











Preview text:
lOMoAR cPSD| 58562220 Contents
ĐỀ CƯƠNG GIAO TIẾP SƯ PHẠM A. LÝ THUYẾT
1) KHÁI NIỆM GIAO TIẾP SƯ PHẠM a. Giao tiếp
Trong Tâm lí học, giao tiếp được hiểu là hoạt động xác lập và vận hành các quan hộ người người,
hiện thực hoá quan hệ xã hội giữa người với nhau. Nói cách khác, giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí giữa
người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẩn nhau,
ảnh hướng tác động qua lại với nhau. VD:
+ Khi tổ chức trò chơi cho trẻ, bằng giao tiếp, cô giáo và trẻ cũng như giữa các trẻ với nhau
thống nhất về luật chơi, cách chơi.
+ Giao tiếp giữa các quốc gia , các cộng đồng trên thế giới để cùng hành động bảo vệ môi trường.
b. Giao tiếp sư phạm
Theo nghĩa hẹp, giao tiếp sư phạm là sự tiếp xúc tâm lí giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục
nhằm truyệt đạt, lĩnh hội những tri thức khoa học, vốn sống, vốn kinh nghiệm, kĩ năng, kĩ xảo nghề
nghiệp,… để xây dựng, phát triển toàn diện nhân cách cho đối tượng giáo dục.
Giao tiếp sư phạm là giao tiếp có tính nghề nghiệp giữa giáo viên và học sinh trong quá trình giáo
dục, có chức năng sư phạm nhất định, tạo ra các tiếp xúc tâm lí, xây dựng bầu không khí tâm lí thuận lợi
cùng với các quá trình târn lí khác (chú ý, tư duy...) tạo ra kết quả tối ưu của quan hệ thầy trò trong hoạt
động dạy và hoạt động học cũng như trong nội bộ tập thể học sinh. VD:
+ Giáo viên giảng bài cho học sinh trong lớp nghe giảng.
+ Giáo viên trao đổi về kiến thức với các đồng nghiệp.
2) PHÂN LOẠI GIAO TIẾP SƯ PHẠM
Căn cứ vào hoàn cảnh giao tiếp trong hay ngoài nhà trường, người ta thường phân loại giao tiếp
sư phạm thành 2 nhóm, đó là: Giao tiếp sư phạm trong nhà trường và giao tiếp sư phạm ngoài nhà trường.
Dựa trên các yếu tố về đối tượng giao tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp và phương tiện
giao tiếp, ta có bảng so sánh về giao tiếp sư phạm trong và ngoài nhà trường.
Giao tiếp sư phạm trong nhà trường
Giao tiếp sư phạm ngoài nhà trường lOMoAR cPSD| 58562220
1. Đối tượng giao tiếp: Học sinh
Các lực lượng khác trong xã hội
2. Mục đích giao tiếp:
Nhằm truyền đạt và lĩnh hội những vốn sống kinh
nghiệm xã hội không thành văn về tổ chức đời sống
Nhằm truyền đạt kinh nghiệm, lĩnh hội tri thức, xã hội, cung cách hành vi ứng xử trong các quan hệ
vốn kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen nghề xã hội
nghiệp, xây dựng và phát triển nhân cách toàn diện ở học sinh.
3. Nội dung giao tiếp:
Là hệ thống các thao tác, hành vi ứng xử, các tư
thế, phong cách nhận thức, biểu cảm, tổ chức đời
Tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội và con người, sống cá nhân, cộng đồng với môi trường tự nhiên, đạo đức xã hội môi trường xã hội
4. Phương tiện giao tiếp:
Ngôn ngữ nói, hành vi cử chỉ, điệu bộ, tư thế, phong cách
Ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, phong cách, tư thế
đĩnh đạc, đường hoàng, tự tin, trang phục…
3) ĐẶC TRƯNG CỦA GIAO TIẾP SƯ PHẠM
Chủ thể của GTSP: GV – HS và GV – LLGD
Mục đích: hình thành và phát triển nhân cách người học
Công cụ/ phương tiện: Nhân cách người giáo viên
Biện pháp giáo dục cụ thể với đối tượng: động viên, thuyết phục, khích lệ
Điều kiện xã hội: định hướng giao tiếp, pháp luật, kinh tế xã hội,…; văn hóa, truyền thống tôn sự trọng
đạo,…; được Luật pháp quy định.
Nội dung giao tiếp tương tác, trao đổi = tri thức khoa học, xã hội,…
Môi trường tương tác/ quan hệ: trường học Giao
tiếp sư phạm phải thỏa mãn các đặc điểm:
a. Giao tiếp sư phạm mang tính chuẩn mực (mẫu mực). lOMoAR cPSD| 58562220
Tính chuẩn mực là một tất yếu trong giao tiếp sư phạm. Khi giảng bài, khi đánh giá học sinh và
khi gặp gỡ trò chuyện với học sinh, thầy luôn phải có sự mẫu mực, thống nhất giữa lời nói với việc làm...
phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
VD: Chuẩn mực, tác phong của nhà giáo luôn là một yếu tố được quan tâm và đặt lên hàng đầu,
nhà nước cũng đã quy định rất rõ tại Điều 5 Quy định về đạo đức nhà giáo ban hành kèm theo
Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT thì Tiêu chuẩn lối sống, tác phong của nhà giáo. Trong mỗi
trường sư phạm, tác phong của người giáo viên không chỉ là bộ mặt của nền giáo dục, mà còn
ảnh hưởng trực tiếp tới học sinh, tác động tới hành vi và nhân cách của học sinh.
b. Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên chú yếu tác động đến học sinh bằng tình cảm.+ Giáo
viên tác động bằng tình cảm của mình.
+ Giáo viên tác động tới mặt tình cảm của học sinh.
Các loại giao tiếp khác đòi hỏi cả lí và tình hoặc thiên về lí, thậm chí chi có lí (nguyên tắc).
VD: Khi học sinh không làm bài tập về nhà, người giáo viên không nên trách cứ, mắng, hay có
những hành động tiêu cực trực tiếp. Thay vào đó, người giáo viên nên tìm hiểu kĩ nguyên nhân,
lí do khiến học sinh không làm bài tập, đồng thời ôn tồn trò chuyện để từ đó, đưa ra lời khuyên
để học sinh khắc phục lỗi sai của mình.
c. Trong giao tiếp sư phạm, người giáo viên tác động đến học sinh bằng nhân cách của mình.
+ Giáo viên dùng nhân cách của mình làm công cụ tác động. Hiệu quả tác động bằng lời nói hay
hành động tới học sinh do nhân cách của giáo viên quy định.
+ Giáo viên không thể giáo dục một phẩm chất nào đó cho học sinh mà bản thân họ chưa có.
VD: Khi đi học, chúng ta thường có thói quen trình bày bài giống những gì thầy, cô giáo làm.
Không chỉ dừng lại ở bài tập, tác phong và cử chỉ của người giáo viên còn ảnh hưởng trực tiếp
tới thói quen, cảm xúc của học sinh. Một người thầy có thói quen dừng lại giữa bục giảng chào
học sinh khi vào lớp, hành động này khiến học sinh hình thành thói quen đứng dậy nghiêm chỉnh
chào thầy giáo. Dần dần, điều này trở thành một phản xạ, mỗi khi đến môn học của thầy học sinh
đều chủ động đứng dậy trước để chào, thể hiện sự tôn trọng của bản thân.
d. Giao tiếp sư phạm là giao tiếp xã hội. (Được xã hội thừa nhận và tôn trọng)+ Giao tiếp
sư phạm diễn ra trong môi trường sư phạm - an toàn, lành mạnh.
+ Nhà nước và xã hội đều tôn trọng người thầy giáo.
VD: Tác giả Ngô Công Hoàn quan niệm “Giao tiếp giữa con người với con người trong hoạt
động sư phạm được gọi là giao tiếp sư phạm”. Từ nhận định trên, có thể thấy rõ giao tiếp sư
phạm là giao tiếp xã hội.
4) CHỨC NĂNG CỦA GIAO TIẾP SƯ PHẠM
a. Trao đổi thông tin.
Thông tin trong giao tiếp sư phạm trước hết là hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, các giá trị... mà
thầy giáo truyền đạt đến học sinh. Đó là nội dung bài học, môn học, cách học..., hay nói rộng hơn, đó là
kinh nghiệm xã hội lịch sử mà mỗi người đến trường cần được lĩnh hội để sống bình thường trong xã lOMoAR cPSD| 58562220
hội. Để lĩnh hội được, học sinh phải thông qua giao tiếp với thầy giáo, với bạn bè... Quá trình đó xét về
chức năng của nó là quá trình giáo dục. Như vậy, qua giao tiếp sư phạm, học sinh tiếp thu được tri thức
của nhân loại để hình thành, phát triển trí tuệ, nhân cách và trên cơ sở tri thức đó mà phát triển nền vãn hoá xã hội.
Thông tin trong giao tiếp sư phạm còn là những cảm xúc, là thế giới tâm hồn của những người
tham gia giao tiếp. Mỗi con người là một thế giới tâm hồn chứa đựng cảm xúc.
VD: Trong một tiết học, thầy giáo kể một câu chuyện của bản thân về lần đầu được điểm kém do
không ôn bài. Không chỉ nằm ở việc giúp học sinh biết về một kỉ niệm trong quá khứ của mình, thầy giáo
còn giúp học sinh nhận ra được sai lầm trong cách ôn thi, từ đó rút ra kinh nghiệm và học tập cẩn thận.
Việc trao đổi thông tin trong giao tiếp sư phạm diễn ra từ cả hai phía, giữa thầy và trò, nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động giáo dục. b. Tri giác lẫn nhau.
Giao tiếp sư phạm luôn diễn ra sự nhận thức và hiểu biết nhau giữa giáo viên và học sinh. Đặc
tính quan trọng của tri giác lẫn nhau không chỉ là nhận thức về đối tượng giao tiếp mà còn nhận thức
được chính bản thân trong mối quan hệ đó. Tri giác lẫn nhau diễn ra trong suốt quá trình giao tiếp, giúp
mỗi người thu thập thông tin cả cảm tính (tư thế, tác phong, ánh mắt, nụ cười, trang phục...) lẫn lí tính
(phẩm chất, tính cách, tình cảm...) của đối tượng giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp sư phạm, giáo viên
và học sinh hiểu biết lẫn nhau bằng cách cùng chia sẻ cảm xúc, bằng con đường đồng nhất hoá bản thân
mình với người kia và bằng biện pháp suy nghĩ về người kia. Nhờ tri giác lẫn nhau mà giáo viên hiểu rõ
học sinh của mình hơn, chất lượng quan hệ cũng như hiệu quả của tác động giáo dục nâng cao hơn. Tri
giác lẫn nhau trong giao tiếp sư phạm là một hình thức tri giác liên nhân cách.
VD: Khi người giáo viên đặt ra một câu hỏi khiến học sinh lộ ra vẻ lúng túng. Lúc này, người
giáo viên không nên gặng hỏi, mà chủ động gợi ý, đặt ra những câu hỏi phụ đơn giản hơn, để học
sinh có thể tự tin và tìm ra câu trả lời chính xác. Từ đó, tạo ra cảm giác tự tin cho người học,
cũng như không khí thoải mái cho giờ học. Việc quan sát thái độ của người học, cũng như người
dạy, có lợi ích rất lớn nhằm nâng cao chất lượng của giờ học, đem lại cảm giác thoải mái, hứng khởi.
c. Đánh giá lẫn nhau.
Cùng với sự nhận thức, hiểu biết lẫn nhau trong quá trình giao tiếp, con người luôn có sự đánh giá
lẫn nhau trên cơ sở định hướng giá trị của mình. Kết quả của nó ảnh hướng quyết định tới tiến trình cũng
như hiệu quả của quá trình giao tiếp. Chẳng hạn, từ chỗ hiểu nhầm dẫn đến đánh giá sai về học sinh, giáo
viên có thể căng thẳng trong cư xử với các em, và tất nhiên, giáo viên sẽ hứng chịu phản ứng có thể là
trực tiếp hoặc ngấm ngầm không lấy gì là tốt đẹp từ phía học sinh, thậm chí có thể phá vỡ quan hệ tốt
đẹp giữa giáo viên và học sinh.
VD: Khi gặp phải một bài làm điểm kém của một học sinh, người giáo viên không nên lập tức
trách móc hay có những hành động tiêu cực. Thay vào đó, người giáo viên cần tìm hiểu kĩ lực
học của học sinh này, từ đó đưa ra những phương án giảng dạy phù hợp, đem lại sự thoải mái
cũng như động lực cho học sinh phấn đấu.
d. Ảnh hưởng lẫn nhau.
Mỗi người tham gia giao tiếp quan hệ với người cùng giao tiếp với mình như là chủ thể có tâm lí,
ý thức. Nếu trong hoạt động thực tiễn có đối tượng, kết quả là vật chất (đối tượng được cải tạo), thì trong lOMoAR cPSD| 58562220
giao tiếp kết quả trước hết liên quan đến những thay đổi này hay khác trong ý thức, hành vi và phẩm chất
của những người giao tiếp. Mỗi thành viên tham gia giao tiếp có thể có kế hoạch nào đó, nhưng trong
quá trình giao tiếp trên thực tế có thể diễn ra khác với dự kiến của kế hoạch cá nhân. Trong quá trình giao
tiếp, các kế hoạch cá nhân được biến đổi và có thể tạo ra một kế hoạch chung nào đó năng động hơn,
hoặc ngược lại, bất đồng hơn. Như vậy, giao tiếp dẫn đến sự thay đổi không chỉ là tư tưởng mà còn thay
đổi cả chức năng tâm lí, trạng thái, thuộc tính tâm lí của những người giao tiếp. Trong giao tiếp sư phạm,
với chức năng xã hội là người hướng dẫn, chỉ đạo, điều khiển hoạt động nhận thức cũng như quá trình
hình thành nhân cách của học sinh, giáo viên có ảnh hường vô cùng lớn tới học sinh, đặc biệt là học sinh
nhỏ tuổi. Tuy nhiên trong quá trình này, giáo viên củng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ phía học sinh (liên
hệ ngược). Một khía cạnh đặc biệt lưu ý là, giữa học sinh với học sinh cũng có ảnh hưởng lẫn nhau rất
lớn trong quá trình các em giao tiếp với nhau (học thầy không tày học bạn).
VD: Khi giảng bài, tâm lí cũng như cảm xúc, thái độ của người giáo viên có những ảnh hưởng
nhất định tới học sinh. Người giáo viên có cảm xúc vui vẻ, hào hứng sẽ đem lại một bầu không
khí sôi nổi và thoải mái cho lớp học. Người giáo viên có cảm xúc không tốt, cáu giận sẽ tạo cho
lớp học không khí căng thẳng, nặng nề. Ngoài ra, trạng thái và kết quả của lớp học cũng ảnh
hưởng tới tâm lý của người giáo viên. Chính vì vậy, giáo viên và học sinh ảnh hưởng tới nhau
trong quá trình giao tiếp sư phạm.
e. Điều khiển hoạt động nhóm.
Giao tiếp luôn mang ý nghĩa xã hội, đó là giao tiếp đảm bảo tổ chức mọi người tiến hành hoạt
động chung, đảm bảo cho sự liên hệ qua lại của họ. Đặc điểm cơ bản của chức năng này thể hiện ở chỗ
chính quá trình giao tiếp là quá trình trao đổi các ý đồ, tư tưởng, biểu tượng... Sự thống nhất các ý đồ, tư
tưởng... sẽ điều khiển hoạt động chung của nhóm, cộng đồng. Trong giao tiếp sư phạm, sự thống nhất
các ý đồ, tư tưởng... giữa giáo viên và học sinh là điều kiện lí tưởng đảm bảo hiệu quả cao trong dạy học
và giáo dục, và điều này phụ thuộc phần lớn vào nâng lực giao tiếp của người giáo viên. Thông qua giao
tiếp, giáo viên tổ chức các mối quan hệ, các tương tác giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau
nhằm phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh - đó là khía cạnh bản chất của phương pháp dạy học
tích cực. Trong hoạt động chung này, giao tiếp thực hiện chức năng điều chỉnh từng thành viên tham gia.
Nhiệm vụ của người thầy giáo trong trường hợp này là tổ chức quá trình giao tiếp của học sinh bằng
chính giao tiếp của mình.
VD: Người giáo viên giống như một nghệ sĩ trên sân khấu, một người diễn viên tài năng sẽ biết
cách lôi cuốn khán giả về phía mình. Một giáo viên hiệu quả sẽ biết thu hút sự tham gia của học
sinh. Để trở thành một giáo viên hiệu quả, thầy cô phải làm chủ được các chiến thuật, các kĩ thuật
dạy học đảm bảo học sinh tham gia vào các hoạt động mà mình tổ chức, lắng nghe những gì mà
mình nói, thực hiện những nhiệm vụ mà mình yêu cầu.
f) GD phát triển nhân cách
Người học không thể tách mình khỏi môi trường nhà trường, bạn bè, thầy cô giáo, những người quản lý
giáo dục…phạm vi giao tiếp sư phạm ngày càng được mở rộng. Qua đó cùng với hoạt động của mỗi cá
nhân người học thì giao tiếp sư phạm giúp con người lĩnh hội được các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, năng
lực … trên cơ sở phù hợp với các chuẩn mực xã hội để từ đó hình thành nhân cách cho mình. lOMoAR cPSD| 58562220
g) Phối hợp hoạt động sư phạm
Hoạt động sư phạm (Dạy- Học) diễn ra trên nền quan hệ giao tiếp thầy – trò. Do đó hiệu quả hoạt động
sư phạm phụ thuộc vào hiệu quả giao tiếp thầy – trò. Nhờ có quá trình giao tiếp sư phạm, các nhà giáo
dục có thể phối hợp hoạt động để cùng nhau giải quyết một nhiệm vụ nào đó nhằm đạt tới mục tiêu của nhóm.
Giao tiếp sư phạm làm cho hoạt động sư phạm tuân theo những quy định, nguyên tắc xác định. Trong
quá trình lĩnh hội khái niệm, nhờ giao tiếp sư phạm mà cơ sở khái quát hoá và trừu tượng hoá được
mở rộng (so với hoạt động cá nhân), thúc đẩy việc chọn lọc và sắp xếp các kiến thức sẽ lĩnh hội.
*Ở một cách diễn đạt khác, giao tiếp sư phạm gồm các chức năng sau: -
Công cụ: Giao tiếp sư phạm là cơ chế xã hội của việc điều khiển và truyền đạt thông tin cần thiết
cho việc thực hiện hoạt động dạy học và giáo dục. -
Liên kết: Giao tiếp sư phạm là phương tiện liên kết giáo viên vói giáo viên, giáo viên với học
sinh, học sinh với học sinh... -
Tự thể hiện: Giao tiếp sư phạm là sự trình diện thế giới nội tâm của giáo viên và học sinh, và do
đó là hình thức hiểu biết lẫn nhau. -
Chuyển dời: Quá trình sư phạm (dạy học và giáo dục) về bản chất là quá trình tổ chức cho học
sinh hoạt động nhằm chiếm lĩnh nền văn hóa của xã hội. Trong quá trình này, thầy giáo là cầu nối giữa
học sinh và nền văn hoá đó. Như vậy, qua giao tiếp sư phạm, thầy giáo và học sinh đã "chuyển dời”
những tri thức cần thiết từ nền văn hoá nhân loại vào bản thân mình. Đây là chức năng quan trọng nhất của giao tiếp sư phạm.
Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, giao tiếp là yếu tố quyết định quan trọng nhất của các quá
trình nhận thức ờ tất cả các mức độ. Trong quá trình lĩnh hội khái niệm, nhờ giao tiếp sư phạm mà cơ sở
khái quát hoá và trừu tượng hoá được mở rộng (so với hoạt động cá nhân), giao tiếp sư phạm thúc đẩy
việc chọn lọc và sắp xếp các kiến thức sẽ lĩnh hội. Giao tiếp sư phạm tạo ra các điều kiện thuận lợi để
xem xét các nhiệm vụ từ các quan điểm khác nhau và những thay đổi chiến lược tìm kiếm cách giải quyết
chúng, ở đây nhấn mạnh hiệu quả giao tiếp giữa thầy giáo với học sinh, giữa học sinh với học sinh trong quá trình dạy học. -
Kiểm soát xã hội: Giao tiếp sư phạm có chức nâng thể chế hoá hành vi và hoạt động của giáo
viên và học sinh, tức là làm cho hoạt động sư phạm tuân theo những quy định, nguyên tắc xác định. -
Xã hội hoá: Giao tiếp sư phạm hình thành cho cả giáo viên và học sinh kĩ năng, kĩ xảo tác động
qua lại trong xã hội phù hợp với các chuẩn mực và quy tắc, các phong tục, tập quán...
5) VAI TRÒ CỦA GIAO TIẾP SƯ PHẠM
1. Phát triển động cơ học tập đúng ở học sinh
GTSP là một trong những phương pháp hiệu quả để hình thành và phát triển động cơ học tập đúng cho học sinh.
Những lời khen, động viên, khích lệ, công nhận,… nếu như giáo viên có thể sử dụng chúng đúng lúc và
hợp lý, hoàn toàn có thể là một nguồn động viên vô cùng lớn đến những em học sinh bởi ở tuổi các em
rất muốn nhận được sự công nhận đến từ những người lớn, những người đang dạy bảo các em. Từ đó, lOMoAR cPSD| 58562220
các em sẽ muốn cố gắng nhiều hơn để nhận được những lời khen của giáo viên, một thời gian nguồn
động lực bên ngoài đó dần có thể chuyển thành nguồn động lực bên trong bền bỉ hơn.
Hơn nữa, với sự quan tâm, nói chuyện, chia sẻ, giải thích hợp lý, giáo viên cũng có thể thay đổi cho các
em những động cơ học tập đúng đắn hơn, từ nguồn động cơ bên ngoài (khen, thưởng,…) sang nguồn
động cơ học tập bên trong (đam mê, hướng nghiệp,…).
2. Phát huy được tính tích cực hoạt động trí tuệ, phát triển tính sáng tạo
Trong chương trình đổi mới dạy học tiếp cận năng lực, đề cao khả năng tự chủ của học sinh, học sinh là
chủ thể của quá trình lĩnh hội tri thức, nhiệm vụ của giáo viên là phải làm sao học sinh vẫn tiếp thu đầy
đủ những kiến thức cần tiếp thu mà vẫn giữ được sự tích cực, chủ động trong hoạt động trí tuệ, có tính
sáng tạo. Giao tiếp sư phạm đóng vai trò quan trọng trong mục tiêu này, giáo viên phải trau dồi cho mình
kĩ năng giao tiếp vô cùng tốt.
Với cách giao tiếp sư phạm hợp lý, giáo viên gợi mở vấn đề mà không đưa hẳn kết quả, việc này sẽ kích
thích được sự chủ động của học sinh. Cùng với đó, giáo viên có thể đưa ra những lời khích lệ đối với học
sinh giúp học sinh có động lực tư duy, tìm tòi, sáng tạo hơn.
3. Tạo ra những xúc cảm, tình cảm tích cực ở cả hai phía thầy cô và học sinh
Không chỉ trong môi trường sư phạm, mà trong cuộc sống nói chung, giao tiếp là cách thức nhanh nhất,
ngắn nhất để gắn kết hai con người với nhau.
Giữa thầy cô và học sinh cũng vậy, giáo viên, với khả năng giao tiếp sư phạm tốt, hoàn toàn có thể xây
dựng những cảm xúc tích cực từ học sinh như yêu thương, vui vẻ, hào hứng... Bên cạnh đó, thông qua
giao tiếp, giáo viên có thể hiểu hơn về học sinh của mình từ đó cũng sẽ có sự tin tưởng hơn, thông cảm,
thấu hiểu từ đó có thể chia sẻ và giúp đỡ các em học sinh cả trong vấn đề học tập và trong những vấn đề
cảm xúc, tâm lí của các em.
4. Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, xóa đi hàng rào ngăn cách thầy cô và học sinh
- Ý thức, thái độ học tập đúng được hình thành cùng với sự ra đời của ngôn ngữ, lao động, trên
nền tảng của sự phát triển hoạt động nhận thức ở mức độ nhận thức nhất định. Thái độ đó chỉ
được hình thành và phát triển trong giao tiếp với những người xung quanh, các quan hệ xã hội
mà con người đang sống và hoạt động.
- Giữa giáo viên và học sinh thường sẽ có những khoảng cách nhất định liên quan đến lứa tuổi,
thời kì, suy nghĩ,… do vậy sẽ tạo ra những ngăn cách nhất định giữa hai bên trong việc tương
tác. Nhiệm vụ của giáo viên là sử dụng khả năng giao tiếp sư phạm để phá bỏ những hàng rào
ngăn cách đó bằng sự chân thành, tin tưởng, tôn trọng,… lẫn nhau. Từ đó chiếm được sự tin
tưởng của học sinh, giáo viên có thể hỗ trợ, giúp đỡ cải thiện các vấn đề trong thái độ học tập của học sinh.
- Học sinh có ý thức làm bài đầy đủ, học thuộc bài ở nhà, chuẩn bị bài đầy đủ, và tương tác với
giáo viên trong lớp học được hình thành và phát triển qua nhiều năm, như vậy, thiếu giao tiếp
với thầy cô, học sinh sẽ không có ý thức học tập nghiêm túc. lOMoAR cPSD| 58562220
Như vậy, giao tiếp sư phậm không chỉ là phương tiện, là công cụ thực hiện mục địch sư phạm mà còn là
bộ phận cấu thành hoạt động sư phạm, là thành phần chủ đạo trong cấu trúc năng lực của thầy giáo, góp
phần tạp nên nhân cách của họ.
6) CÁC NGUYÊN TẮC GIAO TIẾP SƯ PHẠM
Trình bày theo 3 bước: Là gì (Tại sao) – Biểu hiện – Hiệu quả *
Những nguyên tắc chung trong giao tiếp: đảm bảo tính khoa học, tính đạo đức, tính
thẩm mỹ và tính dân tộc.
‐ Nguyên tắc: là hệ thống những chuẩn mực, quy định có tác dụng chỉ đạo, định hướng suy
nghĩ và hành động của con người.
‐ Nguyên tắc giao tiếp sư phạm: là hệ thống những quan điểm có tác dụng chỉ đạo, định
hướng thái độ và hành vi ứng xử của chủ thể giao tiếp, cũng như việc lựa chọn các phương
pháp, phương tiện giao tiếp trong hoạt động sư phạm. *
Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm:
6.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mô phạm trong giao tiếp
• Mô phạm là một cách sống đúng chuẩn theo đạo đức của con người và thường được đưa ra để
làm tấm gương cho mọi người cùng noi theo.
Dạy học là một nghề đặc biệt, sản phẩm lao động của người giáo viên là những nhân cách phát
triển toàn diện ở thê hệ trẻ. Công cụ lao động quan trọng tạo nén sản phẩm ấy lại chính là nhân cách của
người giáo viên. Đó là những phẩm chất chính trị, ý thức nghề nghiệp, lòng yêu nghề, mến trẻ, năng lực
chuyên môn, kĩ năng giao tiếp... Người giáo viên trực tiếp dùng nhân cách của mình để tác động đến học sinh.
Đối với xă hội, nhà trường là trung tâm văn hoá, mỗi giáo viên là đại diện, là điểm sáng của nền
vãn hoá. Không những thế, nhân cách mầu mực còn là yếu tô tạo nên uy tín của người giáo viên. Với
những đặc trưng nghề nghiệp cùa mình, đòi hỏi mỗi giáo viên phải thường xuyên tự rèn luyện mình,
trong quan hệ giao tiếp với học sinh phải đảm bảo tính mô phạm.
‐ Bản chất của nguyên tắc: đảm bảo sự mẫu mực trong nhân cách của người thầy giáo, có sự
thống nhất giữa lời nói và hành động.
‐ Cơ sở đề ra nguyên tắc: xuất phát từ đặc điểm nghề dạy học, yêu cầu đối với người thầy giáo
trong hoạt động sư phạm nói chung.
‐ Biểu hiện: Thầy giáo nhận thức được vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giáo dục
thế hệ trẻ, đặc biệt là tầm ảnh hưởng của nhân cách mình tới nhân cách trẻ như thế nào.
Từ đó, cần hình thành: lOMoAR cPSD| 58562220
+ Thái độ: yêu thương, tôn trọng học sinh, luôn mong học sinh tiến bộ.
+ Hành vi: mẫu mực trong trang phục, ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ, trong hành vi ứng xử với
học sinh, đồng nghiệp và những người xung quanh; làm gương sáng cho học sinh noi theo mọi lúc, mọi nơi.
+ Lời nói và hành động luôn thống nhất với nhau.
- Để thể hiện được tính mô pliạm trong giao tiếp, mỗi giáo viên phải ý thức rõ được vị trí,
trách nhiệm của mình trong nghề nghiệp, tích cực phấn đấu toàn diện về chuyên môn và lối
sống, luôn làm chủ được bản thân mình.
VD: Trong một lần, vì quá nóng vội, bạn đã phạt một học sinh vì cho rằng em đó đã vi phạm kỉ luật. Nhưng rồi
sau đó bạn phát hiện ra em đó ko có lỗi. Bạn sẽ xử lý ntn? - Cách xử lí:
● Hãy thẳng thắn và trung thực với các em và với chính bản thân mình.
● Hãy công khai xin lỗi học sinh đó trước lớp. Chờ một dịp thuận lợi, một buổi sinh hoạt lớp với không khí vui
vẻ chẳng hạn, bạn hãy nói với các em học sinh thế này: “Hôm trước, cô đã hơi nóng vội nên đã phạt oan
bạn A. Người lớn cũng có những lúc mắc khuyết điểm. Cô rất xin lỗi bạn A và cả lớp. Chắc các em cũng là
những học sinh rộng lượng đúng không?”
● Hoặc gặp riêng học sinh, bạn sẽ nói chuyện dễ dàng hơn, cô trò cảm thông và hiểu nhau.
6.2. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách trong giao tiếp sư phạm
- Tôn trọng nhân cách người học là phải coi học sinh như là một cá nhân, một con người với đầy
đủ các quyền vui chơi, học tập, nhận thức,… cùng những đặc điểm tâm lí riêng, bình đẳng với
mọi người trong quan hệ xã hội
⇨ Bản chất: đảm bảo thực thi quyền trẻ em.
- Học sinh đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, là chủ thể hoạt động tích cực,
có đặc điểm nhận thức, thái độ và kiểu hành vi ứng xử riêng (chịu ảnh hưởng của giáo dục gia
đình) => Giáo viên không nên áp đặt, ép buộc các em phải tuân theo ý kiến thầy cô một cách duy ý chí.
⇨ Cơ sở để đề ra nguyên tắc: được tôn trọng là một trong những nhu cầu cơ bản của con người.
- Tôn trọng nhân cách học sinh được thể hiện ở một số điểm như:
o Biết lắng nghe học sinh nói chuyện, trình bày ý muốn, nhu cầu, nguyện vọng của mình,…
(lắng nghe học sinh) o Không ngắt lời bằng các cử chỉ, điệu bộ như phẩy tay, xem đồng
hồ hoặc ngoảnh mặt đi chỗ khác với vẻ mặt khó chịu khi học sinh đang trình bày (Tránh các
cử chỉ, hành vi biểu lộ sự thiếu tôn trọng với học sinh) lOMoAR cPSD| 58562220
o Với các em khó nói, khó diễn đạt nên gợi ý nhẹ nhàng nếu thấy cần thiết hoặc biểu hiện
thái độ khích lệ, động viên các em nói được suy nghĩ, mong muốn của mình (Hỗ trợ học
sinh biểu lộ bản thân)
⇨ Ví dụ: Với những học sinh ít nói có tính cách khép mình, có thể gọi phát biểu trong
giờ sinh hoạt, một câu hỏi rộng có thể chia thành nhiều câu hỏi nhỏ hơn như một
sự gợi ý đối với học sinh đó. Ngoài ra, giáo viên nên giữ nụ cười của mình sao cho
thân thiện, biểu hiện mong chờ, điều này góp phần tạo cảm giác dễ chịu cho học sinh được hỏi.
o Không được có lời lẽ, câu từ xúc phạm đến nhân cách học sinh, nhất là trước đám đông
như lớp học, bằng các từ ngữ như ngu, dốt, lười,… trong bất kì trường hợp nào (Không
dùng lời lẽ xúc phạm học sinh trước đám đông
⇨ Ví dụ: Khi học sinh không làm bài tập về nhà, không nên có những lời lẽ trách mắng
như “sao em lười học thế”, “Nếu em lười thế này thì sau này làm được cái
gì…”,…mà có thể hỏi riêng nhẹ nhàng như “sao em không làm bài tập về nhà, em
có việc bận gì à?”, “Sau nhớ làm bài tập về nhà, như vậy mới có thể hiểu bài được”,…
o Ngoài ra tôn trọng học sinh còn thể hiện qua trang phục gọn gàng, sạch sẽ và lịch sự của
giáo viên. Quần áo lôi thôi là sự thiếu tôn trọng đối với học sinh của mình (giữ vẻ ngoài
gọn gàng, chỉnh tề).
6.3. Nguyên tắc thiện chí trong giao tiếp sư phạm Bản
chất của nguyên tắc: đảm bảo thực thu quyền trẻ em.
Cơ sở đề ra nguyên tắc: được khẳng định giá trị bản thân là một trong những nhu cầu cơ bản của con người.
- Thiện ý trong giao tiếp sư phạm là ý tốt của thầy cô giáo đối với học sinh, thể hiện ở sự yêu
thương, tin tưởng các em, tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích các em tích cực hoàn thành
tốt nhiệm vụ trong học tập và trong các hoạt động khác ở nhà trường.
- Thiện ý của giáo viên với học sinh thể hiện:
o Trong giao tiếp, giáo viên luôn đặt quyền lợi của học sinh lên trên hết, chuẩn bị kĩ giáo án,
hướng dẫn các em tiếp thu tri thức bằng tất cả khả năng và lòng nhiệt tình của mình. o Tin
tưởng học sinh, khích lệ động viên các em. Không được có định kiến với học sinh.
Cho dù học sinh có yếu kém thực sự về năng lực hay đạo đức thì cũng luôn nghĩ đó là tính
cách chưa hoàn thiện, được yêu thương giúp đỡ, nhất định các em sẽ trở thành người tốt.
⇨ Ví dụ: Trong lớp có một học sinh rất nghịch ngợm hay pha trò trong giờ. Giáo viên
trong trường hợp này, không nên có định kiến xấu với học sinh (bởi từ đó có thể
nảy sinh những đánh giá chủ quan tiêu cực của giáo viên trong quá trình tương tác
của giáo viên với học sinh này), luôn phải tin rằng học sinh luôn có mặt tốt, tìm
hiểu nguyên nhân học sinh này nghịch như vậy là do đâu (có thể muốn thu hút sự
chú ý, có thể là do thừa năng lượng, hoặc do học sinh đó không có nhiều cơ hội thể
hiện bản thân với người khác,…), từ đó tìm hướng giải quyết thích hợp vì sự tiến
bộ của học sinh đó.
o Đánh giá, nhận xét bài làm của các em phải thực sự công bằng, khách quan, khích lệ, động
viên những em giỏi vươn lên, những học sinh trung bình và yếu cố gắng hết sức. Giáo viên lOMoAR cPSD| 58562220
có thể cho điểm lẻ ở bài, ghi điểm chẵn vào sổ và công khai cho các em biết. Lời phê trong
bài cô đọng, súc tích; thể hiện sự động viên, khuyến khích, tạo niềm tin cho các em nơi chính bản thân mình.
⇨ Ví dụ: Sau khi chấm bài kiểm tra, giáo viên nhận thấy có hai bài khá giống nhau,
một của học sinh giỏi, một của học sinh yếu hơn. Lúc đó, giáo viên không nên có
đánh giá chủ quan như bạn yếu chép bài bạn giỏi. Giáo viên có thể gọi riêng hai
bạn lên để đối chất về hai bài làm và đưa ra cách giải quyết công bằng nhất bất kể
hai bạn có học lực ra sao. Dù ai chép bài, giáo viên vẫn cần phải nhắc nhở nhẹ
nhàng, trừ nhẹ bài chép. Nếu bài không phải chép mà chỉ tình cờ giống nhau (điều
này rất có thể xảy ra với các môn tự nhiên) nếu bài làm tốt, giáo viên có thể khích
lệ sự tiến bộ của bạn yếu.
o Tùy tình huống, hoàn cảnh, khả năng của từng em để giao công việc phù hợp. Tuyệt đối
không nhạo báng, giễu cợt, chê bai trước những thất bại của các em
o Mỗi khi giải quyết mâu thuẫn, sự việc bất thường xảy ra trong lớp (học sinh đánh nhau,
mất đồ dùng,…) thầy cô phải phân xử công bằng, phân minh, hình thực xử phạt phải vì sự
tiến bộ của học sinh, và phải có sự đồng tình của toàn bộ học sinh trong lớp.
⇨ Ví dụ: Trong lớp có sự việc mất đồ, một bạn trong lớp được các bạn nghi ngờ ngay
vì từng bị phát hiện ra lấy đồ. Lúc này, giáo viên không nên hùa theo những học
sinh kia mà có động thái kiểm tra ngay túi bạn đó. Giáo viên có thể làm đúng quy
trình, hỏi người bị hại xem để quên ở đâu, yêu cầu tất cả học sinh kiểm tra cặp của
mình, kiểm tra chéo với bạn cùng bàn và tìm xung quanh lớp. Nếu vẫn không tìm
ra thì trước hết cần phải dập tắt ác cảm của các học sinh với bạn học sinh bị nghi
ngờ trước đó rằng (không ai thấy đồ mất trong cặp bạn ý tức là bạn ý không lấy…)
sau đó giáo viên có thể tiếp tục giải quyết với bạn bị mất đồ…
6.4. Nguyên tắc đồng cảm trong giao tiếp
Bản chất của nguyên tắc: Tình yêu thương giữa con người với con người.
Cơ sở đề ra nguyên tắc: được yêu thương là một trong những nhu cầu cơ bản của con người.
- Đồng cảm trong giao tiếp sư phạm có nghĩa là người giáo viên đặt mình vào vị trí của học sinh,
để hiểu được suy nghĩ, tâm tư, tình cảm, nguyên vọng của các em, từ đó có các hành vi ứng xử phù hợp
- Để đồng cảm với học sinh trong giao tiếp, giáo viên cần:
o Nắm vững đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh.
VD: lứa tuổi THPT và THCS có các đặc điểm tâm lí khác nhau. Trong từng cấp học lại có
nhữung đặc điểm khác nhau ở từng khối học : lớp 8 lớp 9 là độ tuổi các em khao khát
được trở nên tự do, mong muốn trở thành người lớn, có những tình cảm đặc biệt dành cho bạn khác giới,….
o Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và đặc điểm tâm lí riêng của từng học sinh, trên cơ sở phác
thảo được chân dung tâm lí đối tượng giao tiếp.
VD: hoàn cảnh sống cũng ảnh hướng khá nhiều đến đời sống tâm lí của học sinh. Một học
sinh luôn luôn không chú ý học, phá phách, không hợp tác luôn phạm khuyết điểm có thể
là do một tổn thương đến từ tâm lí. Là người giao viên, chúng ta cần tìm hiểu để có thể có
phương hướng giúp đỡ học sinh,… lOMoAR cPSD| 58562220
o Đặt mình vào vị trí của học sinh trong những tình huống giao tiếp cụ thể, biết gợi lên
nhữung điều điều học sinh muốn nói nhưng không dám nói và tạo điều kiện để thỏa mãn
nguyện vọng chính đáng của các em.
VD: ở độ tuổi THCS, các em đã bắt đầu dậy thì, bắt đầu đã có những tò mò về cơ thể,…
nếu không hiểu và đồng cảm với các em về các vấn đề tế nhị này, có thể các em sẽ có
những hành động không chuẩn mực. Cần phải tạo điều kiện để học sinh nói lên những
thắc mắc và có những phướng án xử lí để đáp ứng nguyện vọng của các em
- Nhờ có đồng cảm, giáo viên mới có các biện pháp giảng dạy, giáo dục có hiệu quả khi uốn nắn,
sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm của các em. Đồng cảm tạo ra sự gần gũi, thân mật, tạo cảm
giác an toàn cho các em, là cơ sở hình thành các hành vi ứng xử nhân hậu, độ lượng, khoan dung.
6.5. Nguyên tắc tạo niềm tin trong giao tiếp sư phạm
Bản chất củ nguyên tắc: đảm bảo thực thi quyền trẻ em
Cơ sở đề ra nguyên tắc: được tin tưởng là một trong những nhu cầu cơ bản của con người.
- Niềm tin giúp chúng ta làm những điều chúng ta cho là đúng, hoặc không làm những thứ mà
chúng ta không tin. => Niềm tin quyết định thái độ, là động lực thúc đẩy hành động.
- Niềm tin là yếu tố quyết định đến kết quả của hoạt động giao tiếp nói chung và giao tiếp sư phạm nới riêng.
- Cách tạo niềm tin trong giao tiếp sư phạm:
o Hãy tin tưởng vào học sinh: Có 1 câu nói: Khi ta muốn người khác đối xử với mình như
thế nào, hãy đối xử ngược lại với họ như vậy. Khi ta muốn các em tin tưởng, hãy thể hiện
rằng ta hoàn toàn đặt niềm tin ở chúng trước. Nhưng điều này không dễ dàng thể hiện qua
một câu nói đâu. Nó yêu cầu chúng ta có một sự thành tâm tuyệt đối. Vì chỉ khi thật sự có
ý như vậy, ta mới có thể trả lời rành mạch câu hỏi “Tại sao thầy/cô lại có niềm tin như vậy
ở em?” nếu bên kia hỏi ngược lại.
o Hãy lắng nghe nhiều hơn: Học sinh sẽ cảm nhận được rằng ta rất coi trọng những điều họ
nói. Đó có thể là kinh nghiệm, chia sẻ từ chính con người chúng. Đừng quên đặt thêm câu
hỏi để thể hiện sự hứng thú và gây thiện cảm với các em.
o Hãy trở thành tấm gương: Học sinh sẽ chưa thể hoàn toàn tin tưởng hoặc ép chúng tin
tưởng chúng ta nếu chỉ qua lời nói. Hãy xây dựng hình ảnh tích cực của bản thân đối với
học sinh để có được hình tượng tốt trong lòng các em. Hãy chú ý từ cách ứng xử, trang
phục, thái độ tích cực,…
o Hãy kiên nhẫn: Không có một lối tắt nào để đạt được sự tin tưởng sâu sắc mà nó cần thời
gian và trải nghiệm để xây dựng. Cần tạo lập dựa trên những cơ sở: Ngưỡng mộ về khả
năng, tin tưởng về thực lực, trân quý về tính cách, chấp nhận về uy tín. Điều này không thể
thực thi ngày một ngày hai mà cả một chặng đường dài.