Đề cương ôn tập Kinh tế Chính trị
1. Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng ưu thế của sản xuất hàng hoá. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu.
Sản xuất hàng hoá sản xuất ra những sản phẩm thể đưa ra thị trường nhằm mục đích buôn bán.
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá:
Thứ nhất: Phân công lao động hội.
Phân công lao động hội sự phân chia lao động hội tự phát thành các ngành, nghề khác nhau
(đó chính chuyên môn hoá sản xuất).
Phân công lao động hội m mỗi người chỉ sản xuất được một hoặc vài loại sản phẩm nhất định.
Song cuộc sống của họ lại cần nhiều loại sản phẩm. Để thoả mãn được nhu cầu, những người sản xuất
phải trao đổi sản phẩm với nhau.
dụ: Trong sản xuất tự cung, tự cấp thì một người thể vừa trồng lúa, vừa sản xuất ra công cụ lao
động (cuốc, xẻng, cày, bừa...). Khi phân công lao động hội thì người nông dân chỉ chuyên trồng
lúa, còn người thợ rèn chuyên sản xuất công cụ. Người nông dân có lương thực ăn, nhưng lại cần công
cụ để sản xuất; ngược lại người thợ rèn không thể ăn cuốc, xẻng... Điều đó buộc người nông dân
người thợ rèn phải trao đổi sản phẩm của họ với nhau.
Nhưng phân công lao động hội mới điều kiện cần, muốn sản xuất hàng hóa ra đời tồn tại phải
có điều kiện điều kiện đủ.
Thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Sự tách biệt này do c quan hệ sở hữu khác nhau (chế độ hữu hoặc những hình thức shữu khác
nhau) về liệu sản xuất quy định. Quan hệ sở hữu khác nhau m cho sản phẩm làm ra thuộc về các
chủ thể khác nhau, do đó người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải trao đổi, mua bán.
Như vậy, các quan hệ sở hữu khác nhau về liệu sản xuất làm cho những người sản xuất tách biệt
nhau về mặt kinh tế và buộc họ phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Từ sự phân tích trên, sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đầy đủ hai điều kiện trên, nếu thiếu một trong
hai điều kiện thì không có sản xuất hàng hoá.
Trong lịch sử, sản xuất hàng hóa ra đời trong thời kỳ công xã nguyên thủy tan rã. Sản xuất hàng hóa ra
đờiphát triển là qtrình lịch sử lâu dài. Đầu tiên là sản xuất hàng hóa giản đơn (sản xuất hàng hóa
nhỏ, dựa trên kỹ thuật thủ công, lạc hậu); sau đó là sản xuất hàng hóa quy mô lớn (kinh tế thị trường).
Đặc trưng của sản xuất hàng h:
So với sản xuất tự cung, tự cấp sản xuất hàng hoá những đặc trưngưu thế bản sau:
(1) mục đích của sản xuất hàng hoá nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường, của hội, nhu cầu
của thị trường là vô hạn, đây chính là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
(2) trong sản xuất hàng hoá, do sự tách biệt về kinh tế, tất yếu dẫn đến cạnh tranh mục đích lợi
nhuận, buộc những người sản xuất phải luôn cải tiến kỹ thuật, hợp lí hoá sản xuất, ng năng suất lao
động, làm giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu sản phẩm ... Như vậy, cạnh
tranh thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh.
(3) trong sản xuất hàng hoá, với sự phát triển của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ, làm cho giao lưu kinh
tế, văn giữa các vùng, các địa phương trong ớc và quốc tế ngày càng phát triển. Do đó, đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế trên, sản xuất hàng hóa ng những mặt trái của nó như: phá
hoại môi trường sinh thái; tiềm ẩn khủng hoảng, thất nghiệp; phân hóa giàu - nghèo...
Ưu thế của sản xuất hàng hóa
So với sản xuất tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hóa những ưu thế hơn hẳn:
+ Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động hội, chuyên n hóa sản
xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, hội, kỹ thuật của từng người, từng sở
sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại
tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động hội, làm cho chuyên môn hóa lao
động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó,
nó phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất
lao động hội tăng n nhanh chóng, nhu cầu của hội được đáp ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất
trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì còn khai thác được lợi thế của các quốc gia với
nhau.
+ Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn
lực mang tính hạn hẹp của mỗi nhân, gia đình, mỗi sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, được
mở rộng, dựa trên sở nhu cầu nguồn lực của hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc
ứng dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất… thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn của sản xuất trao đổi hàng
hóa quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh… buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng
động, nhạyn, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật, hợp hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản xuất hạ
xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
+ Thứ tư: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu kinh tế giữa
các nhân, giữa các vùng, giữa các nước… không chỉ làm cho đời sống vật chất cả đời sống văn
hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
+ Giúp hiểu rõ bản chất của sản xuất hàng hóa: Việc nghiên cứu sản xuất hàng hóa giúp chúng ta hiểu
rõ bản chất của nó, là một hình thức tổ chức kinh tế cao hơn so với sản xuất tự cung, tự cấp.
+ Giúp xác định những quy luật chi phối sản xuất hàng hóa: Việc nghiên cứu sản xuất hàng hóa giúp
chúng ta xác định những quy luật chi phối nó, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, v.v.
+ Giúp đề xuất những giải pháp phát triển sản xuất hàng hóa: Việc nghiên cứu sản xuất hàng hóa giúp
chúng ta đề xuất những giải pháp phát triển sản xuất hàng hóa hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.
+ Giúp nâng cao nhận thức về vai trò của sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế thị trường: Sản xuất
hàng hóa nền tảng của nền kinh tế thị trường, do đó việc nghiên cứu sản xuất hàng hóa giúp nâng
cao nhận thức về vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường.
+ Giúp chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Việc nghiên
cứu sản xuất hàng hóa giúp chuẩn bị nguồn nhân lực trình độ, hiểu biết về sản xuất hàng hóa, đáp
ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Hàng hoá gì? Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Hàng hóa sản phẩm của lao động, thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, thông qua trao
đổi mua bán. Đã là hàng hóa thì phải có đủ hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
Thuộc tính giá trị sử dụng của hàng hoá:
+ Khái niệm: giá trị sử dụng công dụng của vật phẩm thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người, không kể sự thỏa mãn trực tiếp (tư liệu sinh hoạt) hay sự thỏa mãn gián tiếp (tư liệu sản
xuất).
+ Đặc điểm:
Giá trị sử dụng do các thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định, với ý nghĩa đó giá trị sử dụng
một phạm trù nh viễn. không phải do ý chí chủ quan của người sản xuất quy định do
thuộc nh vốn có, bản chất của vật phẩm ấy. dụ như gạo công dụng thỏa mãn nhu cầu ăn của
con người là do tính chất lý hóa có tinh bột, vitamin trong gạo tạo nên và nó không thay đổi cho
do ai sản xuất ra hay trong hội nào thì gạo vẫn công dụng thỏa mãn nhu cầu ăn của con
người giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
Số lượng giá trị sử dụng của hh phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người. Trình độ phát
triển của khoa học kỹ thuật ngày càng cao thì càng khám phá ra nhiều giá trị sử dụng của hàng hóa.
Giá trị sử dụng chỉ được thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng nó. Khi chưa tiêu dùng thì gtrị sử
dụng tồn tại ở dạng nội dung vật chất của của cải.
Với tư cách là thuộc tính của hàng hóa, giá trị sử dụng không phải cho người sản xuất ra nó mà cho
người khách thông qua trao đổi mua bán. Do đó, giá trị sử dụng vật mang trong giá trị trao
đổi.
Thuộc tính giá trị của hàng hoá:
+ Khái niệm: Giá trị hàng hóa là hao phí lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa. Giá trị trao đổi là sự
biểu hiện ra bên ngoài của giá trị.
+ Đặc điểm:
Thuộc tính giá trị 1 phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hóa. Nếu không sx
hàng hóa, ko trao đổi thì ko nhất thiết phải đi tìm sở chung cho sự trao đổi. Do đó sko
phạm trù giá trị.
Nếu giá trị sử dụng thuộc tính tự nhiên, thì giá trị thuộc tínhhội của hànga.
=> Giá trị hao phí lao động của con người được kết tinh trong hàng hóa. Tuy nhiên, ko phải mọi
hao phí lao động của con người được kết tinh trong vật phẩm đều mang hình thái giá trị. Chỉ trong
hội sản xuất hàng hóa, thì hao phí lao động đó mới mang hình thái giá trị. Do đó, giá trị một
phạm trù lịch sử.
Thực chất trao đổi ng hóa chính sự so sánh lao động giữa những người sản xuất hàng hoá với
nhau. vậy, giá trị biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá. Trong trao đổi
hàng hoá, quan hệ giữa người với người đã được thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật.
Giá trị là nội dung, là sở quyết định giá trị trao đổi,n giá trị trao đổi chỉ hình thái biểu hiện của
giá trị. Như vậy, thuộc tính tự nhiên của hàng hóa giá trị sử dụng, còn thuộc tính hội của hàng
hoá giá trị. Một vật phẩm, nếu thiếu một trong hai thuộc tính giá trị sử dụng hoặc giá trị thì không
phải là hàng hóa.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Giúp hiểu rõ bản chất của hàng hoá: Việc nghiên cứu hàng hoá giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của
nó, là một hình thức tổ chức kinh tế cao hơn so với sản xuất tự cung, tự cấp.
Giúp xác định những quy luật chi phối hàng hoá: Việc nghiên cứu hàng hoá giúp chúng ta xác định
những quy luật chi phối nó, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, v.v.
Giúp đề xuất những giải pháp phát triển hàng hoá: Việc nghiên cứu hàng hoá giúp chúng ta đề xuất
những giải pháp phát triển hàng hoá hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - hội.
3. Phân tích tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá mâu thuẫn bản của nền sản xuất
hàng hoá. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Sở dĩ hàng hóa hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, lao động sản xuất ra hàng hoá tính hai
mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
C. Mác người đầu tiên đã phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Lao động cụ thể
Lao động cụ thể lao động ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất
định. Mỗi lao động cụ thể mục đích riêng, đối ợng riêng, phương pháp riêng, phương tiện riêng
và kết quả riêng.
dụ: lao động cụ thcủa người thợ mộc, mục đích làm ra bàn, ghế; đối tượng lao động gỗ;
phương pháp các thao tác về a, đục, bào; phương tiện cái cưa, cái đục, cái bào; kết quả lao động
tạo ra bàn, ghế. Các loại lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự
phát triển của khoa học, kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú,
phản ánh trình độ phân công lao động hội càng cao. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng. Nhưng
lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của hàng hoá do
hai nhân tố hợp thành: vật chất lao động. Lao động cụ thể của con người chỉ thay đổi hình thức tồn
tại của các vật chất, làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người mà thôi.
Lao động cụ thể phạm trù nh viễn, một điều kiện không thể thiếu trong mọi hình thái kinh tế -
xã hội.
Lao động trừu tượng
Lao động của người thợ dệt lao động của người nông dân, nếu xét về mặt lao động cụ thể thì hoàn
toàn khác nhau, nhưng chúng lại so sánh được với nhau. nếu gạt bỏ tất cả những sự khác nhau y
sang một bên thì chúng chỉ còn một cái chung, giống nhau, đó đều sự tiêu phí sức bắp sức
thần kinh (thlực trí lực) của con người. Xét trên phương diện đó thì mọi lao đông đều lao động
đồng nhất của con người.
Vậy, lao động của người sản xuất hàng hoá, nếu coi đó sự hao phí sức thần kinh sức bắp nói
chung của con người, không kể đến hình thức cụ thể của nó như thế nào thì gọi lao động trừu tượng.
Lao động bao giờ cũng sự hao psức lực của con người xét về mặt sinh lý, nhưng không phải sự
hao phí sức lao động nào về mặt sinh cũng lao động trừu tượng. Chỉ tronghội sản xuất hàng
hoá, do mục đích của sản xuất để trao đổi, làm xuất hiện sự cần thiết phải quy các lao động cụ thể
vốn rất khác nhau, không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng nhất thể trao đổi
với nhau, tức lao động trừu tượng.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị. Chất của giá trị hàng hoá là lao động trừu
tượng, làm sở cho sự ngang bằng trong trao đổi. Nếu không sản xuất hàng hoá, không trao đổi
thì cũng không cần phải quy các lao động cụ thể về lao động trừu tượng. vậy, lao động trừu tượng
một phạm trù lịch sử, riêng có của sản xuất hàng hoá. Cần hiểu rằng, không phải hai th lao động
kết tinh trong một hàng hoá, chỉ lao động của người sản xuất hàng hoá, nhưng lao động đó
tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Nếu lao động cụ thể một trong hai nhân tố tạo ra giá trị sử dụng, tlao động trừu tượng nhân t
duy nhất tạo ra giá trị của hàng hoá. Giá trị của mọi hàng hoá chỉ sự kết tinh của lao động trừu
tượng.
Ý nghĩa của việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá ý nghĩa rất to lớn về mặt luận.
Giúp ta giải thích được những hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như vì sao hàng hoá lại có hai
thuộc tính; khi khối ợng hàng hoá tăng lên, đi liền với giá trị của giảm xuống; sự hình thành giá
trị hàng hoá...
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá phản ánh tính chất nhân tính chất hội của người
sản xuất hàng hoá:
Trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất cái gì, nthế nào công việc độc lập của từng người sản xuất,
vậy lao động của họ tính chất nhân được biểu hiện lao động cụ thể. Đồng thời lao động
của mỗi người sản xuất hàng hoá, luôn một bộ phận của lao động hội thống nhất, trong hệ thống
phân công lao động hội, vậy lao động của họ tính chất hội được biểu hiện lao động
trừu tượng.
Trong nền sản xuất hàng hoá, lao động nhân và lao độnghội sự thống nhất của hai mặt đối lập.
Mâu thuẫn giữa lao động nhân lao động hội mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá. Mâu
thuẫn này biểu hiện:
- Sản phẩm do người sản xuất hàng hoá tạo ra thể không ăn khớp hoặc không phù hợp với nhu
cầu của xã hội.
- Hao phí lao động cá biệt có thể cao hoặc thấp hơn hao phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận.
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản
xuất hàng hoá, làm cho sản xuất hàng hoá vừa vận động, phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng
hoảng "sản xuất thừa".
4. Phân tích mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với tính hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Mối quan hệ giữa giá trị sử dụngtính trừu tượng của lao động:
Giá trị sử dụng của hàng hóa thể hiện tính cụ thể của lao động. Nó phụ thuộc vào những đặc tính, công
dụng hữu ích của sản phẩm đối với nhu cầu con người.
Tuy nhiên, để tạo ra giá trị sử dụng cụ thể, lao động phải được trừu tượng hóa thông qua quá trình trao
đổi trên thị trường.
Giá trị của mỗi sản phẩm được so sánh với giá trị của các sản phẩm khác thông qua giá cả, từ đó thể
hiện lượng lao động trung bình xã hội cần thiết để sản xuất ra sản phẩm đó.
Mối quan hệ giữa giá trị trao đổi và tính xã hội của lao động:
Giá trị trao đổi của hàng hóa thể hiện tínhhội của lao động. phản ánh mối quan hệ lao động giữa
người sản xuất với nhau trong quá trình sản xuất hàng hóa.
Việc sản xuất hàng hóa để trao đổi, mua bán buộc người lao động phải phân công lao động hội, hợp
tác với nhau để tạo ra sản phẩm có giá trị sử dụng.
Giá trị trao đổi của hàng hóa được xác định dựa trên quy luật giá trị, theo đó giá trị của sản phẩm được
quyết định bởi lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó.
Như vậy, hai thuộc tính của hàng hóa (giá trị sử dụng và giá trị trao đổi) có mối quan hệ chặt chẽ
với tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa (tính cụ thể và tính xã hội).
Tính cụ thể của lao động được thể hiện qua gtrị sử dụng của hàng hóa, trong khi tính hội của lao
động được thể hiện qua giá trị trao đổi của hàng hóa.
Hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Giúp hiểu bản chất của hàng hóa lao động: Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai thuộc tính
của hàng hóa với tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa giúp chúng ta hiểu bản chất kép
của hàng hóa (vừa giá trị sử dụng, vừa giá trị trao đổi) và bản chất hai mặt của lao động (vừa
là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng).
Giúp giải thích quy luật giá trị: Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa gtrị sử dụng và giá trị trao đổi
giúp chúng ta hiểu nguồn gốc sở của quy luật giá trị, từ đó thể giải thích được giá cả
của hàng hóa được hình thành như thế nào.
Giúp đề xuất giải pháp phát triển sản xuất: Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai thuộc tính của
hàng hóa với tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa giúp chúng ta đề xuất những giải pháp
phát triển sản xuất hiệu quả, nhằm nâng cao chất ợng giá trị của sản phẩm, đồng thời đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của thị trường.
5. So sánh ng thức chung của bản ng thức lưu thông hàng hóa giản đơn? Phân tích
mâu thuẫn của công thức chung của bản ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
So sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn H T H công thức lưu thông của bản
T H T, chúng ta thấy chúng những điểm giống nhau: cả hai sự vận động do hai giai đoạn đối
lập nhau mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đoạn đều có hai nhân tố vật chất đối diện nhau
tiền và hàng, hai người có quan hệ kinh tế với nhau người mua người bán. Nhưng đó chỉ là
những điểm giống nhau về hình thức. Giữa hai công thức đó có những điểm khác nhau về chất.
Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H T) và kết thúc bằng việc mua (T H). Điểm
xuất phát điểm kết thúc của quá trình đều hàng hóa, còn tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Ngược
lại, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng việc mua (T H) kết thúc bằng việc bán (H T). Tiền vừa là
điểm xuất phát, vừa điểm kết thúc của quá trình, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian; tiền đây
không phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là ứng ra rồi thu về.
Mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơn giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu, nên các hàng hóa
trao đổi phải giá trị sử dụng khác nhau. Svận động sẽ kết thúc giai đoạn thứ hai, khi những
người trao đổi được giá trị sử dụng người đó cần đến. Còn mục đích của u thông bản không
phải giá trị sử dụng, giá trị, hơn nữa giá trị tăng thêm. vậy, nếu số tiền thu vbằng số tiền
ứng ra, thì quá trình vận động trở nên nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn stiền ứng ra, nên
công thức vận động chung của tư bản là T H T’, trong đó T’ = T + ΔT.
C. Mác gọi công thức T H T’ công thức chung của bản, sự vận động của mọi bản đều
biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, bản thương nghiệp, bản công nghiệp hay
tư bản cho vay.
Phân tích mâu thuẫn của công thức chung của bản
Mâu thuẫn của công thức chung của bản nằm chỗ:
Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng giá trị trao đổi: Trong quá trình sản xuất, nhà bản quan
tâm đến giá trị trao đổi của hàng hóa để thu về lợi nhuận, trong khi người lao động quan tâm đến
giá trị sử dụng của hàng hóa để đáp ứng nhu cầu của bản thân.
Mâu thuẫn giữa bản lao động: Nhà bản muốn thu về lợi nhuận cao nhất, do đó họ tìm
cách bóc lột người lao động bằng cách trả lương thấp hơn giá trị người lao động tạo ra. Người
lao động muốn được hưởng mức lương cao hơn để cải thiện đời sống, nhưng họ bị nhà bản áp
bức bóc lột.
Mâu thuẫn giữa sản xuất tiêu ng: Nhu cầu tiêu dùng của hội hạn, trong khi sản xuất
bản chủ nghĩa lại không ngừng phát triển. Do đó, sản xuất thể vượt quá nhu cầu tiêu dùng,
dẫn đến khủng hoảng thừa thãi.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Việc nghiên cứu công thức chung của bản mâu thuẫn của ý nghĩa quan trọng trong việc:
Hiểu bản chất của quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa: Quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa
quan hệ bóc lột,trong đó nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do người lao động tạo ra.
Nâng cao nhận thức cho người lao động về quyền lợi của bản thân: Người lao động người
tạo ra giá trị, họ có quyền được hưởng những quyền lợi hợp pháp từ chính sức lao động của mình.
Đấu tranh chống lại sự bóc lột của nhà bản: Việc nghiên cứu công thức chung của bản
giúp cho người lao động sở để đấu tranh chống lại sự bóc lột của nhà bản, đòi hỏi được
hưởng những quyền lợi chính đáng của mình.
Nghiên cứu công thức chung của tư bản còn góp phần vào việc xây dựng một xã hội công bằng, văn
minh, nơi con người được tôn trọng và phát huy tối đa tiềm năng của mình.
6. Sức lao động ? Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa ? Phân tích hai thuộc tính
của hàng hóa sức lao động ? Tại sao nói ng hóa sức lao động hàng hóa đặc biệt? Y nghĩa của
việc nghiên cứu.
Sức lao động:
Theo C.Mác: "Sức lao động, đó toàn bộ các thể lực trí lực trong thân thể một con người, trong
nhân cách sinh lộng của con người, thể lực trí lực con người phải làm cho hoạt động để sản
xuất ra những vật ích".
Trong bất cứ hội o, sức lao động cũng điều kiện bản của sản xuất. Nhưng không phải trong
bất kỳ điều kiện nào, sức lao động cũng hàng hóa. Thực tiễn lịch sử cho thấy, sức lao động của
người nô lệ không phải hàng a, bản thân người lệ thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta không có
quyền bán sức lao động của mình. Người ththủ công tự do tuy được tùy ý sử dụng sức lao động của
mình, nhưng sức lao động của anh ta cũng không phải hàng hóa, vì anh ta có tư liệu sản xuất để làm
ra sản phẩm nuôi sống mình chứ chưa buộc phải bán sức lao động để sống.
Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
+ Thứ nhất, người sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình
và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
+ Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất, để tồn tại buộc anh ta phải
bán sức lao động của mình để sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hóa. Sức lao động biến
thành hàng hóa điều kiện quyết định để tiền biến thành bản. Tuy nhiên, để tiền biến thành bản
thì lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ phải phát triển tới một mức độ nhất định.
Trong các hình thái hội trước chủ nghĩa bản chỉ sản phẩm của lao động mới hàng hóa. Chỉ
đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định nào đó, các hình thái sản xuất hội
(sản xuất nhỏ, phường hội, phong kiến) bị pvỡ thì mới xuất hiện những điều kiện để cho sức lao
động trở thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa
trở nên tính chất phổ biến đã báo hiệu sra đời của một thời đại mới trong lịch sử hội - thời
đại của chủ nghĩa tư bản.
Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
Giá trị hàng hoá sức lao động: Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động hội cần
thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động.
Giá trị hàng hóa sức lao động được tạo thành sau một quá trình lao động hiệu quả. Nhằm đáp ứng
được nhu cầu của người sử dụng lao động.
Sức lao động tồn tại như năng lực sống của con người. Người lao động cần tiêu hao một lượng
liệu sinh hoạt nhất định. Từ đó tạo ra năng lực lao động đó.
Thời gian lao động hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sđược quy thành thời gian để
sản xuất ra những liệu sinh hoạt. Nhằm nuôi sống bản thân người công nhân gia đình anh ta.
Hay nói cách khác, giá trị hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những liệu
sinh hoạt cần thiết. Nhằm tái sản xuất ra sức lao động.
Hàng hóa sức lao động bao gồm cả yếu tố tinh thần như: Về nhu cầu văn hóa; Tinh thần và yếu tố
lịch sử cũng các hoàn cảnh lịch sử mỗi quốc gia, điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó.
liệu cung cấp cho người lao động để đáp ng quá trình sản xuất lao động cần thiết đtái sản
xuất lao động, đào tạo người công nhân. Ngoài ra giá trị cần thiết cho chính người lao động,
gia đình và xã hội.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động biểu hiện quá trình lao động của chính người công nhân.
quá trình tiêu dùng, sản xuất ra một loại hàng hóa nào đó. Đồng thời tạo ra một giá trị mới lớn
hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động nguồn gốc sinh ra giá trị. Tức thể tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Nhằm đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động của chủ lao
động.
Tại sao nói hàng hóa sức lao động hàng hóa đặc biệt?
Ý nghĩa của việc nghiên cứu hàng hóa sức lao động:
Hiểu bản chất của quan hệ lao động trong hội: Quan hệ lao động quan hệ giữa người
lao động và người sử dụng lao động dựa trên việc mua bán sức lao động.
Xác định giá tr của sức lao động: Giá trị của sức lao động sở để xác định tiền lương cho
người lao động.
Bảo vệ quyền lợi của người lao động: Người lao động chủ shữu của sức lao động, do đó họ
quyền được hưởng những quyền lợi hợp pháp như được bảo vệ sức khỏe, được nghỉ ngơi, được
hưởng bảo hiểm xã hội...
7. Giá trị thặng gì? Tại sao nói việc nghiên cứu giá trị thặng được sản xuất n thế nào
đã vạch bản chất bóc lột của nhà bản ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Giá trị thặng gì:
Giá trị thặng một khái niệm trong thuyết kinh tế của C.Mác, chỉ phần giá trị công nhân làm
thuê tạo ra ngoài giá trị sức lao động của họ, nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt không trả cho họ. Giá
trị thặng dư là nguồn gốc của lợi nhuận và là biểu hiện của sự bóc lột lao động trong chủ nghĩa tư bản.
hai phương pháp chính để sản xuất giá trị thặng dư: giá trị thặng tuyệt đối giá trị thặng
tương đối.
- Giá trị thặng tuyệt đối phương pháp o dài thời gian lao động thặng dư, tức thời gian
công nhân làm việc vượt quá thời gian cần thiết để bù đắp giá trị sức lao động của họ.
- Giá trị thặng tương đối phương pháp giảm giá trị sức lao động bằng cách nâng cao năng suất
lao động, tức là giảm thời gian cần thiết để sản xuất một hàng hóa.
Giá trị thặng ý nghĩa quan trọng trong việc phân tích bản chất của quan hsản xuất bản chủ
nghĩa, cơ chế sinh sảnphát triển của bản, cũng như nguồn gốc biểu hiện của các mâu thuẫn xã
hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Giá trị thặng cũng sở để xây dựng luận về giai cấp, chính sách, chiến lược mục tiêu của
phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa.
Công thức tính tỷ suất giá trị thặng là:
m' = (m/v) x 100%
Trong đó, m' tỷ suất giá trị thặng dư; m là giá trị thặng dư; v bản khả biến.
Tỷ suất giá trị thặng dư cũng có thể tính theo tỷ lệ phần trăm giữa thời gian lao động thặng dư (t') và
thời gian lao động tất yếu (t) như sau:
m' = (t'/t) x 100%
Trong đó:
- m' là: Tỷ suất giá trị thặng
- t' là: Thời gian lao động thặng
- t là: Thời gian lao động tất yếu
- Tại sao nói việc nghiên cứu giá trị thặng được sản xuất n thế nào đã vạch bản chất bóc
lột của nhà bản?
<ChatGPT>
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư: Marx giải thích rằng trong quá trình sản xuất, người lao
động m việc một số giờ nhất định để tái tạo giá trị sức lao động của họ (thời gian lao động cần
thiết). Tuy nhiên, họ phải làm việc nhiều hơn số giờ đó (thời gian lao động thặng dư), phần giá
trị tạo ra trong thời gian lao động thặng dư này chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
Bản chất bóc lột: Bản chất bóc lột của nhà bản được thể hiện qua việc họ chiếm đoạt giá trị
thặng người lao động tạo ra. Mặc n bản trả lương cho người lao động, nhưng giá trị
mà người lao động tạo ra luôn nhiều hơn giá trị họ nhận được. Sự chênh lệch này (giá trị thặng )
là nguồn gốc của lợi nhuận tư bản và sự tích luỹ tư bản.
Quyền sở hữu liệu sản xuất: Nhà bản kiểm soát liệu sản xuất (máy móc, nhà xưởng,
nguyên liệu) người lao động không quyền sở hữu những liệu này. Điều này dẫn đến việc
người lao động phải bán sức lao động của mình cho nhà bản để sinh tồn. Quyền sở hữu liệu
sản xuất tạo ra sự phụ thuộc của người lao động vào nhà bản từ đó tạo điều kiện cho sự bóc
lột.
Hệ quả hội: Việc chiếm đoạt giá trị thặng dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo bất công
hội. Nhà bản ngày càng giàu trong khi người lao động chỉ nhận được một phần nhỏ của giá trị
họ tạo ra. Điều này làm nổi bật tính chất không công bằng bóc lột của hệ thống bản chủ
nghĩa.
Ý nghĩa luận thực tiễn: Nghiên cứu giá trị thặng không chỉ ý nghĩa về mặt luận
còn ý nghĩa thực tiễn. cung cấp sở khoa học để phê phán hệ thống bản chủ nghĩa
đấu tranh cho quyền lợi của người lao động.
<Claude>
Giá trị sản phẩm do công nhân sản xuất ra cao hơn giá trị lao động họ nhận được dưới hình thức
tiền lương. Phần giá trị ợt quá tiền lương, được gọi giá trị thặng , được chiếm hữu bởi chủ
tư bản.
Nguồn gốc của giá trị thặng chính kết quả của việc khai thác lao động công nhân bởi chủ
bản. Công nhân chỉ được trả lương tương đương với giá trị sức lao động của họ, nhưng lại phải làm
việc nhiều hơn thời gian cần thiết để tạo ra giá trị tương đương tiền lương.
Sự tồn tại của giá trị thặng cho thấy một mâu thuẫn căn bản giữa lợi ích của giai cấp công
nhân giai cấp bản. Chủ bản luôn tìm cách tối đa hóa lợi nhuận bằng cách khai thác nhiều
hơn nữa lao động công nhân.
Học thuyết của Mác chỉ ra rằng sự khai thác này bản chất cố hữu của chế độ bản chủ nghĩa,
nơi mà tư liệu sản xuất thuộc sở hữu tư nhân và lao động trở thành hàng hóa.
Theo quan điểm của Mác, việc phân tích cách thức hình thành giá trị thặng đã vạch trần bản chất
bóc lột của chủ nghĩa bản đối với người lao động. Điều này cũng củng cố cho quan điểm xung đột
giai cấp và nhu cầu phải thay thế hệ thống tư bản bằng một hệ thống xã hội mới.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu giá trị thặng dư:
Việc nghiên cứu giá trị thặng ý nghĩa quan trọng trong việc:
Hiểu bản chất của quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa: Quan hsản xuất bản chủ nghĩa là
quan hệ bóc lột, trong đó nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do người lao động tạo ra.
Nâng cao nhận thức cho người lao động về quyền lợi của bản thân: Người lao động là người tạo
ra giá trị, họ có quyền được hưởng những quyền lợi hợp pháp từ chính sức lao động của mình.
Đấu tranh chống lại sự bóc lột của nhà bản: Việc nghiên cứu giá trị thặng giúp cho người
lao động sở để đấu tranh chống lại sự bóc lột của nhà bản, đòi hỏi được hưởng những
quyền lợi chính đáng của mình.
8. Trình bày bản chất của bản? Sự giống khác nhau giữa bản bất biến bản khả
biến? Phân tích vai trò khác nhau của các bộ phận bản trong quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư?. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Bản chất của bản:
Các nhà kinh tế học sản thường cho rằng mọi công cụ lao động, mọi liệu sản xuất đều bản.
Thực ra, bản thân liệu sản xuất không phải bản, chỉ yếu tố bản của sản xuất trong bất
cứ hội o. liệu sản xuất chỉ trở thành bản khi trở thành tài sản của nhà bản được
dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ bản bị xóa bỏ thì tư liệu sản xuất không còn tư bản
nữa. Như vậy, tư bản không phải là một vật mà là một quan hệ sản xuấthội nhất định giữa người
người trong quá trình sản xuất, nó có tính chất tạm thời trong lịch sử.
Qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, thể định nghĩa chính xác bản giá trị mang
lại giá trị thặng bằng cách bóc lột lao động không công của ng nhân làm thuê. Như vậy, bản chất
của tư bản là phản ánh quan hệ sản xuất hội trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng
do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
Phân biệt bản bất biến bản khả biến
Nội
dung
bản bất biến
bản khả biến
Khái
niệm
Bộ phận bản tồn tại dưới hình thái
liệu sản xuất mà giá trị được lao động
cụ thể của công nhân làm thuê bảo tồn
chuyển nguyên vẹn vào giá trị sản
phẩm, tức giá trị không biến đổi trong
quá trình sản xuất, C.Mác gọi bản
bất biến( kí hiệu c)
Bộ phận bản tồn tại dưới hình thái
sức lao động không tái hiện ra, nhưng
thông qua lao động trừu tượng của
công nhân làm thuê tăng lên, tức
biến đổi về số lượng trong quá trình
sản xuất, được Mác gọi bản khả
biến( kí hiệu là v)
Điều
kiện
tồn
tại
bộ phận bản tồn tại dưới hình thái
liệu sản xuất giá trị không biến
đổi trong quá trình sản xuất.
bộ phận bản biến thành sức lao
động không tái hiện ra, thông qua lao
động trừu tượng của công nhân
tăng lên.
Đặc
điểm
- liệu sản xuất có loại được sử dụng
toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng
chỉ bị hao mòn dần theo thời gian,
chuyển đổi từng phần giá trị của vào
sản phẩm ( máy móc, trang thiết bị,…)
- liệu sản xuất khi đưa vào quá trình
sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của
vào chu kỳ sản xuất (nguyên, nhiên,
vật liệu,…)
- Các liệu sản xuất đều do lao động
cụ thể của công nhân bảo toàn di
chuyển vào sản phẩm nên giá trị của
liệu sản xuất không lớn hơn giá trị của
- Bộ phận bản dùng đmua sức lao
động không ngừng chuyển hóa từ đại
lượng bất biến sang đại lượng khả biến
, tức tăng lên về lượng trong quá trình
sản xuất.
- Một phần giá trị của liệu sản xuất
biến thành liệu sinh hoạt của công
nhân biến đi trong tiêu dùng của
công nhân.
- Một phần, trong quá trình lao động,
bằng lao động trừu tượng, công nhân
tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản
thân sức lao động( giá trị sức lao động
liệu sản xuất đã tiêu dùng để tạo sản
phẩm( cái btiêu dùng giá trị sử dụng
của liệu sản phẩm, kết quả của việc
tiêu dùng là tạo ra giá trị sử dụng mới).
cộng thêm giá trị thặng dư).
Ý
nghĩa
bản bất biến điều kiện cần thiết để
sản xuất ra giá trị thặng dư.
bản khả biến nguồn gốc tạo ra
giá trị thặng dư.
dụ
Một nhà máy sản xuất vải bỏ ra một số
lượng bản để mua liệu sản xuất
sợi máy dệt. sợi (giá trị sử
dụng làm thành vải) qua quá trình sản
xuất sẽ biến thành vải giá trị sử dụng
mới may quần áo,..). Máy dệt sẽ chỉ
đóng góp một phần giá trị thúc đẩy quá
trình sản xuất diễn ra nhanh hơn, giảm
thiểu hao phí lao động biệt, nâng cao
năng suất lao động. Điều này sẽ tác
động đến việc tạo ra giá trị thặng dư.
Để sản xuất ra vải, công nhân phải bỏ
ra hao phí lao động (lao động trừu
tượng), sau khi tạo ra sản phẩm, sau
khi đem ra trao đổi trên thị trường, giá
trị thu về lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu
(giá trị sức lao động cộng thêm giá trị
thặng dư). Số tiền bằng đúng giá trị bỏ
ra sẽ được chi trả cho công nhân, biến
thành liệu sinh hoạt tiêu dùng
của công nhân. Phần thừa giá trị
thặng dư, phần lợi của tư bản.
Phân tích vai trò khác nhau của các bộ phận bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng
?
1. bản cố định: bản cố định bao gồm các tài sản lâu dài như máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, công cụ sản xuất, v.v. Vai trò của tư bản cố định trong quá trình sản xuất là:
Truyền tải giá trị: Giá trị của bản cố định không chuyển toàn bvào sản phẩm ngay lập
tức được phân bổ dần dần qua nhiều chu kỳ sản xuất. Mỗi chu kỳ, một phần giá trị của
tư bản cố định được chuyển vào sản phẩm thông qua khấu hao.
Hỗ trợ sản xuất: bản cố định sở vật chất kỹ thuật cần thiết để người lao động có
thể thực hiện quá trình sản xuất. Nó đóng vai trò hỗ trợ và tăng cường hiệu quả lao động.
2. bản lưu động: bản lưu động bao gồm các nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu,các yếu
tố khác tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất được tiêu thụ hoàn toàn trong mỗi chu kỳ
sản xuất. Vai trò của tư bản lưu động là:
Chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm: Giá trị của bản lưu động được chuyển toàn bộ
vào sản phẩm trong mỗi chu kỳ sản xuất, làm tăng giá trị sản phẩm.
Đảm bảo q trình sản xuất liên tục: bản u động cần được bổ sung liên tục để duy
trì quá trình sản xuất không bị gián đoạn.
3. bản khả biến: bản khả biến phần bản được dùng để trả tiền ơng cho người lao
động. Đây là yếu tố duy nhất có khả năng tạo ra giá trị thặng dư. Vai trò của tư bản khả biến là:
Tạo ra giá trị thặng : Người lao động, khi được trả lương, thực hiện công việc tạo ra
giá trị mới vượt quá giá trị của chính sức lao động họ nhận được dưới dạng tiền lương.
Phần giá trị mới này bao gồm cả giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
Động lực của sản xuất: bản khả biến kích thích hoạt động sản xuất bởi người lao
động chính người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất biến nguyên liệu thành sản
phẩm hoàn chỉnh.
4. bản bất biến: bản bất biến bao gồm cả bản cố định tư bản lưu động. Đây
phần bản không thay đổi giá trị trong quá trình sản xuất chỉ truyền tải giá trị vào sản
phẩm cuối cùng. Vai trò của tư bản bất biến là:
Chuyển giá trị vào sản phẩm: bản bất biến không tự mình tạo ra giá trị mới ch
chuyển giá trị của mình vào sản phẩm qua quá trình sản xuất.
sở vật chất cho sản xuất: bản bất biến cung cấp cơ sở vật chất nguyên liệu cần
thiết để quá trình sản xuất có thể diễn ra.
Kết luận
Các bộ phận của bản đóng vai trò khác nhau nhưng đều không thể thiếu trong quá trình sản
xuất ra giá trthặng dư. bản cố định bản lưu động tạo ra sở vật chất nguyên liệu
cho sản xuất, trong khi bản khả biến là yếu tố trực tiếp tạo ra giá trị thặng thông qua lao
động của con người. Sự phối hợp của các bộ phận bản này đảm bảo quá trình sản xuất liên
tục hiệu quả, đồng thời m bản chất bóc lột của hệ thống bản chủ nghĩa khi giá trị
thặng dư được tạo ra chủ yếu từ lao động của người công nhân.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
·
Kinh tế: Giúp hiểu hơn về bản chất của nền sản xuất bản chủ nghĩa, từ đó thể đ
xuất những giải pháp để khắc phục những hạn chế của thúc đẩy sự phát triển kinh tế một
cách bền vững.
·
Lịch sử: Giúp hiểu hơn về quá trình phát triển của chủ nghĩa bản, từ đó thể đánh
giá đúng vai trò của chủ nghĩa tư bản trong lịch sử.
·
Chính trị: Giúp hiểu hơn về những mâu thuẫn trong hội bản chủ nghĩa, từ đó
thể đề xuất những giải pháp để xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.
Hiểu bản chất của quá trình sản xuất bản chủ nghĩa: Quá trình sản xuất bản chủ
nghĩa quá trình kết hợp giữa liệu sản xuất, sức lao động tiền để tạo ra giá trị thặng
.
Nâng cao nhận thức cho người lao động về quyền lợi của bản thân: Người lao động là
người tạo ra giá trị thặng dư, do đó họ quyền được ởng những quyền lợi hợp pháp từ
chính sức lao động của mình.
Đấu tranh chống lại sự bóc lột của nhà bản: Việc phân tích vai trò khác nhau của các
bộ phận bản giúp cho người lao động sở để đấu tranh chống lại sự bóc lột của nhà
tư bản, đòi hỏi được hưởng những quyền lợi chính đáng của mình.
Kết luận:
bản là một khái niệm quan trọng trong kinh tế chính trị Marx. Việc nghiên cứu bản giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, từ đó có thể đề xuất những
giải pháp để khắc phục những hạn chế của xây dựng một hội công bằng, văn minh
n.
9. Tỷ suất khối lượng giá trị thặng dư? Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
Tỷ suất giá trị thặng
Tỷ suất giá trị thặng tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng bản khả biến
tương ứng để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.
Nếuhiệu m' là tỷ suất giá trị thặng dư, thì m’ được xác định bằng công thức:
Tỷ suất giá trị thặng chỉ trong tổng số giá trị mới do sức lao động tạo ra, thì công nhân
được hưởng bao nhiêu, nhà bản chiếm đoạt bao nhiêu. Tỷ suất giá trị thặng còn chỉ
trong một ngày lao động, phần thời gian lao động thặng người công nhân làm cho nhà
bản chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu làm cho mình. Do đó, thể
biểu thị tỷ suất giá trị thặng dư theo một công thức khác:
Tỷ suất giá trị thặng nói lên trình độ bóc lột của nhà bản đối với công nhân làm thuê,
chưa nói quy bóc lột. Để phản ánh quy bóc lột, C.Mác sử dụng phạm trù khối ợng
giá trị thặng dư.
Khối lượng giá trị thặng
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến đã
được sử dụng.
Nếuhiệu M khối lượng giá trị thặng thì M được xác định bằng công thức:
Trong đó:
v: bản khả biến đại biểu cho giá trị 1 sức lao động
V: Tổng bản khả biến đại biểu cho giá trị của tổng số sức lao động
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng, vì trình độ bóc lột
sức lao động càng tăng.
Khối lượng giá trị thặng tỷ lệ thuận với cả hai nhân tố m’ V. Nvậy, nhà đầu thể
tăng M bằng hai cách: Một , tăng khối lượng bản khả biến, sử dụng nhiều lao động hơn;
Hai là, nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư.
Khối lượng giá trị thặng phản ánh quy giá trị thặng chsở hữu liệu sản xuất
thu được; hay nó còn phản ánh quy mô của sự bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê.
Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng tuyệt đối:
Khái niệm: Giá trị thặng tuyệt đối giá trị thặng thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá
thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị lao độngthời gian lao động tất yếu
không thay đổi.
Thí dụ: Ngày lao động 8 giờ, thời gian lao động tất yếu 4 giờ, thời gian lao động thặng 4 giờ,
mỗi gicông nhân tạo ra một giá trị mới 10 đơn vị, thì giá trị thặng tuyệt đối 40 tỷ suất
giá trị thặng dư là:
m’ = 40/40 x 100%
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, trong khi mọi điều khác vẫn như cũ, thì giá trị thặng tuyệt
đối tăng lên 60 và m’ cũng tăng lên thành:
m’ = 60/40 x 100%
Nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày lao động của người công nhân, nhưng việc kéo dài đó không thể
vượt quá giới hạn sinh của công nhân. Vì họ còn phải thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để
phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài thời gian lao động còn bị sự phản kháng của giai cấp công nhân đấu
tranh đòi giảm giờ làm.
Giai cấp sản muốn kéo dài ngày lao động, còn giai cấpng nhân lại muốn rút ngắn thời gian lao động.
Do đó, đội ngày lao động được xác định tùy thuộc vào so sánh lực lượng trong cuộc đấu tranh hai
giai cấp nói trên, điểm dừng của độ dài y điểm đó lợi ích kinh tế của nhà bản của
người lao động được thực hiện theo một thỏa hiệp tạm thời.
Khi độ dài ngày lao động không thể o dài thêm, nhà bản m cách tăng cường độ lao động của ng
nhân. Tăng ờng độ lao động về thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động, tức chi phí
nhiều sức lao động hơn trong một khoảng thời gian nhất định. vậy, kéo dài thời gian lao động và
tăng cường độ lao động là biện pháp để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng tương đối:
Giá trị thặng tương đối là giá trị thặng thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ
thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng lên ngay trong điều kiện độ dài
ngày lao động vẫn như cũ.
Giả dụ ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ lao động thặng dư. Nếu giá tr
sức lao động giảm đi 1 giờ thì thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 4 giờ. Do đó, thời gian lao
động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư (m’) tăng từ 100% lên 150%.
Giá trị sức lao động được quyết định bởi giá trị các liệu tiêu dùng dịch vụ để sản xuất tái sản xuất
sức lao động, muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm gtrị các tư liệu sinh hoạt dịch vụ
cần thiết cho người công nhân. Do đó, cần phải tăng năng suất lao động hội trong các ngành sản
xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
10. Tại sao nói sản xuất giá trị thặng quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa bản? Ý
nghĩa của việc nghiên cứu.
Sản xuất giá trị thặng được xem quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa bản bởi vì:
Nội dung của quy luật giá trị thặng : Sản xuất ra giá trị thặng tối đa bằng cách tăng cường
bóc lột lao động làm thuê.
Như vậy quy luật này đã phản ánh mục đích cũng như phương thức để thực hiện mục đích trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Mục đích trực tiếp của sản xuất bản chủ nghĩa không phải sản xuất ra giá trị
thặng dư, nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng bằng bất cứ thủ đoạn nào mục đích,
động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà bản, cũng như của toàn bộ hội sản. Sản xuất
ra giá trị thặng quả thực động lực vận động của phương thức sản xuất bản chủ nghĩa.
C.Mác: “Mục đích của sản xuất bản chnghĩa m giàu, làm nhân giá trị lên, m tăng giá
trị, do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị thặng dư”.
- Phương thức để thực hiện mục đích. Để sản xuất ra giá trị thặng tối đa , các nhà bản tăng
cường bóc lột công nhân làm thuê không phải bằng cưỡng bức siêu kinh tế (roi vọt), bằng
cưỡng bức kinh tế (kỷ luật đói rét) dựa trên sở mở rộng sản xuất, phát triển kỹ thuật để tăng
năng suất lao động, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
Quy luật giá trị thặng tác động, quyết định đến mọi mặt của hội bản. Do tác động của
quy luật giá trị thặng dư, sự phát triển của sản xuất bản của chủ nghĩa diễn ra dưới hình thức
mâu thuẫn đối kháng, làm cho mâu thuẫn bản nói chung toàn bộ mâu thuẫn của chủ nghĩa
bản ngày càng sâu sắc. Do đó, đối với giai cấp sản hiện đại, việc tìm cách điều chỉnh để
thích nghi tồn tại lại rất cần thiết. Khi sự điều chỉnh này không thể thực hiện được nữa thì
tất yếu sẽ xuất hiện một phương thức sản xuất mới. Như vậy, quy luật giá trị thặng quyết
định sự phát sinh, phát triển, tiêu vong của chủ nghĩa bản sự thay thế bằng một hội
khác cao hơn.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật sản xuất giá trị thặng dư:
Giúp hiểu bản chất của chủ nghĩa bản: Việc nghiên cứu quy luật này giúp chúng ta hiểu
bản chất bóc lột của chnghĩa bản, từ đó căn cứ để đánh giá vai trò vị trí của trong
lịch sử phát triển của xã hội.
Giúp giải thích các hiện ợng kinh tế hội trong chủ nghĩa bản: Việc nghiên cứu quy luật
này giúp chúng ta giải thích được nhiều hiện tượng kinh tế hội trong chủ nghĩa bản như sự
phân hóa giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế, đấu tranh giai cấp...
ý nghĩa thực tiễn trong việc đấu tranh cho một hội công bằng: Việc nghiên cứu quy luật
này giúp chúng ta xác định kẻ thù giai cấp con đường đấu tranh cho một hội công bằng,
nơi mà con người không bị bóc lột.
Ngoài ra, việc nghiên cứu quy luật sản xuất giá trị thặng còn ý nghĩa về mặt luận:
Giúp phát triển học thuyết kinh tế Mác - Lênin: Quy luật sản xuất giá trị thặng một trong
những viên gạch quan trọng trong học thuyết kinh tế Mác - Lênin. Việc nghiên cứu quy luật này
góp phần hoàn thiện và phát triển học thuyết này.
Góp phần vào kho tàng tri thức của nhân loại: Việc nghiên cứu quy luật này giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về quy luật vận động của xã hội, từ đó góp phần vào kho tàng tri thức của nhân loại.
Tóm lại, sản xuất giá trị thặng quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản vì nó là bản chất, mục
đích và chi phối mọi hoạt động kinh tế trong xã hộibản. Việc nghiên cứu quy luật này có ý nghĩa
quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn.
11. Hãy phân tích bản chất của tiền công dưới CNTB. Phân biệt tiền công danh nghĩa tiền
công thực tế. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến tiền ng thực tế trong CNTB.
Phân tích bản chất của tiền công dưới CNTB
Bản chất của tiền công dưới CNTB:
Tiền công giá trị sức lao động: Trong CNTB, sức lao động trở thành hàng hóa, do đó tiền
công là giá trị của sức lao động được đo bằng tiền. Nó thể hiện mối quan hệ mua bán giữa người
lao động và nhà tư bản.
Tiền công giá trị thặng được chia cho người lao động: Một phần giá trị thặng do
người lao động tạo ra được chia cho họ dưới hình thức tiền công. Tuy nhiên, mức đchia chác
này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm sức mạnh của giai cấp công nhân, tình trạng thị trường
lao động...
Tiền công phương tiện để người lao động tái sản xuất sức lao động duy trì cuộc sống:
Người lao động sử dụng tiền công để mua sắm các nhu yếu phẩm cần thiết cho bản thân gia
đình. Tuy nhiên, do giá trị thặng bị chia chác không bình đẳng, nên một bộ phận người lao
động không có đủ tiền để tái sản xuất sức lao động và duy trì cuộc sống một cách đầy đủ.
Phân biệt tiền công danh nghĩa tiền công thực tế:
Tiền công danh nghĩa: Là số tiền người lao động nhận được theo thỏa thuận với nhà bản.
Tiền công thực tế: số lượng hàng hóa dịch vụ người lao động thể mua được bằng
tiền công danh nghĩa.
Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến tiền công thực tế trong CNTB:
Năng suất lao động: Năng suất lao động cao dẫn đến giá trị thặng dư lớn hơn, từ đó tiền công
thực tế cũng cao hơn.
Chi phí sinh hoạt: Chi phí sinh hoạt cao dẫn đến giá trị tiền công thực tế giảm xuống.
Sức mạnh của giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân mạnh mẽ sẽ đấu tranh để giành được
mức tiền công cao hơn.
Tình trạng thị trường lao động: Khi thị trường lao động có lợi cho người lao động, họ có thể
đòi hỏi mức tiền công cao hơn.
Ngoài ra, còn một số yếu tố khác ảnh hưởng đến tiền công thực tế như:
Chính sách của nhà nước: Chính sách của nhà nước về lương tối thiểu, an sinh xã hội... cũng
có thể ảnh hưởng đến tiền công thực tế.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật: Sự phát triển của khoa học kỹ thuật có thể dẫn đến thay
đổi về nhu cầu lao động, từ đó ảnh hưởng đến tiền công thực tế của các ngành nghề khác nhau.
Kết luận:
Tiền công một vấn đề quan trọng trong CNTB. Việc phân tích bản chất, các nhân tố ảnh hưởng đến tiền
công giúp chúng ta hiểu hơn về mối quan hệ giữa người lao động nhà bản, từ đó căn cứ
để đấu tranh cho một xã hội công bằng hơn.
12. Phân tích thực chất, động của tích y bản. Phân biệt tích lũy bản với tích lũy nguyên
thủy (tích lũy ban đầu) của CNTB. Phân tích các nhân tố quyết định quy của tích lũy
bản. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Phân tích thực chất, động của tích lũy bản
Thực chất của tích lũy bản:

Preview text:

Đề cương ôn tập Kinh tế Chính trị
1. Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng ưu thế của sản xuất hàng hoá. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra những sản phẩm có thể đưa ra thị trường nhằm mục đích buôn bán.
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá:
Thứ nhất: Phân công lao động hội.
Phân công lao động hội sự phân chia lao động hội tự phát thành các ngành, nghề khác nhau
(đó chính chuyên môn hoá sản xuất).
Phân công lao động xã hội làm mỗi người chỉ sản xuất được một hoặc vài loại sản phẩm nhất định.
Song cuộc sống của họ lại cần nhiều loại sản phẩm. Để thoả mãn được nhu cầu, những người sản xuất
phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Ví dụ: Trong sản xuất tự cung, tự cấp thì một người có thể vừa trồng lúa, vừa sản xuất ra công cụ lao
động (cuốc, xẻng, cày, bừa...). Khi có phân công lao động xã hội thì người nông dân chỉ chuyên trồng
lúa, còn người thợ rèn chuyên sản xuất công cụ. Người nông dân có lương thực ăn, nhưng lại cần công
cụ để sản xuất; ngược lại người thợ rèn không thể ăn cuốc, xẻng... Điều đó buộc người nông dân và
người thợ rèn phải trao đổi sản phẩm của họ với nhau.
Nhưng phân công lao động xã hội mới là điều kiện cần, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải
có điều kiện điều kiện đủ.
Thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau (chế độ tư hữu hoặc những hình thức sở hữu khác
nhau) về tư liệu sản xuất quy định. Quan hệ sở hữu khác nhau làm cho sản phẩm làm ra thuộc về các
chủ thể khác nhau, do đó người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải trao đổi, mua bán.
Như vậy, các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất làm cho những người sản xuất tách biệt
nhau về mặt kinh tế và buộc họ phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Từ sự phân tích trên, sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đầy đủ hai điều kiện trên, nếu thiếu một trong
hai điều kiện thì không có sản xuất hàng hoá.
Trong lịch sử, sản xuất hàng hóa ra đời trong thời kỳ công xã nguyên thủy tan rã. Sản xuất hàng hóa ra
đời và phát triển là quá trình lịch sử lâu dài. Đầu tiên là sản xuất hàng hóa giản đơn (sản xuất hàng hóa
nhỏ, dựa trên kỹ thuật thủ công, lạc hậu); sau đó là sản xuất hàng hóa quy mô lớn (kinh tế thị trường).
Đặc trưng của sản xuất hàng hoá:
So với sản xuất tự cung, tự cấp sản xuất hàng hoá có những đặc trưng và ưu thế cơ bản sau:
(1) mục đích của sản xuất hàng hoá là nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường, của xã hội, mà nhu cầu
của thị trường là vô hạn, đây chính là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
(2) trong sản xuất hàng hoá, do có sự tách biệt về kinh tế, tất yếu dẫn đến cạnh tranh vì mục đích lợi
nhuận, buộc những người sản xuất phải luôn cải tiến kỹ thuật, hợp lí hoá sản xuất, tăng năng suất lao
động, làm giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã sản phẩm ... Như vậy, cạnh
tranh thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh.
(3) trong sản xuất hàng hoá, với sự phát triển của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ, làm cho giao lưu kinh
tế, văn giữa các vùng, các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Do đó, đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế trên, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái của nó như: phá
hoại môi trường sinh thái; tiềm ẩn khủng hoảng, thất nghiệp; phân hóa giàu - nghèo...
Ưu thế của sản xuất hàng hóa
So với sản xuất tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hóa có những ưu thế hơn hẳn:
+ Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản
xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở
sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có
tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao
động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó,
nó phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất
lao động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất và
trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì nó còn khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
+ Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn
lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, mà nó được
mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc
ứng dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất… thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng
hóa là quy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh… buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng
động, nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản xuất hạ
xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
+ Thứ tư: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu kinh tế giữa
các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước… không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn
hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
+ Giúp hiểu rõ bản chất của sản xuất hàng hóa: Việc nghiên cứu sản xuất hàng hóa giúp chúng ta hiểu
rõ bản chất của nó, là một hình thức tổ chức kinh tế cao hơn so với sản xuất tự cung, tự cấp.
+ Giúp xác định những quy luật chi phối sản xuất hàng hóa: Việc nghiên cứu sản xuất hàng hóa giúp
chúng ta xác định những quy luật chi phối nó, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, v.v.
+ Giúp đề xuất những giải pháp phát triển sản xuất hàng hóa: Việc nghiên cứu sản xuất hàng hóa giúp
chúng ta đề xuất những giải pháp phát triển sản xuất hàng hóa hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.
+ Giúp nâng cao nhận thức về vai trò của sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế thị trường: Sản xuất
hàng hóa là nền tảng của nền kinh tế thị trường, do đó việc nghiên cứu sản xuất hàng hóa giúp nâng
cao nhận thức về vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường.
+ Giúp chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Việc nghiên
cứu sản xuất hàng hóa giúp chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ, hiểu biết về sản xuất hàng hóa, đáp
ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Hàng hoá gì? Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, thông qua trao
đổi mua bán. Đã là hàng hóa thì phải có đủ hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
Thuộc tính giá trị sử dụng của hàng hoá:
+ Khái niệm: giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người, không kể là sự thỏa mãn trực tiếp (tư liệu sinh hoạt) hay sự thỏa mãn gián tiếp (tư liệu sản xuất). + Đặc điểm:
• Giá trị sử dụng do các thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định, với ý nghĩa đó giá trị sử dụng là
một phạm trù vĩnh viễn. Nó không phải do ý chí chủ quan của người sản xuất quy định mà do
thuộc tính vốn có, bản chất của vật phẩm ấy. Ví dụ như gạo công dụng thỏa mãn nhu cầu ăn của
con người là do tính chất lý hóa có tinh bột, vitamin trong gạo tạo nên và nó không thay đổi cho dù
do ai sản xuất ra hay trong xã hội nào thì gạo vẫn có công dụng là thỏa mãn nhu cầu ăn của con
người giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
• Số lượng giá trị sử dụng của hh phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người. Trình độ phát
triển của khoa học kỹ thuật ngày càng cao thì càng khám phá ra nhiều giá trị sử dụng của hàng hóa.
• Giá trị sử dụng chỉ được thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng nó. Khi chưa tiêu dùng thì giá trị sử
dụng tồn tại ở dạng nội dung vật chất của của cải.
• Với tư cách là thuộc tính của hàng hóa, giá trị sử dụng không phải cho người sản xuất ra nó mà cho
người khách thông qua trao đổi mua bán. Do đó, giá trị sử dụng là vật mang trong nó giá trị trao đổi.
Thuộc tính giá trị của hàng hoá:
+ Khái niệm: Giá trị hàng hóa là hao phí lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa. Giá trị trao đổi là sự
biểu hiện ra bên ngoài của giá trị. + Đặc điểm:
• Thuộc tính giá trị là 1 phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hóa. Nếu không có sx
hàng hóa, ko có trao đổi thì ko nhất thiết phải đi tìm cơ sở chung cho sự trao đổi. Do đó sẽ ko có phạm trù giá trị.
• Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
=> Giá trị là hao phí lao động của con người được kết tinh trong hàng hóa. Tuy nhiên, ko phải mọi
hao phí lao động của con người được kết tinh trong vật phẩm đều mang hình thái giá trị. Chỉ trong xã
hội có sản xuất hàng hóa, thì hao phí lao động đó mới mang hình thái giá trị. Do đó, giá trị là một phạm trù lịch sử.
Thực chất trao đổi hàng hóa chính là sự so sánh lao động giữa những người sản xuất hàng hoá với
nhau. Vì vậy, giá trị biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá. Trong trao đổi
hàng hoá, quan hệ giữa người với người đã được thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật.
Giá trị là nội dung, là cơ sở quyết định giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi chỉ là hình thái biểu hiện của
giá trị. Như vậy, thuộc tính tự nhiên của hàng hóa là giá trị sử dụng, còn thuộc tính xã hội của hàng
hoá là giá trị. Một vật phẩm, nếu thiếu một trong hai thuộc tính giá trị sử dụng hoặc giá trị thì không phải là hàng hóa.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
• Giúp hiểu rõ bản chất của hàng hoá: Việc nghiên cứu hàng hoá giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của
nó, là một hình thức tổ chức kinh tế cao hơn so với sản xuất tự cung, tự cấp.
• Giúp xác định những quy luật chi phối hàng hoá: Việc nghiên cứu hàng hoá giúp chúng ta xác định
những quy luật chi phối nó, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, v.v.
• Giúp đề xuất những giải pháp phát triển hàng hoá: Việc nghiên cứu hàng hoá giúp chúng ta đề xuất
những giải pháp phát triển hàng hoá hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
3. Phân tích tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá mâu thuẫn bản của nền sản xuất
hàng hoá. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, vì lao động sản xuất ra hàng hoá có tính hai
mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
C. Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất
định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương pháp riêng, phương tiện riêng và kết quả riêng.
Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là làm ra bàn, ghế; đối tượng lao động là gỗ;
phương pháp là các thao tác về cưa, đục, bào; phương tiện là cái cưa, cái đục, cái bào; kết quả lao động
là tạo ra bàn, ghế. Các loại lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự
phát triển của khoa học, kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú, nó
phản ánh trình độ phân công lao động xã hội càng cao. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng. Nhưng
lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của hàng hoá do
hai nhân tố hợp thành: vật chất và lao động. Lao động cụ thể của con người chỉ thay đổi hình thức tồn
tại của các vật chất, làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người mà thôi.
Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn, là một điều kiện không thể thiếu trong mọi hình thái kinh tế - xã hội.
Lao động trừu tượng
Lao động của người thợ dệt và lao động của người nông dân, nếu xét về mặt lao động cụ thể thì hoàn
toàn khác nhau, nhưng chúng lại so sánh được với nhau. Vì nếu gạt bỏ tất cả những sự khác nhau ấy
sang một bên thì chúng chỉ còn có một cái chung, giống nhau, đó đều là sự tiêu phí sức cơ bắp và sức
thần kinh (thể lực và trí lực) của con người. Xét trên phương diện đó thì mọi lao đông đều là lao động
đồng nhất của con người.
Vậy, lao động của người sản xuất hàng hoá, nếu coi đó là sự hao phí sức thần kinh và sức cơ bắp nói
chung của con người, không kể đến hình thức cụ thể của nó như thế nào thì gọi lao động trừu tượng.
Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức lực của con người xét về mặt sinh lý, nhưng không phải sự
hao phí sức lao động nào về mặt sinh lý cũng là lao động trừu tượng. Chỉ trong xã hội có sản xuất hàng
hoá, do mục đích của sản xuất là để trao đổi, làm xuất hiện sự cần thiết phải quy các lao động cụ thể
vốn rất khác nhau, không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng nhất có thể trao đổi
với nhau, tức lao động trừu tượng.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị. Chất của giá trị hàng hoá là lao động trừu
tượng, làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi. Nếu không có sản xuất hàng hoá, không có trao đổi
thì cũng không cần phải quy các lao động cụ thể về lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động trừu tượng
là một phạm trù lịch sử, riêng có của sản xuất hàng hoá. Cần hiểu rằng, không phải có hai thứ lao động
kết tinh trong một hàng hoá, mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hoá, nhưng lao động đó có
tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Nếu lao động cụ thể là một trong hai nhân tố tạo ra giá trị sử dụng, thì lao động trừu tượng là nhân tố
duy nhất tạo ra giá trị của hàng hoá. Giá trị của mọi hàng hoá chỉ là sự kết tinh của lao động trừu tượng.
Ý nghĩa của việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận.
Giúp ta giải thích được những hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như vì sao hàng hoá lại có hai
thuộc tính; khi khối lượng hàng hoá tăng lên, đi liền với giá trị của nó giảm xuống; sự hình thành giá trị hàng hoá...
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của người sản xuất hàng hoá:
Trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất cái gì, như thế nào là công việc độc lập của từng người sản xuất,
vì vậy lao động của họ có tính chất tư nhân và được biểu hiện ở lao động cụ thể. Đồng thời lao động
của mỗi người sản xuất hàng hoá, luôn là một bộ phận của lao động xã hội thống nhất, trong hệ thống
phân công lao động xã hội, vì vậy lao động của họ có tính chất xã hội và được biểu hiện ở lao động trừu tượng.
Trong nền sản xuất hàng hoá, lao động tư nhân và lao động xã hội là sự thống nhất của hai mặt đối lập.
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá. Mâu thuẫn này biểu hiện: -
Sản phẩm do người sản xuất hàng hoá tạo ra có thể không ăn khớp hoặc không phù hợp với nhu cầu của xã hội. -
Hao phí lao động cá biệt có thể cao hoặc thấp hơn hao phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận.
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản
xuất hàng hoá, làm cho sản xuất hàng hoá vừa vận động, phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng
hoảng "sản xuất thừa".
4. Phân tích mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với tính hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
• Mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và tính trừu tượng của lao động:
Giá trị sử dụng của hàng hóa thể hiện tính cụ thể của lao động. Nó phụ thuộc vào những đặc tính, công
dụng hữu ích của sản phẩm đối với nhu cầu con người.
Tuy nhiên, để tạo ra giá trị sử dụng cụ thể, lao động phải được trừu tượng hóa thông qua quá trình trao đổi trên thị trường.
Giá trị của mỗi sản phẩm được so sánh với giá trị của các sản phẩm khác thông qua giá cả, từ đó thể
hiện lượng lao động trung bình xã hội cần thiết để sản xuất ra sản phẩm đó.
• Mối quan hệ giữa giá trị trao đổi và tính xã hội của lao động:
Giá trị trao đổi của hàng hóa thể hiện tính xã hội của lao động. Nó phản ánh mối quan hệ lao động giữa
người sản xuất với nhau trong quá trình sản xuất hàng hóa.
Việc sản xuất hàng hóa để trao đổi, mua bán buộc người lao động phải phân công lao động xã hội, hợp
tác với nhau để tạo ra sản phẩm có giá trị sử dụng.
Giá trị trao đổi của hàng hóa được xác định dựa trên quy luật giá trị, theo đó giá trị của sản phẩm được
quyết định bởi lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó.
• Như vậy, hai thuộc tính của hàng hóa (giá trị sử dụng và giá trị trao đổi) có mối quan hệ chặt chẽ
với tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa (tính cụ thể và tính xã hội).
Tính cụ thể của lao động được thể hiện qua giá trị sử dụng của hàng hóa, trong khi tính xã hội của lao
động được thể hiện qua giá trị trao đổi của hàng hóa.
Hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển.
• Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
• Giúp hiểu rõ bản chất của hàng hóa và lao động: Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai thuộc tính
của hàng hóa với tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa giúp chúng ta hiểu rõ bản chất kép
của hàng hóa (vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị trao đổi) và bản chất hai mặt của lao động (vừa
là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng).
• Giúp giải thích quy luật giá trị: Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi
giúp chúng ta hiểu rõ nguồn gốc và cơ sở của quy luật giá trị, từ đó có thể giải thích được giá cả
của hàng hóa được hình thành như thế nào.
• Giúp đề xuất giải pháp phát triển sản xuất: Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai thuộc tính của
hàng hóa với tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa giúp chúng ta đề xuất những giải pháp
phát triển sản xuất hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng và giá trị của sản phẩm, đồng thời đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của thị trường.
5. So sánh công thức chung của bản công thức lưu thông hàng hóa giản đơn? Phân tích
mâu thuẫn của công thức chung của bản ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
So sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn H T H công thức lưu thông của bản
T H T, chúng ta thấy chúng có những điểm giống nhau: cả hai sự vận động do hai giai đoạn đối
lập nhau là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đoạn đều có hai nhân tố vật chất đối diện nhau là
tiền và hàng, và hai người có quan hệ kinh tế với nhau là người mua và người bán. Nhưng đó chỉ là
những điểm giống nhau về hình thức. Giữa hai công thức đó có những điểm khác nhau về chất.
Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H – T) và kết thúc bằng việc mua (T – H). Điểm
xuất phát và điểm kết thúc của quá trình đều là hàng hóa, còn tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Ngược
lại, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng việc mua (T – H) và kết thúc bằng việc bán (H – T). Tiền vừa là
điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc của quá trình, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian; tiền ở đây
không phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là ứng ra rồi thu về.
Mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu, nên các hàng hóa
trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận động sẽ kết thúc ở giai đoạn thứ hai, khi những
người trao đổi có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến. Còn mục đích của lưu thông bản không
phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa giá trị tăng thêm. Vì vậy, nếu số tiền thu về bằng số tiền
ứng ra, thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên
công thức vận động chung của tư bản là T – H – T’, trong đó T’ = T + ΔT.
C. Mác gọi công thức T – H – T’ là công thức chung của tư bản, vì sự vận động của mọi tư bản đều
biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay.
Phân tích mâu thuẫn của công thức chung của bản
Mâu thuẫn của công thức chung của bản nằm chỗ:
Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng giá trị trao đổi: Trong quá trình sản xuất, nhà tư bản quan
tâm đến giá trị trao đổi của hàng hóa để thu về lợi nhuận, trong khi người lao động quan tâm đến
giá trị sử dụng của hàng hóa để đáp ứng nhu cầu của bản thân.
Mâu thuẫn giữa bản lao động: Nhà tư bản muốn thu về lợi nhuận cao nhất, do đó họ tìm
cách bóc lột người lao động bằng cách trả lương thấp hơn giá trị mà người lao động tạo ra. Người
lao động muốn được hưởng mức lương cao hơn để cải thiện đời sống, nhưng họ bị nhà tư bản áp bức bóc lột.
Mâu thuẫn giữa sản xuất tiêu dùng: Nhu cầu tiêu dùng của xã hội có hạn, trong khi sản xuất
tư bản chủ nghĩa lại không ngừng phát triển. Do đó, sản xuất có thể vượt quá nhu cầu tiêu dùng,
dẫn đến khủng hoảng thừa thãi.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Việc nghiên cứu công thức chung của tư bản và mâu thuẫn của nó có ý nghĩa quan trọng trong việc:
Hiểu bản chất của quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa: Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là
quan hệ bóc lột,trong đó nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do người lao động tạo ra.
Nâng cao nhận thức cho người lao động về quyền lợi của bản thân: Người lao động là người
tạo ra giá trị, họ có quyền được hưởng những quyền lợi hợp pháp từ chính sức lao động của mình.
Đấu tranh chống lại sự bóc lột của nhà bản: Việc nghiên cứu công thức chung của tư bản
giúp cho người lao động có cơ sở để đấu tranh chống lại sự bóc lột của nhà tư bản, đòi hỏi được
hưởng những quyền lợi chính đáng của mình.
Nghiên cứu công thức chung của tư bản còn góp phần vào việc xây dựng một xã hội công bằng, văn
minh, nơi con người được tôn trọng và phát huy tối đa tiềm năng của mình.
6. Sức lao động ? Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa ? Phân tích hai thuộc tính
của hàng hóa sức lao động ? Tại sao nói hàng hóa sức lao động hàng hóa đặc biệt? Y nghĩa của
việc nghiên cứu.
Sức lao động:
Theo C.Mác: "Sức lao động, đó toàn bộ các thể lực trí lực trong thân thể một con người, trong
nhân cách sinh lộng của con người, thể lực trí lực con người phải làm cho hoạt động để sản
xuất ra những vật ích".
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng không phải trong
bất kỳ điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hóa. Thực tiễn lịch sử cho thấy, sức lao động của
người nô lệ không phải là hàng hóa, vì bản thân người nô lệ thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta không có
quyền bán sức lao động của mình. Người thợ thủ công tự do tuy được tùy ý sử dụng sức lao động của
mình, nhưng sức lao động của anh ta cũng không phải là hàng hóa, vì anh ta có tư liệu sản xuất để làm
ra sản phẩm nuôi sống mình chứ chưa buộc phải bán sức lao động để sống. •
Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
+ Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình
và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
+ Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất, để tồn tại buộc anh ta phải
bán sức lao động của mình để sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hóa. Sức lao động biến
thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Tuy nhiên, để tiền biến thành tư bản
thì lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ phải phát triển tới một mức độ nhất định.
Trong các hình thái xã hội trước chủ nghĩa tư bản chỉ có sản phẩm của lao động mới là hàng hóa. Chỉ
đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định nào đó, các hình thái sản xuất xã hội cũ
(sản xuất nhỏ, phường hội, phong kiến) bị phá vỡ thì mới xuất hiện những điều kiện để cho sức lao
động trở thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa
trở nên có tính chất phổ biến và đã báo hiệu sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội - thời
đại của chủ nghĩa tư bản. •
Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
Giá trị hàng hoá sức lao động: Giá trị hàng hoá sức lao động là do thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động.
• Giá trị hàng hóa sức lao động được tạo thành sau một quá trình lao động hiệu quả. Nhằm đáp ứng
được nhu cầu của người sử dụng lao động.
• Sức lao động tồn tại như năng lực sống của con người. Người lao động cần tiêu hao một lượng tư
liệu sinh hoạt nhất định. Từ đó tạo ra năng lực lao động đó.
• Thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời gian để
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt. Nhằm nuôi sống bản thân người công nhân và gia đình anh ta.
Hay nói cách khác, giá trị hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu
sinh hoạt cần thiết. Nhằm tái sản xuất ra sức lao động.
• Hàng hóa sức lao động bao gồm cả yếu tố tinh thần như: Về nhu cầu văn hóa; Tinh thần và yếu tố
lịch sử cũng các hoàn cảnh lịch sử mỗi quốc gia, điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó.
• Tư liệu cung cấp cho người lao động để đáp ứng quá trình sản xuất lao động là cần thiết để tái sản
xuất lao động, đào tạo người công nhân. Ngoài ra nó là giá trị cần thiết cho chính người lao động, gia đình và xã hội. •
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
• Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động biểu hiện quá trình lao động của chính người công nhân.
• Là quá trình tiêu dùng, sản xuất ra một loại hàng hóa nào đó. Đồng thời tạo ra một giá trị mới lớn
hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động.
• Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là nguồn gốc sinh ra giá trị. Tức là nó có thể tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Nhằm đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động của chủ lao động. •
Tại sao nói hàng hóa sức lao động hàng hóa đặc biệt?
Ý nghĩa của việc nghiên cứu hàng hóa sức lao động:
Hiểu bản chất của quan hệ lao động trong hội: Quan hệ lao động là quan hệ giữa người
lao động và người sử dụng lao động dựa trên việc mua bán sức lao động.
Xác định giá trị của sức lao động: Giá trị của sức lao động là cơ sở để xác định tiền lương cho người lao động.
Bảo vệ quyền lợi của người lao động: Người lao động là chủ sở hữu của sức lao động, do đó họ
có quyền được hưởng những quyền lợi hợp pháp như được bảo vệ sức khỏe, được nghỉ ngơi, được
hưởng bảo hiểm xã hội...
7. Giá trị thặng gì? Tại sao nói việc nghiên cứu giá trị thặng được sản xuất như thế nào
đã vạch bản chất bóc lột của nhà bản ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Giá trị thặng gì:
Giá trị thặng dư là một khái niệm trong lý thuyết kinh tế của C.Mác, chỉ phần giá trị mà công nhân làm
thuê tạo ra ngoài giá trị sức lao động của họ, nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt mà không trả cho họ. Giá
trị thặng dư là nguồn gốc của lợi nhuận và là biểu hiện của sự bóc lột lao động trong chủ nghĩa tư bản.
Có hai phương pháp chính để sản xuất giá trị thặng dư: giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối.
- Giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp kéo dài thời gian lao động thặng dư, tức là thời gian mà
công nhân làm việc vượt quá thời gian cần thiết để bù đắp giá trị sức lao động của họ.
- Giá trị thặng dư tương đối là phương pháp giảm giá trị sức lao động bằng cách nâng cao năng suất
lao động, tức là giảm thời gian cần thiết để sản xuất một hàng hóa.
Giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng trong việc phân tích bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, cơ chế sinh sản và phát triển của tư bản, cũng như nguồn gốc và biểu hiện của các mâu thuẫn xã
hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Giá trị thặng dư cũng là cơ sở để xây dựng lý luận về giai cấp, chính sách, chiến lược và mục tiêu của
phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa.
Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư là: m' = (m/v) x 100%
Trong đó, m' là tỷ suất giá trị thặng dư; m là giá trị thặng dư; v là tư bản khả biến.
Tỷ suất giá trị thặng dư cũng có thể tính theo tỷ lệ phần trăm giữa thời gian lao động thặng dư (t') và
thời gian lao động tất yếu (t) như sau: m' = (t'/t) x 100% Trong đó:
- m' là: Tỷ suất giá trị thặng dư
- t' là: Thời gian lao động thặng dư
- t là: Thời gian lao động tất yếu
- Tại sao nói việc nghiên cứu giá trị thặng được sản xuất như thế nào đã vạch bản chất bóc
lột của nhà bản?
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư: Marx giải thích rằng trong quá trình sản xuất, người lao
động làm việc một số giờ nhất định để tái tạo giá trị sức lao động của họ (thời gian lao động cần
thiết). Tuy nhiên, họ phải làm việc nhiều hơn số giờ đó (thời gian lao động thặng dư), và phần giá
trị tạo ra trong thời gian lao động thặng dư này chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
Bản chất bóc lột: Bản chất bóc lột của nhà tư bản được thể hiện qua việc họ chiếm đoạt giá trị
thặng dư mà người lao động tạo ra. Mặc dù nhà tư bản trả lương cho người lao động, nhưng giá trị
mà người lao động tạo ra luôn nhiều hơn giá trị họ nhận được. Sự chênh lệch này (giá trị thặng dư)
là nguồn gốc của lợi nhuận tư bản và sự tích luỹ tư bản.
Quyền sở hữu liệu sản xuất: Nhà tư bản kiểm soát tư liệu sản xuất (máy móc, nhà xưởng,
nguyên liệu) và người lao động không có quyền sở hữu những tư liệu này. Điều này dẫn đến việc
người lao động phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sinh tồn. Quyền sở hữu tư liệu
sản xuất tạo ra sự phụ thuộc của người lao động vào nhà tư bản và từ đó tạo điều kiện cho sự bóc lột.
Hệ quả hội: Việc chiếm đoạt giá trị thặng dư dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã
hội. Nhà tư bản ngày càng giàu có trong khi người lao động chỉ nhận được một phần nhỏ của giá trị
mà họ tạo ra. Điều này làm nổi bật tính chất không công bằng và bóc lột của hệ thống tư bản chủ nghĩa.
Ý nghĩa luận thực tiễn: Nghiên cứu giá trị thặng dư không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà
còn có ý nghĩa thực tiễn. Nó cung cấp cơ sở khoa học để phê phán hệ thống tư bản chủ nghĩa và
đấu tranh cho quyền lợi của người lao động.
• Giá trị sản phẩm do công nhân sản xuất ra cao hơn giá trị lao động mà họ nhận được dưới hình thức
tiền lương. Phần giá trị vượt quá tiền lương, được gọi là giá trị thặng dư, được chiếm hữu bởi chủ tư bản.
• Nguồn gốc của giá trị thặng dư chính là kết quả của việc khai thác lao động công nhân bởi chủ tư
bản. Công nhân chỉ được trả lương tương đương với giá trị sức lao động của họ, nhưng lại phải làm
việc nhiều hơn thời gian cần thiết để tạo ra giá trị tương đương tiền lương.
• Sự tồn tại của giá trị thặng dư cho thấy có một mâu thuẫn căn bản giữa lợi ích của giai cấp công
nhân và giai cấp tư bản. Chủ tư bản luôn tìm cách tối đa hóa lợi nhuận bằng cách khai thác nhiều
hơn nữa lao động công nhân.
• Học thuyết của Mác chỉ ra rằng sự khai thác này là bản chất cố hữu của chế độ tư bản chủ nghĩa,
nơi mà tư liệu sản xuất thuộc sở hữu tư nhân và lao động trở thành hàng hóa.
Theo quan điểm của Mác, việc phân tích cách thức hình thành giá trị thặng dư đã vạch trần bản chất
bóc lột của chủ nghĩa tư bản đối với người lao động. Điều này cũng củng cố cho quan điểm xung đột
giai cấp và nhu cầu phải thay thế hệ thống tư bản bằng một hệ thống xã hội mới. •
Ý nghĩa của việc nghiên cứu giá trị thặng dư:
Việc nghiên cứu giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng trong việc:
Hiểu bản chất của quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa: Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là
quan hệ bóc lột, trong đó nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do người lao động tạo ra.
Nâng cao nhận thức cho người lao động về quyền lợi của bản thân: Người lao động là người tạo
ra giá trị, họ có quyền được hưởng những quyền lợi hợp pháp từ chính sức lao động của mình.
Đấu tranh chống lại sự bóc lột của nhà bản: Việc nghiên cứu giá trị thặng dư giúp cho người
lao động có cơ sở để đấu tranh chống lại sự bóc lột của nhà tư bản, đòi hỏi được hưởng những
quyền lợi chính đáng của mình.
8. Trình bày bản chất của bản? Sự giống khác nhau giữa bản bất biến bản khả
biến? Phân tích vai trò khác nhau của các bộ phận bản trong quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư?. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Bản chất của bản:
Các nhà kinh tế học tư sản thường cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản.
Thực ra, bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất
cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của nhà tư bản và được
dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xóa bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản
nữa. Như vậy, tư bản không phải là một vật mà là một quan hệ sản xuất xã hội nhất định giữa người và
người trong quá trình sản xuất, nó có tính chất tạm thời trong lịch sử.
Qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể định nghĩa chính xác tư bản là giá trị mang
lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê. Như vậy, bản chất
của tư bản là phản ánh quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư
do giai cấp công nhân sáng tạo ra. •
Phân biệt bản bất biến bản khả biến Nội
bản bất biến
bản khả biến dung Khái
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái
niệm liệu sản xuất mà giá trị được lao động sức lao động không tái hiện ra, nhưng
cụ thể của công nhân làm thuê bảo tồn thông qua lao động trừu tượng của
và chuyển nguyên vẹn vào giá trị sản công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là
phẩm, tức giá trị không biến đổi trong biến đổi về số lượng trong quá trình
quá trình sản xuất, C.Mác gọi là tư bản sản xuất, được Mác gọi là tư bản khả bất biến( kí hiệu c) biến( kí hiệu là v)
Điều Là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái Là bộ phận tư bản biến thành sức lao kiện
tư liệu sản xuất mà giá trị không biến động không tái hiện ra, thông qua lao tồn
đổi trong quá trình sản xuất.
động trừu tượng của công nhân mà tại tăng lên. Đặc
- Tư liệu sản xuất có loại được sử dụng - Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao
điểm toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng động không ngừng chuyển hóa từ đại
chỉ bị hao mòn dần theo thời gian, lượng bất biến sang đại lượng khả biến
chuyển đổi từng phần giá trị của nó vào , tức tăng lên về lượng trong quá trình
sản phẩm ( máy móc, trang thiết bị,…) sản xuất.
- Tư liệu sản xuất khi đưa vào quá trình - Một phần giá trị của tư liệu sản xuất
sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của biến thành tư liệu sinh hoạt của công
nó vào chu kỳ sản xuất (nguyên, nhiên, nhân và biến đi trong tiêu dùng của vật liệu,…) công nhân.
- Các tư liệu sản xuất đều do lao động - Một phần, trong quá trình lao động,
cụ thể của công nhân bảo toàn và di bằng lao động trừu tượng, công nhân
chuyển vào sản phẩm nên giá trị của tư tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản
liệu sản xuất không lớn hơn giá trị của thân sức lao động( giá trị sức lao động
tư liệu sản xuất đã tiêu dùng để tạo sản cộng thêm giá trị thặng dư).
phẩm( cái bị tiêu dùng là giá trị sử dụng
của tư liệu sản phẩm, kết quả của việc
tiêu dùng là tạo ra giá trị sử dụng mới). Ý
Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết để Tư bản khả biến là nguồn gốc tạo ra
nghĩa sản xuất ra giá trị thặng dư. giá trị thặng dư.
Ví dụ Một nhà máy sản xuất vải bỏ ra một số Để sản xuất ra vải, công nhân phải bỏ
lượng tư bản để mua tư liệu sản xuất là ra hao phí lao động (lao động trừu
tơ sợi và máy dệt. Tơ sợi (giá trị sử tượng), sau khi tạo ra sản phẩm, sau
dụng là làm thành vải) qua quá trình sản khi đem ra trao đổi trên thị trường, giá
xuất sẽ biến thành vải có giá trị sử dụng trị thu về lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu
mới là may quần áo,..). Máy dệt sẽ chỉ (giá trị sức lao động cộng thêm giá trị
đóng góp một phần giá trị thúc đẩy quá thặng dư). Số tiền bằng đúng giá trị bỏ
trình sản xuất diễn ra nhanh hơn, giảm ra sẽ được chi trả cho công nhân, biến
thiểu hao phí lao động cá biệt, nâng cao thành tư liệu sinh hoạt và tiêu dùng
năng suất lao động. Điều này sẽ tác của công nhân. Phần dư thừa là giá trị
động đến việc tạo ra giá trị thặng dư.
thặng dư, phần lợi của tư bản. •
Phân tích vai trò khác nhau của các bộ phận bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư?
1. Tư bản cố định: Tư bản cố định bao gồm các tài sản lâu dài như máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, công cụ sản xuất, v.v. Vai trò của tư bản cố định trong quá trình sản xuất là:
Truyền tải giá trị: Giá trị của tư bản cố định không chuyển toàn bộ vào sản phẩm ngay lập
tức mà được phân bổ dần dần qua nhiều chu kỳ sản xuất. Mỗi chu kỳ, một phần giá trị của
tư bản cố định được chuyển vào sản phẩm thông qua khấu hao.
Hỗ trợ sản xuất: Tư bản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết để người lao động có
thể thực hiện quá trình sản xuất. Nó đóng vai trò hỗ trợ và tăng cường hiệu quả lao động.
2. Tư bản lưu động: Tư bản lưu động bao gồm các nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, và các yếu
tố khác tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và được tiêu thụ hoàn toàn trong mỗi chu kỳ
sản xuất. Vai trò của tư bản lưu động là:
Chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm: Giá trị của tư bản lưu động được chuyển toàn bộ
vào sản phẩm trong mỗi chu kỳ sản xuất, làm tăng giá trị sản phẩm.
Đảm bảo quá trình sản xuất liên tục: Tư bản lưu động cần được bổ sung liên tục để duy
trì quá trình sản xuất không bị gián đoạn.
3. Tư bản khả biến: Tư bản khả biến là phần tư bản được dùng để trả tiền lương cho người lao
động. Đây là yếu tố duy nhất có khả năng tạo ra giá trị thặng dư. Vai trò của tư bản khả biến là:
Tạo ra giá trị thặng : Người lao động, khi được trả lương, thực hiện công việc và tạo ra
giá trị mới vượt quá giá trị của chính sức lao động mà họ nhận được dưới dạng tiền lương.
Phần giá trị mới này bao gồm cả giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
Động lực của sản xuất: Tư bản khả biến kích thích hoạt động sản xuất bởi vì người lao
động chính là người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và biến nguyên liệu thành sản phẩm hoàn chỉnh.
4. Tư bản bất biến: Tư bản bất biến bao gồm cả tư bản cố định và tư bản lưu động. Đây là
phần tư bản không thay đổi giá trị trong quá trình sản xuất mà chỉ truyền tải giá trị vào sản
phẩm cuối cùng. Vai trò của tư bản bất biến là:
Chuyển giá trị vào sản phẩm: Tư bản bất biến không tự mình tạo ra giá trị mới mà chỉ
chuyển giá trị của mình vào sản phẩm qua quá trình sản xuất.
sở vật chất cho sản xuất: Tư bản bất biến cung cấp cơ sở vật chất và nguyên liệu cần
thiết để quá trình sản xuất có thể diễn ra. Kết luận
Các bộ phận của tư bản đóng vai trò khác nhau nhưng đều không thể thiếu trong quá trình sản
xuất ra giá trị thặng dư. Tư bản cố định và tư bản lưu động tạo ra cơ sở vật chất và nguyên liệu
cho sản xuất, trong khi tư bản khả biến là yếu tố trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư thông qua lao
động của con người. Sự phối hợp của các bộ phận tư bản này đảm bảo quá trình sản xuất liên
tục và hiệu quả, đồng thời làm rõ bản chất bóc lột của hệ thống tư bản chủ nghĩa khi giá trị
thặng dư được tạo ra chủ yếu từ lao động của người công nhân.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu: ·
Kinh tế: Giúp hiểu rõ hơn về bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, từ đó có thể đề
xuất những giải pháp để khắc phục những hạn chế của nó và thúc đẩy sự phát triển kinh tế một cách bền vững. ·
Lịch sử: Giúp hiểu rõ hơn về quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, từ đó có thể đánh
giá đúng vai trò của chủ nghĩa tư bản trong lịch sử. ·
Chính trị: Giúp hiểu rõ hơn về những mâu thuẫn trong xã hội tư bản chủ nghĩa, từ đó có
thể đề xuất những giải pháp để xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.
Hiểu bản chất của quá trình sản xuất bản chủ nghĩa: Quá trình sản xuất tư bản chủ
nghĩa là quá trình kết hợp giữa tư liệu sản xuất, sức lao động và tiền để tạo ra giá trị thặng dư.
Nâng cao nhận thức cho người lao động về quyền lợi của bản thân: Người lao động là
người tạo ra giá trị thặng dư, do đó họ có quyền được hưởng những quyền lợi hợp pháp từ
chính sức lao động của mình.
Đấu tranh chống lại sự bóc lột của nhà bản: Việc phân tích vai trò khác nhau của các
bộ phận tư bản giúp cho người lao động có cơ sở để đấu tranh chống lại sự bóc lột của nhà
tư bản, đòi hỏi được hưởng những quyền lợi chính đáng của mình. Kết luận:
Tư bản là một khái niệm quan trọng trong kinh tế chính trị Marx. Việc nghiên cứu tư bản giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, từ đó có thể đề xuất những
giải pháp để khắc phục những hạn chế của nó và xây dựng một xã hội công bằng, văn minh hơn.
9. Tỷ suất khối lượng giá trị thặng dư? Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
Tỷ suất giá trị thặng
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến
tương ứng để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.
Nếu ký hiệu m' là tỷ suất giá trị thặng dư, thì m’ được xác định bằng công thức:
Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong tổng số giá trị mới do sức lao động tạo ra, thì công nhân
được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm đoạt bao nhiêu. Tỷ suất giá trị thặng dư còn chỉ rõ
trong một ngày lao động, phần thời gian lao động thặng dư mà người công nhân làm cho nhà tư
bản chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu làm cho mình. Do đó, có thể
biểu thị tỷ suất giá trị thặng dư theo một công thức khác:
Tỷ suất giá trị thặng dư nói lên trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, nó
chưa nói rõ quy mô bóc lột. Để phản ánh quy mô bóc lột, C.Mác sử dụng phạm trù khối lượng giá trị thặng dư.
Khối lượng giá trị thặng
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng.
Nếu ký hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư thì M được xác định bằng công thức: Trong đó:
v: tư bản khả biến đại biểu cho giá trị 1 sức lao động
V: Tổng tư bản khả biến đại biểu cho giá trị của tổng số sức lao động
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng, vì trình độ bóc lột
sức lao động càng tăng.
Khối lượng giá trị thặng dư tỷ lệ thuận với cả hai nhân tố m’ và V. Như vậy, nhà đầu tư có thể
tăng M bằng hai cách: Một là, tăng khối lượng tư bản khả biến, sử dụng nhiều lao động hơn;
Hai là, nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư.
Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô giá trị thặng dư mà chủ sở hữu tư liệu sản xuất
thu được; hay nó còn phản ánh quy mô của sự bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê.
Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng tuyệt đối:
Khái niệm: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá
thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Thí dụ: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ,
mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị, thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là: m’ = 40/40 x 100%
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, trong khi mọi điều khác vẫn như cũ, thì giá trị thặng dư tuyệt
đối tăng lên 60 và m’ cũng tăng lên thành: m’ = 60/40 x 100%
Nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày lao động của người công nhân, nhưng việc kéo dài đó không thể
vượt quá giới hạn sinh lý của công nhân. Vì họ còn phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để
phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài thời gian lao động còn bị sự phản kháng của giai cấp công nhân đấu
tranh đòi giảm giờ làm.
Giai cấp tư sản muốn kéo dài ngày lao động, còn giai cấp công nhân lại muốn rút ngắn thời gian lao động.
Do đó, độ dài ngày lao động được xác định tùy thuộc vào so sánh lực lượng trong cuộc đấu tranh hai
giai cấp nói trên, điểm dừng của độ dài ấy là điểm mà ở đó lợi ích kinh tế của nhà tư bản và của
người lao động được thực hiện theo một thỏa hiệp tạm thời.
Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, nhà tư bản tìm cách tăng cường độ lao động của công
nhân. Tăng cường độ lao động về thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động, tức là chi phí
nhiều sức lao động hơn trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động và
tăng cường độ lao động là biện pháp để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng tương đối:
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ
thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài
ngày lao động vẫn như cũ.
Giả dụ ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là lao động thặng dư. Nếu giá trị
sức lao động giảm đi 1 giờ thì thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 4 giờ. Do đó, thời gian lao
động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư (m’) tăng từ 100% lên 150%.
Giá trị sức lao động được quyết định bởi giá trị các tư liệu tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất và tái sản xuất
sức lao động, muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ
cần thiết cho người công nhân. Do đó, cần phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản
xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
10. Tại sao nói sản xuất giá trị thặng quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa bản? Ý
nghĩa của việc nghiên cứu.
Sản xuất giá trị thặng được xem quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa bản bởi vì:
• Nội dung của quy luật giá trị thặng dư : Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường
bóc lột lao động làm thuê.
• Như vậy quy luật này đã phản ánh mục đích cũng như phương thức để thực hiện mục đích trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. •
- Mục đích trực tiếp của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá trị
thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư bằng bất cứ thủ đoạn nào là mục đích,
động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư sản. Sản xuất
ra giá trị thặng dư quả thực là động lực vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
C.Mác: “Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu, làm nhân giá trị lên, làm tăng giá
trị, do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị thặng dư”.
• - Phương thức để thực hiện mục đích. Để sản xuất ra giá trị thặng tối đa , các nhà tư bản tăng
cường bóc lột công nhân làm thuê không phải bằng cưỡng bức siêu kinh tế (roi vọt), mà bằng
cưỡng bức kinh tế (kỷ luật đói rét) dựa trên cơ sở mở rộng sản xuất, phát triển kỹ thuật để tăng
năng suất lao động, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
• Quy luật giá trị thặng dư tác động, quyết định đến mọi mặt của xã hội tư bản. Do tác động của
quy luật giá trị thặng dư, sự phát triển của sản xuất tư bản của chủ nghĩa diễn ra dưới hình thức
mâu thuẫn đối kháng, làm cho mâu thuẫn cơ bản và nói chung toàn bộ mâu thuẫn của chủ nghĩa
tư bản ngày càng sâu sắc. Do đó, đối với giai cấp tư sản hiện đại, việc tìm cách điều chỉnh để
thích nghi và tồn tại lại là rất cần thiết. Khi sự điều chỉnh này không thể thực hiện được nữa thì
tất yếu sẽ xuất hiện một phương thức sản xuất mới. Như vậy, quy luật giá trị thặng dư quyết
định sự phát sinh, phát triển, tiêu vong của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng một xã hội khác cao hơn.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật sản xuất giá trị thặng dư:
• Giúp hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản: Việc nghiên cứu quy luật này giúp chúng ta hiểu rõ
bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, từ đó có căn cứ để đánh giá vai trò và vị trí của nó trong
lịch sử phát triển của xã hội.
• Giúp giải thích các hiện tượng kinh tế xã hội trong chủ nghĩa tư bản: Việc nghiên cứu quy luật
này giúp chúng ta giải thích được nhiều hiện tượng kinh tế xã hội trong chủ nghĩa tư bản như sự
phân hóa giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế, đấu tranh giai cấp...
• Có ý nghĩa thực tiễn trong việc đấu tranh cho một xã hội công bằng: Việc nghiên cứu quy luật
này giúp chúng ta xác định kẻ thù giai cấp và con đường đấu tranh cho một xã hội công bằng,
nơi mà con người không bị bóc lột.
Ngoài ra, việc nghiên cứu quy luật sản xuất giá trị thặng còn ý nghĩa về mặt luận:
• Giúp phát triển học thuyết kinh tế Mác - Lênin: Quy luật sản xuất giá trị thặng dư là một trong
những viên gạch quan trọng trong học thuyết kinh tế Mác - Lênin. Việc nghiên cứu quy luật này
góp phần hoàn thiện và phát triển học thuyết này.
• Góp phần vào kho tàng tri thức của nhân loại: Việc nghiên cứu quy luật này giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về quy luật vận động của xã hội, từ đó góp phần vào kho tàng tri thức của nhân loại.
Tóm lại, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản vì nó là bản chất, mục
đích và chi phối mọi hoạt động kinh tế trong xã hội tư bản. Việc nghiên cứu quy luật này có ý nghĩa
quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn.
11. Hãy phân tích bản chất của tiền công dưới CNTB. Phân biệt tiền công danh nghĩa tiền
công thực tế. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến tiền công thực tế trong CNTB.
Phân tích bản chất của tiền công dưới CNTB
Bản chất của tiền công dưới CNTB:
Tiền công giá trị sức lao động: Trong CNTB, sức lao động trở thành hàng hóa, do đó tiền
công là giá trị của sức lao động được đo bằng tiền. Nó thể hiện mối quan hệ mua bán giữa người
lao động và nhà tư bản.
Tiền công giá trị thặng được chia cho người lao động: Một phần giá trị thặng dư do
người lao động tạo ra được chia cho họ dưới hình thức tiền công. Tuy nhiên, mức độ chia chác
này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm sức mạnh của giai cấp công nhân, tình trạng thị trường lao động...
Tiền công phương tiện để người lao động tái sản xuất sức lao động duy trì cuộc sống:
Người lao động sử dụng tiền công để mua sắm các nhu yếu phẩm cần thiết cho bản thân và gia
đình. Tuy nhiên, do giá trị thặng dư bị chia chác không bình đẳng, nên một bộ phận người lao
động không có đủ tiền để tái sản xuất sức lao động và duy trì cuộc sống một cách đầy đủ.
Phân biệt tiền công danh nghĩa tiền công thực tế:
Tiền công danh nghĩa: Là số tiền mà người lao động nhận được theo thỏa thuận với nhà tư bản.
Tiền công thực tế: Là số lượng hàng hóa và dịch vụ mà người lao động có thể mua được bằng tiền công danh nghĩa.
Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến tiền công thực tế trong CNTB:
Năng suất lao động: Năng suất lao động cao dẫn đến giá trị thặng dư lớn hơn, từ đó tiền công thực tế cũng cao hơn.
Chi phí sinh hoạt: Chi phí sinh hoạt cao dẫn đến giá trị tiền công thực tế giảm xuống.
Sức mạnh của giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân mạnh mẽ sẽ đấu tranh để giành được mức tiền công cao hơn.
Tình trạng thị trường lao động: Khi thị trường lao động có lợi cho người lao động, họ có thể
đòi hỏi mức tiền công cao hơn.
Ngoài ra, còn một số yếu tố khác ảnh hưởng đến tiền công thực tế như:
Chính sách của nhà nước: Chính sách của nhà nước về lương tối thiểu, an sinh xã hội... cũng
có thể ảnh hưởng đến tiền công thực tế.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật: Sự phát triển của khoa học kỹ thuật có thể dẫn đến thay
đổi về nhu cầu lao động, từ đó ảnh hưởng đến tiền công thực tế của các ngành nghề khác nhau. Kết luận:
Tiền công là một vấn đề quan trọng trong CNTB. Việc phân tích bản chất, các nhân tố ảnh hưởng đến tiền
công giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa người lao động và nhà tư bản, từ đó có căn cứ
để đấu tranh cho một xã hội công bằng hơn.
12. Phân tích thực chất, động của tích lũy bản. Phân biệt tích lũy bản với tích lũy nguyên
thủy (tích lũy ban đầu) của CNTB. Phân tích các nhân tố quyết định quy của tích lũy
bản. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Phân
tích thực chất, động của tích lũy bản
Thực chất của tích lũy bản: