





Preview text:
1.3 * Quy luật cung cầu là gì ? - Cung là gì?
Cung về một loại hàng hóa hay dịch vụ là tổng số hàng hóa hay dịch vụ đó mà
các chủ thể kinh tế đưa ra bán trên thị trường ở các mức giá trong một khoảng
thời gian nhất định, bao gồm cả hàng hóa bán được và chưa bán được .
Cung do sản xuất quyết định, nhưng cung không phải lúc nào cũng đồng nhất với khối lượng sản xuất.
Ví dụ: những sản phẩm sản xuất để tự tiêu thụ, hoặc không có khả năng đưa tới thị
trường, thì không nằm trong cung. Lượng cung phụ thuộc chủ yếu vào khả năng
sản xuất; số lượng, chất lượng các yếu tố sản xuất được đưa vào sử dụng; chi phí
sản xuất; giá cả hàng hóa, dịch vụ; trong đó giá cả là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. -Cầu là gì?
Cầu được hiểu là nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội về một loại hàng
hoá hay dịch vụ nào đó trên thị trường ở các mức giá trong một khoảng thời gian
nhất định. Nói cách khác, cầu về một loại hàng hoá hay dịch vụ là lượng hàng hoá
hay dịch vụ đó mà người mua dự kiến mua trên thị trường ở các mức giá trong một
khoảng thời gian nhất định.
Cầu có liên quan đến nhu cầu nhưng không đồng nhất với nhu cầu. Cầu là một
khái niệm kinh tế cụ thể gắn với sản xuất và trao đổi hàng hóa. Cầu không đồng
nhất với nhu cầu nhưng lại có nguồn gốc từ nhu cầu. Quy mô của cầu phụ thuộc
vào các nhân tố chủ yếu như: thu nhập, sức mua của đồng tiền, giá cả hàng hóa, lãi
suất, thị hiếu của người tiêu dùng... trong đó, giá cả là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Mối quan hệ của quy luật cung cầu đối với nền kinh tế thị trường
Cung và cầu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cầu xác định cung và ngược lại,
cung xác định cầu. Cầu xác định khối lượng, cơ cấu của cung về hànghóa:
Chỉ có những hàng hóa nào dự kiến có cầu thì mới được sản xuất, cung ứng;
hàng hóa nào tiêu thụ được nhiều, nhanh nghĩa là có cầu lớn sẽ được cung ứng
nhiều và ngược lại. Đến lượt mình, cung tác động đến cầu, kích thích cầu: Những
hàng hóa nào được sản xuất, cung ứng phù hợp với nhu cầu, thị hiếu, sở thích của
người tiêu dùng sẽ được ưa thích hơn, bán chạy hơn, làm cho cầu về chúng tăng
lên. Vì vậy, người sản xuất hàng hóa phải thường xuyên nghiên cứu nhu cầu, thị
hiếu, sở thích của người tiêu dùng, dự đoán sự thay đổi của cầu, phát hiện các nhu
cầu mới..., để cải tiến chất lượng, hình thức, mẫu mã cho phù hợp; đồng thời phải
quảng cáo để kích thích cầu...
Giữa cung, cầu và giá cả có mối quan hệ chặt chẽ với nhau:
- Giá cả = giá trị thì trạng thái cung cầu ở thế cân bằng.
- Giá cả < giá trị trị thì cung ở xu thế giảm, cầu ở xu thế tăng.
- Giá cả > giá trị trị thì cung ở xu thế tăng, cầu ở xu thế giảm.
- Cung > cầu thì giá cả có xu thế giảm.
- Cung < cầu thì giá cả có xu thế tăng.
- Cung = cầu thì giá cả ổn định tương đối.
Đó là cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế hàng hóa. Cơ chế đó chính là quy luật cung cầu.
Tác dụng của quy luật cung cầu với từng đối tượng
Tác dụng đối với cá nhân
• Khi cầu vượt cung, tức là giá cả đang cao người dùng sẽ có xu hướng giảm mua sắm.
• Khi cung vượt cầu, tức là giá cả đang thấp nên người dùng sẽ mua sắm nhiều hơn.
Tác dụng đối với nhà sản xuất
• Khi cầu vượt cung, nghĩa là giá cả hàng hóa đang cao hơn giá trị thực tế,
nhà sản xuất sẽ tăng cường sản xuất để tăng lợi nhuận.
• Khi cung vượt cầu, lúc này giá cả hàng hóa thấp hơn giá trị thực tế nên
sản xuất sẽ thu hẹp sản xuất để tối ưu chi phí.
Tác dụng đối với nhà nước
• Khi cầu vượt cung, nhà nước sẽ xả kho dự trữ quốc gia để điều tiết thị trường.
• Khi cung vượt cầu, nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp Ví dụ thực tế: Ví dụ 1:
Tại thời điểm X, cam có giá 30.000 đồng 1 kg, cô A có nhu cầu và đủ khả năng để
mua cho gia đình mình sử dụng 2 kg mỗi ngày vào những tháng mùa hè oi ả. Tuy
vậy, do nhu cầu vào những mùa nóng này gia tăng nên giá cam khi ấy đã tăng lên
tới 60.000 đồng 1 kg. Khi này nhu cầu của gia đình cô A chi giảm xuống do lúc
này cô chỉ đủ khả năng để mua 1 kg cam mà thôi Ví dụ 2:
Lúc cam còn ở mức giá cũ là 30.000 đồng 1 kg, mỗi ngày người dân có sức mua và
tiêu thụ đến 10 tấn cam một ngày. Tuy nhiên vào các tháng nóng mùa hè, giá cam
tăng lên tới 60.000 đồng 1 kg thì sức mua và tiêu thụ của cả thành phố về mặt
hàng nông sản này giảm xuống chỉ còn lại 4 tấn một ngày.
Qua ví dụ trên ta có thể thấy được rằng khi một mặt hàng có những mức giá khác
nhau thì sẽ ảnh hưởng tác động tới nhu cầu và sức mua của người tiêu dùng cũng
sẽ thay đổi theo các mức khác nhau. Sức mua của thành phố là 10 tấn cam một
ngày và mỗi gia đình là 2 kg cam một ngày khi mặt hàng này có giá 30.000 đồng
1kg. Ngược lại khi giá tăng lên gấp đôi là 60.000 đồng 1kg thì sức mua của cả
thành phố đã giảm hơn 1 nửa chỉ còn 4 tấn một ngày và nhu cầu của mỗi gia đình
cũng giảm đi một nửa chỉ còn 1 kg một ngày (Nguồn tham khảo ví dụ: Luật sư Hoàng Phi)
*Quy luật Cạnh tranh là gì?
Bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh một loại
hàng hoá nào đó trên thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Đây là một điều tất
yếu và là đặc trưng cơ bản nhất của cơ chế thị trường.
Canh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ
nghĩa. Khái niệm cạnh tranh được nhiều tác giả trình bày dưới nhiều góc độ khác
nhau trong các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế xã hội.
Theo Marx “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản
nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để
thu được lợi nhuận siêu ngạch”.
Nội dung của Quy luật cạnh tranh là:
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa,
giữa người sản xuất và người tiêu dùng là một tất yếu khách quan, là yêu cầu
thường xuyên đối với những người sản xuất hàng hóa.
Quy luật cạnh tranh xuất phát từ bản chất của nền sản xuất hàng hóa, của Quy luật giá trị.
Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng
hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu
dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Cạnh tranh có thể diễn ra giữa người sản xuất và người tiêu dung.
Ví dụ: người sản xuất thì muốn bán được hàng hóa với giá cao, người tiêu dùng lại
muốn mua được hàng hóa với giá rẻ;
Hoặc giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng để mua được hàng hóa với giá rẻ hơn, chất lượng hơn;
Hoặc giữa người sản xuất với người sản xuất nhằm giành giật những điều kiện
thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, như điều kiện về vốn, lao động,
nguồn nguyên liệu, thị trường, giành nơi đầu tư có lợi… để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Trong cuộc cạnh tranh này người ta có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau.
Chẳng hạn, để giành giật thị trường tiêu thụ, họ có thể dùng biện pháp cạnh tranh
giá cả như giảm giá cả hàng hóa để đánh bại đối thủ, hoặc cạnh tranh phi giá cả
như dùng thông tin, quảng cáo sản phẩm, quảng cáo dây chuyền sản xuất… để kích thích người tiêu dùng.
Vai trò của quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá khái niệm cạnh tranh hầu như không tồn tại, song
từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi, vận động theo cơ chế thị trường thị cũng là
lúc cạnh tranh và quy luật cạnh tranh được thừa nhận, vai trò của cạnh tranh ngày
càng được thể hiện rõ nét hơn:
Đối với một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
Cạnh tranh là một điều bất khả kháng trong nền kinh tế thị trường. Các doanh
nghiệp, các nhà kinh doanh dịch vụ khi tham gia thị trường buộc phải chấp nhận sự
cạnh tranh. Cạnh tranh có thể coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà các doanh nghiệp
không thể lẩn tránh và phải tìm mọi cách để vươn lên, chiếm ưu thế.
Cạnh tranh khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ mới, hiện đại ,
tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của
mình để giảm giá thành, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, tạo ra các sản phẩm
mới khác biệt có sức cạnh tranh cao.
Cạnh tranh khốc liệt sẽ làm cho doanh nghiệp thể hiện được khả năng “ bản lĩnh”
của mình trong quá trình kinh doanh. Nó sẽ làm cho doanh nghiệp càng vững mạnh
và phát triển hơn nếu nó chịu được áp lực cạnh tranh trên thị trường. Chính sự tồn
tại khách quan và sự ảnh hưởng của cạnh tranh đối với nền kinh tế nói chung và
đến từng doanh nghiệp nói riêng nên việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường.
Như vậy cạnh tranh buộc các nhà dịch vụ phải luôn tìm cách nâng cao chất lượng
dịch vụ, đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng, của thị trường. Canh
tranh gây nên sức ép đối với các doanh nghiệp qua đó làm cho các doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả hơn.
Đối với người tiêu dùng
Nhờ có cạnh tranh, người tiêu dùng nhận được các dịch vụ ngày càng đa dạng,
phong phú hơn. Chất lượng của dịch vụ được nâng cao trong khi đó chi phí bỏ ra
ngày càng thấp hơn. Cạnh tranh cũng làm quyền lợi của người tiêu dùng được tôn
trọng và quan tâm tới nhiều hơn.
Trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng diễn ra gay gắt thì người
được lợi nhất là khách hàng. Khi có cạnh tranh thì người tiêu dùng không phải chịu
một sức ép nào mà còn được hưởng những thành quả do cạnh tranh mang lại như:
chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá bán thấp hơn, chất lượng phục vụ cao hơn…
Đồng thời khách hàng cũng tác động trở lại đối với cạnh tranh bằng những yêu cầu
về chất lượng hàng hoá, về giá cả, về chất lượng phục vụ… Khi đòi hỏi của người
tiêu dùng càng cao làm cho cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt
hơn để giành được nhiều khách hàng hơn.
Đối với nền kinh tế – xã hội.
Đối với nền kinh tế – xã hội.
Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế nâng cao năng suất lao động xã hội. Một
nền kinh tế mạnh là nền kinh tế mà các tế bào của nó là các doanh nghiệp phát
triển có khả năng cạnh tranh cao. Tuy nhiên ở đây cạnh tranh phải là cạnh tranh
hoàn hảo, cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để cùng phát
triển, cùng đi lên thì mới làm cho nền kinh tế phát triển bền vững. Còn cạnh tranh
độc quyền sẽ ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế, nó tạo ra môi trường kinh
doanh không bình đẳng dẫn đến mâu thuẫn về quyền lợi và lợi ích kinh tế trong xã
hội, làm cho nền kinh tế không ổn định.
Vì vậy, Chính phủ cần ban hành lệnh chống độc quyền trong cạnh tranh, trong kinh
doanh để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Cạnh tranh hoàn hảo sẽ đào thải
các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Do đó buộc các doanh nghiệp phải lựa
chọn phương án kinh doanh có chi phí thấp nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao
nhất. Như vậy cạnh tranh tạo ra sự đổi mới mang lại sự tăng trưởng kinh tế.
Kết luận: Mặc dù quy luật cạnh tranh có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền
kinh tế thị trường hiện nay, nhưng nó không chỉ toàn là những ưu điểm, mà nó còn
có cả những khuyết tật cố hữu mang đặc trưng của cơ chế thị trường. Cơ chế thị
trường bắt buộc các doanh nghiệp phải thực sự tham gia vào cạnh tranh để tồn tại
và phát triển. Chính điều này đòi hỏi cần phải có sự quản lý của nhà nước, đảm bảo
cho các doanh nghiệp có thể tự do cạnh tranh một cách lành mạnh có hiệu quả. Ví dụ thực tế:
+ Coca cola và pesi là hai ông lớn trong nghành đồ uống giải khác đã cạnh tranh
quyết liệt với nhau trong nhiều năm qua. ,….như cải tiến sản phẩm, giảm giá bán, truyền thông.
+Cạnh tranh giữa các hãng điện thoại như iphone ,Samsung ,… để chiếm lĩnh
được thị trường và lựa chọn người tiêu dùng thì bắt buộc các hang điện thoại phải
đưa ra những sản phẩm có cải tiến,mẫu mã,những chính sách bảo hành tốt,…