Tâm học Mácxit từng khẳng định: “Vật chất cái thứ nhất, m cái
thứ hai, tồn tại quyết định tâm lý, ý thức”. Tâm không phải là cái sẵn trong
con người, cũng không phải sản phẩm khép kín trong não bộ hoặc một bộ phận
nào đó trong cơ thể. Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người.
Con người nguồn gốc xuất thân từ động vật, trải qua hàng ngàn năm lịch s
cùng sự biến đổi của các giá trị vật chất, cho đến ngày nay thì động vật vẫn động
vật, còn con người ngày càng đạt được những bước tiến dài trong lịch sử tiến hoá
của mình. Hai yếu tố bản làm nên sự khác biệt giữ con người và động vật đó là
hoạt động và giao tiếp.
Thế giới tâm con người ng phong phú diệu. Tâm bao gồm
tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền điều
hành, điều chỉnh mọi hành vi, hành động, hoạt động của con người. Khoa học
nghiên cứu vềc hiện tượng tâm của con người gọi m học. Sở nói tâm
được hình thành thông qua hoạt động giao tiếp bởi trong khi giao tiếp
hay tham gia các hoạt động hội, con người sẽ những tìm hiểu vnhau nhất
định. Tâm lý rất quan trọng, hiểu được tâm mới có thể có những phối hợp trong
công việc cũng ngiao tiếp. Tâm lý sẽ yếu tố đầu tiên khi quan hệ, mối quan
hệ trở nên thân thiết được không phụ thuộc vào sự hiểu biết của đối phương.
Khi giao tiếp tiếp xúc với nhau trong các hoạt động của đời sống, con người đã
tạo ra những ấn tượng và rút ra những điều riêng thuộc về ai đó, xã hội nào,...để có
hành động cụ thể từ đó hình thành nên tâm lý.
Nhiều nhà tâm học cho rằng giao tiếp nmột dạng đặc biệt của hoạt
động. Xét về mặt cấu trúc, giao tiếp cấu trúc chung của hoạt động. Giao tiếp
cũng diễn ra bằng các hành động với các thao tác cụ thể, sử dụng các phương
tiện khác nhau nhằm đạt được những mục đích xác định, thỏa mãn nhu cầu cụ thể
nghĩa được thúc đẩy bởi động cơ. Hơn nữa giao tiếp các đặc điểm cơ bản
của hoạt động như chủ thể, đối tượng,...Như vậy, giao tiếp cũng một hoạt
động. Nhưng, bên cạnh ý kiến giao tiếp như là một dạng đặc biệt của hoạt động thì
một số nhà tâm học khác lại cho rằng giao tiếp hoạt động là hai phạm trù
đồng đẳng, phản ánh hai loại quan hệ của con người với thế giới. Hoạt động được
hiểu với cách quan hệ với đối tượng vật thể, giao tiếp quan hệ với con
người. Trong cuộc sống, hoạt động giao tiếp quan hệ qua lại với nhau. Như
vậy, thể nói giao tiếp hoạt động là hai mặt không thể thiếu của cuộc sống con
người, vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển tâm con
người. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định: m lý con người có nguồn
gốc từ bên ngoài. Từ thế giới khách quan chuyển vào não con người. Trong thế
giới đó, các quan hệ hội, nền văn hóa hội là cái quyết định tâm con
người”. Với hoạt động giao tiếp, con người với cách là chủ thể tiếp thu các
kinh nghiệm hội lịch sử, biến thành tâm lý. Nói cách khác, tâm sản
phẩm của hoạt động giao tiếp. Mối quan hệ của hoạt động và giao tiếp quy
luật tổng quát hình thành và biểu lộ tâm lý con người.
Con người sống nghĩa con người hoạt động, không hoạt động thì
con người không thể tồn tại được. Trong quá trình hoạt động của con người tạo ra
sản phẩm vật chất tinh thần. Vậy hoạt động một hình thức ch cực của mối
qua lại giữa con người với thế giới xung quanh. Hoạt động stác động qua lại
định hướng giữa con người với thế giới xung quanh hướng biến đổi nó, nhằm
thoả mãn nhu cầu của mình. Hoạt động chính sự tác động mục đích , chủ
định của con người đến thế giới xung quanh nhằm thoả mãn những lợi ích nhất
định của hội. Theo tâm học thì hoạt động phương thức tồn tại của con
người trong thế giới. Hoạt động tạo nên mối quan hệ tác động qua lại giữa con
người với thế giới khách quan và với chính bản thân mình, qua đó tạo ra sản phẩm
cả về phía thế giới (khách thể), cả về phía con người (chthể). Đối tượng của hoạt
động là tất cả các yếu tố tự nhiên, hội mà con người hướng tới nhằm nhận thức,
cải tạo. Những cái con người cần làm ra, cần chiếm lĩnh được gọi động
chính đối tượng của hoạt động. Hoạt động làm biến đổi thế giới và bản thân,
gắn liền với tính đối tượng bị chế ước bởi nội dung của hội, phụ thuộc vào
nhận thức sự phát triển tâm của nhân. Con người sử dụng công cụ lao
động, ngôn ngữ, hình ảnh tâm trong đầu tác động đến khách thể trong quá trình
hoạt động của bản thân. Hoạt động tâm nảy sinh phát triển từ giao tiếp hội.
các quan hệ hội, từ các vật thể do con người sáng tạo ra. Tâm của con người
quá trình chuyển những kinh nghiệm hội -lịch sử thành kinh nghiệm của bản
thân mỗi con người. Đó chính quá tnh chuyển các dạng bên ngoài của hoạt
động đôi tượng thành các dạng bên trong của hoạt động ấy. Về phương diện
nguồn gốc, tâm lý, nhân cách đều sản phẩm của hoạt động. Bằng hoạt động của
bản thân, mỗi nời tạo ra tâm của mình: con người phải học để trở thành con
người. Con người chúng ta là sản phẩm hoạt động của chính bản thân mình.
Hoạt động quyết định cuộc sống của con người, quyết định sự tồn tại phát
triển của con người. Nói cách khách con người muốn sống phải có hoạt động. Hoạt
động giúp cho con người nhận thức được thế giới, giúp con người nhận thức được
bản thân, giúp con người tiếp nhận được kinh nghiệm hội, lịch sử loài người do
thế htrước đã tích luỹ được, hoạt động tạo nên mối quan hệ giữa người này với
người khác. thể nói, hoạt động yếu tố quyết định nên sự hình thành phát
triển của tâm con người thông qua hai quá trình. Đầu tiên quá trình đối tượng
hóa có thể hiểu là chủ thể chuyển năng lượng và phẩm chất của bản thân thành sản
phẩm. Qua đó, tâm lý của con người được bộc lộ một cách khách quan trong quá
trình xuất tâm. Quá trình thứ hai quá trình chủ thể hóa. Quá trình này thông
qua các hoạt động để tiếp thu kiến thức, rút ra những kinh nghiệm nhờ vào quá
trình nhập tâm. Hoạt động chủ đạo không đơn giản chỉ là hoạt động chiếm nhiều
thời gian so với các hoạt động khác, chủ yếu đó hoạt động được chủ thể tập
trung nhiều tâm vào thực hiện, và đến lượt nó, hoạt động chủ đạo có ảnh hưởng
quyết định đến việc tạo nên các nét tâm lý mới, đến sự phát triển tâm lý tuổi này
chuẩn bị cho bước phát triển tiếp theo. Như vậy, hoạt động hiểu hiện nên khả
năng và giá trị của chính bản thân con người. Mọi đánh giá của bản thân con người
đều phải căn cứ từ phẩm chất, hoạt động của họ được bộc lộ ra. Thông qua hoạt
động được bộc lộ qua năng lực, đạo đức,...tâm lý con người đã được hình thành và
phát triển.
Không chỉ hoạt động hình thành và phát triển nên tâm lý con người giao
tiếp cũng góp phần không nhỏ. Nhiều nhà tâm lý học cho rằng giao tiếp một
dạng đặc biệt của hoạt động. Giao tiếp cũng diễn ra bằng các hoạt động và với các
thao tác cụ thể, sử dụng các phương tiện khác nhau. Giao tiếp hình thức đặc
trưng cho mối quan hệ qua lại giữa con người với con người, qua đó nảy sinh s
tiếp xúc tâm được biểu hiện các quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm,
ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau. Giao tiếp là mối quan hệ giữa con người
với con người. Trong quá trình giao tiếp nảy sinh sự tiếp xúc tâm được biểu hiện
quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau.
Trong quá trình giao tiếp, sự hiểu biết lẫn nhau càng trở nên sâu sắc mỗi người
cộng đánh giá lại những tri thức, kinh nghiệm của mình và thể dẫn tới sthay
đổi thái độ với nhau, đối với vấn đề bàn luận, thể dẫn tới sự mến phục hay mâu
thuẫn với nhau.
Theo như tâm học thì giao tiếp hoạt động xác lập, vận hành các mối
quan hệ giữa người với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định. Giao tiếp
điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội. Đầu tiên là giao tiếp với xã hội thì có thể
khẳng định rằng nếu không giao tiếp thì không thể sự tồn tại xã hội, vì xã hội
luôn luôn một cộng đồng người sự rằng buộc liên kết với nhau. Giao tiếp
chế bên trong của sự tồn tại phát triển của hội. đặc trưng cho tâm lý
con người. Tiếp theo là giao tiếp đối cá nhân. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con
người. Thực tế cho thấy, không có giao tiếp với người khác con người cảm thấy
đơn khủng khiếp bệnh hoạn. Nhà hội học người Pháp Becham cho rằng:”
Nguyên nhân của sự tự tử vẫn do đơn, nhiều người bị bệnh tim mạch, bệnh
tâm thần do đơn”. Qua giao tiếp chúng ta thể xác định được các mức độ
nhu cầu, tưởng, tình cảm, vốn sống, kinh nghiệm…của đối tượng giao tiếp, nhờ
đó chủ thể giao tiếp đáp ứng kịp thời, phù hợp với mục đích nhiệm vgiao
tiếp. Giao tiếp nhu cầu sớm nhất của con người từ khi tồn tại đến khi mất đi.
đâu stồn tại của con người thì đó có sgiao tiếp giữa con người với con
người, giao tiếp là cơ chế bên trong của sự tồn tại phát triển con người. Lớn lên
con người phải nghề nghiệp, mà nghề nghiệp do hội sinh ra quy định.
Việc đào tạo, chuẩn bị tri thức cho nghề nghiệp phải tuân theo một quy định cụ thể,
khoa học… không học tập tiếp xúc với mọi người thì skhông nghề nghiệp
theo đúng nghĩa của nó, hơn nữa muốn hành nghề phải nghệ thuật giao tiếp với
mọi người thì mới thành đạt trong cuộc sống. Trong quá trình lao động con người
không thể tránh được các mối quan hệ với nhau. Đó là một phương tiện quan trọng
để giao tiếp một đặc trưng quan trọng của con người tiếng nói ngôn ngữ.
Thông qua giao tiếp con người gia nhập vào các mối quan hệ hội, lĩnh hội nền
văn hóa hội, đạo đức, chuẩn mực hội. Cùng với hoạt động giao tiếp con
người tiếp thu nền văn hóa, hội, lịch sử biến những kinh nghiệm đó thành vốn
sống. Kinh nghiệm của bản thân hình thành phát triển trong đời sống tâm lý.
Đồng thời góp phần vào sự phát triển của xã hội. Thông qua giao tiếp con người
hình thành năng lực tự ý thức. Giao tiếp khiến bản thân tự điều chỉnh, điều khiển
được hành vi theo mục đích tự giác. Không những thế giao tiếp còn giúp bản thân
khả năng tự giáo dục hoàn thiện bản thân. nhân tnhận thức về bản thân
mình từ bên ngoài đến nội tâm, tâm hồn, những diễn biến tâm lý, giá trị tinh thần
của bản thân, vị thế các quan hệ hội. Như vậy, giao tiếp đóng vai trò quan
trọng đối với sự hình thành phát triển của tâm lý con người “Sự phát triển của
một các nhân phụ thuộc vào sự phát triển của các nhân khác mà giao tiếp
trực tiếp và gián tiếp”.
Tóm lại, nhờ sự tác động qua lại giữa người với thế giới xung quanh mà bản
thân tâm lý, con người vươn tới các đối tượng, tiến hành c hoạt động tương
ứng với chúng. Thế giới đối tượng tác động lên con người không phải trực tiếp
theo kiểu kích thích hay phản ứng gián tiếp thông qua các hoạt động như
sáng tạo hay sử dụng,...cùng các quan hệ giao tiếp giữa người với người hay cách
khác liên quan tới hoạt động đó để rồi tạo ra thế giới tâm lý. Hoạt động giao
tiếp là nơi nảy sinh tâm lý, đồng thời cũng nơi tâm lý vận hành, thực hiện vai trò
của mình đối với cuộc sống. Như vậy, hoạt động giao tiếp đóng vai trò quan
trọng, không thể thiếu trong quá trình hình thành phát triển của tâm con
người. Hay có thể nói cách khác, tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp.
Thông qua vai trò của hoạt độnggiao tiếp, ta nhận thấy rằng hoạt động
giao tiếp vai trò quan trọng đối với đời sống con người. Trong môi trường đại
học cần phải có s năng động, ham học hỏi, hình thành những kĩ năng trong quá trì
học tập làm việc nhóm thoạt động giao tiếp góp phần thành công trong
tương lai. Muốn trở thành một người thành công theo đúng chuyên ngành của bản
thân theo học thì cần phải không ngừng cố gắng, nỗ lực, phải định hướng được
mục tiêu nhân để từ đó biến những mục tiêu thành những việc làm cụ thể n
học hành chăm chỉ, chú ý lắng nghe các bài giảng trên giảng đường, đưa ra những
đóng góp trong quá trình làm bài tập hay những cuộc thảo luận nhóm, chủ động
tiếp thu các kiến thức như đọc các tài liệu thao khảo, thường xuyên lên thư viện
đọc tìm hiểu tài liệu, lên mạng thường xuyên đthể nắm bắt được thời sự,
học hỏi kinh nghiệm từ các anh chị khóa trên, sớm xâm nhập thực tế bằng việc
tham gia các hội nghị của trường của khoa, các phiên tòa giả định thực tế. Vai
trò của giao tiếp góp phần không nhỏ hình thành nên kĩ năng làm việc nhóm,
thuyết trình trước đám đông. Hoạt động và giao tiếp có thể xác định được các mức
độ nhu cầu, tưởng tình cảm, vốn sống kinh nghiệm để thể đáp ứng kịp thời,
phù hợp với mục đích nhiệm vụ tiếp theo. Thông qua các hoạt động sinh viên có
thể tiếp thu thêm tri thức, k năng thái độ. Như trong một phiên tòa giả định ta
thể học được những điều luật mới hay các kỹ năng luật cần khi biện hộ
cho khách hàng của mình hoặc thái độ đối với bi can, bị cáo như thế nào khi mình
một thẩm phán hoặc một kiểm soát viên. Thông qua hoạt động trong phiên tòa
giả định giúp ta hiểu hơn về tâm của một người luật khi phải đối mặt với một
vụ án như thế nào. Việc đi làm thêm khi đang còn ngồi trong ghế nhà trường cũng
góp phần vào tâm của sinh viên về kinh tế như tiền lương, hay việc làm đó giúp
ta học hỏi được đối với năng mềm của hội, được giao lưu hòa đồng với
mọi người. Trong một môi trường nào đó đặc biệt môi trường đại học, ta cần
giao tiếp hay mối quan hệ giữa người với người. Như việc ta tham gia các hoạt
động của khoa hay học hỏi kinh nghiệm từ các anh chị đều giúp ta thêm kinh
nghiệm với các bài kiểm tra, hay các kiến thức,...Hoạt động chủ đạo của sinh viên
đặc biệt ngành luật như hoạt động hoạc tập, hoạt động nghiên cứu khoa học hay
hoạt động hội, giao lưu bạn đều hình thành nên nhng phẩm chất, năng
nghề nghiệp cần thiết cho nghề nghiệp sau nay. Như việc hoạt động giao tiếp giúp
ta tích lũy được vốn kiến thức khổng lồ của luật Việt Nam hay xa hơn là luật quốc
tế, hoạt động nghiên cứu khoa học giúp ta đi sâu hơn về một đối tượng của ngành
luật, giải thích chứng minh những luận điểm mình còn gặp khó khăn thắc mắc hay
hoạt động hội giao lưu bạn cũng giúp ta thêm các mối quan hệ giúp một
phần không nhỏ vào việc thành công của nghề mình đang theo đặc biệt nghề luật
cần quan hệ rộng cùng với kiến thức phong phú, đa dạng. Giao tiếp một hoạt
động không thể thiếu của sinh viên, giúp ta trao đổi thông tin, tình cảm, xây
dựng niềm tin nhân, thiết lập phát triển các mối quan hệ cũng như nâng cao
tầm ảnh hưởng của nhân. Thông qua các hoạt động giao tiếp ta thể học được
kỹ năng giao tiếp, trải nghiệm hội, được sự hiểu biết, sự tự tin cùng với sự hỗ
trọ, sự hợp tác từ các mối quan hệ mà bản thân đã thiết lập. Tóm lại, khi đang ngồi
trong ghế nhà trường đặc biệt nơi trao đổi học thuật thì bản thân cần tham gia
nhiều hoạt động cũng như giao tiếp với mọi người để thiết lập các mối quan hệ.
Tham gia nhiều hội nghị của trường khoa tổ chức, tham gia các phiên tòa giả định
các câu lạc bộ tổ chức gia, năng nổ tham gia các hoạt động của hội và đoàn
sinh viên, tham gia các câu lạc bộ để từ đó mở rộng nên mối quan hệ để rồi có học
hỏi kinh nghiệm từ các anh chị khóa trên, khi có khúc mắc hay khó khăn gì thìn
đặt câu hỏi hay những thắc mắc để giảng viên có thể giải thích,...Tất cả những hoạt
động, những giao tiếp tưởng chng đơn giản như thế đều giúp ta thêm tri
thức, hiểu biết, sự tự tin, vốn sống,...giúp ta thành công trong tương lai đặc biệt
nghề luật. Tất cả đều nói lên vai trò của hoạt động và giao tiếp đối với tâm lý trong
đời sống hội, qua các hoạt động giao tiếp hằng ngày thể giúp ta thêm
những bài học kinh nghiệm quý báu đối với qua s trình học tập trong môi trường
đại học.
Quá trình thực hiện các mối quan hệ qua lại giữa con người với thế giới
xung quanh chính hoạt động giao tiếp. Quá trình tác động qua lại giữa con
người với thế giới đvật được gọi là hoạt động đối tượng. Quá trình tác động
qua lại giữa con người với con người được gọi giao tiếp. Trong hoạt động, con
người không đơn độc sự hợp tác cùng tạo ra các sản phẩm trao đổi các
sản phẩm để thomãn các nhu cầu khác nhau của mình. Như vậy hoạt động của
con người không thể tách rời giao tiếp. Hoạt động giao tiếp luôn gắn với
nhau. Tương tự như vậy không thể xem xét tâm lý, ý thức con người ngoài hoạt
động, ngoài giao tiếp. Đồng thời khi xem xét hoạt động, giao tiếp cũng thế. Hoạt
động giao tiếp vai trò quan trọng đối với tâm con người. Hoạt động và
giao tiếp đã hình thành nên tâm cho những luật gia tương lai thông qua các hoạt
động cụ thể giao tiếp thường nhật để thêm kiến thức, kỹ năng cho việc trở
thành một luật sư, một thẩm phán hay một kiểm soát viên tương lai. Từ đó thông
qua hoạt động giao tiếp ta tiếp thu thêm nhiều bài học kinh nghiệm quy báu để từ
đó bản thân càng ngày càng trở nên hoàn thiện, có mục tiêu lý tưởng riêng của bản
thân thành công trong sự nghiệp tương lai bản thân đang luôn hướng tới
cũng như kì vọng vào nó. Nói chung, hoạt động và giao tiếp là một phần không thể
thiếu trong đời sống con người, bởi lẽ có hoạt động, có giao tiếp thì con người mới
có sự tồn tại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tâm học đại cương, ThS. Đặng Thanh Nga, Nxb.Công an
nhân dân;
2. Giáo trình Tâm học đại cương, TS. Nguyễn Quang Uẩn, Nxb Đại học
Sư phạm Hà Nội.

Preview text:

Tâm lý học Mácxit từng khẳng định: “Vật chất là cái thứ nhất, tâm lý là cái
thứ hai, tồn tại quyết định tâm lý, ý thức”. Tâm lý không phải là cái có sẵn trong
con người, cũng không phải sản phẩm khép kín ở trong não bộ hoặc một bộ phận
nào đó trong cơ thể. Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người.
Con người có nguồn gốc xuất thân từ động vật, trải qua hàng ngàn năm lịch sử
cùng sự biến đổi của các giá trị vật chất, cho đến ngày nay thì động vật vẫn là động
vật, còn con người ngày càng đạt được những bước tiến dài trong lịch sử tiến hoá
của mình. Hai yếu tố cơ bản làm nên sự khác biệt giữ con người và động vật đó là
hoạt động và giao tiếp.
Thế giới tâm lý con người vô cùng phong phú và kì diệu. Tâm lý bao gồm
tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều
hành, điều chỉnh mọi hành vi, hành động, hoạt động của con người. Khoa học
nghiên cứu về các hiện tượng tâm lý của con người gọi là tâm lý học. Sở dĩ nói tâm
lý được hình thành thông qua hoạt động và giao tiếp là bởi vì trong khi giao tiếp
hay tham gia các hoạt động xã hội, con người sẽ có những tìm hiểu về nhau nhất
định. Tâm lý rất quan trọng, hiểu được tâm lý mới có thể có những phối hợp trong
công việc cũng như giao tiếp. Tâm lý sẽ là yếu tố đầu tiên khi quan hệ, mối quan
hệ có trở nên thân thiết được không phụ thuộc vào sự hiểu biết của đối phương.
Khi giao tiếp và tiếp xúc với nhau trong các hoạt động của đời sống, con người đã
tạo ra những ấn tượng và rút ra những điều riêng thuộc về ai đó, xã hội nào,...để có
hành động cụ thể từ đó hình thành nên tâm lý.
Nhiều nhà tâm lý học cho rằng giao tiếp như là một dạng đặc biệt của hoạt
động. Xét về mặt cấu trúc, giao tiếp có cấu trúc chung của hoạt động. Giao tiếp
cũng diễn ra bằng các hành động và với các thao tác cụ thể, sử dụng các phương
tiện khác nhau nhằm đạt được những mục đích xác định, thỏa mãn nhu cầu cụ thể
có nghĩa là được thúc đẩy bởi động cơ. Hơn nữa giao tiếp có các đặc điểm cơ bản
của hoạt động như có chủ thể, có đối tượng,...Như vậy, giao tiếp cũng là một hoạt
động. Nhưng, bên cạnh ý kiến giao tiếp như là một dạng đặc biệt của hoạt động thì
có một số nhà tâm lý học khác lại cho rằng giao tiếp và hoạt động là hai phạm trù
đồng đẳng, phản ánh hai loại quan hệ của con người với thế giới. Hoạt động được
hiểu với tư cách là quan hệ với đối tượng là vật thể, giao tiếp là quan hệ với con
người. Trong cuộc sống, hoạt động và giao tiếp có quan hệ qua lại với nhau. Như
vậy, có thể nói giao tiếp và hoạt động là hai mặt không thể thiếu của cuộc sống con
người, có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển tâm lý con
người. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định: “ Tâm lý con người có nguồn
gốc từ bên ngoài. Từ thế giới khách quan chuyển vào não con người. Trong thế
giới đó, các quan hệ xã hội, nền văn hóa xã hội là cái quyết định tâm lý con
người”. Với hoạt động và giao tiếp, con người với tư cách là chủ thể tiếp thu các
kinh nghiệm xã hội lịch sử, biến nó thành tâm lý. Nói cách khác, tâm lý là sản
phẩm của hoạt động và giao tiếp. Mối quan hệ của hoạt động và giao tiếp là quy
luật tổng quát hình thành và biểu lộ tâm lý con người.
Con người sống có nghĩa là con người hoạt động, không có hoạt động thì
con người không thể tồn tại được. Trong quá trình hoạt động của con người tạo ra
sản phẩm vật chất và tinh thần. Vậy hoạt động là một hình thức tích cực của mối
qua lại giữa con người với thế giới xung quanh. Hoạt động là sự tác động qua lại
có định hướng giữa con người với thế giới xung quanh hướng biến đổi nó, nhằm
thoả mãn nhu cầu của mình. Hoạt động chính là sự tác động có mục đích , có chủ
định của con người đến thế giới xung quanh nhằm thoả mãn những lợi ích nhất
định của xã hội. Theo tâm lý học thì hoạt động là phương thức tồn tại của con
người trong thế giới. Hoạt động tạo nên mối quan hệ tác động qua lại giữa con
người với thế giới khách quan và với chính bản thân mình, qua đó tạo ra sản phẩm
cả về phía thế giới (khách thể), cả về phía con người (chủ thể). Đối tượng của hoạt
động là tất cả các yếu tố tự nhiên, xã hội mà con người hướng tới nhằm nhận thức,
cải tạo. Những cái mà con người cần làm ra, cần chiếm lĩnh được gọi là động cơ
chính là đối tượng của hoạt động. Hoạt động nó làm biến đổi thế giới và bản thân,
gắn liền với tính đối tượng và bị chế ước bởi nội dung của xã hội, phụ thuộc vào
nhận thức và sự phát triển tâm lý của cá nhân. Con người sử dụng công cụ lao
động, ngôn ngữ, hình ảnh tâm lý trong đầu tác động đến khách thể trong quá trình
hoạt động của bản thân. Hoạt động tâm lý nảy sinh và phát triển từ giao tiếp xã hội.
các quan hệ xã hội, từ các vật thể do con người sáng tạo ra. Tâm lý của con người
là quá trình chuyển những kinh nghiệm xã hội -lịch sử thành kinh nghiệm của bản
thân mỗi con người. Đó chính là quá trình chuyển các dạng bên ngoài của hoạt
động có đôi tượng thành các dạng bên trong của hoạt động ấy. Về phương diện
nguồn gốc, tâm lý, nhân cách đều là sản phẩm của hoạt động. Bằng hoạt động của
bản thân, mỗi người tạo ra tâm lý của mình: con người phải học để trở thành con
người. Con người chúng ta là sản phẩm hoạt động của chính bản thân mình.
Hoạt động quyết định cuộc sống của con người, quyết định sự tồn tại và phát
triển của con người. Nói cách khách con người muốn sống phải có hoạt động. Hoạt
động giúp cho con người nhận thức được thế giới, giúp con người nhận thức được
bản thân, giúp con người tiếp nhận được kinh nghiệm xã hội, lịch sử loài người do
thế hệ trước đã tích luỹ được, hoạt động tạo nên mối quan hệ giữa người này với
người khác. Có thể nói, hoạt động là yếu tố quyết định nên sự hình thành và phát
triển của tâm lý con người thông qua hai quá trình. Đầu tiên là quá trình đối tượng
hóa có thể hiểu là chủ thể chuyển năng lượng và phẩm chất của bản thân thành sản
phẩm. Qua đó, tâm lý của con người được bộc lộ một cách khách quan trong quá
trình xuất tâm. Quá trình thứ hai là quá trình chủ thể hóa. Quá trình này là thông
qua các hoạt động để tiếp thu kiến thức, rút ra những kinh nghiệm nhờ vào quá
trình nhập tâm. Hoạt động chủ đạo không đơn giản chỉ là hoạt động chiếm nhiều
thời gian so với các hoạt động khác, mà chủ yếu đó là hoạt động được chủ thể tập
trung nhiều tâm tư vào thực hiện, và đến lượt nó, hoạt động chủ đạo có ảnh hưởng
quyết định đến việc tạo nên các nét tâm lý mới, đến sự phát triển tâm lý ở tuổi này
và chuẩn bị cho bước phát triển tiếp theo. Như vậy, hoạt động hiểu hiện nên khả
năng và giá trị của chính bản thân con người. Mọi đánh giá của bản thân con người
đều phải căn cứ từ phẩm chất, hoạt động của họ được bộc lộ ra. Thông qua hoạt
động được bộc lộ qua năng lực, đạo đức,...tâm lý con người đã được hình thành và phát triển.
Không chỉ hoạt động hình thành và phát triển nên tâm lý con người mà giao
tiếp cũng góp phần không nhỏ. Nhiều nhà tâm lý học cho rằng giao tiếp là một
dạng đặc biệt của hoạt động. Giao tiếp cũng diễn ra bằng các hoạt động và với các
thao tác cụ thể, sử dụng các phương tiện khác nhau. Giao tiếp là hình thức đặc
trưng cho mối quan hệ qua lại giữa con người với con người, qua đó nảy sinh sự
tiếp xúc tâm lý và được biểu hiện ở các quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm,
ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau. Giao tiếp là mối quan hệ giữa con người
với con người. Trong quá trình giao tiếp nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý được biểu hiện
ở quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau.
Trong quá trình giao tiếp, sự hiểu biết lẫn nhau càng trở nên sâu sắc và mỗi người
cộng đánh giá lại những tri thức, kinh nghiệm của mình và có thể dẫn tới sự thay
đổi thái độ với nhau, đối với vấn đề bàn luận, có thể dẫn tới sự mến phục hay mâu thuẫn với nhau.
Theo như tâm lý học thì giao tiếp là hoạt động xác lập, vận hành các mối
quan hệ giữa người với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định. Giao tiếp
là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội. Đầu tiên là giao tiếp với xã hội thì có thể
khẳng định rằng nếu không có giao tiếp thì không thể có sự tồn tại xã hội, vì xã hội
luôn luôn là một cộng đồng người có sự rằng buộc liên kết với nhau. Giao tiếp là
cơ chế bên trong của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nó đặc trưng cho tâm lý
con người. Tiếp theo là giao tiếp đối cá nhân. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con
người. Thực tế cho thấy, không có giao tiếp với người khác con người cảm thấy cô
đơn khủng khiếp và bệnh hoạn. Nhà xã hội học người Pháp Becham cho rằng:”
Nguyên nhân của sự tự tử vẫn là do cô đơn, nhiều người bị bệnh tim mạch, bệnh
tâm thần là do cô đơn”. Qua giao tiếp chúng ta có thể xác định được các mức độ
nhu cầu, tư tưởng, tình cảm, vốn sống, kinh nghiệm…của đối tượng giao tiếp, nhờ
đó mà chủ thể giao tiếp đáp ứng kịp thời, phù hợp với mục đích và nhiệm vụ giao
tiếp. Giao tiếp là nhu cầu sớm nhất của con người từ khi tồn tại đến khi mất đi. Ở
đâu có sự tồn tại của con người thì ở đó có sự giao tiếp giữa con người với con
người, giao tiếp là cơ chế bên trong của sự tồn tại và phát triển con người. Lớn lên
con người phải có nghề nghiệp, mà nghề nghiệp do xã hội sinh ra và quy định.
Việc đào tạo, chuẩn bị tri thức cho nghề nghiệp phải tuân theo một quy định cụ thể,
khoa học… không học tập tiếp xúc với mọi người thì sẽ không có nghề nghiệp
theo đúng nghĩa của nó, hơn nữa muốn hành nghề phải có nghệ thuật giao tiếp với
mọi người thì mới thành đạt trong cuộc sống. Trong quá trình lao động con người
không thể tránh được các mối quan hệ với nhau. Đó là một phương tiện quan trọng
để giao tiếp và một đặc trưng quan trọng của con người là tiếng nói và ngôn ngữ.
Thông qua giao tiếp con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền
văn hóa xã hội, đạo đức, chuẩn mực xã hội. Cùng với hoạt động giao tiếp con
người tiếp thu nền văn hóa, xã hội, lịch sử biến những kinh nghiệm đó thành vốn
sống. Kinh nghiệm của bản thân hình thành và phát triển trong đời sống tâm lý.
Đồng thời góp phần vào sự phát triển của xã hội. Thông qua giao tiếp con người
hình thành năng lực tự ý thức. Giao tiếp khiến bản thân tự điều chỉnh, điều khiển
được hành vi theo mục đích tự giác. Không những thế giao tiếp còn giúp bản thân
có khả năng tự giáo dục và hoàn thiện bản thân. Cá nhân tự nhận thức về bản thân
mình từ bên ngoài đến nội tâm, tâm hồn, những diễn biến tâm lý, giá trị tinh thần
của bản thân, vị thế và các quan hệ xã hội. Như vậy, giao tiếp đóng vai trò quan
trọng đối với sự hình thành và phát triển của tâm lý con người “Sự phát triển của
một các nhân phụ thuộc vào sự phát triển của các cá nhân khác mà nó giao tiếp
trực tiếp và gián tiếp”.
Tóm lại, nhờ sự tác động qua lại giữa người với thế giới xung quanh mà bản
thân có tâm lý, con người vươn tới các đối tượng, tiến hành các hoạt động tương
ứng với chúng. Thế giới đối tượng tác động lên con người không phải trực tiếp
theo kiểu kích thích hay phản ứng mà nó gián tiếp thông qua các hoạt động như
sáng tạo hay sử dụng,...cùng các quan hệ giao tiếp giữa người với người hay cách
khác có liên quan tới hoạt động đó để rồi tạo ra thế giới tâm lý. Hoạt động và giao
tiếp là nơi nảy sinh tâm lý, đồng thời cũng là nơi tâm lý vận hành, thực hiện vai trò
của mình đối với cuộc sống. Như vậy, hoạt động và giao tiếp đóng vai trò quan
trọng, không thể thiếu trong quá trình hình thành và phát triển của tâm lý con
người. Hay có thể nói cách khác, tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp.
Thông qua vai trò của hoạt động và giao tiếp, ta nhận thấy rằng hoạt động và
giao tiếp có vai trò quan trọng đối với đời sống con người. Trong môi trường đại
học cần phải có sự năng động, ham học hỏi, hình thành những kĩ năng trong quá trì
học tập và làm việc nhóm thì hoạt động và giao tiếp góp phần thành công trong
tương lai. Muốn trở thành một người thành công theo đúng chuyên ngành của bản
thân theo học thì cần phải không ngừng cố gắng, nỗ lực, phải định hướng được
mục tiêu cá nhân để từ đó biến những mục tiêu thành những việc làm cụ thể như
học hành chăm chỉ, chú ý lắng nghe các bài giảng trên giảng đường, đưa ra những
đóng góp trong quá trình làm bài tập hay những cuộc thảo luận nhóm, chủ động
tiếp thu các kiến thức như đọc các tài liệu thao khảo, thường xuyên lên thư viện
đọc và tìm hiểu tài liệu, lên mạng thường xuyên để có thể nắm bắt được thời sự,
học hỏi kinh nghiệm từ các anh chị khóa trên, sớm xâm nhập thực tế bằng việc
tham gia các hội nghị của trường của khoa, các phiên tòa giả định và thực tế. Vai
trò của giao tiếp góp phần không nhỏ hình thành nên kĩ năng làm việc nhóm,
thuyết trình trước đám đông. Hoạt động và giao tiếp có thể xác định được các mức
độ nhu cầu, tư tưởng tình cảm, vốn sống kinh nghiệm để có thể đáp ứng kịp thời,
phù hợp với mục đích và nhiệm vụ tiếp theo. Thông qua các hoạt động sinh viên có
thể tiếp thu thêm tri thức, kỹ năng và thái độ. Như trong một phiên tòa giả định ta
có thể học được những điều luật mới hay các kỹ năng mà luật sư cần khi biện hộ
cho khách hàng của mình hoặc thái độ đối với bi can, bị cáo như thế nào khi mình
là một thẩm phán hoặc là một kiểm soát viên. Thông qua hoạt động trong phiên tòa
giả định giúp ta hiểu hơn về tâm lý của một người luật sư khi phải đối mặt với một
vụ án như thế nào. Việc đi làm thêm khi đang còn ngồi trong ghế nhà trường cũng
góp phần vào tâm lý của sinh viên về kinh tế như tiền lương, hay việc làm đó giúp
ta học hỏi được gì đối với kĩ năng mềm của xã hội, được giao lưu hòa đồng với
mọi người. Trong một môi trường nào đó đặc biệt là môi trường đại học, ta cần
giao tiếp hay có mối quan hệ giữa người với người. Như việc ta tham gia các hoạt
động của khoa hay học hỏi kinh nghiệm từ các anh chị đều giúp ta có thêm kinh
nghiệm với các bài kiểm tra, hay các kiến thức,...Hoạt động chủ đạo của sinh viên
đặc biệt là ngành luật như hoạt động hoạc tập, hoạt động nghiên cứu khoa học hay
hoạt động xã hội, giao lưu bạn bè đều hình thành nên những phẩm chất, kĩ năng
nghề nghiệp cần thiết cho nghề nghiệp sau nay. Như việc hoạt động giao tiếp giúp
ta tích lũy được vốn kiến thức khổng lồ của luật Việt Nam hay xa hơn là luật quốc
tế, hoạt động nghiên cứu khoa học giúp ta đi sâu hơn về một đối tượng của ngành
luật, giải thích chứng minh những luận điểm mình còn gặp khó khăn thắc mắc hay
hoạt động xã hội giao lưu bạn bè cũng giúp ta có thêm các mối quan hệ giúp một
phần không nhỏ vào việc thành công của nghề mình đang theo đặc biệt là nghề luật
cần có quan hệ rộng cùng với kiến thức phong phú, đa dạng. Giao tiếp là một hoạt
động không thể thiếu của sinh viên, nó giúp ta trao đổi thông tin, tình cảm, xây
dựng niềm tin cá nhân, thiết lập và phát triển các mối quan hệ cũng như nâng cao
tầm ảnh hưởng của cá nhân. Thông qua các hoạt động giao tiếp ta có thể học được
kỹ năng giao tiếp, trải nghiệm xã hội, có được sự hiểu biết, sự tự tin cùng với sự hỗ
trọ, sự hợp tác từ các mối quan hệ mà bản thân đã thiết lập. Tóm lại, khi đang ngồi
trong ghế nhà trường đặc biệt là nơi trao đổi học thuật thì bản thân cần tham gia
nhiều hoạt động cũng như giao tiếp với mọi người để thiết lập các mối quan hệ.
Tham gia nhiều hội nghị của trường khoa tổ chức, tham gia các phiên tòa giả định
mà các câu lạc bộ tổ chức gia, năng nổ tham gia các hoạt động của hội và đoàn
sinh viên, tham gia các câu lạc bộ để từ đó mở rộng nên mối quan hệ để rồi có học
hỏi kinh nghiệm từ các anh chị khóa trên, khi có khúc mắc hay khó khăn gì thì nên
đặt câu hỏi hay những thắc mắc để giảng viên có thể giải thích,...Tất cả những hoạt
động, những giao tiếp tưởng chừng là đơn giản như thế đều giúp ta có thêm tri
thức, hiểu biết, sự tự tin, vốn sống,...giúp ta thành công trong tương lai đặc biệt là
nghề luật. Tất cả đều nói lên vai trò của hoạt động và giao tiếp đối với tâm lý trong
đời sống xã hội, qua các hoạt động và giao tiếp hằng ngày có thể giúp ta có thêm
những bài học kinh nghiệm quý báu đối với qua s trình học tập trong môi trường đại học.
Quá trình thực hiện các mối quan hệ qua lại giữa con người với thế giới
xung quanh chính là hoạt động và giao tiếp. Quá trình tác động qua lại giữa con
người với thế giới đồ vật được gọi là hoạt động có đối tượng. Quá trình tác động
qua lại giữa con người với con người được gọi là giao tiếp. Trong hoạt động, con
người không đơn độc mà có sự hợp tác cùng tạo ra các sản phẩm và trao đổi các
sản phẩm để thoả mãn các nhu cầu khác nhau của mình. Như vậy hoạt động của
con người không thể tách rời giao tiếp. Hoạt động và giao tiếp luôn gắn bó với
nhau. Tương tự như vậy không thể xem xét tâm lý, ý thức con người ngoài hoạt
động, ngoài giao tiếp. Đồng thời khi xem xét hoạt động, giao tiếp cũng thế. Hoạt
động và giao tiếp có vai trò quan trọng đối với tâm lý con người. Hoạt động và
giao tiếp đã hình thành nên tâm lý cho những luật gia tương lai thông qua các hoạt
động cụ thể và giao tiếp thường nhật để có thêm kiến thức, kỹ năng cho việc trở
thành một luật sư, một thẩm phán hay một kiểm soát viên tương lai. Từ đó thông
qua hoạt động giao tiếp ta tiếp thu thêm nhiều bài học kinh nghiệm quy báu để từ
đó bản thân càng ngày càng trở nên hoàn thiện, có mục tiêu lý tưởng riêng của bản
thân và thành công trong sự nghiệp tương lai mà bản thân đang luôn hướng tới
cũng như kì vọng vào nó. Nói chung, hoạt động và giao tiếp là một phần không thể
thiếu trong đời sống con người, bởi lẽ có hoạt động, có giao tiếp thì con người mới có sự tồn tại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tâm học đại cương, ThS. Đặng Thanh Nga, Nxb.Công an nhân dân;
2. Giáo trình Tâm học đại cương, TS. Nguyễn Quang Uẩn, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.