










Preview text:
BÀI TẬP NHÓM ĐẠI CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM I: Mở đầu
Việc nghiên cứu chứng minh luận điểm văn hóa Việt Nam mang tính tổng hợp và hỗn dung giúp chúng ta
hiểu hơn về văn hóa Việt Nam. Bên cạnh đó còn cho ta biết về nguồn gốc và sự hình thành của văn hóa Việt
Nam. Đây là một nền văn hóa mang tính tổng hợp và dung chấp cao bởi vì trải qua hơn một nghìn năm Bắc
thuộc, hàng trăm năm chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ văn hóa Việt Nam cũng tiếp thu và học
hỏi được thêm nhiều về văn hóa của họ nhưng không đánh mất đi giá trị văn hóa thiêng liêng mà ông cha ta đã
tạo ra và lưu truyền cho tới ngày hôm nay. Việc tổng hợp và hỗn dung ấy chỉ góp phần làm cho văn hóa của Việt
Nam ta trở nên đa dạng và đặc sắc hơn chứ không hề làm mai một đi những giá trị văn hóa vốn có. II: Nội dung
1: khái niệm về văn hóa
- Theo như cuốn ‘cơ sở văn hóa Việt Nam của tác giả Trần Ngọc Thêm’ văn hóa là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
- Định nghĩa UNESCO: văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống
(của mỗi cá nhân và cộng đồng) dã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng
bao thế kỉ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó
từng dân tộc tự khẳng đinh bản sắc riêng của mình.
2: tính tổng hợp và hỗn dung
3: giao lưu tiếp biến văn hóa
- Được hiểu là hiện tượng xảy ra khi nhũng nhóm người có văn hóa khác nhau, tiếp xúc lâu dài với nhau
gây ra sự biến đổi mô thức văn của các bên.
- Đây là phương pháp định vị văn hóa dựa trên lý thuyết các trung tâm và sự lan tỏa văn hóa hay còn gọi là
thuyết khuếch tán văn hóa.
- Trong giao lưu có thể xảy ra hiện tượng những yếu tố của nền văn hóa này thâm nhập vào nền văn hóa kia
(tiếp thu thụ động);hoặc nền văn hóa này vay mượn nền văn hóa kia (tiếp thu chủ động); rồi trên cơ sở
những yếu tố nội sinh và ngoại sinh ấy mà điều chỉnh, cải biên cho phù hợp, gây ra sự giao thoa văn hóa.
- Đây không chỉ là một phương pháp định vị văn hóa, mà còn là một phương pháp được văn hóa học sử
dụng khá thường xuyên khi tiến hành phân xuất kết cấu của một nền văn hóa cụ thể. Với phương pháp này
nội dung của một nền văn hóa cụ thể được phân thành yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh.
4: sự giao lưu với các nền văn hóa khác
- Dưới giác độ giao lưu – tiếp biến văn hóa, văn hóa Việt Nam là kết quả của các cuộc gặp gỡ văn hóa lớn trong khu vực:
+ tương tác với Ấn Độ:
- Văn hóa của Ấn Đọ thẩm thấu rất sâu vào trong tâm thức người Việt vì bản tính hòa bình, giá trị nhân bản
và cũng vì con đường du nhập tự nhiên, phi cưỡng chế của nền văn hóa này. Đây là một nền văn hóa mang
tính thuyết phục chứ không mang tính chinh phục, do đó, nó được dân tộc Việt Nam – một dân tộc vốn
giàu long kiêu hãnh và tự trọng – dễ dàng chấp nhận.
. và có thể phân các đợt ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ thành các đợt sóng lan tỏa: tiên phát và thứ phát
. lan tỏa thứ phát: đợt thứ nhất là sự gặp gỡ với văn hóa Ấn Độ một cách gián tiếp thông qua văn hóa
Trung Hoa vào thời kì Bắc thuộc cùng với Nho giáo, Đạo giáo, người Trung Hoa đã mang đến Việt Nam
Phật giáo dòng Đại thừa mà chủ yếu thiền tông và Tịnh độ tông. Đợt thứ hai, trong quá trình mở mang bờ
cõi vào phía nam, người Việt đã gặp gỡ với văn hóa Ấn Độ thông qua văn hóa của người Chăm và giao
lưu với văn hóa Óc eo. Cả hai nền văn hóa nói trên đều mang đậm màu sắc văn hóa ấn; thể hiện ở: tôn
giáo, kiến trúc và văn tự
. lan tỏa tiên phát : sự du nhập của Phật giáo vào phía Bắc Việt Nam theo đường biển: bằng chứng là sự
hiện diện của Luy Lâu (Bắc Ninh ) một trung tâm Phật giáo tồn tại vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau CN. a. Văn hóa Chăm:
Người Chăm lập quốc vào khoảng thế kỷ thứ II, sau khi thoát khỏi ách đô hộ của phong kiến Trung
Quốc, và cho đến tận thế kỷ XV, vương quốc Chămpa mới tan rã. Trong quá khứ, vương quốc này trải dài
dọc theo Trung Bộ: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định,
Nha Trang, Khánh Hòà, Phan Rang -
Phan Thiết. Con đường giao lưu với văn hóa Ấn của người
Chăm diễn ra một cách hòa bình, thông qua các hoạt động thương mại và truyền giáo, và cũng diễn ra từ
rất sớm vào những thế kỷ trước công nguyên. * Về tôn giáo:
Hầu như tất cả các tôn giáo của Ấn Độ đều có mặt trong văn hóá Chăm. Tuy nhiên, theo nhận định của
nhiều nhà nghiên cứu thì tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất vẫn là Brahmanism (Bà lamôn giáo).
Brahmanism là tiền thân của Hinduism (Ấn Độ giáo ngày nay), với ý niệm trung tâm là bộ ba gồm các thần:
Brahma Thần sáng tạo đầy quyền nắng) - Visnu (Thần bảo trợ và bảo tồn) - Siva (Thần hủỷ diệt). Nhưng
trong bộ ba này, người Chăm đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Thần Siya, khiến cho việc thờ phụng Siva trẻ
thà nh một nhánh tôn giáo phát triển khá độc lập, đến độ đôi khi người ta gọi Brahmanism của người Chăm là Siva giáo.
Siva giáo và tín ngưỡng phồn thực bản địa của người Chăm hòa trộn với nhau để tạo . thành một thứ
tôn giáo hỗn dung, theo đó, Siva được hóá thân dưới dạng Linga hay hiện diện đi kèm với Linga - với tư
cách là những đối tượng thờ cúng của người Chăm. * Về kiến trúc:
Người Chăm để lại một di sản kiến trúc đầy tính nghệ thuật và tinh tế. Đó là các quần thể kiến trúc - điêu
khắc mà chủ yếu là quần thể các tháp Chàm. Tháp của người Chăm có ba chức năng: là đền thờ, là lăng
mộ và là nơi cư trú của các vị thần.
Những tháp này, hoặc thờ cả ba vị Thần, hoặc thờ Siva ở trung tâm với các tháp phụ vây quanh. Hình
dáng của tháp thường có dạng đỉnh chóp - tượng trưng cho núi Meru trong thần thoại Ấn Độ. Nhưng đôi
khi hình dáng của tháp cũng được cải biến thành dạng Linga; và cũng có cả kiến trúc mái cong do ảnh
hưởng của phong thái kiến trúc đặc trưng của khu vực Đông Nam Á. * Về văn tự:
Người Chăm tiếp thu hệ thống văn tự Ấn Độ cổ (chữ Phạn - Sancrit) để tạo ra chữ viết riêng của họ. b. Văn hóa Óc eo
Óc eo là tên địa danh - nơi lần đầu tiện phát hiện ra di chỉ của một nền văn hoa, được người Pháp tiến hành
khai quật vào năm 1944. Hiện nay, địa danh này thuộc tỉnh An Giang.
Cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về chủ .nhân của nền văn hóa Ốc eo. Một số học giả cho
rằng chủ nhân của nền văn hóa này là thuy tổ của người Khơ me ngày nay. Trong khi đó, một quan điểm
khác lại coi đây là nền văn hóá của giống người thuộc chủng Indonesia, sử dụng tiếng Nam Đảo là chủ
yếu. Có điều chắc chắn là nền văn hóa rực rỡ này đã tàn lụi vào khoảng thế kỷ thứ VIII, và hiện nay người
ta chỉ biết về nó thông qua các di chỉ khảo cổ.
Các di chỉ khảo cổ cho thấy, địa bàn cư trú của người Óc eo trải rộng khắp các tỉnh Nam Bộ, bao
gồm: Tiểu vùng tứ giác Long Xuyên, Tiểu vùng Đồng tháp Mười, Tiểu vùng ven biển Tây Nam (vùng U
Minh, Năm Căn), Tiểu vùng rừng sác duyên hải (Đồng Nai), Tiểu vùng ven biển Đông (từ sông
Tiền đến Minh Hải), Tiểu vùng Đông Nam Bộ (vùng chuyển tiếp từ cao nguyên xuống đồng bằng sông Cửu Long)
Người Óc eo bị ảnh hưởng mạnh bởi văn hóá Ấn Độ. Họ theo Brahmanism, Phật giáo, thờ cúng Linga.
Nghệ thuật đồ gốm, thiếc, và điêu khắc đã phát triển rất cao; hệ thống đền đài và lăng tẩm khá quy mô - và
hầu như chúng đều: mang hơi hướng của nền văn hóa Ấn.
Tóm lại, có thể nhận ra Phật giáo là "mẫu số chung" của những đợt sóng giao lưu với văn hóa Ấn. Vì
yếu tố này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các đợt lan tỏa trực tiếp và thứ phát. Điều đó lý giải vì sao
Phật giáo lại là yếu tố văn hóa ngoại sinh có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tại Việt Nam.
+ Tương tác với văn hóá Trung Hoa
Giao lưu với văn hóa Trung Hoa đã diễn ra trong thời gian rất dài thông qua con đường cưỡng bức và cả
phi cưỡng bức. Ảnh hưởng của văn hóá Trung Hoa đối với văn hóa Việt Nam là rất lớn. Điều này được thể
hiện qua nhiều bình diện khác nhau trong đời sống của người Việt. Có thể liệt kê ra những yếu tố cơ bản
từ nền văn hóa Trung Hoa đã được người Việt hấp thụ và chuyển hóá:
+ Về tôn giáo và đời sống tâm linh: Người Việt hấp thụ từ văn hóa Trung Hoa các tôn giáo lớn như Phật
Giáo đại thừa, Đạo giáo.
+ Về thế giới quan: Triết lý âm dương ngũ hành, lịch âm, thuyết tam tài.
+ Về chuẩn mực đạo đức xã hội: Chịu ảnh hưởng của Nho gia với những chuẩn mực "tam cương, ngũ thường".
+ Về ngôn ngữ: Các từ Hán việt Chiếm tỷ trọng đáng kể trong ngôn ngữ của người Việt; chữ nôm - một biến thể của Hán tự.
+ Về kiến trúc, ăn, mặc, ở và một số kỹ năng canh tác nông nghiệp người Việt cũng thừa hưởng từ nền văn hóa Trung Hoa.
+ Về mặt chủng tộc: người Việt hiện đại là kết quả của sự hoa huyết của những tộc người Bách Việt với người Hán.
Mặc dù không phủ nhận rằng các dấu ấn của văn hoá Trung Hoa khá đậm nét trong văn hóa Việt Nam.
Tuy nhiên, chính sách đồng hóa văn hóa của phong kiến phương Bắc vẫn phải chịu thất bại trước bản sắc
văn hóa của người Việt. Người Việt đã chủ động tiếp thu văn hóa Trung Hoa để giữ vững độc lập, để giữ
gìn "cái tôi" dân tộc của mình. Do đó, họ chỉ tiếp thu những yếu tố văn hóa nào mà giúp bảo vệ được
quyền tự chủ của dân tộc.
Bên cạnh đó, người Việt còn biết kết hợp khéo léo ảnh hưởng của các nền văn hóa khác (văn hóa Đông
Nam Á, văn hóá Ấn Độ, văn hóa phương Tây) nhằm dung hoa, và điều tiết ảnh hưởng của văn hóa Trung
Hoa để tạo nên một nền văn hóa đầy tính dung chấp, tổng hợp, với các hệ giá trị mở (vốn không có ở các nền văn hóa gốc).
Chính khối văn hóa tổng hợp mà người Việt có được đã cho phép khẳng định bản sắc riêng của văn hóa
Việt Nam trong quan hệ với văn hóa Trung Hoa. Và cuộc chiến bền bỉ chống Bắc thuộc, giành quyền độc
lập, tự chủ của Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đã chứng thực cho nhận định trên.
3. Tương tác với văn hoá phương Tây
Khó có thể nêu một cách đầy đủ những chuyển biến mạnh mẽ của nền văn hóa Việt Nam trong cuộc tiếp
xúc văn hoa này. Nhưng có điều chắc chắn là, cho đến giờ, quá trình tiếp xúc ấy vẫn đang diễn ra, và sẽ
còn tiếp tục với một cường độ ngày càng mãnh liệt về cả chiều rộng lẫn chiều sâu, và với tần suất ngày
một cao, trong một thế giới đang bị toàn cầu hoá như hiện nay.
Với cái nhìn khái lược theo bình diện lịch sử, có thể phân sự lan tỏả vằn hóa phương Tây vào Việt Nam thành ba đợt chính
a. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XVI - cuối thế kỷ XIX (năm 1858):
Nền văn hóa phương Tây thâm nhập và trụ vững tại Việt
Nam thông qua hai con đường cơ bản là truyền giáo và thương mại. Tuy nhiên vào giai đoạn này, sự thâm
nhập của văn hoa phương Tây mới chỉ dừng lại ở mức độ gây sức ép và can thiệp gián tiếp vào chính sách
của nhà nước phong kiến Việt Nam. Giai đoạn này kết thúc bằng sự kiện thực dân Pháp nổ súng xâm lược
Việt Nam, năm 1858, với lý do triều đình Huế ngược đãi các giáo sĩ và cự tuyệt quốc thư của Pháp đòi tự do buôn bán.
Những bước chuyển biến văn hóa quan trọng ở giai đoạn này là:
* Sự xuất hiện của Kitô giáo (XVI). Kitô giáo (Catholicism) là một nhánh chủ đạo của Thiên chúa giáo
(Christianity) với trung tâm đầu não là Giáo Hội La Mã (Roma). Sở dĩ Kitô giáo lan rộng khắp thế giới vì
nó gắn với thần quyền của đế chế La Mã - một thứ quyền lực đứng trên quyền lực của các vương quốc
phương Tây; thần quyền đã kéo dài suốt thời kỳ trung cổ cho đến tận giai đoạn cận đại (Hoà ước
Westphalia năm 1648). Việc các nước phương Tây, như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp, Hà Lan... mở
rộng thuộc địa của chúng, một cách tất yếu, chỉ dẫn đến làn sóng truyền bá và phát tán Kitô giáo ra khắp thế giới.
* Sự ra đời của chữ Quốc ngữ (XVII). Cùng với sự du nhập của Kitô giáo, đến thế kỷ XVII, các giáo sĩ Bồ
Đào Nha đã dùng tiếng La tinh để phiên âm tiếng Việt. Đây là nền móng sơ khởi của chữ Quốc ngữ. Mặc
dù việc xây dựng nên hệ chữ Quốc ngữ hoàn chỉnh là công việc đòi hỏi sự đóng góp công sức của nhiều
thế hệ giáo sĩ cũng như các tri thức Việt Nam. Song công lao đầu phải kể đến các nhân vật như hài cỡ dạo
Caspar de Amaral và Antonio de Barbosa - những người đã xuất bản các cuốn từ điển Bồ - Việt và Việt -
Bổ vào năm 1632; Alexandre de Rhodes - người đã biên soạn nên cuốn từ diến Việt - Bồ - La tinh đầu
tiên, và cuốn sách "Phép giảng tám ngày" được trình bày bằng song ngữ La tinh - Việt (1649 - 1651).
Sự kiện chữ Quốc ngữ ra đời và được sử dụng thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm là một bước ngoặt
quan trọng trong tiến trình văn hóa Việt Nam. Nó đánh dấu sự khởi đầu của công cuộc hội nhập văn hóa
của Việt Nam vào nền văn minh chung của toàn nhân loại.
b. Giai đoạn nửa cuối XIX - giữa thế kỉ XX (kết thúc của giai đoạn này được đánh dấu bằng chiến thắng
Điện Biên Phủ, năm 1954):
Đây là giai đoạn thực dân Pháp thiết lập nền cai trị trực tiếp của nó đối với Việt Nam và đi kèm theo đó là
thứ văn hóa phương Tây mang nặng màu sắc thực dân.
Những chuyển biến văn hòa chính ở giai đoạn này là:
* Đô thị ngày càng trở thành các trung tâm chi phối khu vực nông thôn.
* Hệ thống giao thông phát triển làm tăng cường trao đổi thương mại và giao lưu tiếp xúc giữa các địa phương.
* Khoa học, kỹ thuật trở thành những tri thức chiếm ưu thế so với các luận thuyết đạo đức chính tri, xã hội
của nền văn hóa bản địa. Đây cũng là giai đoạn tạo lập những tiên đề, của một nền khoa học hiện đại ở
Việt Nam. Điều này thể hiện rõ qua việc biến mất của thể chế Khoa cử Nho gia, và việc mọc lên các
trường Quốc học, các viện nghiên cứu, và đi kèm theo đó là sự hình thành tầng lớp trí thức Việt Nam.
. Văn học, nghệ thuật có bước chuyển mạnh mẽ nhờ sự hấp thụ các chuẩn giá trị của nền văn hóa phương
Tây: Làn sóng lãng mạn trong thơ ca mới; chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa khai sáng trong văn xuôi; quá
trình chuyên môn hóá các loại hình nghệ thuật; sự du nhập của nghệ thuật kiến trúc, điện ảnh, sân khấu
phương Tây v.v... đã làm thay đổi một cách đáng kể diện mạo văn hóá Việt Nam.
c. Giai đoạn từ 1954 - đến nay.
Đây là giai đoạn nhân dân Việt Nam đấu tranh thống nhất; xây dựng; và phát triển đất nước - với tư cách
một quốc gia có chủ quyền, có vị thế bình đẳng trên trường quốc tế.
Giai đoạn này được đánh dấu bằng những tiếp xúc văn hoã quan trọng như:
* Giao lưu với văn hoa Xô Viết (miền Bắc)
* Giao lưu với văn hóá Mỹ (miền Nam)
* Giao lưu văn hoa ở cấp độ khu vực và toàn cầu (hiện nay).
Một quy luật dễ nhận thấy ở giai đoạn này là phổ giao lưu ngày càng được mở rộng và tần suất giao lưu ngày một cao.
4. Tính dung chấp của văn hóá Việt Nam
Một đặc tính nổi trội trong văn hóa Việt Nam là tính dung chấp rất cao. Đã có nhiều nhà nghiên cứu
văn hóa nhìn nhận tính dung chấp ấy như một thứ chủ nghĩa thực dụng của người Việt: sẵn sàng tiếp thu
các yếu tố văn hóá ngoại sinh, miễn là có lợi. Với cái nhìn đó, văn hóa Việt Nam dễ bị hình dung như một
tổng cơ học của những "mảnh vụn văn hóa" được đặt cạnh nhau.
Thật ra, tính dung chấp văn hóa không đồng nghĩa với tính hỗn tạp và lai căng văn hóa. Trái lại, nó có
tác dụng điều tiết quá trình lựa chọn và kết hợp một cách sáng tạo giữa các yếu tố văn hóá ngoại sinh với
văn hóa bản địa, sao cho bản sắc văn hóa dân tộc vẫn được bảo tồn và duy trì.
Nhờ tính dung chấp mà quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá không những không làm tổn hại đến nền
văn hóá bản địa, mà trái lại còn làm cho nền văn hóa ấy càng trở nên giàu có và phong phú hơn.
Biết cách loại bỏ những yếu tố văn hóa lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của dân tộc, và biết chấp nhận
những giá trị tiến bộ bên ngoài để đưa dân tộc tiến lên - là một phẩm hạnh mà không phải nền văn hóa nào
cũng có được. Bởi lẽ, phẩm hạnh này chỉ xuất hiện ở những dân tộc giàu lòng vị tha và dung chấp. Lịch sử
đã minh chứng rằng, đã có nhiều nền văn hóá tự khép kín bản thân để rồi dẫn đến diệt vong do không kịp
thích nghi với những biến động trong đời sống nhân loại;
hoặc đi đến những phản ứng bài ngoại hết sức cực đoan và thiếu nhân tính, gây ra nhiều thảm họa nhân đạo.
Một mặt, tính dung chấp văn hóa của người Việt bắt nguồn từ quá trình hình thành dân tộc Việt: Đây
là dân tộc được hình thành từ sự hoà huyết về chủng, từ sự tổng hợp về mặt ngôn ngữ và từ sự giao thoa
của nhiều nền văn hóa trong khu vực. Chính quá trình hình thành như vậy đã quy định rằng: nền văn hóa
của người Việt phải là một hệ thống tổng hợp và phải là một hệ thống mở, và do đó phải có tính dung chấp.
Mặt khác, kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã góp phần định hình tính dung
chấp văn hoa của dân tộc này: đứng trước một cường quốc hùng mạnh tại khu vực lại luôn có dã tâm xâm
chiếm và đồng hoa, việc phải mở cửa nền văn hóa và chấp nhận những giá trị văn hóá bên ngoài tràn vào
là một tất yếu. Bởi vậy, dân tộc Việt Nam không đứng trước những vấn đề mà nhiều dân tộc khác gặp phải
là sự lựa chọn giữa "đóng" hay "mở cửa" nền văn hoá dân tộc. Vấn đề đặt ra đối với người Việt luôn là:
nên hấp thụ những yếu tố văn hóa nào, và cải biến chúng ra sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển của dân tộc.
Nếu biết vận dụng tính dung chấp văn hóa, thì đó sẽ là một lợi thế lớn của dân tộc trong công cuộc hội
nhập vào đời sống quốc tế hiện nay.
Hiện tại Văn hóa VN đang giao lưu trên phạm vi toàn cầu. Từ đó ta có thể đánh giá rằng đây là một
phạm vi rộng và trên cơ sở đó thì Việt Nam sẽ được giao lưu và tiếp thu rất nhiều các nguồn văn hóa khác
nhau và ta có thể củng cố được văn hóa của nước nhà.
Việc giao lưu văn hóa trên phạm vi toàn cầu làm cho tính đặc trưng của văn hóa Việt Nam là tính dung
chấp cao. Từ đó ta có thể chỉ ra được ưu và nhược điểm :
- Ưu điểm:giúp cho văn hóa của Việt Nam trở lên đa dạng và nhiều màu sắc hơn, làm cho văn hóa của ta
phát triển hơn và một thứ vô cùng quan trọng đó là làm cho văn hóa được củng cố,
- Nhược điểm: nhưng cũng từ tính dung chấp đó cũng làm cho văn hóa của VN trở lên pha trộn đôi khi làm
lu mờ đi những nét văn hóa vốn có của VN ta từ xưa tới nay,đôi khi sự giao lưu văn hóa ấy làm cho vhVN
ta khó trong việc giữ những nét riêng trong văn hóa đời sống.