

















Preview text:
ÔN TẬP TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
1. Nhập môn tâm lý học
Hiện tương tâm lý là gì
Hiện tượng tâm lý được hiểu chính là ѕự phản ánh thế giới khách quan bên ngoài ᴠào
não của chúng ta, ѕau đó não ѕẽ chuуển những thứ mà bạn nhận được từ bên ngoài
thành những biểu tượng tâm lý khác nhau, nó không dừng lại ở đó mà ѕẽ hiện tượng
tâm lý nàу ѕẽ nhờ ᴠào các giác quan của con người để làm cho quá trình nàу ѕống
động hơn, ᴠà giúp cho con người có những nhận thức ᴠề thế giới quan thêm ѕinh động ᴠà đột phá.
Nhờ ᴠào những quу luật đó mà hiện tượng tâm lý được phân chia thành những loại ѕau:
- Hiện tượng tâm lý ý thức ᴠà hiện tượng tâm lý ᴠô thức
- Hiện tượng tâm lý dựa ᴠào thời gian tồn tại tâm lý: Có 3 loại là quá trình tâm lý,
trạng thái tâm lý, thuộc tính tâm lý.
Bản chất xã hội-lịch sử
Bản chất xã hội và tính lịch sử của tâm lí người thể hiện như sau:
• Tâm lí người có nguồn gốc là thế giới khách quan (thế giới tự nhiên và xã
hội), trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định (quyết định luận xã hội).
Ngay cả phần tự nhiên trong thế giới cũng được xã hội hóa. Phần xã hội hóa
thế giới quyết định tâm lí người thể hiện qua: các quan hệ kinh tế - xã hội,
các mối quan hệ đạo đức pháp quyền, các mối quan hệ con người — con
người từ quan hệ gia đình, làng xóm, quê hương, khối phố cho đến các quan
hệ nhóm, các quan hệ cộng đồng... Các mối quan hệ trên quyết định bản
chất tâm lí người (bản chất COI1 người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã
hội). Trên thực tế, con người thoát li khỏi các quan hệ xã hội, quan hệ người
- người, đều làm cho tâm lí mất bản tính người (ví dụ trường hợp trẻ COI1
do động vật nuôi từ bé, tâm lí của những trẻ này không hơn hẳn tâm lí loài vật).
• Tâm lí người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người trong
mối quan hệ xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên và điều chủ yếu là
một thực thể xã hội. Phần tự nhiên của con người (như đặc điểm cơ thể, giác
quan, thần kinh, bộ não) dược xã hội hóa ở mức cao nhất. Là một thực thể
xã hội, con người là chủ thể của nhận thức, chủ thể của hoạt động, giao tiếp
với tư cách một chủ thể tích cực, chủ động sáng tạo, tâm lí của con người là
sản phẩm của con người với tư cách là chủ thể xã hội. Vì thế, tâm lí người
mang đầy đủ dấu ấn xã hội - lịch sử của con người.
• Tâm lí của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội tiếp thu vốn kinh
nghiệm xã hội, nền văn hóa xã hội, thông qua hoạt động, giao tiếp (hoạt
động vui chơi, học tập, lao động, công tác xã hội), trong dó giáo dục giữ vai
trò chủ đạo, hoạt động của con người và mối quan hệ giao tiếp của con
người trong xã hội có tính quyết định.
• Tâm lí của mỗi con người hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự
phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng. Tâm lí của mỗi
con người chịu sự chế ước bởi lịch sử của cá nhân và cộng đồng. Tính chủ thể
• Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý thể hiên ở:
• Cùng nhận sự tác động của thế giới về cùng một hiện thực khách quan nhưng ở
những chủ thể khác nhau xuất hiện những hình ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái khác nhau.
Phân loại hiện tượng tâm lí
Căn cứ vào thời gian tồn tại của hiện tượng tâm lí và vị trí tương đối của chúng trong
nhân cách, có thể phân chia các hiện tượng tâm lí thành ba loại chính:
• Các quá trình tâm lí.
• Các trạng thái tâm lí.
• Các thuộc tính tâm lí.
Các quá trình tâm lí là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời gian tương đối ngắn,
có mở đầu, diển biến, kết thúc tương đối rõ ràng. Người ta thường phân biệt thành ba quá trình tâm lí:
• Các quá trình nhận thức, gồm cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy.
• Các quá trình cám xúc biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu hay khó chịu, nhiệt tình hay thờ ơ...
• Quá trình hành động ý chí.
Các trạng thái tâm lí là những hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời gian tương đối dài,
việc mở đầu và kết thúc không rõ ràng, như: chú ý, tâm trạng.
Các thuộc tính tâm lí là những hiện tượng tâm lí tương dối ổn định, khó hình thành và
khó mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Người ta thường nói tới bốn
nhóm thuộc tính tâm lí cá nhân như: xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực.
2. Hoạt động và giao tiếp
Định nghĩa hoạt động
Tâm lí học: hoạt động là phương thức tồn tại của con người bằng cách tác động vào
đối tượng, tạo ra sản phẩm nhằm thoả mãn những nhu cầu (trực tiếp/gián tiếp) của bản thân và xã hội.
Xuất tâm hoặc nhập tâm
Định nghĩa giao tiếp
Sự tiếp xúc tâm lý giữa người – người để trao đổi thông tin, cảm xúc, tri giác lẫn nhau,
ảnh hưởng tác động qua lại với nhau.
Chức năng của giao tiếp
a. Chức năng thông tin: Đây là chức năng giao có vai trò quan trọng sau chứ năng thỏa
mãn nhu cầu về giao tiếp. Qua giao tiếp, con nguời có thể trao đổi, truyền đạt kiến
thức, kinh nghiệm với nhau. Thu nhận và xử lý thông tin là một bước quan trọng của
con người chúng ta để phát triển nhân cách.
b. Chức năng tổ chức, điều khiển, phối hợp hành động
Đây là chức năng dựa trên cơ sở xã hội. Nhờ chúc năng này, con người có thể phối
hợp cùng nhau để giải quyết trong công việc chung.
c. Chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi Chức năng này thể hiện sự tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau trong giao tiếp. Trên cơ sở nhận thức lẫn nhau, đánh giá lẫn nhau và tự
đánh giá bản thân, trong giao tiếp, mỗi chủ thể có khả năng tự điều chỉnh hành vi của
mình cũng như có thể tác động đến động cơ, mục đích, quá trình ra quyết định và hành
động của chủ thể khác.
d. Chức năng cảm xúc Chức năng này giúp con người thỏa mãn các nhận thức, nhu
cầu về cảm xúc. Ngoài ra, qua giao tiếp cá nhân cũng có thể nhận biết về xúc cảm, tình
cảm nhất định của cá nhân khác. Vì vậy giao tiếp là một trong những con đường hình
thành tình cảm của con người.
c. Chức năng nhận thức lẫn nhau và đánh giá lẫn nhau Trong giao tiếp, mỗi chủ thể tự
bộc lộ quan điểm, tư tưởng thái độ, thói quen, ...của mình, do đó các chủ thể có thể
nhận thức được về nhau làm cơ sở đánh giá lẫn nhau. Điều này quan trọng hơn là trên
cơ sở so sánh với người khác và ý kiến đánh giá của người khác, mỗi chủ thể có thể tự
đánh giá được về bản thân mình, từ đó mà có sự định hướng phù hợp hơn trong giao tiếp.
f. Chức năng giáo dục và phát triển nhân cách Thông qua giao tiếp, con người tham
gia vào các mối quan hệ xã hội mà từ đó hình thành, phát triển nhân cách của mình do
đó giao tiếp là điều kiện để tâm lí, nhân các cá nhân phát triển bình thường. Giao tiếp
ảnh hưởng tới sự phát triển của cá nhân cũng như ảnh hưởng đến đồi song xã hội của
con người và là điều kiện của sự tồn tại và phát triển xã hội.
3. Sự hình thành phát triển tâm lí, ý thức
Định nghĩa ý thức
Ý thức theo tâm lý học được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở
con người. Ý thức là sự phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp thu trong
quá trình quan hệ qua lại với thế giới khách quan.
“Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là một phạm trù song song với phạm
trù vật chất. Theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con
người và có sự cái biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất”.
Ý thức và tâm lý đều là sự phản ánh hiện thực khách quan của não, có bản chất và
mang tính chủ thể. Tuy nhiên, ý thức cũng là tâm lý nhưng ở cấp độ cao hơn. Ý thức
giúp con người có khả năng tự phản ánh lại (phản ánh của phản ánh) và chỉ có khi con
người ở trong trạng thái khỏe mạnh và tỉnh táo. Cấu trúc ý thức
Ý thức có cấu trúc phức tạp bao gồm nhiều mặt là một chỉnh thể mang lại cho thế giới
tâm hồn của con người một chất lượng mới. Ý thức có 3 mặt thống nhất hữu cơ với
nhau, điều khiển hành động có ý thức của con người. Mặt nhận thức
Đây là sự nhận thức của ý thức, hiểu biết của hiểu biết. Bao gồm 2 quá trình:
• Nhận thức cảm tính: Mang lại những tư liệu cho ý thức, cảm giác cho ta hình
ành từng thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng; tri giác mang lại cho ta
những hình ảnh trọn vẹn bên ngoài của sự vật, hiện tượng. Những hình ảnh đó
giúp chúng ta thấy được sự tồn tại thật của thế giới khách quan và đó là nội
dung ban đầu và cũng là bậc sơ cấp của ý thức.
• Nhận thức lý tính: mang lại cho ta hình ảnh khái quát bản chất của thực tại
khách quan và mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng. Đây là nội dung hết
sức cơ bản của tri thức. Tri thức là hạt cơ bản của ý thức. Do vậy ý thức là sự
hiểu biết về thế giới khách quan. Mặt thái độ
Nói lên thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá của chủ thế đối với thế giới.
Ví dụ: Thái độ lựa chọn: Khi đi mua đồ, có 2 bộ đồ mà chúng ta đều thích nhưng vì túi
tiền có hạn chỉ có thể mua một bộ, lúc này trong tư duy của con người sẽ xuất hiện thái
độ so sánh đối chiếu để chọn bộ đồ phù hợp và tốt nhất. Mặt năng động
Ý thức điều chỉnh, điều khiển hoạt động của con người làm cho hoạt động có ý thức.
Đó là quá trình con người vận dụng những hiểu biết và tỏ thái độ của mình nhằm thích
nghi, cải tạo thế giới và cải biến bản thân.
Một con người có ý thức hay không sẽ được đánh giá qua mặt này của ý thức.
Ví dụ: Nhà của A và B ở cạnh nhau mặc dù là một người có học thức cao và hiểu biết
vấn đề rộng nhưng vì muốn cho nhà mình sạch mà A cứ vứt rác qua nhà B. Phân tích
ví dụ trên ta có thể thấy A là một người chưa có ý thức hay thiếu ý thức. Rõ ràng A là
người có nhận thức và hiểu biết về hành động của bản thân là sai nhưng A vẫn làm, vì
trong cấu trúc ý thức của A chỉ hình thành 2 mặt đó chính là mặt nhận thức và mặt thái
độ mà chưa có mặt năng động để điều chỉnh hành vi của mình. Vô thức
Ý thức và tự ý thức
Ý thức nhóm, tập thể
4. Hoạt động nhận thức
Phân biệt cảm giác và tri giác
Tri giác là quá trình tâm lý chỉ phản ánh các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện
tượng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người.
• Khác với cảm giác thì tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trọn vẹn nhất.
Tính trọn vẹn này có được là do đặc điểm khách quan của bản thân sự vật, hiện tượng quy định.
• Tri giác chính là quá trình tích cực gắn liền với các hoạt động của con người, nó
mang tính tự giác trong việc giải quyết các nhiệm vụ cụ thể nào đó, là hành động tích
cực có sự kết hợp các yếu tố cảm giác vận động. Quy luật cảm giác
• Cảm giác là một quá trình tâm lý và quá trình tâm lý này chính là những hoạt động
diễn ra trong một thời gian tương đối ngắn, nhưng lại có mở đầu, các diễn biến, kết
thúc tương đối rõ ràng.
• Cảm giác chỉ thực hiện phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng chứ
không phản ánh được một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Con
người chúng ta chỉ có thể phản ánh được một hoặc một vài thuộc tính nhất định, những
thuộc tính căn bản nhất.
• Cảm giác là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp, tức là sự vật, hiện
tượng phải đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta, thì mới có thể tạo ra được cảm giác.
• Cảm giác ở con người là mức độ định hướng đầu tiên đơn sơ nhất và nó khác xa so
với cảm giác của các loài vật. Cảm giác ở con người chịu sự phân phối, ảnh hưởng của
các hiện tượng tâm lý cao cấp, nó bị ảnh hưởng bởi các hoạt động giáo dục và đặc thù của xã hội.
Cảm giác chịu sự phân phối của các hiện tượng tâm lý cao cấp
• Cảm giác được chia làm 6 loại: Cảm giác nghe (thính giác); Cảm giác nhìn (thị giác);
Cảm giác sờ (xúc giác); Cảm giác ngửi (khứu giác); Cảm giác vị (vị giác); Thần giao
cách cảm (giác quan thứ 6). Quy luật tri giác
Tri giác mang tính tự giác trong việc giải quyết nhiệm vụ cụ thể
• Phân loại theo cơ quan phân tích thì ta có tri giác nhìn, tri giác nghe, tri giác sờ mó.
• Phân loại theo đối tượng phản ánh, tri giác chia thành tri giác không gian, tri giác
thời gian, tri giác vận động, tri giác xã hội.
Dựa vào đặc điểm của hai thuật ngữ trên, ta có thể thấy rõ tri giác là mức phản ánh cao
hơn so với cảm giác. Tuy nhiên nó vẫn thuộc giai đoạn nhận thức cảm tính và tri giác
cũng chỉ phản ánh thuộc tính bề ngoài của các sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào con người.
Với những thông tin về sự khác nhau giữa tri giác và cảm giác mà chúng tôi chia sẻ
thông qua bài viết, hy vọng rằng bạn có thể nắm được những kiến thức hữu ích và
phân biệt được sự hai khái niệm này một cách chính xác nhất
Phân biệt tư duy và tư tưởng
Việc So sánh tư duy và tưởng tượng không thể không chỉ ra điểm giống nhau giữa hai
vấn đề trên. Có thể thấy tư duy và tưởng tượng có một số điểm giống nhau như sau:
Thứ nhất tư duy và tưởng tượng đều là quá trình tâm lý bên trong của con người.
Thứ hai tư duy và Tưởng tượng của mỗi con người là khác nhau. Trí tưởng tượng là
thể hiện khả năng nhận thức của bản thân với thế giới quan xung quanh qua những gì
mà bạn từ sờ thấy, nghe thấy, nhìn thấy và nó tưởng tượng và tự sáng tạo cho mình
một bức tranh toàn cảnh về thế giới xung quanh của mình.
Thứ ba tư duy và tưởng tượng của con người cũng không có giới hạn nào cụ thể.
Ngoài ra khi so sánh tư duy và tưởng tượng thì cốt lõi là sự khác nhau giữa 2 vấn đề.
Một số điểm khác nhau giữa tư duy và tưởng tượng cụ thể như sau:
– Thứ nhất: Về bản chất + Đối với tư duy:
Tư duy phải dựa vào kinh nghiệm của thế hệ trước đã tích luỹ được.
Tư duy phải sử dụng ngôn ngữ do các thế hệ trước đã sáng tạo ra.
Bản chất của quá trình tư duy được thúc đẩy do nhu cầu của xã hội.
Tư duy mang tính chất tập thể.
Tư duy có tính chất chung của loài người vì nó được sử dụng để giải quyết nhiệm vụ.
+ Bản chất của tưởng tượng:
Về nội dung phản ánh: phản ánh cái mới, chưa có trong kinh nghiệm của cá nhân hoặc xã hội.
Về phương thức phản ánh: tạo ra những hình ảnh mới (biểu tượng mới) trên cơ sở
những biểu tượng đã biết nhờ các phương thức hành động (chắp ghép liên hợp, nhấn
mạnh, điển hình hoá, loại suy).
Về phương diện kết quả phản ánh: sản phẩm là các biểu tượng của tượng tượng đến
hình ảnh mới do con người tạo ra trên cơ sở những biểu tượng của trí nhớ.
Nguồn gốc làm nảy sinh tưởng tượng là yêu cầu của hoạt động lao động. Do yêu cầu
của cuộc sống buộc con người trước khi hoạt động phải hình dung được trước kết quả
của hoạt động, phương thức hoạt động để đạt kết quả cao nảy sinh trước hoàn cảnh có vấn đề
– Thứ hai: Về đặc điểm
+ Tư duy mang các đặc điểm: Tính có vấn đề Tính gián tiếp
Tính trừu tượng và khái quát
Liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ
Quan hệ mật thiết với ngôn ngữ cảm tính
+ Trong khi đó tưởng tượng mang các đặc điểm như sau:
Mang tính gián tiếp và khái quát so với trí nhớ
Liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính
– Thứ ba: Về vai trò + Tư duy có vai trò:
Mở rộng giới hạn của nhận thức
Cải tạo thông tin của nhận thức cảm tính, làm chúng có ý nghĩa hơn trong cuộc sống của con người
Tư duy giải quyết được cả những nhiệm vụ ở hiện tại và cả tương lai
+ Tưởng tượng: Hướng con người về tương lai, kích thích con người hoạt động ảnh
hưởng đến việc học tập, giáo dục đạo đức, phát triển nhân cách
Quan hệ giữa nhận thức cảm tính và lý tính Giống nhau:
Đều là quá trình tâm lí nên có mở đầu, diễn biến và kết thúc một cách tương đối rõ ràng..
Chỉ phản ánh thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
Phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp.
Đều có ở động vật và con người
-Là mức độ nhận thức đầu tiên, sơ đẳng, cảm giác có vai trò nhất định trong hoạt động
nhận thức và toàn bộ đời sống con người. Cảm giác Tri giác
– Phản ánh riêng lẻ các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
– Là mức độ đầu tiên của nhận thức cảm tính.
-Cảm giác là mối liên khệ trực tiếp giữa cơ thể và thế giới xung quanh. Nhờ mối liên
hệ đó mà cơ thể có khả năng định hướng và thích nghi với môi trường. -Cảm giác giúp
con người thu nhận nguồn tài liệu trực quan sinh động, cung cấp nguyên liệu cho các
hoạt động tâm lý cao hơn.
– Phản ánh trọn vẹn các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
– Phản ánh sự vật, hiện tượng theo cấu trúc nhất định.
– Gắn liền với hoạt động của con người.
– Là mức độ cao nhất của nhận thức cảm tính.
– Tri giác giúp con người định hướng nhanh chóng và chính xác hơn, giúp con người
điều chỉnh một cách hợp lý hoạt động của mình trong thế giới, giúp con người phản
ánh thế giới có lựa chọn và có tính ý nghĩa. Khác nhau:
So sánh nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính:
Đều là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con
người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn. Khác: Nhận thức cảm tính:
Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các
giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy.
Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau: cảm giác, tri giác, biểu tượng. Đặc điểm:
– Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức.
– Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản chất.
— Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.
–Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất
yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
Nhận thức lý tính: là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật,
được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận. Đặc điểm:
– Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng.
– Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
– Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính.
Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật.
Định nghĩa trí nhớ
Trí nhớ là một quá trình tâm lí phản ánh những kinh nghiệm đã có của cá nhân (lưới
hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, giữ gìn và tái tạo sau đó ở trong óc cái mà
con người đã cảm giác, tri giác, xúc cảm, hành động hay suy nghĩ trước đây. Định nghĩa chú ý
Chú ý là một trạng thái tâm lí thường “đi kèm” với các hoạt động tâm lí mà chủ yếu là
các hoạt động nhận thức, bởi vì khi đi với quá trình xúc cảm thì cũng chính là chú ý
nhận biết tâm hạng, trạng thái xúc động của bản thân, hoặc chú ý trong hành động là
chú ý nhận biết (tri giác) những động tác kết quả của hành động.
Các quá trình cơ bản của trí nhớ Quá trình ghi nhớ Quá trình giũ gìn Quá trình tái hiện Sự quên
Quy luật của sự nhớ-sự quên
Các thuộc tính cơ bản của chú ý
Các thuộc tính cơ bản của chú ý là: - Sự tập trung: Khả năng chỉ chú ý đến đối tượng
cần thiết cho hoạt động lúc đó - Sự bền vững: Khả năng duy trì lâu dài chú ý vào một
hay một số đối tượng của hoạt động - Sự phân phối: Khả năng cùng một lúc chú ý đầy
đủ đến nhiều đối tượng hay nhiều hoạt động khác nhau một cách có chủ định - Sự di
chuyển: Khả năng chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác theo yêu cầu của hoạt động
5. Đời sống tình cảm
Phân biệt xúc cảm và tình cảm
Từ những chia sẻ về khái niệm của xúc cảm và tình cảm, chúng ta có thể thấy xúc cảm
và tình cảm đều là những rung động của một con người đối với những con người, hiện
tượng, sự việc diễ ra xung quanh. Vậy Xúc cảm và tình cảm có phải là hai trạng thái cảm xúc giống nhau?
Dưới đây chúng tôi sẽ đi so sánh những điểm giống và khác nhau của hai trọng thái
xúc cảm và tình cảm để bạn đọc dễ dàng nhận biết và phan biết hai trạng thái cảm xúc này.
– Điểm giống nhau giữa xúc cảm và tình cảm
+ Xúc cảm và tình càm đều do sự tác động khách quan từ yếu tố bên ngoài mà có, thể
hiện thái độ cá nhân của một người đối với hiện tượng khách quan đó.
+ Nội dung và hình thức của xúc cảm à tình cảm đều mang tính chủ quan, nghĩa là nó
thể hiện thái độ chủ quan của cá nhân đối với một hiện tượng khách quan nào đó.
+ Xúc cảm va tình cảm đều là nét nổi bật thể hiện trạng thái tâm ký của mỗi người.
+ Xúc cảm và tình cảm đều có cơ sở vật chất trên vỏ não và có khuynh hướng truyền cảm.
– Điểm khác biệt của xúc cảm và tình cảm
Như đã nêu ở trên, hai khái niệm về xúc cảm và tình cảm là hai khái niệm khác nhau
nên ngoài những điểm giống nhau, chúng còn những điểm khác biệt, cụ thể như sau:
+ Xúc cảm là một quá trình tâm lý, còn tình cảm là một thuộc tính tâm lý;
+ Xúc cảm mang tính chất nhất thời, không ổn định và phụ thuộc hầu như vào những
yếu tố khách quan bên ngoài, còn tình cảm mang tính ổn định hơn.
+ Xúc cảm hẩu như tồn tại ở dạng hiện thưc, còn tình cảm thế hiện ở dạng tiềm tàng;
+ Xúc cảm giúp thực hiện chức năng sinh vật, nó gắn liền với phản xạ tự nhiên, vì vậy
nó không chỉ tồn tại ở người mà còn có thể tồn tại ở các loài vật. Còn tình cảm gắn với
chức năng xã hội, nó gắn liền với phản xạ có điều kiện và chỉ được thể hiện ở con người.
Đặc điểm của tình cảm
Tình cảm có những đặc điểm như sau: – Tính nhận thức:
Trên cơ sở những xúc cảm của con người trong quá trình nhận thức đối tượng tình cảm
được nảy sinh. Nói cách khác, ba yếu tố nhận thức, rung động và phản ứng cảm xúc là
các yếu tố làm nảy sinh tình cảm. Trong đó, nhận thức làm cho tình cảm có tính đối tượng xác định. – Tính xã hội:
Tình cảm hình thành ở trong môi trường xã hội, nó mang tính xã hội, thực hiện chức
năng xã hội chứ không phải là những phản ứng sinh lí đơn thuần.Tình cảm nảy sinh
trong quá trình con người lao động xã hội và trong sự giao tiếp giữa con người với
nhau như là một thành viên của một nhóm người, một tập thể hay một cộng đồng.Ví
dụ: Tình đồng bào, Tình đồng nghiệp,… – Tính ổn định:
Tình cảm là những thái độ ổn định của con người đối với hiện thực xung quanh, đối
với bản thân. Vì vậy, tình cảm là một thuộc tính tâm lí, là một đặc trưng quan trọng
của nhân cách con người. Ví dụ: tình bạn, tình yêu quê hương đất nước,… – Tính chân thực:
Tình cảm phản ánh chính xác nội tâm thực của con người, ngay cả khi con người cố
che giấu bằng những thái độ, hành vi giả che giấu.Ví dụ: tỏ vẻ hài lòng nhưng trong
lòng lại vô cùng chán ghét,…
Tính đối cực (còn gọi là tính hai mặt): Tính đối cực của tình cảm được gắn liền với sự
thoả mãn nhu cầu của con người. Tình cảm của con người được phát triển và nó mang
tính đối cực. Ví dụ: Yêu – ghét; hạnh phúc – đau buồn; tích cực – tiêu cực…
Phân biệt nhận thức với tình cảm
Việc so sánh nhận thức và tình cảm là việc chỉ ra những điểm giống nhau và khác
nhau của hai thuộc tính tâm lý này.
Trước hết, nhận thức và tình cảm giống nhau ở những điểm như sau:
– Đều phản ánh hiê ̣n thni
O(ực khách quan: Tình cảm và nhận thức chỉ phản ánh khi có hiê ̣n thực khách quan
tác đô ̣ng vào mới có tình cảm và nhâ ̣n thức.
– Đều mang tính chủ thể: Tình cảm và nhâ ̣n thức đều mang những đă ̣c điểm riêng của
mỗi người: cùng mô ̣t vấn đề nhưng đă ̣c vào mỗi người khác nhau thì có những nhâ ̣n
thức và bô ̣c lô ̣ tình cảm khác nhau. Cùng mô ̣t vấn đề nhưng trong những hoàn cảnh
khác nhau thì cũng có những nhâ ̣n thức và bô ̣c lô ̣ nhũng tình cảm khác nhau.
– Bản chất xã hội, lịch sử: Nhận thức và tình cảm đều mang bản chất xã hội. Dựa vào
những phong tục, tập quán, lịch sử, xã hội của nơi mà bạn sinh sống hình thành nên.
Những điểm khác nhau của nhận thức và tình cảm được thể hiện như sau:
– Nội dung phản ánh của tình cảm và nhận thức là khác nhau. Tình cảm phản ánh các
sự vật, hiện tượng gắn liền với nhu cầu và động cơ của con người. Ngược lại nhận
thức phản ánh thuộc tính và các mối quan hệ của bản thân sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan.
– Phạm vi phản ánh của tình cảm mang tính chọn lựa. Nó chỉ phản ánh những sự vật
có liên quan đến sự thỏa mãn nhu cầu hoạt động cơ của con người mới gây nên tình
cảm. Trong khi đó, phạm vi phản ánh của nhận thức lại ít tính lựa chọn hơn và có
phạm vi rộng hơn. Theo đó, bất cứ sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan tác
động vào các giác quan của ta đều được phản ánh với những mức độ sáng tỏ, đầy đủ, chính xác khác nhau.
– Phương thức phản ánh của tình cảm thể hiện qua những rung cảm, những trải
nghiệm có được. Phương thức phản ánh của nhận thức thể hiện qua những hình ảnh
(cảm giác, tri giác) và bằng những khái niệm (tư duy).
Các quy luật của đời sống tình cảm
• Quy luật lây lan
Xúc cảm, tình cảm của người này có thể truyền “lây” sang người khác. Trong đời sống
hàng ngày ta thường thấy hiện tượng “vui lây”, “buồn lây”, “cảm thông”, “đồng cảm”,
…Cơ sở của quy luật này do tính xã hội trong tình cảm của con người chi phối. Chính
tình cảm của tập thể, tâm trạng của xã hội được hình thành trên cơ sở của quy luật này.
• Quy luật thích ứng
Xúc cảm, tình cảm nào đó được lặp đi lặp lại nhiều lần với cường độ không thay đổi
thì cuối cùng cũng sẽ suy yếu, bị lắng xuống. Đó là hiện tượng thường được gọi là sự
“chai sạn” của tình cảm.
• Quy luật tương phản (cảm ứng)
Xúc cảm và tình cảm tiêu cực hay tích cực thuộc cùng một loại luôn có tác động qua
lại lẫn nhau. Cụ thể là một trải nghiệm này có thể tăng cường một trải nghiệm khác đối
cực với nó, xảy ra đồng thời hoặc nối tiếp nó.
• Quy luật di chuyển
Tình cảm của con người có thể di chuyển từ một đối tượng này sang một đối tượng
khác có liên quan tới đối tượng gây nên tình cảm trước đó.
• Quy luật pha trộn.
Tính pha trộn cho phép hai tình cảm đối cực nhau có thể cùng xảy ra một lúc nhưng
không loại trừ nhau mà chúng “pha trộn” vào nhau.
• Quy luật hình thành tình cảm.
Tình cảm được hình thành từ xúc cảm. Nó do các xúc cảm cùng loại được tổng hợp
hóa, động hình hóa, khái quát hóa mà thành.
Tổng hợp hóa :là quá trình dùng trí óc để hợp nhất các thành phần đã được tách rồi
nhờ sự phân tích thành một chỉnh thể.
Động hình hóa: là khả năng làm sống lại một phản xạ hoặc một chuỗi phản xạ đã được hình thành từ trước
Khái quát hóa :là quá trình dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau thành
một nhóm, một loại theo những thuộc tính, những liên hệ , quan hệ chung nhất định. 6. Ý chí
Các phẩm chất của ý chí
Dưới đây là một số phẩm chất ý chí cơ bản của nhân cách. a. Tính mục đích
Đây là một phẩm chất rất quan trọng của ý chí, giúp con người điều chỉnh hành vi
hướng vào mục đích tự giác. Tính mục đích của ý chí phụ thuộc vào thế giới quan,
nội dung đạo đức và tính giai cấp của nhân cách mang ý chí. b. Tính độc lập
Đó là phẩm chất ý chí cho phép con người có khả năng quyết định và thực hiện
hành động theo những quan điểm và niềm tin của mình, không bị chi phối bởi những tác động bên ngoài.
Tuy nhiên, tính độc lập của ý chí không có nghĩa là sự bảo thủ, bướng bỉnh, chống
lại sự ảnh hưởng từ bên ngoài, bất luận đúng hay sai. c. Tính quyết đoán
Đó là khả năng đưa ra những quyết định kịp thời, dứt khoát trên cơ sở tính toán, cân
nhắc kĩ càng, chắc chắn. Con người quyết đoán là con người tin tưởng vững vàng
rằng mình phải làm như thế này, mà không thể làm như thế khác được. Tiền đề của
tính quyết đoán là trình độ trí tuệ và sự dũng cảm. Người quyết đoán luôn luôn hành
động có suy nghĩ, dũng cảm, nhanh nhạy, đúng lúc, không dao động và hoài nghi.
d. Tính bền bỉ (kiên trì)
Phẩm chất bền bỉ của ý chí được thể hiện ở sự khắc phục những khó khăn, trở ngại
khách quan và chủ quan để đạt được mục đích đã đề ra.
Tính bền bí không có nghĩa là sự lì lợm, bướng bỉnh theo đuổi mục đích mù quáng,
mà là sự theo đuổi mục đích dã được ý thức rõ ràng với sự năng động của trí tuệ và
tình cảm trong quá trình thực hiện mục đích. e. Tính tự chủ
Đó là khả năng và thói quen kiểm tra hành vi làm chủ bản thân, kìm hãm những hoạt
động cho là không cần thiết hoặc có hại trong những trường hợp cụ thể.
Các phẩm chất ý chí của nhân cách nói trên luôn luôn gắn bó hữu cơ với nhau, hỗ
trợ cho nhau, tạo nên ý chí cao của con người. Các phẩm chất ý chí được thế hiện
trong các hành động ý chí. 7. Nhân cách
Đặc điểm nhân cách
2.1. Tính thống nhất của nhân cách
• Nhân cách là một cấu trúc tâm lí, tức là một chính thể thống nhất các
thuộc tính, đặc điểm tâm lí xã hội, thống nhất giữa phẩm chất và năng lực,
giữa đức và tài. Các phần tử tạo nên nhân cách liên hệ hữu cơ với nhau
làm cho nhân cách mang tính trọn vẹn S.L. Rubinshtejn đã nhấn mạnh:
“Khi giải quyết bất cứ hiện tượng tâm lí nào, nhân cách nổi lên như một
tổng thể liên kết thống nhất của các điều kiện bên trong và tất cả các điều
kiện bên ngoài đều bị khúc xạ”.
• Tính thống nhất của nhân cách còn thể hiện ở sự thống nhất giữa ba cấp
độ: cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ siêu cá nhân.
Đó chính là sự thống nhất giữa tâm lí, ý thức với hoạt động, giao tiếp của nhân cách.
2.2. Tính ổn định của nhân cách
Những thuộc tính tâm lí là những hiện tượng tâm lí tương đối ổn định và bền vững.
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lí tạo thành bộ mặt tâm lí xã hội của cá
nhân, phần nào nói lên bản chất xã hội của họ. Vì thế, các đặc điểm nhân cách cũng
như cấu trúc nhân cách khó hình thành và cũng khó mất đi. Trong thực tế, từng nét
nhân cách (cá tính, phẩm chất) có thể thay đổi trong quá trình sống của con người,
nhưng nhìn một cách tổng thể thì chúng vẫn tạo thành một cấu trúc trọn vẹn, tương
đối ổn định. Chính nhờ vậy, chúng ta mới có thể dự kiến trước được hành vi của một
nhân cách nào đó trong tình huống, hoàn cảnh này hay khác.
2.3. Tính tích cực của nhân cách
Nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp, là sản phẩm xã hội. Vì thế, tính tích
cực là một thuộc tính của nhân cách. Tính tích cực của nhân cách được biểu hiện
trước tiên ở việc xác định một cách tự giác mục đích hoạt động, tiếp đó là sự chủ
động tự giác thực hiện các hoạt động, giao tiếp nhằm hiện thực hóa mục đích, ở
đây, nhân cách bộc lộ khả năng tự điều chỉnh và chịu sự điều chỉnh của xã hội. Đó
cũng là biểu hiện tính tích cực của nhân cách. Tuỳ theo mức độ và loại hình hoạt
động mà mục đích của nó được nhân cách xác định là nhận thức hay cải tạo thế
giới, nhận thức hay cải tạo chính bản thân mình. Giá trị đích thực của nhân cách,
chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét tính tích cực
của nhân cách. Tính tích cực của nhân cách cũng biểu hiện rõ trong quá trình thỏa
mãn các nhu cầu của nó. Không chỉ thỏa mãn với các đối tượng có sẵn, con người
luôn luôn sáng tạo ra các đối tượng mới, các phương thức thỏa mãn mới những nhu
cầu ngày càng cao của họ. Quá trình đó luôn là quá trình hoạt động có mục đích tự
giác, trong đó con người làm chủ được những hình thức hoạt động của mình. Trong
giáo dục và dạy học với đối tượng là học sinh - những nhân cách đang hình thành và
phát triển, cần chú trọng phát huy tính tích cực học tập của các em.
2.4. Tính giao lưu của nhân cách
Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và
trong mối quan hệ giao lưu với những nhân cách khác. Nhu cầu giao lưu (giao tiếp)
được xem như là một nhu cầu bẩm sinh của con người. Thông qua quan hệ giao tiếp
với người khác, con người gia nhập các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo
đức và hệ thống giá trị xã hội. Đồng thời, cũng qua giao tiếp mà con người được
đánh giá, được nhìn nhận theo quan hệ xã hội. Điều quan trọng là qua giao tiếp, con
người còn đóng góp các giá trị nhân cách của mình cho người khác, cho xã hội.
Giao tiếp chính là điều kiện để nhân cách biểu hiện cả ba cấp độ của mình.
Đặc điểm này của nhân cách là cơ sở của nguyên tắc “giáo dục trong tập thể, bằng
tập thể’’ do A.s. Makarenko xây dựng.
Xu hướng hoặc tính cách
Là một thuộc tính tâm lí phức hợp của cá nhân, bao gồm một hệ thống động cơ quy
định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy định sự lựa chọn thái độ của nó.
Xu hướng nhân cách thường biểu hiện ở một số mặt chủ yếu: nhu cầu, hứng thú, lí
tưởng, thế giới quan, niềm tin,...
Nhu cầu: là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần thoả mãn để tồn tại và phát triển.
Nhu cầu của con người có những đặc điểm cơ bản sau:
• Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng
thoả mãn nó thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng.
• Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thoả mãn nó quy định.
• Nhu cầu có tính chu kì.
• Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật: nhu cầu của
con người mang bản chất xã hội.
Nhu cầu của con người rất đa dạng: nhu cầu vật chất gắn liền với sự tồn tại của cơ thể
như: nhu cầu ăn, ở, mặc...; nhu cầu tinh thần bao gồm: nhu cầu nhận thức, nhu cầu
thẩm mĩ, nhu cầu giao tiếp và nhu cầu hoạt động xã hội.
Hứng thú: là thái độ đặc biệt của cá nhân dối với đối tượng nào dó, vữa có ý nghĩa đối
với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động.
• Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, ở bề rộng và chiều sâu
của hứng thú. Hứng thú nảy sinh chủ yếu do tính hấp dẫn về mặt cảm xúc của nội dung hoạt động.
• Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, tăng sức làm việc, đặc biệt là tăng
tính tự giác, tích cực trong hoạt động, và vì vậy hứng thú làm tăng hiệu quả
hoạt động. Cùng với nhu cầu, hứng thú là một thành phần trong hệ thống dộng cơ của nhân cách.
Lí tưởng: là một mục tiêu cao dẹp, một hình ảnh mẫu mực, tương đối hoàn chỉnh, có
sức lôi cuốn con người vươn tới nó.
• Lí tưởng khác với ước mơ ở điểm: Trong lí tưởng chứa đựng mặt nhận thức sâu
sắc của chủ thể về các điều kiện chủ quan và khách quan để vươn tới lí tưởng,
đồng thời chủ thể có tình cảm mãnh liệt đối với hình ảnh mẫu mực của mình.
Chính vì thế, lí tưởng có sức mạnh lôi cuốn toàn bộ cuộc sống con người vào
các hoạt động vươn tới lí tưởng của mình. Tuy vậy, ước mơ có thể là cơ sở cho
sự hình thành lí tướng cao đẹp sau này.
• Lí tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn. Có tính hiện thực vì lí
tưởng bao giờ cũng được xây dựng từ nhiều “chất liệu” có thực trong đời sống.
Song lí tưởng lại là hình ảnh mẫu mực chưa có trong hiện thực, là cái chỉ có thể
đạt được trong tương lai. Lí tưởng phản ánh xu thế phát triển của con người.
• Lí tưởng mang tính lịch sử và giai cấp. Ví dụ: Lí tưởng của người nông dân
trong xã hội phong kiến khác với lí tường của người nông dân sống dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa; lí tưởng của các nhà tư bản khác với lí tưởng của người cộng sản.
• Lí tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, nó có chức năng
xác định mục tiêu, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người, trực tiếp chi
phối sự hình thành và phát triển tâm lí cá nhân.
Thế giới quan: là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân, xác định
phương châm hành dộng của con người. Thế giới quan khoa học là thế giới quan duy
vật biện chứng mang tính khoa học, tính nhất quán cao.
Niềm tin: là một sản phẩm của thế giới quan, là kết tinh các quan điểm, tri thức, rung
cảm, ý chí được con người thể nghiệm, trở thành chân lí bền vững trong mỗi cá nhân.
Niềm tin tạo cho con người nghị lực, ý chí để hành động theo quan điểm của mình, là
lẽ sống của con người.
Tính cách là một thuộc tính tâm lí phức hợp của cá nhân, bao gồm một hệ thống thái
độ của nó đối với hiện thực và thể hiện trong hệ thông hành vỉ, cử chí, cách nói nâng tương ứng.
Tính cách có cấu trúc rất phức tạp, bao gồm: hệ thống thái độ và hệ thống hành vi, cử
chỉ, cách nói năng tương ứng.
Hệ thống thái độ của cá nhân bao gồm bốn mặt sau đây:
• Thái độ đối với tập thể và xã hội, thể hiện qua nhiều nét tính cách như: lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, thái độ chính trị, tinh thần đổi mới, tinh thần hợp tác cộng đồng,...
• Thái độ đối với lao dộng, thể hiện ở những nét tính cách cụ thể như: lòng yêu
lao động, cần cù, sáng tạo, lao động có kí luật, tiết kiệm, đem lại năng suất cao,...
• Thái độ đối với mọi người, thể hiện ở những nét tính cách như: lòng yêu thương
con người theo tinh thần nhân đạo, quý trọng con người, có tinh thần đoàn kết,
tương trợ, tính cởi mở, tính chân thành, thẳng thắn, công bằng,...
• Thái độ đối với bản thân, thể hiện ở những nét tính cách như: tính khiêm tốn,
lòng tự trọng, tinh thần tự phê bình,...
Hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói nang của cá nhân: Đây là sự thể hiện cụ thể ra bên
ngoài của hệ thống thái độ nói trên. Hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng rất đa
dạng, chịu sự chi phối của hệ thống thái độ. Người có tính cách tốt, nhất quán thì hệ
thống thái độ sẽ tương ứng với hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng. Trong đó, thái
độ là mặt nội dung, mặt chí đạo; còn hành vi, cử chỉ, cách nói nâng là hình thức biểu
hiện của tính cách, chúng không tách rời nhau mà thống nhất hữu cơ với nhau.
Tính cách có quan hệ chặt chẽ với các thuộc tính, các phẩm chất khác của nhân cách
như: xu hướng, khí chất, tình cảm, ý chí, kĩ xảo, thói quen và vốn sống của cá nhân.
Khí chất hoặc năng lực
Khí chất là thuộc tính tâm lí phức lợi? của cá nhân, hiểu hiện cường độ, tiến độ và
nhịp độ của các hoạt động tâm lí, thể hiện sắc thúi của hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân.
Kiểu khí chất là sự kết hợp khác nhau của những thuộc tính khí chất có quan hệ qua
lại với nhau một cách có quy luật. Ngay từ thời cổ đại, Hippocrates (460 - 356 TCN) -
danh y người Hi Lạp đã cho rằng, con người có bốn kiểu khí chất và do sự chiếm ưu
thế của một trong bốn chất nước trong cơ thể quy định nên.
Chất nước chiếm ưu thế
• Máu (ở tim, có đặc tính nóng)
• Nước nhờn (ở não, có đặc tính khô ráo)
• Mật vàng (ở gan, có đặc tính khô ráo)
• Mật đen (ở dạ dày, có đặc tính ẩm ướt)
Kiểu khí chất tương ứng • Hăng hái (Sanguin)
• Bình thản (Flegmatique) • Nóng nảy (Cholerique) • Ưu tư (Melancolique)
Ngày nay, cách giải thích của Hippocrates không cohù hợp nữa nhưng những tên
gọi của kiểu khí chất vẫn dược sử dụng. I.p. Pavlov dã chứng minh rằng sự kết hợp
giữa ba thuộc tính: cường độ, tính cân bằng và tính linh hoạt của hai quá trinh thần
kinh cơ bán là hưng phấn và ức chế tạo ra bốn kiểu thần kinh cơ bản làm cơ sở cho bốn kiểu khí chất.
Đặc điểm chủ yếu của mỗi loại khí chất
• Kiểu khí chất hăng hái: Người thuộc kiểu khí chất này thường là người hoạt
bát, vui vẻ, yêu đời, năng động, ham hiểu biết; cảm xúc khống sâu, dễ hình
thành và dễ thay đổi; nhận thức nhanh nhưng cũng hay quên; tâm hồn hướng
ngoại, cởi mở, dề thích nghi với môi trường mới.
• Kiểu khí chất bình thản: Người thuộc kiểu khí chất này thường là người chậm
chạp, điềm tĩnh, chắc chắn, kiên trì, ưa sự ngăn nắp, trật tự, khả năng kiềm
chế tốt, nhận thức chậm nhưng chắc chắn, tình cảm khó hình thành nhưng
sâu sắc, không ưa cãi cọ và không thích ba hoa, có tính ì khi khởi động hoạt
động, khó thích nghi đối với môi trường mới.
• Kiểu khí chất nóng nảy: Người có kiểu khí chất này thường có đặc điểm là
hành động nhanh, mạnh, hào hứng, nhiệt tình, hay có tính gay gắt, nóng nảy,
mệnh lệnh quyết đoán, dễ bị kích động, thẳng thắn, chân tình, khả năng kiềm chế thấp,...
• Kiểu khí chất ưu tư: Người có kiểu khí chất này thường có biểu hiện: hoạt
động chậm chạp, chóng một mỏi, luôn hoài nghi, lo lắng, thiếu tự tin, hay u
sầu, buồn bã, xúc cảm khó nảy sinh nhưng rất sâu sắc, có cường độ mạnh và
bền vững. Với kiểu khí chất này, con người thường có sự nhạy bén, tinh tế về
cảm xúc, giàu ấn tượng; trong quan hệ thường mềm mỏng, tế nhị, nhã nhặn,
chu đáo và vị tha, họ thường hay sống với nội tâm của mình (hướng nội), đặc
biệt là khó thích nghi với môi trường mới.
Tóm lại, mỗi kiểu khí chất trên đều có mặt mạnh, mặt yếu riêng. Trôn thực tế thường
gặp ở một người có những nét của kiểu khí chất nào đó chiếm ưu thế, nhưng đồng
thời lại có những nét riêng lẻ nào đó thuộc kiểu khí chất khác. Ngoài ra, còn có
những kiểu khí chất trưng gian bao gồm nhiều đặc tính của cả bốn kiểu khí chất trên.
Mặc dù khí chất có cơ sở là kiểu thần kinh nhưng khí chất vẫn chịu sự chi phối của
các đặc điểm xã hội, biến đổi do rèn luyện và giáo dục.
Năng lực là tổ hợp các thuộc tỉnh độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu
của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt.
Document Outline
- ÔN TẬP TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
- 2. Hoạt động và giao tiếp
- 3. Sự hình thành phát triển tâm lí, ý thức
- 4. Hoạt động nhận thức
- – Thứ nhất: Về bản chất
- – Thứ hai: Về đặc điểm
- – Thứ ba: Về vai trò
- Nhận thức cảm tính:
- Nhận thức lý tính: là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.
- 5. Đời sống tình cảm
- Tình cảm có những đặc điểm như sau:
- – Tính nhận thức:
- – Tính xã hội:
- – Tính ổn định:
- – Tính chân thực:
- • Quy luật lây lan
- • Quy luật thích ứng
- • Quy luật tương phản (cảm ứng)
- • Quy luật di chuyển
- • Quy luật pha trộn.
- • Quy luật hình thành tình cảm.
- 6. Ý chí
- 7. Nhân cách
- 2.1. Tính thống nhất của nhân cách
- 2.2. Tính ổn định của nhân cách
- 2.3. Tính tích cực của nhân cách
- 2.4. Tính giao lưu của nhân cách