế... Cách mạng khoa học công nghệ thế giới
tiếp tục phát triển mạnh mẽ, xu thế toàn cầu hoá, nhất là toàn cầu hoá về kinh tế đã và
đang tác động đến mọi quốc gia. Xu thế hoà bình, hợp tác và tuỳ thuộc lẫn nhau cùng
phát triển trở thành nhu cầu và mênh lệnh của các quốc gia dân tộc. Đặc biệt gần đây
tình hình thế giới càng biến đổi, sau sự kiện 11/9 (ở Mỹ), Mỹ và đồng minh tiến công
và chiếm đóng Irắc... Điều đó tác động đến mọi quốc gia dân tộc, nhất là những nước
nhỏ chịu sức ép của tình hình quốc tế rất mạnh mẽ, trên tất cả các phương diện chính
trị - tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và an ninh, trong đó có Việt Nam.
Có thể thấy những yếu tố quốc tế tác động đến quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay như sau: Văn hóa đại cương
Giảng viên: Nguyễn Thị Tú Mai
Thứ nhất, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão - cơ sở phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất đòi hỏi mở rộng quan hệ sản xuất trên quy mô toàn cầu,
phù hợp với sự phát triển và xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Cách mạng khoa học
công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp với sự phát triển của công nghệ sinh
học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới... tạo cơ sở vật chất, phương tiện để
các quốc gia dân tộc hiểu biết nhau hơn, khắc phục khoảng cách giữa họ. Đặc biệt,
nền kinh tế tri thức phát triển làm thay đổi căn bản trong tư duy và cơ chế vận hành
của xã hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò quan trọng trong quản lý xã hội của
nhà nước. Trình độ làm chủ thông tin và tri thức có ý nghĩa quyết định đến sự phát
triển của xã hội. Như vậy, cách mạng khoa học công nghệ tạo ra thời cơ và thách thức
rất lớn đối với các nước, nhất là những nước nghèo như chúng ta. Việc xây dựng và
phát triển văn hoá pháp luật còn là quá trình xây dựng, hoàn thiện để khắc phục
những hạn chế nội tại, do đó, cách mạng khoa học công nghệ tạo cơ hội cho quá trình này là: -
Cơ hội giao lưu và tiếp biến, kế thừa kinh nghiệm ứng dụng tiến bộ khoa học -
công nghệ trên cả ba lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và tư pháp, kể cả phương diện lý
luận cũng như thực tiễn. -
Cơ hội mở rộng quan hệ song phương và đa phương, tận dụng sự giúp đỡ, viện
trợ, hợp tác của các nước phát triển.
Thứ hai, toàn cầu hoá là xu thế khách quan, nhất là toàn cầu hoá kinh tế lôi cuốn tất
cả các nước, bao gồm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng cường sức
ép cạnh tranh gay gắt và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước. Toàn cầu hoá vừa có
tính tích cực, vừa có tính tiêu cực, vừa tạo cơ hội và thách thức rất lớn đối với các
nước. Toàn cầu hoá và hội nhập vững chắc của Việt Nam là nhu cầu cần thiết hết sức
cấp bách, tạo cơ hội để tăng trưởng và phát triển bền vững. Toàn cầu hoá tạo sự mở
rộng giao lưu song phương và đa phương, tạo cơ hội tiếp cận vốn, công nghệ, kinh
nghiệm quản lý nhằm khai thác tiềm năng trong nước để phát triển, tạo ra đòi hỏi, đặt
ra nhu cầu ngặt nghèo đối với nhà nước trong thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình,
nhất là xây dựng, củng cố và phát triển văn hoá pháp lý lành mạnh, tiên tiến với bản
sắc và diện mạo riêng của Việt Nam.
Document Outline

  • Môn 1: Cơ sở văn hóa Việt Nam
    • Nội dung môn học:
    • Phương pháp học:
    • Cấu trúc môn học:
    • Nội dung bài học:
  • Chương III: Mối quan hệ giữa văn hóa truyền thống và pháp luật
    • I – Đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam
    • II – Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật