-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đề cương môn Kinh tế chính trị | Trường Đại học Mở Hà Nội
Đề cương môn Kinh tế chính trị | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Kinh tế chính trị (KTCT2021) 26 tài liệu
Đại học Mở Hà Nội 405 tài liệu
Đề cương môn Kinh tế chính trị | Trường Đại học Mở Hà Nội
Đề cương môn Kinh tế chính trị | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị (KTCT2021) 26 tài liệu
Trường: Đại học Mở Hà Nội 405 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Mở Hà Nội
Preview text:
CHỦ ĐỀ 1: Sản xuất hàng hóa ra đời trong điều kiện nào? Hiện nay Việt Nam có điều
kiện để phát triển sản xuất hàng hóa không? Vì sao?
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó những người sản xuất ra sản phẩm
không nhằm phục vụ mục đích phục vụ nhu cầu tiêu dùng của chính mình mà để trao
đổi, mua bán (trải qua bốn khâu Sản xuất – Trao đổi – Phân phối – Tiêu dùng)
Sản xuất hàng hóa ra đời khi có đủ hai điều kiện sau:
- Thứ nhất là phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành, các
lĩnh vực khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành những
ngành nghề khác nhau. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao
đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn
Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Mỗi người
chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm nhất định. Trong khi nhu cầu của họ lại đòi hỏi
nhiều loại sản phẩm khác nhau. Và để thỏa mãn nhu cầu này, những người sản xuất phải
trao đổi sản phẩm với nhau. Điều này làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm
thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm
- Thứ hai là sự tách biệt về kinh tế của các chủ thể sản xuất (điều kiện đủ)
Tức những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Do
đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này muốn tiêu
dùng sản phẩm của người khác thì phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Trong chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc về ai thì kết quả làm ra sản phẩm
thuộc quyền sở hữu của người đó.
Từ đó, có thể thấy rằng phân công lao động xã hội làm cho những người sản xuất phụ
thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất lại
chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau. Mâu thuẫn này được giải quyết thông qua việc
trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. Đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa.
Hiện nay Việt Nam có những điều kiện sau để phát triển sản xuất hàng hóa:
Trong thời buổi hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa hiện nay thì đã đặt ra nhiều cơ hội để phát
triển sản xuất hàng hóa:
Đầu tiên trong vấn đề phân công lao động xã hội thì bởi toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
thì càng ngày càng có nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau phát triển làm tăng sự trao đổi
hàng hóa. Thị trường trao đổi hàng hóa không còn bị bó hẹp trong phạm vi một nước,
một vùng lãnh thổ nhất định mà là mở rộng ra trên khắp thế giới.
Tiếp theo, do sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội, chuyên môn
hóa sản xuất, và bởi vậy nên sản xuất hàng hóa khai thác được những lợi thế về tự nhiên,
xã hội, kỹ thuật của từng người, của từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa
phương. Và ở Việt Nam cũng có nhiều lợi thế về việc sản xuất nông nghiệp có nhiều
vùng chuyên canh lớn,... nên Việt Nam có rất nhiều cơ hội để phát triển sản xuất hàng hóa.
CHỦ ĐỀ 2: Giá cả hàng hóa là gì? Giá cả lên xuống do nhân tố nào chi phối? yếu tố
nào quyết định giá cả? Lạm phát có liên quan đến giá cả như thế nào?
Giá cả của hàng hóa là giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng tiền.
Giá cả của hàng hoá phụ thuộc vào 4 yếu tố:
Một là: Giá trị của hàng hoá
Hai là: Giá trị của tiền tệ
Ba là: Quan hệ cung – cầu về hàng hoá trên thị trường
Ngoài ra, giá cả hàng hóa còn chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh.
– Một là: Giá trị của hàng hoá – yếu tố quyết định giá cả:
Giá trị của hàng hóa là hao phí lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng
hóa. Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất trao đổi
hàng hóa và là phạm trù có tính lịch sử. Giá trị trao đổi là biểu hiện ra bên ngoài của
giá trị; giá trị là nội dung, cơ sở của trao đổi.
Giá trị của hàng hóa tỷ lệ THUẬN với giá cả của hàng hóa. Giá cả sẽ cao hơn giá trị
của hảng hóa nếu số lượng cung thấp hơn cầu và ngược lại.
Giá trị hàng hóa là nội dung của giá cả, là nhân tố quyết định nên giá cả. Khi cung và
cầu của một hay một loại hàng hóa về cơ bản ăn khớp với nhau thì giá cả phản ánh và
phù hợp với giá trị của hàng hóa đó.
Giá trị của hàng hóa (giá trị của 1 đơn vị hàng hóa) lại chịu sự tác động của 3 yếu tố là:
năng suất lao động, cường đồ lao động và mức độ phức tạp của lao động
– Hai là: Giá trị của tiền tệ
Tỷ lệ NGHỊCH với giá cả hàng hoá…
Giá trị tiền tệ càng cao tức tiêu chuẩn giá cả cao thì giá cả hàng hóa so với tiền vàng càng thấp
– Ba là: Quan hệ cung – cầu về hàng hoá trên thị trường
Quy luật cung – cầu có tác dụng điều tiết quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng hóa,
làm biến đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả thị trường. Bởi trên thị
trường, cung – cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau và
ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị, ngược
lại nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị. Nếu cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị
– Ngoài ra, giá cả hàng hóa còn chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm có được những ưu
thế về sản xuất, tiêu thụ và thông qua đó mà thu được lợi ích tối đa. Và một trong những
biện pháp cạnh tranh trong nội bộ ngành đó là tìm cách hạ thấp giá trị cá biệt hàng hòa,
làm cho giá trị hàng hóa của doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa đó.
Lạm phát có liên quan gì đến giá cả:
- Lạm phát là tình trạng mức giá chung của hàng hóa tăng liên tục trong một thời gian
nhất định. Có ba mức độ lạm phát đó là vừa phải (ở mức một con số dưới 10%); siêu mã
(ở mức hai con số lớn hơn 10%); siêu lạm phát (ở mức ba con số). Hậu quả của lạm phát
là phân phối lại các nguồn thu nhập; khuyến khích đầu cơ hàng hóa, cản trở sản xuất
kinh doanh; giảm mức sống của người lao động
- Lạm phát xuất hiện là do tiền vàng được phát hành quá nhiều, vượt quá lượng tiền vàng
cần thiết cho lưu thông mà tiền giấy làm đại diện, sẽ làm cho tiền giấy bị mất giá trị, giá
cả hàng hóa tăng lên dẫn đến lạm phát.
Vì khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng giá cả hàng hóa được đưa
ra thị trường và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông tiền tệ.
CHỦ ĐỀ 3: Vai trò của thị trường thể hiện ở các quy luật kinh tế nào? Quy luật giá trị
có phải là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa không? Vì sao?
Thị trường có ba vai trò chủ yếu như sau:
- Một là, thị trường là điều kiện, môi trường cho sản xuất phát triển.
Sản xuất hàng hóa càng phát triển, sản xuất ra càng nhiều hàng hóa, dịch vụ thì càng
đòi hỏi thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn. Sự mở rộng thị trường thúc đẩy trở lại sản xuất
phát triển. Vì vậy thị trường là môi trường kinh doanh, điều kiện không thể thiếu được
của quá trình sản xuất kinh doanh.
Thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Thị trường đặt ra các nhu cầu cho sản
xuất cũng như nhu cầu tiêu dùng. Vì vậy thị trường có vai trò thông tin, định hướng cho
mọi nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Điều này được thể hiện cụ thể trong quy luật giá trị, cụ thể là tác động điều tiết
sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trong sản xuất thì thông qua sự biến động của giá
cả thì người sản xuất sẽ biết được tình hình cung – cầu về hàng hóa đó và quyết
định phương án sản xuất. Trong lưu thông thì quy luật giá trị điều tiết hàng hóa từ
nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu.
Bên cạnh đó thì quy luật cung – cầu cũng có sự tác
- Hai là, thị trường kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội, tạo ra cách
thức phân bổ nguồn lực hiệu quả trong nền kinh tế.
Thị trường thúc đẩy các quan hệ kinh tế không ngừng phát triển. Do đó đòi hỏi các
thành viên trong xã hội phải không ngừng nỗ lực, sáng tạo để thích ứng được với sự phát
triển của thị trường. Sự sáng tạo được thị trường chấp nhận, chủ thể sáng tạo sẽ được
hưởng lợi ích tương xứng. Khi lợi ích được đáp ứng thì sẽ thúc đẩy động lực sáng tạo,
kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội.
Thông qua các quy luật thị trường, các nguồn lực cho sản xuất được điều tiết, phân bổ
tới các chủ thể sử dụng hiệu quả nhất, thị trường tạo ra cơ chế để lựa chọn cấc chủ thể
có năng lực sử dụng nguồn lực hiệu quả trong nền sản xuất.
Điều này được thể hiện trong quy luật giá trị cụ thể là quy luật giá trị điều tiết hàng
hóa trong lưu thông từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao hơn, góp phần làm
cho cung cầu hàng hóa giữa các vùng cân bằng, phân phối lại thu nhập giữa các
vùng miền, điều chỉnh sức mua của thị trường....
- Ba là, thị trường gắn kết nền kinh tế thành một chỉnh thể, gắn kết nền kinh tế quốc gia
với nền kinh tế thế giới
Trong phạm vi quốc gia thì thị trường làm cho các quan hệ sản xuất lưu thông, phân
phối, tiêu dùng trở thành một thể thống nhất. Thị trường không phụ thuộc vào địa giới
hành chính. Thị trường gắn kết mọi chủ thể giữa các khâu, giữa các vùng miền vào một
chỉnh thể thống nhất. Thị trường phá vỡ ranh giới sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc để tạo
thành một hệ thống nhất định trong nền kinh tế.
Trong quan hệ với nền kinh tế thế giới, thị trường làm cho kinh tế trong nước gắn liền
với nền kinh tế thế giới. Các quan hệ sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng không chỉ
bó hẹp trong phạm vi nội bộ quốc gia, mà thông qua thị trường, các quan hệ đó có sự kết
nối, liên thông với các quan hệ trên phạm vi thế giới. Với vai trò này thị trường góp
phần thúc đẩy sự gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. Vì việc sản xuất và trao
đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở của giá trị (hao phí lao động xã hội cần
thiết). Quy luật giá trị có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ,
làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản
xuất, bảo đảm sự bình đăng đối với người sản xuất; và cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực.
CHỦ ĐỀ 4: Tiền là gì, tiền có mấy chức năng? Chức năng nào phải dùng tiền vàng?
Chức nào nào liên quan đến xuất hiện tiền giấy? Chức năng nào là cơ bản nhất, vì sao? 1.
Tiền là một loại hàng hóa đặt biệt, là kết quả của quá trình phát triển của sản xuất
và trao đổi hàng hóa, tiền xuất hiện là yếu tố ngang giá chung cho thế giới hàng
hóa. Tiền là hình thái biểu hiện giá trị của hàng hóa.
Tiền có 5 chức năng đó là thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện cất
trữ, phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới.
2. Chức năng phải dùng đến tiền vàng là thước đo giá trị vì khi thực hiện chức năng
thước đo giá trị, tiền đi dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của tất cả các hàng hóa
khác nhau. Do đo lường giá trị các hàng hóa, tiền cũng phải có giá trị. Vì vậy để thể hiện
chức năng thước đo giá trị người ta ngầm hiểu đó là tiền vàng. Sở dĩ như vậy là vì giữa
giá trị của vàng và giá trị của hàng hóa trong thực tế đã phản ánh lượng lao động xã hội hao phí nhất định.
3. Chức năng liên quan đến xuất hiện tiền giấy là phương tiện lưu thông. Vì khi thực
hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa.
Để phục vụ lưu thông hàng hóa, ban đầu nhà nước đúc vàng thành những đơn vị tiền tệ
nhất định, sau đó đúc tiền bằng kim loại. Dần dần, xã hội nhận thấy để thể hiện chức
năng phương tiện lưu thông không nhất thiết phải dùng tiền vàng, mà chỉ cần kí hiệu giá
trị. Từ đó tiền giấy ra đời.
4. Chức năng phương tiện trao đổi là chức năng cơ bản của tiền tệ, nó không chỉ giúp
chúng ta phân biệt giữa tiền với những dạng tài sản khác như chứng khoán, bất động
sản…mà còn biểu hiện một trạng thái động của tiền tệ khi bộc lộ bản chất kinh tế vốn có.
Thực hiện chức năng này tiền tệ đã tạo điều kiện cho quan hệ trao đổi hàng hóa trở nên thuận tiện.
CHỦ ĐỀ 5: Lực lượng tham gia thị trường gồm những ai? Đâu là nhân tố khách quan
của thị trường, đâu là nhân tố chủ quan?
Lực lượng tham gia thị trường bao gồm người sản xuất, người tiêu dùng, các chủ thể
trung gian trong thị trường và nhà nước.
Nhân tố khách quan của thị trường là người sản xuất, người tiêu dùng, các chủ thể trung
gian trong thị trường. Cụ thể:
- Người sản xuất là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa ra thị trường nhằm đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Lực lượng này bao gồm các nhà sản xuất, đầu tư, kinh
doanh, hàng hóa, dịch vụ..... Những người này trực tiếp tạo ra của cải, vật chất, sản
phẩm cho xã hội để phục vụ tiêu dùng. Họ sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất, kinh
doanh và thu lợi nhuận tối đa trong điều kiện nguồn lực có hạn.
- Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa mãn nhu
cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự thành bại của người
sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người tiêu dùng là động lực quan trọng
của sự phát triển sản xuất. Người tiêu dùng có vai trò quan trọng trong định hướng sản
xuất. Vậy nên trong điều kiện nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng ngoài việc thỏa
mãn nhu cầu của mình, cần phải có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của xã hội.
- Chủ thể trung gian trên thị trường có vai trò quan trọng để kết nối, thông tin trong các
quan hệ mua, bán. Hoạt động của các chủ thể làm tăng cơ hội thực hiện giá trị của hàng
hóa cũng như thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, làm cho sản xuất và tiêu dùng trở nên ăn khớp nhau.
Trong đó thì nhân tố chủ quan của thị trường là nhà nước. Bởi nhà nước thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và thực hiện những biện pháp để khắc phục
những khuyết tật của thị trường. Những chức năng này được thực hiện thông qua việc
nhà nước tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể kinh tế phát huy sức sáng
tạo của họ; loại bỏ các rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh từ phía nhà nước
để tránh kìm hãm động lực sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó
nhà nước còn sử dụng các công cụ kinh tế để khắc phục các khuyết tật của nền kinh tế thị
trường, làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả
CHỦ ĐỀ 6: Có mấy nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa? Các nhân tố
ảnh hưởng đến đại lượng giá trị hàng hóa như thế nào? Cho ví dụ minh họa?
Có 3 nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa. Đó là năng suất lao động ,
cường độ lao động và tính chất phức tạp hay giản đơn của lao động.
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng
hoá cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị của hàng hoá
tùy thuộc vào những nhân tố sau: + Năng suất lao động
Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời
gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động
xã hội nhưng chỉ có năng suất lao động xã hội có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của
hàng hóa vì trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt mà theo giá trị xã hội.
Năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo léo của
người lao động, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ
kỹ thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất
và các điều kiện tự nhiên.
Ảnh hưởng của năng suất lao động tới lượng giá trị của hàng hóa: năng suất lao
động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá
càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại năng suất lao
động xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng
hoá càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị
của một đơn vị hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch
với năng xuất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng
hoá xuống, thì ta phải tăng năng suất lao lộng xã hội. + Cường độ lao động
Khái niệm: Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương, là sự
căng thẳng mệt nhọc của người lao động.
Ảnh hưởng của cường độ lao động đến lượng giá trị hàng hóa: khi cường độ lao
động tăng lên, thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng
tăng lên và lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên tương ứng còn lượng giá trị
của một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Xét về bản chất, tăng cường độ lao động
cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
+ Tính chất phức tạp hay giản đơn của lao động
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của
hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao động
giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một người
bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao động phức
tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được
nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, hoạt động trao đổi diễn ra liên tục, phức tạp. Để
thuận tiện cho trao đổi, người ta lấy lao động giản đơn trung bình làm đơn vị trao
đổi và quy tất cả lao động phức tạp thành lao động giản đơn T
Ví dụ các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Công ty trước đó sản xuất cần 2h/sp và sau khi tăng năng suất lao động thì chỉ cần 1h/sp.
+ Để tăng năng suất lao động thì ta có thể:
Áp dụng kĩ thuật công nghệ mới
Nâng cao trình độ người lao động
Tổ chức, quản lý lao động khoa học
Thay đổi điều kiện tự nhiên của sản xuất
CHỦ ĐỀ 7: Tại sao nói: “giá trị thặng dư là học thuyết trung tâm trong học thuyết kinh
tế của Mác”? Giá trị thặng dư có mấy hình thái và liên quan đến các phương pháp sản
xuất ra nó là gì? Liên hệ với Việt Nam?
- Bởi giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại, phát triển của nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa. Thông qua việc nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư, ta thấy được rõ bản chất
của chế độ làm thuê trong chế độ tư bản, biết được “loại hàng hóa đặc biệt” mà nhà tư
bản đã mua và có những thủ đoạn tinh vi và chiếm đoạt ngày càng lớn. Và đây là nguyên
nhân khiến cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản tăng lên mà không
thể dung hòa trong chủ nghĩa tư bản.
- Hình thái của giá trị thặng dư + lợi nhận + lợi tức
+ Địa tô tư bản chủ nghĩa
* Liên quan đến phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
+ Khái niệm: là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao
động vượt quá thời gian lao động cần thiết, trong khi năng suất lao động, giá trị sưc lao
động và thời gian lao động cần thiết không thay đổi.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
+ Khái niệm: là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong
điều kiện độ dài của ngày lao động không đổi nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị
thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu.
Khi sử dụng phương pháp sản xuất này các nhà tư bản rút ngắn được thời gian lao động tất yếu
Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian
lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt
thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách
tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm
vi tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu
sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng suất lao động xã hội.
Liên hệ với Việt Nam - Thực trạng:
Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, nên phương thức tạo ra giá trị thặng dư
tuyệt đối không được sử dụng, thời gian lao động không bị kéo quá 8 tiếng một ngày hay
48 tiếng một tuần theo điều 68 của bộ luật Lao Động.
- áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và biến tấu của nó – giá trị
thặng dư siêu ngạch (phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt,
làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó) vào nền kinh tế Việt Nam.
- Trước đổi mới, các doanh nghiệp Việt Nam đều là doanh nghiệp nhà nước được nhà
nước bao cấp hoàn toàn. Sản phẩm làm ra theo định lượng của nhà nước, thậm chí là còn
không cần biết đến việc sản phẩm đó tạo ra có đúng theo nhu cầu của thị trường hay
không, vì thế mà nền kinh tế trì trệ.
- Sau đổi mới năm 1986, các doanh nghiệp nhà nước không còn hoàn toàn được nhà
nước bao cấp nữa mà bắt đầu phải tự chủ, bước vào nền kinh tế thị trường, đồng thời, các
doanh nghiệp tư nhân đầu tiên cũng ra đời.
Tiếp đến, sự tràn vào của hàng hóa các nước khác, đặc biệt là hàng Trung Quốc giá rẻ đã
tạo nên một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Áp lực này buộc họ phải đổi
mới công nghệ nhằm tăng sức cạnh tranh để có thể tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường.
Để tạo ra được nhiều giá trị thặng dư, các doanh nghiệp bắt đầu chuyên môn hóa trong
việc sản xuất sản phẩm, phân chia công đoạn chi tiết, đầu tư vào việc mua lại công nghệ
và máy móc, áp dụng các phương thức quản lí mới.
Ban đầu, với lượng kinh phí còn hạn hẹp, họ mua lại những công nghệ và máy móc cũ
đã lỗi thời ở các nước phát triển với giá thành rẻ, rồi dần dần chuyển đổi sang những
công nghệ mới hiện đại hơn.
Đồng thời, khi Việt Nam còn chưa có nguồn nhân lực tri thức cao, các chuyên gia nước
ngoài cũng được mời về để chuyển giao công nghệ.
Sau khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các đối thủ mới
(các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ, kinh nghiệm
và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết liệt trong điều kiện mới (thị trường
toàn cầu với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thương mại và luật pháp quốc tế).
=> Vì vậy, việc đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực lại càng trở thành nhu
cầu cấp bách khi cạnh tranh để tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn.
Ví dụ như: cuộc chạy đua về cung cấp công nghệ 3G giữa ba tập đoàn Vinaphone,
Mobiphone và Viettel cho thấy mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện nay. Ngày
12/10/2009 vinaphone chính thức ra mắt, thì đến 15/12/2009 Mobiphone cũng bắt đầu
triển khai dịch vụ này. Chậm nhất là Viettel với dịch vụ được bắt đầu từ ngày 25/3/2010,
nhưng lại mở đầu bằng chiến dịch khuyến mãi lớn, mà theo đó, Viettel cho phép khách
hàng dùng 3G Mobile Internet với mức khởi điểm thấp nhất là 10.000 đồng/tháng,
khuyến mãi 50% cước đăng ký 3G và miễn cước hòa mạng cho các thuê bao trả sau D-
Com 3G… Ngay lập tức, Mobi tái khẳng định chiến lược “3G cho mọi người” với gói
cước Mobile Internet cho người sử dụng có thu nhập thấp, khởi điểm chỉ với 5.000
đồng/tháng (gói M5). Việc kéo người dùng sử dụng dịch vụ của các nhà mạng là nhằm
mục đích tạo ra giá trị thặng dư (lợi nhuận) cho doanh nghiệp.
Không thể hiện rõ như chạy đua về công nghệ, việc đào tạo và tìm kiếm những nhà quản
lí, những nhà chiến lược tài ba cũng là mối quan tâm lớn của các doanh nghiệp. Không ít
những doanh nghiệp Việt Nam hiện nay sẵn sàng trả cho nhân viên của mình hàng chục
ngàn Euro mỗi năm để có được những chiến lược mới giúp doanh nghiệp tạo ra được
nhiều lợi nhuận hơn bởi ngày nay lao động trí tuệ, lao động quản lý đã trở thành những
hình thức lao động có vai trò lớn. Khu vực dịch vụ, các hàng hóa phi vật thể, vô hình
chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. 2. Hạn chế:
- công nghệ của Việt Nam dù đã được cải tiến nhưng vẫn còn thua kém hơn so với các
nước phát triển, do phần lớn các công nghệ này vẫn còn là công nghệ đã không còn được
sử dụng ở nước ngoài và được bán lại cho thị trường Việt Nam với giá thành rẻ.
- nhiều doanh nghiệp có nguồn lực hạn hẹp, thì sau khi đổi mới công nghệ một lần thì họ
phải chờ một quãng thời gian khá dài mới có thể huy động tiền để tiếp tục đổi mới công
nghệ trong khi khoa học kĩ thuật đang biến đổi từng ngày.
- Nguồn lao động có khả năng đáp ứng yêu cầu tuyển dụng vẫn còn thấp. 3. Giải pháp:
- Các doanh nghiệp trong nước cần cố gắng trong việc thay đổi công nghệ.
+ Hiện nay có nhiều doanh nghiệp trong nước đã tiến hành hợp tác với các doanh
nghiệp nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi, vừa giúp doanh nghiệp nước ngoài làm
quen nhanh chóng hơn với nền kinh tế trong nước, vừa tạo điều kiện giúp doanh nghiệp
trong nước có được những công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất.
- Vấn đề nguồn lực vẫn là vấn đề cần được trọng tâm trong thời gian tới.
- nâng cao chất lượng dạy và học, giảm dần khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế là vô
cùng cần thiết để tránh hiện trạng có cầu mà không có cung như hiện nay.
CHỦ ĐỀ 8: Nghiên cứu tích lũy tư bản rút ra ý nghĩa gì về nhân tó ảnh hưởng và các
quy luật của tích lũy tư bản?
Ý nghĩa của việc nghiên cứu tích lũy:
- Tích lũy là điều kiện, là quy luật của tái sản xuất mở rộng. Muốn mở rộng quy mô sản
xuất phải không ngừng tăng năng suất lao động, tăng sản phẩm thặng dư trên cơ sở đó
mà tăng quy mô sản xuất.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng trong từng thời kỳ có tác dụng lớn
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội
Trong khi đó thì các nhân tố ảnh hưởng tới tích lũy cơ bản bao gồm tỷ suất giá trị thặng
dư; năng suất lao động; máy móc và đại lượng tư bản ứng trước. Việc tăng quy mô tích
lũy tư bản được thực hiện như sau:
đầu tiên, khi tăng tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tạo tiền đề tăng quy mô giá trị thặng
dư sau đó tăng quy mô tích lũy bằng cách sử dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối, sản xuất giá trị thặng dư tương đối,...
tiếp theo nhà tư bản sẽ nâng cao năng suất lao động với mục đích làm cho giá trị tư
liệu sinh hoạt giảm xuống, làm giảm giá trị sức lao động làm cho nhà tư bản thu được
nhiều giá trị thặng dư hơn, tạo điều kiện cho phép tăng quy mô tích lũy
Các quy luật của tích lũy tư bản bao gồm quy luật giá trị thặng dư và quy luật cạnh tranh
CHỦ ĐỀ 9: Tại sao lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận được coi là những chỉ tiêu kinh tế
quan trọng của hoạt động kinh tế? Việc hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân rút ra ý
nghĩa gì trong việc đầu tư sản xuất vào các ngành kinh tế khác nhau?
1) Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận được coi là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng của
hoạt động kinh tế do những lý do sau đây:
- Lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nguồn gốc của lợi nhuận
chính là giá trị thặng dư, nó là hình thức biểu hiện bề ngoài của giá trị thặng dư. Tuy
nhiên khi đó bằng số tuyệt đối thì lợi nhuận chỉ phản ánh quy mô của hiệu quả kinh
doanh mà chưa phản ánh rõ được mức độ hiệu quả của kinh doanh, và nó cần được bổ
sung bằng một số đo tương đối khác, đó chính là tỷ suất lợi nhuận
- Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa tỷ số giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản
ứng trước . tỷ suất lợi nhuận phản ánh đầy đủ mức độ hiệu quả kinh doanh, bởi vậy tỷ
suất lợi nhuận được coi là động cơ quan trọng nhất của của hoạt động cạnh tranh tư bản chủ nghĩa
Vậy nên lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận là những phạm trù thể hiện lợi ích kinh tế
của nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
2) Lợi nhuận bình quân được hình thành do cạnh tranh giữa các ngành. lợi nhuận
bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau, đầu tư vào
những ngành khác nhau, bất kể cấu tạo hữu cơ của tư bản như thế nào.
do hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, làm cho ngành có cung
(hàng hoá) lớn hơn cầu (hàng hoá) thì giá cả giảm xuống, còn ngành có cầu (hàng hóa)
lớn hơn cung (hàng hoá) thì giá cả tăng lên. Sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang
ngành khác làm thay đổi cả tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. Sự tự do di
chuyển tư bản này chỉ tạm dừng lại khi tỷ suất lợi nhuận ở tất cả các ngành đều xấp xỉ bằng nhau
hình thành nên tỷ suất lợi nh . Kết quả là uận bình quân.
Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì lượng lợi nhuận của tư bản ở các ngành
sản xuất khác nhau đều tính theo tỷ suất lợi nhuận bình quân và do đó, nếu lượng tư bản
ứng ra bằng nhau, dù đầu tư vào ngành nào cũng đều thu được lợi nhuận bằng nhau, gọi là lợi nhuận bình quân.
CHỦ ĐỀ 10: Trình bày các hình thức tổ chức độc quyền dưới CNTB? Ngày nay, hình
thức tổ chức độc quyền nào phát triển mạnh nhất và những biểu hiện mới là gì?
1) Các hình thức tổ chức độc quyền
- Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong
tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục đích thu
được lợi nhuận độc quyền cao.
Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa, các liên minh độc quyền hình thành theo liên
kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng
về sau theo mổi liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết
dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Những hình thức độc quyền cơ bản là cácten, xanhđica, tơnrớt.
– Cácten (Cartel) là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp nghị thỏa
thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán,
v..vv…. Các nhà tư bản tham gia cácten vần độc lập về sản xuẩt và thương nghiệp. Họ
chỉ cam kết làm đúng hiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp nghị.
Vì vậy, cácten là liên minh độc quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp, những
thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã rút ra khỏi cácten, làm cho cácten thường tan vỡ trước kỳ hạn.
– Xanhđica (Syndicate) là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cácten.
Các xí nghiệp tham gia xanhđica vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu
thông: mọi việc mua – bán do một ban quản trị chung của xanhđica đảm nhận. Mục đích
của xanhđica là thống nhất đầu mối mua và bán đề mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng
hóa với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
– Tơrớt (Trust) là một hình thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm thống
nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý. Các nhà tư bản
tham gia tơrớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.
Consortium là liên kết dọc
– Côngxoócxiom (Consortium) là một hình thức độc quyền có trình độ và quy mô lớn
hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia côngxoócxiom không chỉ có các nhà tư bản
lớn mà còn cả các xanhđica, tơrớt, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau
về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một côngxoócxiom có thể có hàng
trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài hình vào một nhóm tư bản kếch sù.
2) hình thức độc quyền phát triên mạnh nhất và biểu hiện mới
Hiện tượng liên kết đa dạng tiếp tục phát triển, sức mạnh của các consơn (concern) và
cônglômêrát (conglomerat) ngày càng được tăng cường. Nhưng do tác động của các đạo
luật chống độc quyền hay luật chống hạn chế cạnh tranh đã làm xuất hiện phổ biến các
hình thức tổ chức độc quyền lớn hơn, cao hơn: hình thức ôlygôpôly (oligopoly - độc
quyền của một vài công ty) hay pôlypôly (polypoly - độc quyền của một số khá nhiều
công ty trong mỗi ngành). Cách mạng khoa học và công nghệ dường như biểu lộ thành
hai xu hướng đối lập nhau nhưng thực ra là thống nhất với nhau: xu hướng tập trung và
xu hướng phi tập trung hóa.
Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do:
Thứ nhất, việc ứng dụng các thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ cho phép tiêu
chuẩn hóa và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu rộng, dẫn tới hình thành hệ thống
gia công, nhất là trong những ngành sản xuất ô tô, máy bay, đồ điện, cơ khí, dệt, may
mặc, đồ trang sức, xây dựng nhà ở. Nhìn bề ngoài, dường như đó là hiện tượng "phi tập
trung hóa", nhưng thực chất đó chỉ là một biểu
hiện mới của sự tập trung sản xuất, trong đó các hãng vừa và nhỏ lệ thuộc và chịu sự chi
phối của các chủ hãng lớn về công nghệ, vốn, thị trường, v.v.
Thứ hai, những ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơ chế thị trường.
Những doanh nghiệp vừa và nhỏ nhạy cảm với thay đổi trong sản xuất, linh hoạt ứng phó
với tình hình biến động của thị trường, mạnh dạn trong việc đầu tư vào những ngành mới
đòi hỏi sự mạo hiểm, kể cả những ngành lúc đầu ít lợi nhuận và những ngành sản phẩm
đáp ứng nhu cầu cá biệt. Các doanh nghiệp nhỏ dễ dàng đổi mới trang bị kỹ thuật mà
không cần nhiều chi phí bổ sung.
CHỦ ĐỀ 11: Nghiên cứu hàng hóa sức lao động có ý nghĩa gì trong việc hình thành thị
trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay?
Ở Việt Nam trong bối cảnh đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề thị trường
hàng hoá sức lao động không chỉ là tiêu thức kinh tế mà còn mang ý nghĩa chính trị. Đặc
biệt, đối với một đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tiến tới
hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề này lại càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Vậy
nghiên cứu hàng hoá sức lao động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành thị
trường sức lao động của Việt Nam hiện nay:
- Tạo nhiều điều kiện thuận lợi để các ngành, các hình thức kinh tế, các vùng phát triển
- Tạo nhiều việc làm đáp ứng một bước yêu cầu việc làm và đời sống của người lao
động, mở rộng cơ hội việc làm của người lao động.
- Các quan hệ lao động – việc làm thay đổi theo hướng tự do phát huy năng lực
trong tìm kiếm việc làm phù hợp
- Người sử dụng lao động được khuyến khích làm giàu hợp pháp nên đẩy mạnh đầu
tư tạo việc làm, mở ra khả năng to lớn giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho người
lao động bán sức lao động của mình
CHỦ ĐỀ 12: Nêu sự cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Việc nước ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan .
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn mang nặng tính
tư cung tư cấp , vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tư nhiên
chuyển dần sang nền kinh tế hàng hoá , thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.
Khi kinh tế hàng hoá phát triển tới một mức nào đó cao hơn nó sẽ chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Như vậy sự phát triển kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất , do đó tạo điều kiện cho sự ra đời của sản xuất lớn mang tính xã hội hoá cao , đồng
thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi , hình thành đội ngũ cán bộ
quản lý có trình độ cao , lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước .
Mặt khác phát triển nền kinh tế thị trường sẽ giúp chung ta giải phóng sức sản xuất ,
động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực công cuộc công nghiệp hóa hiện
đại hoá đất nước , xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu
quả kinh tế xã hội , cải thiện từng bước đời sống của nhân dân. Việc phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp tích cực cải tiến
trang thiết bị để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài . Qua đó nhằm cải
tiến kỹ thuật và nâng cao chất lượng sản phẩm , và năng suất lao động . Và với một nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chúng ta mới đi đến mục tiêu không
còn áp bức bóc lột , xã hội dân chủ công bằng văn minh , đời sống của nhân dân ngày
càng được cải thiện, nhăm xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển , cùng
sánh vai với các cường quốc năm châu và thực hiện ước muốn của chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn thể nhân dân ta.
CHỦ ĐỀ 13: Từ các quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường, anh (chị) hãy thử nêu
quan hệ lợi ích giữa quản lí và bị quan lý trong các cơ sở kinh tế hiện nay ở Việt Nam?
Các quan hệ lợi ích kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế thị trường:
- Quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động.
- Quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động.
- Quan hệ lợi ích giữa những người lao động
- Quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội.
Lợi ích giữa quản lí và bị quản lí vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau:
+ nếu người quản lí trong các cơ sở kinh tế thực hiện hoạt động quản lí trong điều kiện
cơ sở bình thường thì họ sẽ thu được kết quả và hiệu suất công việc, thực hiện được lợi
ích quản lí của mình; đồng thời họ sẽ tiếp tục quản lí nên người bị quản lí cũng sẽ thực
hiện được lợi ích kinh tế của mình vì có việc làm, có tiền lương. Ngược lại, nếu người bị
quản lí tích cực làm việc, lợi ích kinh tế của họ sẽ được thực hiện thông qua tiền lương
nhận được, đồng thời góp phần vào sự gia tăng lợi nhuận của người sử dụng lao động. Vì
vậy, việc tạo lập sự thống nhất trong quan hệ lợi ích giữa quản lí và bị quản lí là điều
kiện quan trọng để thực hiện lợi ích kinh tế giữa hai bên.
+ mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa người quản lí và người bị quản lí thể hiện, tại một
thời điểm nhất định, thu nhập từ các hoạt động kinh tế là xác định nên lợi nhuận của
người quản lí tăng lên thì tiền lương của người bị quản lí giảm xuống và ngược lại. vì lợi
ích của mình, người quản lí luôn tìm cách cắt giảm tới mức thấp nhất các khoản chi phí
trong đó có tiền lương của người bị quản lí để tăng lợi nhuận. vì lợi ích của mình, người
bị quản lí sẽ đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm … Nếu mâu thuẫn không được giải
quyết hợp lí sẽ ảnh hưởng xấu đến các hoạt động kinh tế.
CHỦ ĐỀ 14: Sự khác nhau giữa phân chia tư bản thành tư bản bất biến, tư bản khả
biến với sự phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động ở những tiêu chí nào?
Việc phân chia tư bản bất biến và tư bản khả biến là dựa vào vai trò của từng bộ phận tư
bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư
còn việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động là dựa vào phương thức chuyển
dịch giá trị của chúng vào sản phẩm trong quá trình sản xuất hay dựa vào tính chất chu chuyển của tư bản.
Việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến phản ánh được nguồn gốc
sinh ra giá trị thặng dư. Trong quá trình sản xuất, tư bản bất biến chỉ là điều kiện để sinh
ra giá trị thặng dư còn tư bản khả biến mới là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư.
Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động tuy không phản ánh nguồn gốc sinh ra
giá trị thặng dư nhưng lại có ý nghĩa quan trong trong việc quản lý kinh tế. Nó là cơ sở
để quản lý, sử dụng vốn cố định và vốn lưu động một cách có hiệu quả cao.
CHỦ ĐỀ 15: Sự cần thiết khách quan phải hội nhập kinh tế quốc tế? Hội nhập quốc tế
là gì? Lợi ích từ Hội nhập kinh tế đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam?
Hội nhập kinh tế là quá trình quốc gia thực hiện gắn kết nền kinh tế của mình với nền
kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
Hội nhập quốc tế được hiểu như là công cuộc các nước tiến hành các hoạt động gia tăng
cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục đích, trị giá, nguồn lực,
quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong
khuôn khổ các định chế hoặc đơn vị quốc tế
Sự cần thiết khách quan phải hội nhập kinh tế quốc tế:
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất
là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
Lợi ích từ Hội nhập kinh tế đến sự phát triển kinh tế của VN:
- Hội nhập quốc tế là cơ hội để VN tiếp cận và sử dụng các nguồn lực bên ngoài
như tài chính, KHCN, kinh nghiệm của các nước để áp dụng với nước mình
- Hội nhập kinh tế là con đường có thể giúp VN có thể tận dụng thời cơ phát triển
rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
- Hội nhập quốc tế còn tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế vĩ mô. Việc mở
cửa thị trường, thu hút vốn không chỉ thúc đẩy CNH mà còn tăng tích luỹ, cải
thiện thâm hụt ngân sách, tạo niềm tin cho các chương trình hỗ trợ quốc tế trong
cải cách kinh tế và mở cửa. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo nhiều cơ hội
việc làm và nâng cao mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.