lOMoARcPSD| 61178690
1. Nguồn gốc, bản chất, kết cấu và chức năng của tôn giáo
.Khái niệm tôn giáo
- Tôn giáo niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, hình, mang tính thiêng liêng,
được chấp nhận một cách trực giác tác động qua lại một cách ảo, nhằm giải
những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện
rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa văn hóa khác
nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ,
những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau
1. Nguồn gốc của tôn giáo
a. Nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo
Nguồn gốc hội của tôn giáo toàn bộ những nguyên nhân điều kiện khách
quan của đời sống hội tất yếu làm nảy sinh tái hiện những niềm tin tôn giáo.
Trong đó một s nguyên nhân và điều kiện gắn với mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên, một số khác gắn với mối quan hệ giữa con người với con người
– Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
- Tôn giáo học mácxít cho rằng sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh
với tự nhiên là một nguồn gốc xã hội của tôn giáo.
- Như chúng ta đã biết, mối quan hệ của con người với tự nhiên thực hiện thông
qua những phương tiện công cụ lao động con người có. Khi không đủ phương
tiện, công cụ để đảm bảo kết quả, mong muốn trong lao động, người nguyên thủy
đã tìm đến phương tiện tưởng tượng hư ảo, nghĩa là tìm đến tôn giáo.
- Chúng ta cần thấy rằng, sự thống trị của tự nhiên đối với con người không
phải được quyết định bởi những thuộc tính và quy luật của giới tnhiên, mà quyết
định bởi mối tính chất mối quan hệ của con người với tự nhiên, nghĩa là bởi sự phát
triển kém của lực lượng sản xuất xã hội, mà trước hết là công cụ lao động.
- Như vậy, không phải bản thân giới tự nhiên sinh ra tôn giáo, mà là mối quan
hệ đặc thù của con người với giới tự nhiên, do trình độ sản xuất quyết định. Đây
một nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Nhờ hoàn thiện những phương tiện lao động và
toàn bộ hệ thống sản xuất vật chất mà con người ngày càng nắm được lực lượng t
nhiên nhiều hơn, càng ít phụ thuộc một cách mù quáng vào nó, do đó dần dần khắc
phục được một trong những nguồn gốc quan trọng của tôn giáo.
– Mối quan hệ giữa người và người
lOMoARcPSD| 61178690
- Nguồn gốc xã hội của tôn giáo còn bao gồm cả phạm vi các mối quan hệ giữa
conngười với nhau, nghĩa là bao gồm các mối quan hhội, trong đó có hai yếu tố
giữ vai trò quyết định là tính tự phát của sự phát triển xã hội và ách áp bức giai cấp
cùng chế độ người bóc lột người.
- Trong tất cả các hình thái kinh tế hội trước hình thái kinh tế xã hội cộng
sản chủ nghĩa, những mối quan hệ xã hội đã phát triển một cách tự phát. Những quy
luật phát triển của xã hội biểu hiện như là những lực lượng mù quáng, trói buộc con
người và ảnh hưởng quyết định đến sphận của họ. Những lực lượng đó trong ý
thức con người được thần thánh hoá mang hình thức của những lực lượng siêu
nhiên. Đây là một trong những nguồn gốc xã hội chủ yếu ca tôn giáo.
- Trong các hội đối kháng giai cấp, sự áp bức giai cấp, chế độ bóc lột
một nhân tố quan trọng làm nảy sinh tôn giáo. Quần chúng không thể tìm ra lối thoát
hiện thực khỏi sự kìm kẹp và áp bức trên trái đất, nhưng họ đã tìm ra lối thoát đó ở
trên trời, ở thế giới bên kia.
b. Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
- Thần thánh, cái siêu nhiên, thế giới bên kia… là sản phẩm của những biểu
tượng, sự trừu tượng hoá, sự khái quát dưới dạng hư ảo.
Tôn giáo chỉ thể ra đời một trình độ nhận thức nhất định, đồng thời phải
gắn với sự tự ý thức của con người về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới
bên ngoài. Khi chưa biết tự ý thức, con người cũng chưa nhận thức được sự bất lực
của mình trước sức mạnh của thế giới bên ngoài, do đó con người chưa nhu cầu
sáng tạo ra tôn giáo để bù đắp cho sự bất lực ấy.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo gắn liền với đặc điểm của của quá trình
nhận thức. Những hình thức phản ánh thế giới hiện thực càng đa dạng, phong phú
bao nhiêu thì con người càng có khả năng nhận thức thế giới xung quanh sâu sắc
đầy đủ bấy nhiêu.
- Thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng như của mọi ý thức sai lầm
chính là sự tuyệt đối hoá, sự cường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người, biến
thành cái không còn nội dung khách quan, không còn sở “thế gian”, nghĩa là
cái siêu nhiên thần thánh.
c. Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo
- Ngay từ thời cổ đại, các nhà duy vật đã nghiên cứu đến ảnh hưởng của yếu tố
tâmlý (tâm trạng, xúc cảm) đến sự ra đời của tôn giáo. Họ đã đưa ra luận điểm” “Sự
sợ hãi sinh ra thần thánh”.
lOMoARcPSD| 61178690
- Các nhà duy vật cận đại đã phát triển tưởng của các nhà duy vật cổ đại
đặc biệt L.Phơbách và cho rằng nguồn gốc đó không chỉ bao gồm những tình
cảm tiêu cực (sự lệ thuộc, sợ hãi, không thoả mãn, đau khổ, cô đơn…) mà cả những
tình cảm tích cực (niềm vui, sự thoả mãn, tình yêu, sự kính trọng…), không chỉ tình
cảm, mà cả những điều mong muốn, ước vọng, nhu cầu khắc phục những tình cảm
tiêu cực, muốn được đền bù hư ảo.
- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã giải quyết vấn đề nguồn gốc
tâm của tôn giáo khác về nguyên tắc so với các nhà duy vật trước đó. Nếu như
các nhà duy vật trước Mác gắn nguyên nhân xuất hiện tôn giáo với sự sợ hãi trước
lực lượng tự nhiên thì chủ nghĩa Mác lần đầu tiên vạch được nguồn gốc hội của
sự sợ hãi đó.
2. Bản chất của tôn giáo
- Tôn giáo sản phẩm của con người, do con người tạo nên, Trong các tác
phẩm của mình C. Mác đã khẳng định: “Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo
không sáng tạo ra con người”. Tôn giáo thường đưa ra các gtrị tính tuyệt đối
làm mục đích cho con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp nội dung ấy được thể
hiện bằng những nghi thức, những sự kiêng kỵ…
Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hóa, phù hợp với đạo
đức, đạo lý ca xã hội.
- Mặc tôn giáo tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng trong đời
sống tinh thần, xét đến cùng, đều nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tôn giáo một
hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những hình thái ý thức
hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
– Tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử, luôn luôn vận động, biến đổi
- Tôn giáo có tính hai mặt, vừa là biểu hiện của thế giới đương thời, vừa phảnkháng
chống lại thế giới đó. Tôn giáo có sự tác động, ảnh hưởng đến đời sống xã hội trên
2 mặt tích cực và tiêu cực.
3.Kết cấu của tôn giáo (tâm lí tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo)
- Tâm tôn giáo toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng, thói quen của
quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo.
- Bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo.
lOMoARcPSD| 61178690
- Hệ tưởng tôn giáo hệ thống giáo do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra
vàtruyền bá trong xã hội. Đứng về mặt lịch sử, tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn
giáo là hai giai đoạn phát triển của ý thức tôn giáo, nhưng chúng liên hệ tác động
qua lại và bổ sung cho nhau. Tâm tôn giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một
tính chất đặc trưng, một sắc thái tình cảm riêng. Hệ tưởng tôn giáo “thuyết minh”
những hiện tượng tâm tôn giáo, khái quát chúng làm cho chúng biến đổi theo
chiều hướng nhất định.
4. Chức năng của tôn giáo
a. Chức năng đền bù hư ảo (chức năng nương tựa)
- Luận điểm nổi tiếng của C. Mác: “Tôn giáo thuốc phiện của nhân dân” đã làm
nổi bật chức năng đền hư ảo của tôn giáo. Giống như thuốc phiện, tôn giáo đã tạo
ra cái vẻ bề ngoài của “sự giảm nhẹ” tạm thời những nỗi đau khổ của con người, an
ủi cho những sự mất mát, thiếu hụt của con người trong cuộc sống.
-Chức năng đền hư ảo không chỉ chức năng chủ yếu, đặc thù còn chức
năng phổ biến của tôn giáo. Mặc dù là chức năng chủ yếu nhưng chức năng đền bù
hư ảo không thể tách rời các chức năng khác của tôn giáo.
b. Chức năng thế giới quan
- Khi phản ánh một cách ảo hiện thực, tôn giáo tham vọng tạo ra một bức tranh
của mình về thế giới nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người dưới một hình
thức phi hiện thực. Bức tranh tôn giáo ấy bao gồm hai bộ phận: thế giới thần thánh
thế giới trần tục trên sở đó tôn giáo giải thích các vấn đề của tự nhiên
cũng như hội. Sự giải của tôn giáo về thế giới nhằm hướng con người tới cái
siêu nhiên, thần thánh, do đó nó đã xem nhẹ đời sống hiện thực. Quan niệm này
thể tác động tiêu cực đến ý thức giáo dân, đến thái độ của họ đối với xung quanh.
c. Chức năng điều chỉnh hành vi
- Tôn giáo đã tạo ra một hệ thống các chuẩn mực, những giá trị nhằm điều chỉnh
hành của những con người có đạo. Những hành vi được điều chỉnh ở đây không chỉ
những hànhvi trong thờ cúng ngay cả trong cuộc sống hàng ngày trong gia
đình cũng như ngoài hội của giáo dân. Vì vậy, hệ thống chuẩn mực, giá trị trong
thuyết đạo đức xãhội mà tôn giáo tạo ra đã ảnh hưởng quan trọng đến mọi hoạt
động của con người. Tất nhiên đây chúng ta cần phải chú ý rằng những chuẩn mực,
giá trị tôn giáo đã bị tước bỏ khá nhiều những đặc trưng khách quan phụ thuộc
vào những giá trị siêu nhiên, hư ảo.
lOMoARcPSD| 61178690
d. Chức năng sinh hoạt văn hóa (lấy ví dụ các ngày lễ)
- Chức năng giao tiếp của tôn giáo thể hiện khả năng liên hệ giữa những người
chung một tín ngưỡng. Sự liên h(giao tiếp) được thực hiện chủ yếu trong hoạt động
thờ cúng, sự giao tiếp với thánh thần được coi là sự giao tiếp tối cao. Ngoài mối liên
hệ giao tiếp trong quá trình thờ cúng, giữa các giáo dân còn sự giao tiếp ngoài tôn
giáo nliên hệ kinh tế, liên hệ cuộc sống hàng ngày, liên hệ trong gia đình… Những
mối liên hngoài tôn giáo thể lại củng cố, tăng cường các mối liên hệ tôn giáo
của họ.
e. Chức năng liên kết
- Trong các hội trước đây, tôn giáo với cách bộ phận tất yếu trong cấu trúc
thượng tầng đã đóng vai trò quan trọng của nhân tố liên kết xã hội, nghĩa là nhân tố
làm ổn định những trật tự hội đang tồn tại, dựa trên những hệ thống giá trị
chuẩn mực chung của hội. Tuy nhiên không nên quan niệm một cách sai lầm rằng
tôn giáo bao giờ cũng là nhân tố liên kết xã hội chủ yếu, bảo đảm sự thống nhất của
xã hội. Sự thống nhất của hội trước hết được bảo đảm bởi hệ thống sản xuất vật
chất xã hội chú không phải bằng cộng đồng tín ngưỡng. Hơn nữa trong những điều
kiện hội nhất định, tôn giáo thể biểu hiện như ngọn cờ tưởng của schống
đối lại xã hội, chống lại chế độ phản tiến bộ đương thời..
Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam, từ đó hãy phân tích ảnh hưởng của
nó đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay
1. Kn thờ mẫu
- Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam việc tôn thờ nữ thần phải do người nữ thực
hiện, tuyệt đối không là người nam, thờ Thánh Mẫu, thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ
xuất hiện kphổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa.Tục thờ mẫu còn
được đan xen với Phật Giáo ở thời kỳ đầu mới du nhập
2. Tín ngưỡng thờ mẫu
- Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam hay thường gọi Đạo Mẫu (道母), thờ Thánh
mẫu, thờ tam phủ tứ phủ xuất hiện khá phổ biến và nguồn gốc lịch sử hội
sâu xa. Xuất phát từ chế độ mẫu hệ của nhân dân ta trong xã hội nguyên thủy.
- Tuy tất cả đều là sự tôn sùng thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ nữ thần, Thánh
Mẫu, Thánh Cô, Mẫu tam phủ, tứ phủ không hoàn toàn đồng nhất.
lOMoARcPSD| 61178690
-Bản chất tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa lấy việc tôn thờ
Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trợ che chở cho con
người. Tín ngưỡng mà ở đó đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ,
nơi đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của
mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của hội Nho giáo phong kiến Ngoài ra
còn Thánh Bản Mệnh vị thần đứng đầu dẫn dắt người tu đạo đi đến với Mẹ
(Mẫu) - Đấng Tối cao trong Đạo Mẫu Việt Nam Hoàng Thiên Tiên Thánh Giáo
trong tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam.
- Thờ Mẫu chính là sự tin tưởng, ngưỡng mộ, tôn vinh và thờ phụng những vị
nữ thần gắn với các hiện tượng tự nhiên, vũ trụ; được người đời cho rằng có quyền
năng sáng tạo, bảo trợ che chở cho sự sống của con người , thờ những thái hậu,
hoàng hậu, công chúa những người khi sống tài giỏi, công với dân, với nước,
khi mất hiển linh phù trợ cho người an, vật thịnh.
- Trải qua hình thành và phát triển, tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta đã phát triển
hình thành tín ngưỡng Tam phủ: Thiên phủ, Nhạc phủ, Thoải phủ; Tứ phủ, ngoài ba
phủ trên thêm Địa phủ. Tín ngưỡng thờ Mẫu gần gũi với thiên nhiên, đất trời, gắn
với thân phận của người phụ nữ Việt Nam … Người ta đến với Mẫu để tìm chỗ dựa
về tinh thần, tìm được sự che chở của người mẹ.
3. Ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
a. Giá trị kinh tế xã hội
-Nhìn chung những ngôi đền, chùa, phủ trong thực hành tín ngưỡng thờ mẫu có giá
trị kinh tế cao. Mỗi một công trình kiến trúc đền chùa ph đều được xây dựng từ rất
lâu đời được xây dựng trang trí để bàn tay khéo léo của người dân, của những nghệ
nhân dân gian. Chất liệu được sử dụng để xây dựng các công trình kiến trúc được
chọn lựa kỹ lưỡng và rất quý.
- Ngoài mục đích nơi thờ cúng Thánh Mẫu tại một số đình thờ mẫu Nam
Địnhcòn được sử dụng là đình làng nơi thường các vị thánh bảo trợ cho cả làng
nơi các già làng họp bàn công việc quan trọng của cả làng. Vì vậy những công trình
kiến trúc này còn ý nghĩa chính trị hội sâu sắc. b. Phát huy truyền thống
uống nước nhớ nguồn
- Ngoài thành mẫu, những nhân vật khác được thờ trong tín ngưỡng thờ mẫu
những nhân vật thật trong lịch sử hoặc chỉ trong truyền thuyết nhưng được
người dân tin thờ trao truyền tập quán đó. Trong các đền, phủ thờ mẫu luôn
những không gian thờ các vị anh hùng công với nước được nhân dân tôn thánh.
lOMoARcPSD| 61178690
- Người dân tin rằng các vị ấy con của trời xanh xuống để giúp dân khi
giặc ngoại xâm khi đã giành chiến thắng thì các v ấy quay lại có thiêng liêng là cõi
trời. Cùng với đó, trong điệu múa lên đồng thể hiện rất sự hồi tưởng lại lịch sử
dân tộc người dân đã hình tượng hóa các trận đánh lớn của các vanh hùng bằng
những điệu múa.
- Điều không thể không nói tới đó tín ngưỡng thờ mẫu đã ca ngợi tôn vinh vai
trò của người phụ nữ.
- Tín ngưỡng thờ mẫu còn góp phần xây dựng giáo dục đạo đức lối sống tốt đẹp
của người dân. Điều này có ý nghĩa quan trọng hơn đối với thế hệ trẻ, tương lai của
đất nước khi đối mặt với những tác động mạnh mẽ nbão khoa học - công nghệ
và những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Vì vậy vấn đề bảo tồn và phát huy giá
trị của tín ngưỡng thờ mẫu càng có ý nghĩa hơn.
c. n ngưỡng thờ mẫu ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống tinh thần của người dân.
- Giá trị cốt lõi của tín ngưỡng thờ mẫu là cái tâm hướng thiện. Khác với nhiều
tôn giáo, tín ngưỡng khác, đó Phật giáo, Kitô giáo,... Tín ngưỡng thờ mẫu
không hướng chính con người và niềm tin con người tới thế giới sau khi chết mà là
thế giới hiện tại, thế giới mà con người cần đến sức khỏe tiền tài và quan lộc. Đó là
những mong muốn mang tính ch cực phù hợp với quan niệm “hiện sinh” của con
người trong thế giới hiện đại.
- Tín ngưỡng thờ mẫu ảnh hưởng rất lớn tới duy người dân giúp con người
luôn sống thiện sống cống hiến. Tại cuộc sống hiện thực tất cả vẻ đẹp độc đáo được
hội tụ chất lọc từ cuộc sống đương đại thông qua đó người dân gửi gắm ước khát
vọng của mình đđời sống tâm linh Thánh Mẫu xoa dịu đi những nỗi đau về tinh
thần về thể xác do cuc sống hiện thực đem lại. d. Mang lại giá trị văn hóa nghệ
thuật
- thể hiếm thấy một hình thức tôn giáo tín ngưỡng dân gian nào như thờ
Mẫu mà ở đó thể hiện khá tiêu biểu quá trình nảy sinh tích hợp các hiện tượng
giá trị văn hóa mang sắc thái dân tộc độc đáo như: nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật
diễn xướng, tạo hình dân gian
- Các hình thức sinh hoạt cộng đồng thực hành tín ngưỡng thờ mẫu được vinh
danhbởi đó một nghệ thuật trình diễn tổng hợp âm nhạc, bài hát, điệu múa,
trang phục, các đạo cụ llối trong trình diễn cùng với các thực hành văn hóa như
ăn trầu, uống rượu, dâng hương, phát lộc hoặc lắng nghe lời thỉnh cầu giao tiếp với
cộng đồng. Tất cả những biểu hiện đó là giá trị văn hóa nghệ thuật những hình thức
lOMoARcPSD| 61178690
nghệ thuật dân gian của dân tộc được hội nhập tích hợp sáng tạo tín ngưỡng
này tạo thành giá trị văn hóa đặc sắc.
Cho biết quan điểm, đánh giá của anh/ chị về một hiện tượng phổ biến trong các
ngôi Chùa Việt Nam đó là: Chùa nơi thờ Phật, nhưng không phải chỉ
Phật A Di Đà, Thích Ca Mâu Ni, Di Lặc, các vị La Hán, Bồ Tát... mà ở đó, ta còn
thấy những danh nhân văn hóa lịch sử, những vị anh hùng công với nước; các
vị thánh, thần, tiên, mẫu... của các tôn giáo, tín ngưỡng bản địa và ngoại sinh.
- Một trong những đặc điểm văn hóa của người Việt Nam lòng tín mộ.
thể nói, từ ngàn xưa, người Việt Nam nào cũng có đối tượng niềm tin riêng và thực
hành niềm tin ấy bằng sự thcúng một ch nào đó. Ý niệm thần chỉ mới xuất
hiện sau này cùng với sự du nhập tư tưởng Âu Tây và lí thuyết Cộng Sản.
- Lòng tín mộ ấy biểu hiện ràng một phần do việc, qua các thời lịch sử,
người Việt Nam đã sẵn sàng đón nhận các nền đạo học các tôn giáo truyền từ
nước ngoài vào nước ta, như: Khổng – Mạnh, Lão-Trang, Phật giáo, Kitô giáo, Hồi
giáo, v.v., hoặc đã thành tâm tin theo Cao Đài giáo Phật giáo Hòa hảo mới được
sáng lập sau này.
- Một tác giTây phương, Linh mục Léopold Cadière cũng đưa ra kết luận cho
công trình nghiên cứu về các tín ngưỡng của người Việt Nam như sau: ‘Đến đây, ta
thử xác định xem tôn giáo của người Việt Nam là gì. Có hai tôn giáo chính, (một) là
tôn giáo thờ thần, tôn giáo này có hai đối tượng vì sự thờ cúng có thể hướng về các
lực lượng thiên nhiên được ngôi vị hóa, thể hướng vnhững linh hồn người
chết mà tôi hiểu đó là đó là sự thờ cúng các anh hùng, các vong hồn và tổ tiên. Tôn
giáo này có hai cách thực hành, tùy theo sự thờ cúng có tính cách tôn giáo thì gọi là
Khổng giáo hoặc có tính cách ma thuật thì gọi là Lão giáo. Bên cạnh tôn giáo chính
này, có một tôn giáo thứ hai, đó là Phật giáo
1 .Tại sao Việt Nam thờ những danh nhân văn hóa lịch sử, những vị anh hùng
công với nước, các vị thánh, thần, tiên, mẫu... của các tôn giáo, tín ngưỡng
bản địa và ngoại sinh.
lOMoARcPSD| 61178690
- Thờ cúng các vị thần bảo vệ gia đình không hề xa lạ tại Việt Nam. Đối với
người Việt, thờ ônggia đình việc chính, được đặt giữa nhà, giữa ban thờ,
nói lên ước vọng chính của gia đình. Các vị Thần nQuan Công, Cửu Thiên Huyền
Nữ, Linh Sơn Thánh Mẫu, Thổ Địa, Thần Tài… sẽ bổ sung thêm những ước vọng
khác của gia chủ. Thần Trời, thần Mặt Trăng, thần các Vì Sao, ông thần Sấm bà thần
Sét, ông thần Bão bà thần Gió Lốc,.. là những vị thần gia bảo trong tín ngưỡng dân
gian của một số vùng miền. Các thần bảo gia thường che chở cho gia chủ tránh khỏi
sự phá rối của ma quỷ, ác thần, các rủi ro trong cuộc sống, gặp dữ hóa lành.
- Có ba nguyên do: một là vì người Việt Nam tin vào linh hồn thuyết, hai là vì
lòng nhớ ơn công lao hiển hách của các vị, ba vì muốn noi gương các đức tính
đặc biệt của các vị ấy.
a.Người Việt Nam tin vào linh hồn thuyết
- Theo thuyết này, người ta cho rằng ‘sự sống hậu quả của một sự hợp
nhất…củahồn và phách (vía), và cuộc sống sẽ kéo dài bao lâu hai nguyên lí này còn
hợp nhất, sự phân li dẫn tới cái chết. Ngay lúc phân li, hồn cao hơn, hồn khí hay khí
nóng, bay lên không gian và trở về trời, nơi từ đó đã đến. Do đó, sức nóng phát
sinh sự sống rời bỏ các phần thân thể từ từ theo mức độ không cảm thấy được, đó
chính hồn bên trong, còn hình phách trở về với đất, nguồn gốc của nó. - Người
Việt Nam chẳng những tin linh hồn trường tồn, còn tin các linh hồn khi lìa xác
vẫn còn tiếp tục lui tới với người sống và hòa mình vào tất cả các hoạt động để phụ
giúp hay đối nghịch lại. Linh hn kẻ chết vẫn còn tiếp tục chịu s phận y hệt khi còn
sống. Nếu mộ phần của họ được tôn kính được săn sóc cẩn thận, nếu họ được
cúng kiến trong các lễ với những lễ thì khi nhận được lễ vật, các hồn sẽ sung
sướng, sẽ thiện cảm với người dâng cúng đáp lại lòng tôn kính ấy bằng cách
ban những ân huệ.
- Như thế, mối cảm thông giữa kẻ chết người sống đã được thành lập thật
sự. Song nếu kchết không được chôn cất, không mộ phần, dường như bị bỏ
rơi và khổ sở, họ sẽ trở nên đáng sợ.
- Chính niềm tin con người ta có linh hồn linh hồn trường tồn sau khi chết,
linh hồn vẫn phảng phất đâu đây, vẫn giao cảm cùng cõi nhân sinh, đã khiến cho
người Việt Nam thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các danh nhân, anh hùng và thờ cúng các
vong hồn.
b. Vì lòng nhớ ơn công lao hiển hách của các danh nhân, anh hùng
lOMoARcPSD| 61178690
- Các ngài là những vĩ nhân, những công dân kiệt xuất bởi công lao to lớn đối
với làng xã, đối với đất nước. Do đó, khi chết đi, các ngài được dân chúng tin tưởng
đặc biệt anh linh tôn lên làm thần. Trong số đó, có những vị được chính thức
công nhận bởi các chức sắc của làng xã, có những vị được nhà vua ban sắc phong.
- Việc thờ cúng các danh nhân, anh hùng chẳng những do lòng biết ơn các ngài
mà còn do thành tâm cầu xin các ngài phù giúp dân làng hoặc xin các ngài tiếp tục
góp công bảo vệ đất nước.
c. Vì muốn noi gương các đức tính đặc biệt của các ngài
- Lí do thứ ba khiến cho người Việt Nam thờ cúng các danh nhân, anh hùng chính là
lòng cảm phục các đức tính đặc biệt của các ngài mong muốn noi gương các
ngài.
- Theo tác giả (tức Tế Xuyên)) thì thần thánh ai xa lạ đâu. Đó là những
người trần mắt thịt như tất cả chúng ta, chỉ khác một điều là các người ấy đã sống
một đời sống siêu phàm, trong sự cần lao cam khổ, trong sự phục vtích cực, trong
nỗ lực chống lại squyến của vật chất; thần thánh những người đã sống hết
tất cả kích thước của người, tận cùng biên giới nhân loại. Đến trình độ ấy, giá trị
của con người tự nhiên được gia tăng, con người có thể tham dự vào đời sống linh
thiêng để tiếp tục quảng bố ơn cương thường như trước, đến giai đoạn này, các vị
anh hùng xứng đáng được lòng ngưỡng mộ sùng kính của nhân dân. Việc đền
miếu phng tự trở thành một điều kiện phải có. Ta không lạ gì khi thấy có nhiều vị
thần hiển linh như muốn được hưởng tế tự lâu dài… Thần thánh là kiểu mẫu
tưởng của nhân dân, họ cần được sự phù trợ của thần, nhưng hơn hết tất cả, họ
mong muốn được nên giống như thần thánh, can đảm chống lại dục vọng của
họ để đi lên cao hơn’.Với lí do thứ ba này, ta có thể nói sự thờ cúng các danh nhân,
anh hùng còn mang tính giáo dục.
Qua đó, người Việt Nam bày tỏ tấm lòng hiếu kính với Quốc tcác bậc tiền liệt;
hội tụ tinh hoa các giá trị văn hóa, củng cố nhân lên niềm tin vào sức mạnh
tiền đồ của dân tộc.
lOMoARcPSD| 61178690
Trong 10 điều răn của Chúa, anh/ chị tâm đắc nhất điều nào, sao? Ý nghĩa của
điều răn đó đối với thực tiễn xã hội hiện nay.
- nêu rõ 10 điều răn em thích điều nào
- Điều răn th6 : ‘Không được sát nhân hay giết người.’ Chúa dạy chúng ta cần phải
bảo vệ và tôn trọng mạng sống con người. Thật ra Chúa Giêsu nói, “Chỉ cần giận
anh chị em mình cũng là giết người rồi.” Bởi vì :
- Đối với những người theo đạo Cơ đốc, điều răn này thường được coi là lời kêu gọi
thúc đẩy sự thịnh vượng và thịnh vượng của tất cả mọi người, bất kể địa vị xã hội,
sắc tộc hay xuất thân của họ. Nó cũng là một lời nhắc nhở rằng cuộc sống của con
người thiêng liêng chúng ta trách nhiệm bảo vgiữ gìn nó. Tóm lại,
điều răn thứ sáu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc qtrọng tôn trọng sự sống
con người. nghiêm cấm tước đoạt mạng sống của người khác không
do chính đáng kêu gọi mọi người thúc đẩy sự thịnh vượng và thịnh vượng của
tất cả mọi người.
- Điều răn thứ sáu, “Chớ giết người,” một điều cấm ràng về việc tước đoạt mạng
sống của người khác không do chính đáng. Điều răn này thường được
hiểu là một tuyên bố cơ bản về giá trị của cuộc sống con người và tầm quan trọng
của việc đối xử với người khác bằng sự tôn trọng nhân phẩm. Trong bối cảnh
của Kinh thánh, điều răn này được ban cho dân Y--ra-ên như một phần trong giao
ước của họ với Đức Chúa Trời. Nó nhằm đảm bảo rằng họ được sống trong một xã
hội công bằng, hòa bình và tôn trọng sự thiêng liêng của cuộc sống con người.
Ý nghĩa của điều răn đó đối với thực tiễn xã hội hiện nay.
- Đây là điều răn có ý nghĩa sâu rộng, và là tiêu chí quan trọng nhất trong cuộc sống
thường ngày của con người trong Thời đại Pháp luật. Giết người luôn là một trong
những tội trạng nguy hiểm nhất, vi phạm pháp luật hình sự có bản án thuộc mức
cao nhất.
- Điều răn này cấm cố ý giết người trực tiếp. Giết trẻ thơ (phá thai), giết anh em, cha
mẹ, vợ chồng, làm chết sớm… đều là những tội thật nặng nề. – Cũng không được
cố ý gián tiếp gây ra nên cái chết của một người. Không được để chết đói, kinh
doanh trục lợi gây ra nên chết , cấm tự tử , làm hại sức khoẻ: như ăn uống quá độ,
hút thuốc quá đáng, say rượu, lái xe, lái tầu quá lẹ gây nguy hiểm chết người , xài
ma y, kinh doanh ma túy lỗi nặng, cấm gây ra gương xấu. Gương xấu thể
nảy sinh từ thời trang hoặc luận, cấm giận ghét tha nhân, giận ghét tới mức
muốn giết hoặc đả thương cách có suy nghĩ, thì phạm đức ái cách nặng. Chúa dạy
tha thứ, yêu thương cả kẻ thù.
lOMoARcPSD| 61178690
- Điều răn thứ sáu của Chúa như một lời nhắc nhở với chúng ta, trong thời đại xô bồ
và phát triển không ngừng này, đừng vì sự cấp tiến của cuộc sống mà đạp lên sinh
mạng người khác hay chính bản thân mình. Những việc làm hại nho nhỏ như
thức khuya, ăn uống không điều độ, dùng chất kích thích, không chỉ gây ra những
tác hại nhất thời đến thể chúng ta, mà nó còn góp phần giết chết chúng ta mỗi
ngày. Hay những hành động như nạo phá thai, buôn bán ma túy, đều là những hành
động gây nên cái chết gián tiếp cho người khác, mọi sinh linh, sinh vật đều đáng
quý và đáng chân trọng, cùng là con người, ta càng phải biết bảo vệ giống nòi của
mình.
- Ngoài ra, thông qua điều răn thứ 6, Chúa còn dạy ta phải biết thứ tha, tha cho kẻ
thù, bởi vì cái knhất của cuộc đời không phải trả thù tha thứ, một khi ta
đã buông tha được cho kẻ thù, ta sẽ buông tha được cho gánh nặng trong mình, để
tâm được thanh thản. Bởi vì những kẻ thủ ác sẽ phải nhận quả báo của cuộc đời.
klsp (lhe bản thân) :
- Giáo viên ngoài tập trung vào trau dồi chuyên môn thì cũng cần phải rèn luyện,
trau dồi về mặt đạo đức, nhân cách.
- Trong các giờ lên lớp, giáo viên cần phải dạy học sinh những nề nếp, ý thức, dạy
chúng cách làm người tốt, người thiện.
- Sinh viên nâng cao hiểu biết về vấn đề tôn giáo
- Hạn chế những hành động gây hại cho sức khỏe (vd làm việc quá sức, luôn quan
tâm tới sức khe học sinh và bản thân cả về thể xác và tinh thần)
Cho biết quan điểm của anh/ chị về câu nói sau: “Giác ng luôn luôn hiện hữu.
Sự giác ngộ nhỏ sẽ mang tới giác ngộ lớn lao. Nếu bạn hít thở nhận ra
rằng mình vẫn đang sống, đó là lúc bạn chạm tay vào điều kỳ diệu của việc
được sống. Đó cũng là một loại giác ngộ” [Thiền sư Thích Nhất Hạnh].
1.Phân tích câu nói.
a. Giác ngộ là gì ?
-Theo nghĩa Hán Việt, “giác ngộ” được hiểu theo nghĩa là tỉnh ra, thức tỉnh. Giác là
tỉnh dậy, Ngộ nhận ra. Do đó, giác ngộ nghĩa thức tỉnh và tìm ra được chân
tuyệt vời nào đó trong cuộc sống thường nhật.
(Ví dụ : khi ta đang uống trà, biết được rằng ta đang uống trà, biết được hương
vị, cách tạo nên li tđấy, ta đang giác ngộ một phần nhỏ. Bởi những người
lOMoARcPSD| 61178690
uống trà, mà nghĩ điều sân si, lo toan bộn bề, không thoát được những cái kìm hãm
bản thân mình, đó là không giác ngộ.)
-Từ ngữ này chỉ sự hiểu biết bằng tất cả ttuệ, luận, cảm xúc cũng như kinh
nghiệm sống dày dặn của con người. Với những ý nghĩa đó, nhiều người còn gọi
giác ngộ với một cái tên khác là tuệ giác.
-Hiểu đơn giản, giác ngộ chính khi con người quyết định từ bỏ những thói quen
tật xấu, những ham muốn đời thường. Lựa chọn lối sống an nhiên, thanh tịnh, học
theo những điều hay lẽ phải trên đời.
b. Thế nào là hiện hữu, giác ngộ luôn hiện hữu là gì.
-Hiện hữu là hiện thể ra đó, chỉ vậy thôi; những vật thể xuất hiện, để cho ta gặp gỡ
chúng, nhưng chẳng bao giờ ta có thể suy diễn, diễn dịch chúng được
-Giác ngộ là thức tỉnh, là hiểu bản thân, chứ không phải là đi tìm một cõi đời mới,
siêu nhiên và không chân thực, vì thế giác ngộ ở cạnh ta một cách thật bình thường.
luôn hiện hữu trong đời sống, nó xuất hiện trong con người một cách từ tốn
đôi khi ta còn không nhận ra.
c. Sự giác ngộ nhỏ bé sẽ mang tới giác ngộ lớn lao
- Nhiều những điều nhỏ bé, sẽ vun lại thành một điều lớn lao, góp tiểu thành đại.
- Từng sự giác ngộ nhỏ phải đi liền với nhau. Chúng phải luôn luôn được nuôi dưỡng
để trở thành sự giác ngộ tuyệt vời nhất có thể. Một khoảng khắc sống trong chánh
niệm đã là một khoảng khắc giác ngộ. Nếu bạn luyện tập bản thân để sống như vậy
mỗi ngày, hạnh phúc và giác ngộ sẽ tiếp tục lớn lên.
-Nếu bạn biết cách duy trì giác ngộ và hạnh phúc, nỗi đau, nỗi sợ, nỗi khổ sẽ không
còn cơ hội hiện hữu. Nếu không xuất hiện trong thời gian dài, chúng sẽ dần dần yếu
đi. Rồi, khi ai đó chạm đến hạt giống đau khổ, sợ hãi, giận dữ trong bạn những
thử đó bộc phát, bạn sẽ biết cách mang trở lại hơi thở chánh niệm và nụ cười chánh
niệm. Bạn sẽ ôm lấy được nỗi đau khổ ca chính mình.
d. Nếu bạn hít thở và nhận ra rằng mình vẫn đang sống, đó là lúc bạn chạm tay vào
điều kỳ diệu ca việc được sống
- Con người thường nghĩ giác ngộ chỉ khi chúng ta tới được một không gian
khác, thiên đàng hay cõi bồng lai, giác ngộ thoát tục, biến thành thần tiên, nhưng
thật ra giác ngộ hiểu được mình, hiểu được bản thân. Không còn thói sân si ích
kỷ, hiểu được đời được người, và biết yêu cái cuộc sống. - Việc đang sống và được
sống liên quan mật thiết tới giác ngộ.
lOMoARcPSD| 61178690
- Giác ngộ đến một cách quá đỗi bình an, trước khi ta kịp đuổi theo nó, chạy
theo nó, giác ngộ đã đến với ta từ từ, như thể hít thở một hơi thật bình thường.
- Được sống và sống là một điều diệu kỳ, chỉ khi ta hiểu được điều đó, ta mới
thật sự giác ngộ.
e. Đó cũng là mt loại giác ngộ
Nếu con người không giác ngộ, không có niềm tin thọ sẽ sống bất chấp, sống
ích kỉ, sống tàn độc.
5. Liên hệ bản thân
- Làm chủ tự tâm: an nhiên và tĩnh tại
- Ý thức về hành động của mình
- Khép mình vào kỷ luật
- Kiên định với mục tiêu đề ra
- Quản sát tự thân
- Giữ tâm điềm tĩnh
1. Vô ngã trong phật giáo:
Khi niêm: ngã (anatta) nghĩa đen là “không có ta”, nghĩa bóng có nhiều nghĩa,
theo Đại thừa vô ngã có nghĩa là “vô tự tính”; theo Nguyên thủy vô ngã có nghĩa là
“không phảita, không phải của ta”.Vô ngã pháp ấn chỉ trong Phật giáo,
cho rằng, không một Ngã, một cái trường tồn, bất biến, cốt tủy, vững chắc, tồn
tại mà không phụ thuộc vào cái khác. Nghĩa là sự vật có mặt là do duyên sinh (tùy
thuộc điều kiện) khởi phát, chứ sự vật không có quyền gì với sự sinh ra và sự hoại
diệt của chính nó. Như thế, theo đạo Phật, cái ngã, cái "tôi" không ch
một tập hợp của Ngũ uẩn.
Vô ngã là pháp ấn chỉ có trong Phật giáo, cho rằng, không có một Ngã (sa. ātman,
pi. attā), một cái trường tồn, bất biến, cốt tủy, vững chắc, tồn tại không phụ
thuộc vào cái khác. Nghĩa svật mặt là do duyên sinh (tùy thuộc điều kiện)
khởi phát, chứ sự vật không quyền với sự sinh ra và sự hoại diệt của chính nó.
Như thế, theo đạo Phật, cái ngã, cái "tôi" không chỉ một tập hợp của
Ngũ uẩn (sa. pañcaskandha), luôn luôn thay đổi, sinh diệt. Vô Ngã là một trong 3
pháp ấn. Hai pháp ấn còn lại Khổ Vô Thường. Cái sinh thì phải diệt
là vô thường; cái vô thường thì là khổ; cái gì khổ mà nó biến đổi theo duyên sinh
(không tùy thuộc vào ý muốn của nó) thì là vô ngã. Mọi pháp hữu vi (pháp có sinh
thì có diệt) thì là Khổ, Vô Thường, Vô Ngã. Pháp Vô Vi (pháp không có sự tạo tác
lOMoARcPSD| 61178690
nên không có sự diệt) cũngvô ngã. Pháp Vô Vi không có tính chất Vô thường
Khổ như pháp hữu vi.
Cái tôi không có hình thể, màu sắc nơi chốn, nhất định. Càng tìm, càng không tìm
ra nó. Cái Tôi chỉ một cái nhãn hiệu dán lên ngũ ấm một sự hiện hữu liên tục.
Nhận định như vậy giúp con người giảm nhẹ đi ý niệm xem "cái Tôi" như một
thực thể tối thượng bắt buộc chúng muốn những gì chúng ta thích và ghét bỏ những
gì chúng ta không ưa. Cảm giác về cái Tôi đó khiến cho con người tách rời ra khi
thiên hạ. cũng chính tnhững tình cảm yêu ghét sai lạc đó, dấy lên những
tưởng tình cảm khởi điểm cho những lời nói hành động đưa đến Đau Khổ.
Khám phá bằng kinh nghiệm trực tiếp, bằng phân tích, bằng thiền định rằng cái
"Ngã" không thật (hay cái ngã), sẽ một tiến trình đi đến giải thoát. Như giải
thích trong kinh Bát Nhã thì ngũ uẩn hay ngũ ấm đều có tính không hay ngũ ấm
ngã.
2. Ý nghĩa của vô ngã đối với bản thân:
ngã một khái niệm trong đạo Phật, ý nghĩa từ bỏ ý thức nhân, lòng
tham và ái kỷ để đạt đến sự tự do, an lạc và sự giải thoát. Vô ngã không
chỉ áp dụng trong việc giải thoát khỏi khổ đau áp lực sự căng thẳng tâm lý.
cứu thoát luân hồi, mà còn ý nghĩa rộng hơn trong cuộc sống hàng ngày.
Vô ngã có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mọi người trong xã hội
- Giảm bớt căng thẳng lo lắng: Khi ta không đặt quá nhiều sự chú ý vào bản
thânvà ý thức bởi sự đánh gtừ người khác thường scảm thấy tự ti về bản thân ,vì
vậy tathể giảm bớt căng thẳng và lo lắng vì những tham vọng, áp lực và sự so sánh
với người khác. Điều này giúp ta có lòng tự tin và nhận thức sâu sắc về giá trị thực sự
của mình. Bằng cách từ bỏ ý thức nhân duy, ta giải phóng mình khỏi những
đau khổ lạc lối trong cuộc sống. ngã giúp ta nhìn nhận mọi thứ một cách bình
thản và không gắn kết với kết quả.
- Hiểu rõ bản chất thực tại: Bằng cách vượt qua ý thức cá nhân, ta có thể hiểu
hơnvề bản chất thực tại của mọi vấn đề. ngã giúp ta nhìn thấy mọi sự vụ từ một góc
độ toàn diện hơn, không bị ảnh hưởng bởi quan điểm cá nhân.
- Đạt được trạng thái yên tĩnh tĩnh lặng trong tâm hồn: Bằng cách từ bỏ lòng
cămthù, lòng tham muốn lòng ái kỷ, ta thể đạt được sự yên tĩnh trong tâm hồn
sống trong hiện tại. Giúp tăng cường sự nhân ái và lượng tâm: ngã giúp ta tập
trung vào việc giúp đỡ người khác mà không đòi hỏi sự đền đáp hay trả thù. Điều này
tạo ra một tinh thần điều kiện sẵn sàng chia sẻ, giúp ta thể tạo ra một môi
trường hòa bình và đồng hành với mọi người.
lOMoARcPSD| 61178690
- Tìm thấy ý nghĩa sống sự hài lòng: Bằng cách không gắn qmạnh với
sựhữu hình và đạt được sự tồn tại bên ngoài, ta có thể tìm thấy ý nghĩa sâu sắc và hài
lòng từ bên trong.
-Tạo ra tình thương sự thông cảm: Khi không đặt lợi ích cá nhân lên hàng đầu Từ
bỏ ý thức nhân ta trở nên nhạy bén hơn đối với nỗi đau khó khăn của người khác.
Vô ngã giúp ta có trái tim rộng mở, sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Điều này giúp tạo ra
một môi trường sống hài hòa tạo ra niềm vui hạnh phúc cho chính mình người
khác.
-Vô ngã giúp con người cái nhìn đúng đắn, khách quan trong cuộc sống ngày nay,
con người sẽ sống hòa đồng, tình cảm luôn giúp đmọi người bằng tâm thế sẵn
lòng, cởi mở tươi vui hơn.
- Thành công trong việc đạt được sự giải thoát: Vô nmột trong những điều
kiệncần để đạt được sgiải thoát khỏi luân hồi khổ đau. Bằng cách từ bỏ ái kỷ
ngã quyền ta có thể tiến đến sự giải thoát và sống một cuộc sống tự do và an lạc.
-Khi áp dụng ngã vào cuộc sống hàng ngày, ta thể đạt được sự tự do hạnh
phúc đích thực trong tâm hồn, đồng thời tạo ra một tác động tích cực đối với xã hội
những người xung quanh.
=> Vậy nên, nếu chúng ta thể sống một lần trong đời thì hãy giải phóng bản thân
như những đứa trẻ ngoài kia chúng ta sẽ thấy rằng cuộc đời đẹp đẽ biết bao nhiêu.
Những sự thay đổi nhỏ ấy có thể dồn lại tạo nên một sự khác biệt lớn. Có lẽ, chiếc xe
kế tiếp mà chúng ta mua sẽ không dựa trên những gì người khác nghĩ, có lẽ bộ đồ mà
chúng ta sẽ mua tiếp theo sẽ dựa trên cái mà chúng ta thích mà không dựa vào những
gì người khác muốn…
Nếu chúng ta không làm tổn thương người khác và không làm tổn hại bản thân thì
lẽ chúng ta sẽ sống một cuộc sống tự do hơn, bỏ đi cái bản nấy và chỉnh
chính mình. Chúng ta thể chính mình không cần qquan tâm đến
những người khác nghĩ. Bạn thấy những đứa trẻ chơi trong công viên rồi đấy,
và bạn có thể giống như chúng, sống thoải mái mà không bận tâm đến những gì
người khác nghĩ.
Kết luận: Đây là vấn đề của sống thoải mái mà không bám víu vào cái tôi là ai, mà chỉ
cần là chính bản thân mình.
18. Tìm hiểu về Tứ diêu đ
ế
1. Khái niệm:
lOMoARcPSD| 61178690
Tứ diệu đế là nền tảng của giáo lý, là cốt tủy của giáo pháp, được Đức Phật chứng
ngộ trong đêm thành Đạo tại cội bồ-đề và rồi tuyên thuyết kinh Chuyển Pháp Luân
Vườn Nai để độ cho 5 đạo sĩ.
Chúng được khám phá bởi một Thánh nhân vĩ đại nhất, một người đã hoàn toàn rời
xa khỏi những ô nhiễm và bất tịnh.
sẽ làm cho con người trở nên cao thượng nếu chịu khám phá ra chúng, thâm
nhập và giác ngộ được chúng, thì chính những người ấy sẽ được trở thành một bậc
Thánh nhân.
2. Tại sao là gọi là những Chân Lý Cao Diệu?
Bởi những chân đó lẽ thật sự thật không thể chối cãi được của cuộc
đời. Cho dù Đức Phật có được sinh ra ở cõi người này không thì những chân lý đó
cũng sẽ tồn tại trên i đời này. Chính Đức Phật đã phát hiện ra những chân đó
và truyền dạy lại cho nhân loại.
Điều thứ 2 được gọi là chânlà bởi vì chúng thuộc về khoa học và đúng với khoa
học về vật lý, tâm sinh lý - thiết nghĩ độc giả cần nắm tư tưởng này ngay từ đầu.
Phật giáo bàn luận những lẽ thật và những chân lý, mặc dù Phật giáo không đề cập
ngay đến vấn đề ai tạo ra chân lý đó, khoa học đó hay sự vận động của vũ trụ.
3. Các sự thật bao gồm:
Khổ đế ( dukkha: sự không thỏa mãn, sự đau đớn): là 1 tính chất bẩm sinh khi tồn
tại trong các cảnh luân hồi.
Tập đế (samudaya: nguồn gốc, sự sanh khởi hay là nguyên nhân): cùng với khổ đế
sinh ra ái, được dịch theo 1 cách truyền thống trong các ngôn ngữ phương Tây thì
đó nguyên nhân của khổ, ái còn thể được xem yếu tố buộc chúng ta vào
khổ, hoặc là 1 phản ứng với khổ, cố gắng để thoát nó.
Diệt đế (nirodha: sự đoạn diệt, sự chấm dứt, sự giam cầm): khổ thể được chấm
dứt hoặc được ngăn chặn bằng sự từ bỏ hoặc cứt đứt quan hệ với ái, sự từ bỏ ái sẽ
giải thoát khỏi sự trói buộc ca khổ.
Đạo đế (magga: bát chánh đạo) con đường dẫn đến sự từ bỏ, sđoạn diệt ái
khổ.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61178690
1. Nguồn gốc, bản chất, kết cấu và chức năng của tôn giáo
.Khái niệm tôn giáo
- Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng,
được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải
những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện
rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn hóa khác
nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ,
những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau
1. Nguồn gốc của tôn giáo
a. Nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo
Nguồn gốc xã hội của tôn giáo là toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện khách
quan của đời sống xã hội tất yếu làm nảy sinh và tái hiện những niềm tin tôn giáo.
Trong đó một số nguyên nhân và điều kiện gắn với mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên, một số khác gắn với mối quan hệ giữa con người với con người
– Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên -
Tôn giáo học mácxít cho rằng sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh
với tự nhiên là một nguồn gốc xã hội của tôn giáo. -
Như chúng ta đã biết, mối quan hệ của con người với tự nhiên thực hiện thông
qua những phương tiện và công cụ lao động mà con người có. Khi không đủ phương
tiện, công cụ để đảm bảo kết quả, mong muốn trong lao động, người nguyên thủy
đã tìm đến phương tiện tưởng tượng hư ảo, nghĩa là tìm đến tôn giáo. -
Chúng ta cần thấy rằng, sự thống trị của tự nhiên đối với con người không
phải được quyết định bởi những thuộc tính và quy luật của giới tự nhiên, mà quyết
định bởi mối tính chất mối quan hệ của con người với tự nhiên, nghĩa là bởi sự phát
triển kém của lực lượng sản xuất xã hội, mà trước hết là công cụ lao động. -
Như vậy, không phải bản thân giới tự nhiên sinh ra tôn giáo, mà là mối quan
hệ đặc thù của con người với giới tự nhiên, do trình độ sản xuất quyết định. Đây là
một nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Nhờ hoàn thiện những phương tiện lao động và
toàn bộ hệ thống sản xuất vật chất mà con người ngày càng nắm được lực lượng tự
nhiên nhiều hơn, càng ít phụ thuộc một cách mù quáng vào nó, do đó dần dần khắc
phục được một trong những nguồn gốc quan trọng của tôn giáo.
– Mối quan hệ giữa người và người lOMoAR cPSD| 61178690 -
Nguồn gốc xã hội của tôn giáo còn bao gồm cả phạm vi các mối quan hệ giữa
conngười với nhau, nghĩa là bao gồm các mối quan hệ xã hội, trong đó có hai yếu tố
giữ vai trò quyết định là tính tự phát của sự phát triển xã hội và ách áp bức giai cấp
cùng chế độ người bóc lột người. -
Trong tất cả các hình thái kinh tế – xã hội trước hình thái kinh tế – xã hội cộng
sản chủ nghĩa, những mối quan hệ xã hội đã phát triển một cách tự phát. Những quy
luật phát triển của xã hội biểu hiện như là những lực lượng mù quáng, trói buộc con
người và ảnh hưởng quyết định đến số phận của họ. Những lực lượng đó trong ý
thức con người được thần thánh hoá và mang hình thức của những lực lượng siêu
nhiên. Đây là một trong những nguồn gốc xã hội chủ yếu của tôn giáo. -
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, sự áp bức giai cấp, chế độ bóc lột là
một nhân tố quan trọng làm nảy sinh tôn giáo. Quần chúng không thể tìm ra lối thoát
hiện thực khỏi sự kìm kẹp và áp bức trên trái đất, nhưng họ đã tìm ra lối thoát đó ở
trên trời, ở thế giới bên kia.
b. Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo -
Thần thánh, cái siêu nhiên, thế giới bên kia… là sản phẩm của những biểu
tượng, sự trừu tượng hoá, sự khái quát dưới dạng hư ảo.
 Tôn giáo chỉ có thể ra đời ở một trình độ nhận thức nhất định, đồng thời nó phải
gắn với sự tự ý thức của con người về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới
bên ngoài. Khi chưa biết tự ý thức, con người cũng chưa nhận thức được sự bất lực
của mình trước sức mạnh của thế giới bên ngoài, do đó con người chưa có nhu cầu
sáng tạo ra tôn giáo để bù đắp cho sự bất lực ấy. -
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo gắn liền với đặc điểm của của quá trình
nhận thức. Những hình thức phản ánh thế giới hiện thực càng đa dạng, phong phú
bao nhiêu thì con người càng có khả năng nhận thức thế giới xung quanh sâu sắc và đầy đủ bấy nhiêu. -
Thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng như của mọi ý thức sai lầm
chính là sự tuyệt đối hoá, sự cường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người, biến
nó thành cái không còn nội dung khách quan, không còn cơ sở “thế gian”, nghĩa là
cái siêu nhiên thần thánh.
c. Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo -
Ngay từ thời cổ đại, các nhà duy vật đã nghiên cứu đến ảnh hưởng của yếu tố
tâmlý (tâm trạng, xúc cảm) đến sự ra đời của tôn giáo. Họ đã đưa ra luận điểm” “Sự
sợ hãi sinh ra thần thánh”. lOMoAR cPSD| 61178690 -
Các nhà duy vật cận đại đã phát triển tư tưởng của các nhà duy vật cổ đại –
đặc biệt là L.Phơbách – và cho rằng nguồn gốc đó không chỉ bao gồm những tình
cảm tiêu cực (sự lệ thuộc, sợ hãi, không thoả mãn, đau khổ, cô đơn…) mà cả những
tình cảm tích cực (niềm vui, sự thoả mãn, tình yêu, sự kính trọng…), không chỉ tình
cảm, mà cả những điều mong muốn, ước vọng, nhu cầu khắc phục những tình cảm
tiêu cực, muốn được đền bù hư ảo. -
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải quyết vấn đề nguồn gốc
tâm lý của tôn giáo khác về nguyên tắc so với các nhà duy vật trước đó. Nếu như
các nhà duy vật trước Mác gắn nguyên nhân xuất hiện tôn giáo với sự sợ hãi trước
lực lượng tự nhiên thì chủ nghĩa Mác lần đầu tiên vạch được nguồn gốc xã hội của sự sợ hãi đó.
2. Bản chất của tôn giáo -
Tôn giáo là sản phẩm của con người, do con người tạo nên, Trong các tác
phẩm của mình C. Mác đã khẳng định: “Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo
không sáng tạo ra con người”. Tôn giáo thường đưa ra các giá trị có tính tuyệt đối
làm mục đích cho con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp và nội dung ấy được thể
hiện bằng những nghi thức, những sự kiêng kỵ…
Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hóa, phù hợp với đạo
đức, đạo lý của xã hội. -
Mặc dù tôn giáo có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng trong đời
sống tinh thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tôn giáo là một
hiện tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những hình thái ý thức xã
hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
– Tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử, luôn luôn vận động, biến đổi
- Tôn giáo có tính hai mặt, vừa là biểu hiện của thế giới đương thời, vừa phảnkháng
chống lại thế giới đó. Tôn giáo có sự tác động, ảnh hưởng đến đời sống xã hội trên
2 mặt tích cực và tiêu cực.
3.Kết cấu của tôn giáo (tâm lí tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo)
- Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng, thói quen của
quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo.
- Bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo. lOMoAR cPSD| 61178690
- Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra
vàtruyền bá trong xã hội. Đứng về mặt lịch sử, tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn
giáo là hai giai đoạn phát triển của ý thức tôn giáo, nhưng chúng liên hệ tác động
qua lại và bổ sung cho nhau. Tâm lý tôn giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một
tính chất đặc trưng, một sắc thái tình cảm riêng. Hệ tư tưởng tôn giáo “thuyết minh”
những hiện tượng tâm lý tôn giáo, khái quát chúng làm cho chúng biến đổi theo
chiều hướng nhất định.
4. Chức năng của tôn giáo
a. Chức năng đền bù hư ảo (chức năng nương tựa)
- Luận điểm nổi tiếng của C. Mác: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã làm
nổi bật chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo. Giống như thuốc phiện, tôn giáo đã tạo
ra cái vẻ bề ngoài của “sự giảm nhẹ” tạm thời những nỗi đau khổ của con người, an
ủi cho những sự mất mát, thiếu hụt của con người trong cuộc sống.
-Chức năng đền bù hư ảo không chỉ là chức năng chủ yếu, đặc thù mà còn là chức
năng phổ biến của tôn giáo. Mặc dù là chức năng chủ yếu nhưng chức năng đền bù
hư ảo không thể tách rời các chức năng khác của tôn giáo.
b. Chức năng thế giới quan
- Khi phản ánh một cách hư ảo hiện thực, tôn giáo có tham vọng tạo ra một bức tranh
của mình về thế giới nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người dưới một hình
thức phi hiện thực. Bức tranh tôn giáo ấy bao gồm hai bộ phận: thế giới thần thánh
và thế giới trần tục và trên cơ sở đó mà tôn giáo giải thích các vấn đề của tự nhiên
cũng như xã hội. Sự lý giải của tôn giáo về thế giới nhằm hướng con người tới cái
siêu nhiên, thần thánh, do đó nó đã xem nhẹ đời sống hiện thực. Quan niệm này có
thể tác động tiêu cực đến ý thức giáo dân, đến thái độ của họ đối với xung quanh.
c. Chức năng điều chỉnh hành vi
- Tôn giáo đã tạo ra một hệ thống các chuẩn mực, những giá trị nhằm điều chỉnh
hành của những con người có đạo. Những hành vi được điều chỉnh ở đây không chỉ
là những hànhvi trong thờ cúng mà ngay cả trong cuộc sống hàng ngày trong gia
đình cũng như ngoài xã hội của giáo dân. Vì vậy, hệ thống chuẩn mực, giá trị trong
lý thuyết đạo đức và xãhội mà tôn giáo tạo ra đã ảnh hưởng quan trọng đến mọi hoạt
động của con người. Tất nhiên ở đây chúng ta cần phải chú ý rằng những chuẩn mực,
giá trị tôn giáo đã bị tước bỏ khá nhiều những đặc trưng khách quan và phụ thuộc
vào những giá trị siêu nhiên, hư ảo. lOMoAR cPSD| 61178690
d. Chức năng sinh hoạt văn hóa (lấy ví dụ các ngày lễ)
- Chức năng giao tiếp của tôn giáo thể hiện khả năng liên hệ giữa những người có
chung một tín ngưỡng. Sự liên hệ (giao tiếp) được thực hiện chủ yếu trong hoạt động
thờ cúng, sự giao tiếp với thánh thần được coi là sự giao tiếp tối cao. Ngoài mối liên
hệ giao tiếp trong quá trình thờ cúng, giữa các giáo dân còn có sự giao tiếp ngoài tôn
giáo như liên hệ kinh tế, liên hệ cuộc sống hàng ngày, liên hệ trong gia đình… Những
mối liên hệ ngoài tôn giáo có thể lại củng cố, tăng cường các mối liên hệ tôn giáo của họ.
e. Chức năng liên kết
- Trong các xã hội trước đây, tôn giáo với tư cách là bộ phận tất yếu trong cấu trúc
thượng tầng đã đóng vai trò quan trọng của nhân tố liên kết xã hội, nghĩa là nhân tố
làm ổn định những trật tự xã hội đang tồn tại, dựa trên những hệ thống giá trị và
chuẩn mực chung của xã hội. Tuy nhiên không nên quan niệm một cách sai lầm rằng
tôn giáo bao giờ cũng là nhân tố liên kết xã hội chủ yếu, bảo đảm sự thống nhất của
xã hội. Sự thống nhất của xã hội trước hết được bảo đảm bởi hệ thống sản xuất vật
chất xã hội chú không phải bằng cộng đồng tín ngưỡng. Hơn nữa trong những điều
kiện xã hội nhất định, tôn giáo có thể biểu hiện như là ngọn cờ tư tưởng của sự chống
đối lại xã hội, chống lại chế độ phản tiến bộ đương thời..
Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam, từ đó hãy phân tích ảnh hưởng của
nó đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay 1. Kn thờ mẫu
- Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là việc tôn thờ nữ thần phải do người nữ thực
hiện, tuyệt đối không là người nam, thờ Thánh Mẫu, thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ
xuất hiện khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa.Tục thờ mẫu còn
được đan xen với Phật Giáo ở thời kỳ đầu mới du nhập
2. Tín ngưỡng thờ mẫu -
Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam hay thường gọi là Đạo Mẫu (道母), thờ Thánh
mẫu, thờ tam phủ tứ phủ xuất hiện khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội
sâu xa. Xuất phát từ chế độ mẫu hệ của nhân dân ta trong xã hội nguyên thủy. -
Tuy tất cả đều là sự tôn sùng thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ nữ thần, Thánh
Mẫu, Thánh Cô, Mẫu tam phủ, tứ phủ không hoàn toàn đồng nhất. lOMoAR cPSD| 61178690
-Bản chất tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa lấy việc tôn thờ
Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trợ và che chở cho con
người. Tín ngưỡng mà ở đó đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ,
là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của
mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến Ngoài ra
còn có Thánh Bản Mệnh là vị thần đứng đầu dẫn dắt người tu đạo đi đến với Mẹ
(Mẫu) - Đấng Tối cao trong Đạo Mẫu Việt Nam – Hoàng Thiên Tiên Thánh Giáo
trong tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. -
Thờ Mẫu chính là sự tin tưởng, ngưỡng mộ, tôn vinh và thờ phụng những vị
nữ thần gắn với các hiện tượng tự nhiên, vũ trụ; được người đời cho rằng có quyền
năng sáng tạo, bảo trợ và che chở cho sự sống của con người , thờ những thái hậu,
hoàng hậu, công chúa là những người khi sống tài giỏi, có công với dân, với nước,
khi mất hiển linh phù trợ cho người an, vật thịnh. -
Trải qua hình thành và phát triển, tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta đã phát triển
hình thành tín ngưỡng Tam phủ: Thiên phủ, Nhạc phủ, Thoải phủ; Tứ phủ, ngoài ba
phủ trên có thêm Địa phủ. Tín ngưỡng thờ Mẫu gần gũi với thiên nhiên, đất trời, gắn
với thân phận của người phụ nữ Việt Nam … Người ta đến với Mẫu để tìm chỗ dựa
về tinh thần, tìm được sự che chở của người mẹ.
3. Ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
a. Giá trị kinh tế xã hội
-Nhìn chung những ngôi đền, chùa, phủ trong thực hành tín ngưỡng thờ mẫu có giá
trị kinh tế cao. Mỗi một công trình kiến trúc đền chùa phủ đều được xây dựng từ rất
lâu đời được xây dựng trang trí để bàn tay khéo léo của người dân, của những nghệ
nhân dân gian. Chất liệu được sử dụng để xây dựng các công trình kiến trúc được
chọn lựa kỹ lưỡng và rất quý. -
Ngoài mục đích là nơi thờ cúng Thánh Mẫu tại một số đình thờ mẫu ở Nam
Địnhcòn được sử dụng là đình làng nơi thường các vị thánh bảo trợ cho cả làng là
nơi các già làng họp bàn công việc quan trọng của cả làng. Vì vậy những công trình
kiến trúc này còn có ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc. b. Phát huy truyền thống
uống nước nhớ nguồn
-
Ngoài thành mẫu, những nhân vật khác được thờ trong tín ngưỡng thờ mẫu là
những nhân vật có thật trong lịch sử hoặc chỉ có trong truyền thuyết nhưng được
người dân tin thờ và trao truyền tập quán đó. Trong các đền, phủ thờ mẫu luôn có
những không gian thờ các vị anh hùng có công với nước được nhân dân tôn là thánh. lOMoAR cPSD| 61178690 -
Người dân tin rằng các vị ấy là con của trời xanh xuống để giúp dân khi có
giặc ngoại xâm khi đã giành chiến thắng thì các vị ấy quay lại có thiêng liêng là cõi
trời. Cùng với đó, trong điệu múa lên đồng thể hiện rất rõ sự hồi tưởng lại lịch sử
dân tộc người dân đã hình tượng hóa các trận đánh lớn của các vị anh hùng bằng những điệu múa. -
Điều không thể không nói tới đó tín ngưỡng thờ mẫu đã ca ngợi tôn vinh vai
trò của người phụ nữ. -
Tín ngưỡng thờ mẫu còn góp phần xây dựng giáo dục đạo đức lối sống tốt đẹp
của người dân. Điều này có ý nghĩa quan trọng hơn đối với thế hệ trẻ, tương lai của
đất nước khi đối mặt với những tác động mạnh mẽ như vũ bão khoa học - công nghệ
và những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Vì vậy vấn đề bảo tồn và phát huy giá
trị của tín ngưỡng thờ mẫu càng có ý nghĩa hơn.
c. Tín ngưỡng thờ mẫu ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống tinh thần của người dân. -
Giá trị cốt lõi của tín ngưỡng thờ mẫu là cái tâm hướng thiện. Khác với nhiều
tôn giáo, tín ngưỡng khác, dù đó là Phật giáo, Kitô giáo,... Tín ngưỡng thờ mẫu
không hướng chính con người và niềm tin con người tới thế giới sau khi chết mà là
thế giới hiện tại, thế giới mà con người cần đến sức khỏe tiền tài và quan lộc. Đó là
những mong muốn mang tính tích cực phù hợp với quan niệm “hiện sinh” của con
người trong thế giới hiện đại. -
Tín ngưỡng thờ mẫu có ảnh hưởng rất lớn tới tư duy người dân giúp con người
luôn sống thiện sống cống hiến. Tại cuộc sống hiện thực tất cả vẻ đẹp độc đáo được
hội tụ chất lọc từ cuộc sống đương đại thông qua đó người dân gửi gắm ước mơ khát
vọng của mình để đời sống tâm linh và Thánh Mẫu xoa dịu đi những nỗi đau về tinh
thần về thể xác do cuộc sống hiện thực đem lại. d. Mang lại giá trị văn hóa nghệ thuật -
Có thể hiếm thấy một hình thức tôn giáo tín ngưỡng dân gian nào như thờ
Mẫu mà ở đó thể hiện khá tiêu biểu quá trình nảy sinh và tích hợp các hiện tượng và
giá trị văn hóa mang sắc thái dân tộc độc đáo như: nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật
diễn xướng, tạo hình dân gian -
Các hình thức sinh hoạt cộng đồng thực hành tín ngưỡng thờ mẫu được vinh
danhbởi đó là một nghệ thuật trình diễn tổng hợp có âm nhạc, bài hát, điệu múa,
trang phục, có các đạo cụ lề lối trong trình diễn cùng với các thực hành văn hóa như
ăn trầu, uống rượu, dâng hương, phát lộc hoặc lắng nghe lời thỉnh cầu giao tiếp với
cộng đồng. Tất cả những biểu hiện đó là giá trị văn hóa nghệ thuật những hình thức lOMoAR cPSD| 61178690
nghệ thuật dân gian của dân tộc được hội nhập tích hợp và sáng tạo ở tín ngưỡng
này tạo thành giá trị văn hóa đặc sắc.
Cho biết quan điểm, đánh giá của anh/ chị về một hiện tượng phổ biến trong các
ngôi Chùa ở Việt Nam đó là: Chùa là nơi thờ Phật, nhưng không phải chỉ có
Phật A Di Đà, Thích Ca Mâu Ni, Di Lặc, các vị La Hán, Bồ Tát... mà ở đó, ta còn
thấy những danh nhân văn hóa lịch sử, những vị anh hùng có công với nước; các
vị thánh, thần, tiên, mẫu... của các tôn giáo, tín ngưỡng bản địa và ngoại sinh.
-
Một trong những đặc điểm văn hóa của người Việt Nam là lòng tín mộ. Có
thể nói, từ ngàn xưa, người Việt Nam nào cũng có đối tượng niềm tin riêng và thực
hành niềm tin ấy bằng sự thờ cúng một cách nào đó. Ý niệm vô thần chỉ mới xuất
hiện sau này cùng với sự du nhập tư tưởng Âu Tây và lí thuyết Cộng Sản. -
Lòng tín mộ ấy biểu hiện rõ ràng một phần do việc, qua các thời kì lịch sử,
người Việt Nam đã sẵn sàng đón nhận các nền đạo học và các tôn giáo truyền từ
nước ngoài vào nước ta, như: Khổng – Mạnh, Lão-Trang, Phật giáo, Kitô giáo, Hồi
giáo, v.v., hoặc là đã thành tâm tin theo Cao Đài giáo và Phật giáo Hòa hảo mới được sáng lập sau này. -
Một tác giả Tây phương, Linh mục Léopold Cadière cũng đưa ra kết luận cho
công trình nghiên cứu về các tín ngưỡng của người Việt Nam như sau: ‘Đến đây, ta
thử xác định xem tôn giáo của người Việt Nam là gì. Có hai tôn giáo chính, (một) là
tôn giáo thờ thần, tôn giáo này có hai đối tượng vì sự thờ cúng có thể hướng về các
lực lượng thiên nhiên được ngôi vị hóa, và có thể hướng về những linh hồn người
chết mà tôi hiểu đó là đó là sự thờ cúng các anh hùng, các vong hồn và tổ tiên. Tôn
giáo này có hai cách thực hành, tùy theo sự thờ cúng có tính cách tôn giáo thì gọi là
Khổng giáo hoặc có tính cách ma thuật thì gọi là Lão giáo. Bên cạnh tôn giáo chính
này, có một tôn giáo thứ hai, đó là Phật giáo
1 .Tại sao Việt Nam thờ những danh nhân văn hóa lịch sử, những vị anh hùng
có công với nước, các vị thánh, thần, tiên, mẫu... của các tôn giáo, tín ngưỡng
bản địa và ngoại sinh.
lOMoAR cPSD| 61178690 -
Thờ cúng các vị thần bảo vệ gia đình không hề xa lạ tại Việt Nam. Đối với
người Việt, thờ ông bà ở gia đình là việc chính, được đặt ở giữa nhà, giữa ban thờ,
nói lên ước vọng chính của gia đình. Các vị Thần như Quan Công, Cửu Thiên Huyền
Nữ, Linh Sơn Thánh Mẫu, Thổ Địa, Thần Tài… sẽ bổ sung thêm những ước vọng
khác của gia chủ. Thần Trời, thần Mặt Trăng, thần các Vì Sao, ông thần Sấm bà thần
Sét, ông thần Bão bà thần Gió Lốc,.. là những vị thần gia bảo trong tín ngưỡng dân
gian của một số vùng miền. Các thần bảo gia thường che chở cho gia chủ tránh khỏi
sự phá rối của ma quỷ, ác thần, các rủi ro trong cuộc sống, gặp dữ hóa lành. -
Có ba nguyên do: một là vì người Việt Nam tin vào linh hồn thuyết, hai là vì
lòng nhớ ơn công lao hiển hách của các vị, ba là vì muốn noi gương các đức tính
đặc biệt của các vị ấy.
a.Người Việt Nam tin vào linh hồn thuyết -
Theo thuyết này, người ta cho rằng ‘sự sống là hậu quả của một sự hợp
nhất…củahồn và phách (vía), và cuộc sống sẽ kéo dài bao lâu hai nguyên lí này còn
hợp nhất, sự phân li dẫn tới cái chết. Ngay lúc phân li, hồn cao hơn, hồn khí hay khí
nóng, bay lên không gian và trở về trời, nơi từ đó nó đã đến. Do đó, sức nóng phát
sinh sự sống rời bỏ các phần thân thể từ từ theo mức độ không cảm thấy được, đó
chính là hồn bên trong, còn hình phách trở về với đất, nguồn gốc của nó. - Người
Việt Nam chẳng những tin linh hồn trường tồn, mà còn tin các linh hồn khi lìa xác
vẫn còn tiếp tục lui tới với người sống và hòa mình vào tất cả các hoạt động để phụ
giúp hay đối nghịch lại. Linh hồn kẻ chết vẫn còn tiếp tục chịu số phận y hệt khi còn
sống. Nếu mộ phần của họ được tôn kính và được săn sóc cẩn thận, nếu họ được
cúng kiến trong các kì lễ với những lễ thì khi nhận được lễ vật, các hồn sẽ sung
sướng, sẽ có thiện cảm với người dâng cúng và đáp lại lòng tôn kính ấy bằng cách ban những ân huệ. -
Như thế, mối cảm thông giữa kẻ chết và người sống đã được thành lập thật
sự. Song nếu kẻ chết không được chôn cất, không có mộ phần, dường như là bị bỏ
rơi và khổ sở, họ sẽ trở nên đáng sợ. -
Chính niềm tin con người ta có linh hồn và linh hồn trường tồn sau khi chết,
linh hồn vẫn phảng phất đâu đây, vẫn giao cảm cùng cõi nhân sinh, đã khiến cho
người Việt Nam thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các danh nhân, anh hùng và thờ cúng các vong hồn.
b. Vì lòng nhớ ơn công lao hiển hách của các danh nhân, anh hùng lOMoAR cPSD| 61178690 -
Các ngài là những vĩ nhân, những công dân kiệt xuất bởi công lao to lớn đối
với làng xã, đối với đất nước. Do đó, khi chết đi, các ngài được dân chúng tin tưởng
là đặc biệt anh linh và tôn lên làm thần. Trong số đó, có những vị được chính thức
công nhận bởi các chức sắc của làng xã, có những vị được nhà vua ban sắc phong. -
Việc thờ cúng các danh nhân, anh hùng chẳng những do lòng biết ơn các ngài
mà còn do thành tâm cầu xin các ngài phù giúp dân làng hoặc xin các ngài tiếp tục
góp công bảo vệ đất nước.
c. Vì muốn noi gương các đức tính đặc biệt của các ngài
- Lí do thứ ba khiến cho người Việt Nam thờ cúng các danh nhân, anh hùng chính là
lòng cảm phục các đức tính đặc biệt của các ngài và mong muốn noi gương các ngài.
- Theo tác giả (tức Lí Tế Xuyên)) thì thần thánh có ai là xa lạ đâu. Đó là những
người trần mắt thịt như tất cả chúng ta, chỉ khác một điều là các người ấy đã sống
một đời sống siêu phàm, trong sự cần lao cam khổ, trong sự phục vụ tích cực, trong
nỗ lực chống lại sự quyến rũ của vật chất; thần thánh là những người đã sống hết
tất cả kích thước của người, tận cùng biên giới nhân loại. Đến trình độ ấy, giá trị
của con người tự nhiên được gia tăng, con người có thể tham dự vào đời sống linh
thiêng để tiếp tục quảng bố ơn cương thường như trước, đến giai đoạn này, các vị
anh hùng xứng đáng được lòng ngưỡng mộ sùng kính của nhân dân. Việc có đền
miếu phụng tự trở thành một điều kiện phải có. Ta không lạ gì khi thấy có nhiều vị
thần hiển linh như muốn được hưởng tế tự lâu dài… Thần thánh là kiểu mẫu lí
tưởng của nhân dân, họ cần được sự phù trợ của thần, nhưng hơn hết tất cả, họ
mong muốn được nên giống như thần thánh, có can đảm chống lại dục vọng của
họ để đi lên cao hơn’.Với lí do thứ ba này, ta có thể nói sự thờ cúng các danh nhân,
anh hùng còn mang tính giáo dục.
 Qua đó, người Việt Nam bày tỏ tấm lòng hiếu kính với Quốc tổ và các bậc tiền liệt;
hội tụ tinh hoa các giá trị văn hóa, củng cố và nhân lên niềm tin vào sức mạnh và
tiền đồ của dân tộc. lOMoAR cPSD| 61178690
Trong 10 điều răn của Chúa, anh/ chị tâm đắc nhất điều nào, vì sao? Ý nghĩa của
điều răn đó đối với thực tiễn xã hội hiện nay.
- nêu rõ 10 điều răn  em thích điều nào
- Điều răn thứ 6 : ‘Không được sát nhân hay giết người.’ Chúa dạy chúng ta cần phải
bảo vệ và tôn trọng mạng sống con người. Thật ra Chúa Giêsu nói, “Chỉ cần giận
anh chị em mình cũng là giết người rồi.” Bởi vì :
- Đối với những người theo đạo Cơ đốc, điều răn này thường được coi là lời kêu gọi
thúc đẩy sự thịnh vượng và thịnh vượng của tất cả mọi người, bất kể địa vị xã hội,
sắc tộc hay xuất thân của họ. Nó cũng là một lời nhắc nhở rằng cuộc sống của con
người là thiêng liêng và chúng ta có trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn nó. Tóm lại,
điều răn thứ sáu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quý trọng và tôn trọng sự sống
con người. Nó nghiêm cấm tước đoạt mạng sống của người khác mà không có lý
do chính đáng và kêu gọi mọi người thúc đẩy sự thịnh vượng và thịnh vượng của tất cả mọi người.
- Điều răn thứ sáu, “Chớ giết người,” là một điều cấm rõ ràng về việc tước đoạt mạng
sống của người khác mà không có lý do chính đáng. Điều răn này thường được
hiểu là một tuyên bố cơ bản về giá trị của cuộc sống con người và tầm quan trọng
của việc đối xử với người khác bằng sự tôn trọng và nhân phẩm. Trong bối cảnh
của Kinh thánh, điều răn này được ban cho dân Y-sơ-ra-ên như một phần trong giao
ước của họ với Đức Chúa Trời. Nó nhằm đảm bảo rằng họ được sống trong một xã
hội công bằng, hòa bình và tôn trọng sự thiêng liêng của cuộc sống con người.
Ý nghĩa của điều răn đó đối với thực tiễn xã hội hiện nay.
- Đây là điều răn có ý nghĩa sâu rộng, và là tiêu chí quan trọng nhất trong cuộc sống
thường ngày của con người trong Thời đại Pháp luật. Giết người luôn là một trong
những tội trạng nguy hiểm nhất, vi phạm pháp luật hình sự và có bản án thuộc mức cao nhất.
- Điều răn này cấm cố ý giết người trực tiếp. Giết trẻ thơ (phá thai), giết anh em, cha
mẹ, vợ chồng, làm chết sớm… đều là những tội thật nặng nề. – Cũng không được
cố ý gián tiếp gây ra nên cái chết của một người. Không được để chết đói, kinh
doanh trục lợi gây ra nên chết , cấm tự tử , làm hại sức khoẻ: như ăn uống quá độ,
hút thuốc quá đáng, say rượu, lái xe, lái tầu quá lẹ gây nguy hiểm chết người , xài
ma túy, kinh doanh ma túy là lỗi nặng, cấm gây ra gương xấu. Gương xấu có thể
nảy sinh từ thời trang hoặc dư luận, cấm giận ghét tha nhân, giận ghét tới mức
muốn giết hoặc đả thương cách có suy nghĩ, thì phạm đức ái cách nặng. Chúa dạy
tha thứ, yêu thương cả kẻ thù. lOMoAR cPSD| 61178690
- Điều răn thứ sáu của Chúa như một lời nhắc nhở với chúng ta, trong thời đại xô bồ
và phát triển không ngừng này, đừng vì sự cấp tiến của cuộc sống mà đạp lên sinh
mạng người khác hay chính bản thân mình. Những việc làm có hại nho nhỏ như
thức khuya, ăn uống không điều độ, dùng chất kích thích, không chỉ gây ra những
tác hại nhất thời đến cơ thể chúng ta, mà nó còn góp phần giết chết chúng ta mỗi
ngày. Hay những hành động như nạo phá thai, buôn bán ma túy, đều là những hành
động gây nên cái chết gián tiếp cho người khác, mọi sinh linh, sinh vật đều đáng
quý và đáng chân trọng, cùng là con người, ta càng phải biết bảo vệ giống nòi của mình.
- Ngoài ra, thông qua điều răn thứ 6, Chúa còn dạy ta phải biết thứ tha, tha cho kẻ
thù, bởi vì cái khó nhất của cuộc đời không phải trả thù mà là tha thứ, một khi ta
đã buông tha được cho kẻ thù, ta sẽ buông tha được cho gánh nặng trong mình, để
tâm được thanh thản. Bởi vì những kẻ thủ ác sẽ phải nhận quả báo của cuộc đời.
klsp (lhe bản thân) :
- Giáo viên ngoài tập trung vào trau dồi chuyên môn thì cũng cần phải rèn luyện,
trau dồi về mặt đạo đức, nhân cách.
- Trong các giờ lên lớp, giáo viên cần phải dạy học sinh những nề nếp, ý thức, dạy
chúng cách làm người tốt, người thiện.
- Sinh viên nâng cao hiểu biết về vấn đề tôn giáo
- Hạn chế những hành động gây hại cho sức khỏe (vd làm việc quá sức, luôn quan
tâm tới sức khỏe học sinh và bản thân cả về thể xác và tinh thần)
Cho biết quan điểm của anh/ chị về câu nói sau: “Giác ngộ luôn luôn hiện hữu.
Sự giác ngộ nhỏ bé sẽ mang tới giác ngộ lớn lao. Nếu bạn hít thở và nhận ra
rằng mình vẫn đang sống, đó là lúc bạn chạm tay vào điều kỳ diệu của việc
được sống. Đó cũng là một loại giác ngộ” [Thiền sư Thích Nhất Hạnh].
1.Phân tích câu nói. a. Giác ngộ là gì ?
-Theo nghĩa Hán Việt, “giác ngộ” được hiểu theo nghĩa là tỉnh ra, thức tỉnh. Giác là
tỉnh dậy, Ngộ là nhận ra. Do đó, giác ngộ nghĩa là thức tỉnh và tìm ra được chân lý
tuyệt vời nào đó trong cuộc sống thường nhật.
(Ví dụ : khi ta đang uống trà, mà biết được rằng ta đang uống trà, biết được hương
vị, cách tạo nên li trà đấy, là ta đang giác ngộ một phần nhỏ. Bởi có những người lOMoAR cPSD| 61178690
uống trà, mà nghĩ điều sân si, lo toan bộn bề, không thoát được những cái kìm hãm
bản thân mình, đó là không giác ngộ.)
-Từ ngữ này chỉ sự hiểu biết bằng tất cả trí tuệ, lý luận, cảm xúc cũng như kinh
nghiệm sống dày dặn của con người. Với những ý nghĩa đó, nhiều người còn gọi
giác ngộ với một cái tên khác là tuệ giác.
-Hiểu đơn giản, giác ngộ chính là khi con người quyết định từ bỏ những thói quen
tật xấu, những ham muốn đời thường. Lựa chọn lối sống an nhiên, thanh tịnh, học
theo những điều hay lẽ phải trên đời.
b. Thế nào là hiện hữu, giác ngộ luôn hiện hữu là gì.
-Hiện hữu là hiện thể ra đó, chỉ vậy thôi; những vật thể xuất hiện, để cho ta gặp gỡ
chúng, nhưng chẳng bao giờ ta có thể suy diễn, diễn dịch chúng được
-Giác ngộ là thức tỉnh, là hiểu rõ bản thân, chứ không phải là đi tìm một cõi đời mới,
siêu nhiên và không chân thực, vì thế giác ngộ ở cạnh ta một cách thật bình thường.
Nó luôn hiện hữu trong đời sống, nó xuất hiện trong con người một cách từ tốn và
đôi khi ta còn không nhận ra.
c. Sự giác ngộ nhỏ bé sẽ mang tới giác ngộ lớn lao
- Nhiều những điều nhỏ bé, sẽ vun lại thành một điều lớn lao, góp tiểu thành đại.
- Từng sự giác ngộ nhỏ phải đi liền với nhau. Chúng phải luôn luôn được nuôi dưỡng
để trở thành sự giác ngộ tuyệt vời nhất có thể. Một khoảng khắc sống trong chánh
niệm đã là một khoảng khắc giác ngộ. Nếu bạn luyện tập bản thân để sống như vậy
mỗi ngày, hạnh phúc và giác ngộ sẽ tiếp tục lớn lên.
-Nếu bạn biết cách duy trì giác ngộ và hạnh phúc, nỗi đau, nỗi sợ, nỗi khổ sẽ không
còn cơ hội hiện hữu. Nếu không xuất hiện trong thời gian dài, chúng sẽ dần dần yếu
đi. Rồi, khi ai đó chạm đến hạt giống đau khổ, sợ hãi, giận dữ trong bạn và những
thử đó bộc phát, bạn sẽ biết cách mang trở lại hơi thở chánh niệm và nụ cười chánh
niệm. Bạn sẽ ôm lấy được nỗi đau khổ của chính mình.
d. Nếu bạn hít thở và nhận ra rằng mình vẫn đang sống, đó là lúc bạn chạm tay vào
điều kỳ diệu của việc được sống -
Con người thường nghĩ giác ngộ chỉ khi chúng ta tới được một không gian
khác, thiên đàng hay cõi bồng lai, giác ngộ là thoát tục, là biến thành thần tiên, nhưng
thật ra giác ngộ là hiểu được mình, hiểu được bản thân. Không còn thói sân si ích
kỷ, hiểu được đời được người, và biết yêu cái cuộc sống. - Việc đang sống và được
sống liên quan mật thiết tới giác ngộ. lOMoAR cPSD| 61178690 -
Giác ngộ đến một cách quá đỗi bình an, trước khi ta kịp đuổi theo nó, chạy
theo nó, giác ngộ đã đến với ta từ từ, như thể hít thở một hơi thật bình thường. -
Được sống và sống là một điều diệu kỳ, chỉ khi ta hiểu được điều đó, ta mới thật sự giác ngộ.
e. Đó cũng là một loại giác ngộ
 Nếu con người không có giác ngộ, không có niềm tin thì họ sẽ sống bất chấp, sống
ích kỉ, sống tàn độc.
5. Liên hệ bản thân
- Làm chủ tự tâm: an nhiên và tĩnh tại
- Ý thức về hành động của mình
- Khép mình vào kỷ luật
- Kiên định với mục tiêu đề ra - Quản sát tự thân - Giữ tâm điềm tĩnh
1. Vô ngã trong phật giáo:
Khái niêm:̣ Vô ngã (anatta) nghĩa đen là “không có ta”, nghĩa bóng có nhiều nghĩa,
theo Đại thừa vô ngã có nghĩa là “vô tự tính”; theo Nguyên thủy vô ngã có nghĩa là
“không phải là ta, không phải là của ta”.Vô ngã là pháp ấn chỉ có trong Phật giáo,
cho rằng, không có một Ngã, một cái gì trường tồn, bất biến, cốt tủy, vững chắc, tồn
tại mà không phụ thuộc vào cái khác. Nghĩa là sự vật có mặt là do duyên sinh (tùy
thuộc điều kiện) khởi phát, chứ sự vật không có quyền gì với sự sinh ra và sự hoại
diệt của chính nó. Như thế, theo đạo Phật, cái ngã, cái "tôi" là không có mà chỉ là
một tập hợp của Ngũ uẩn. •
Vô ngã là pháp ấn chỉ có trong Phật giáo, cho rằng, không có một Ngã (sa. ātman,
pi. attā), một cái gì trường tồn, bất biến, cốt tủy, vững chắc, tồn tại mà không phụ
thuộc vào cái khác. Nghĩa là sự vật có mặt là do duyên sinh (tùy thuộc điều kiện)
khởi phát, chứ sự vật không có quyền gì với sự sinh ra và sự hoại diệt của chính nó.
Như thế, theo đạo Phật, cái ngã, cái "tôi" là không có mà chỉ là một tập hợp của
Ngũ uẩn (sa. pañcaskandha), luôn luôn thay đổi, sinh diệt. Vô Ngã là một trong 3
pháp ấn. Hai pháp ấn còn lại là Khổ và Vô Thường. Cái gì có sinh thì phải có diệt
là vô thường; cái gì vô thường thì là khổ; cái gì khổ mà nó biến đổi theo duyên sinh
(không tùy thuộc vào ý muốn của nó) thì là vô ngã. Mọi pháp hữu vi (pháp có sinh
thì có diệt) thì là Khổ, Vô Thường, Vô Ngã. Pháp Vô Vi (pháp không có sự tạo tác lOMoAR cPSD| 61178690
nên không có sự diệt) cũng là vô ngã. Pháp Vô Vi không có tính chất Vô thường và Khổ như pháp hữu vi. •
Cái tôi không có hình thể, màu sắc nơi chốn, nhất định. Càng tìm, càng không tìm
ra nó. Cái Tôi chỉ là một cái nhãn hiệu dán lên ngũ ấm một sự hiện hữu liên tục.
Nhận định như vậy giúp con người giảm nhẹ đi ý niệm xem "cái Tôi" như là một
thực thể tối thượng bắt buộc chúng muốn những gì chúng ta thích và ghét bỏ những
gì chúng ta không ưa. Cảm giác về cái Tôi đó khiến cho con người tách rời ra khỏi
thiên hạ. Và cũng chính từ những tình cảm yêu ghét sai lạc đó, dấy lên những tư
tưởng và tình cảm khởi điểm cho những lời nói và hành động đưa đến Đau Khổ.
Khám phá bằng kinh nghiệm trực tiếp, bằng phân tích, bằng thiền định rằng cái
"Ngã" không thật có (hay cái vô ngã), sẽ là một tiến trình đi đến giải thoát. Như giải
thích trong kinh Bát Nhã thì ngũ uẩn hay ngũ ấm đều có tính không hay ngũ ấm vô ngã.
2. Ý nghĩa của vô ngã đối với bản thân:
Vô ngã là một khái niệm trong đạo Phật, có ý nghĩa là từ bỏ ý thức cá nhân, lòng
tham và ái kỷ để đạt đến sự tự do, an lạc và sự giải thoát. Vô ngã không
chỉ áp dụng trong việc giải thoát khỏi khổ đau áp lực và sự căng thẳng tâm lý.
và cứu thoát luân hồi, mà còn có ý nghĩa rộng hơn trong cuộc sống hàng ngày.
Vô ngã có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mọi người trong xã hội -
Giảm bớt căng thẳng và lo lắng: Khi ta không đặt quá nhiều sự chú ý vào bản
thânvà ý thức bởi sự đánh giá từ người khác thường sẽ cảm thấy tự ti về bản thân ,vì
vậy ta có thể giảm bớt căng thẳng và lo lắng vì những tham vọng, áp lực và sự so sánh
với người khác. Điều này giúp ta có lòng tự tin và nhận thức sâu sắc về giá trị thực sự
của mình. Bằng cách từ bỏ ý thức cá nhân và tư duy, ta giải phóng mình khỏi những
đau khổ và lạc lối trong cuộc sống. Vô ngã giúp ta nhìn nhận mọi thứ một cách bình
thản và không gắn kết với kết quả. -
Hiểu rõ bản chất thực tại: Bằng cách vượt qua ý thức cá nhân, ta có thể hiểu rõ
hơnvề bản chất thực tại của mọi vấn đề. Vô ngã giúp ta nhìn thấy mọi sự vụ từ một góc
độ toàn diện hơn, không bị ảnh hưởng bởi quan điểm cá nhân. -
Đạt được trạng thái yên tĩnh và tĩnh lặng trong tâm hồn: Bằng cách từ bỏ lòng
cămthù, lòng tham muốn và lòng ái kỷ, ta có thể đạt được sự yên tĩnh trong tâm hồn
và sống trong hiện tại. Giúp tăng cường sự nhân ái và lượng tâm: vô ngã giúp ta tập
trung vào việc giúp đỡ người khác mà không đòi hỏi sự đền đáp hay trả thù. Điều này
tạo ra một tinh thần vô điều kiện và sẵn sàng chia sẻ, giúp ta có thể tạo ra một môi
trường hòa bình và đồng hành với mọi người. lOMoAR cPSD| 61178690 -
Tìm thấy ý nghĩa sống và sự hài lòng: Bằng cách không gắn bó quá mạnh với
sựhữu hình và đạt được sự tồn tại bên ngoài, ta có thể tìm thấy ý nghĩa sâu sắc và hài lòng từ bên trong.
-Tạo ra tình thương và sự thông cảm: Khi không đặt lợi ích cá nhân lên hàng đầu Từ
bỏ ý thức cá nhân ta trở nên nhạy bén hơn đối với nỗi đau và khó khăn của người khác.
Vô ngã giúp ta có trái tim rộng mở, sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Điều này giúp tạo ra
một môi trường sống hài hòa và tạo ra niềm vui và hạnh phúc cho chính mình và người khác.
-Vô ngã giúp con người có cái nhìn đúng đắn, khách quan trong cuộc sống ngày nay,
con người sẽ sống hòa đồng, tình cảm và luôn giúp đỡ mọi người bằng tâm thế sẵn
lòng, cởi mở tươi vui hơn. -
Thành công trong việc đạt được sự giải thoát: Vô ngã là một trong những điều
kiệncần để đạt được sự giải thoát khỏi luân hồi và khổ đau. Bằng cách từ bỏ ái kỷ và
ngã quyền ta có thể tiến đến sự giải thoát và sống một cuộc sống tự do và an lạc.
-Khi áp dụng vô ngã vào cuộc sống hàng ngày, ta có thể đạt được sự tự do và hạnh
phúc đích thực trong tâm hồn, đồng thời tạo ra một tác động tích cực đối với xã hội và những người xung quanh.
=> Vậy nên, nếu chúng ta có thể sống một lần trong đời thì hãy giải phóng bản thân
như những đứa trẻ ngoài kia và chúng ta sẽ thấy rằng cuộc đời đẹp đẽ biết bao nhiêu.
Những sự thay đổi nhỏ ấy có thể dồn lại tạo nên một sự khác biệt lớn. Có lẽ, chiếc xe
kế tiếp mà chúng ta mua sẽ không dựa trên những gì người khác nghĩ, có lẽ bộ đồ mà
chúng ta sẽ mua tiếp theo sẽ dựa trên cái mà chúng ta thích mà không dựa vào những gì người khác muốn…
 Nếu chúng ta không làm tổn thương người khác và không làm tổn hại bản thân thì
có lẽ chúng ta sẽ sống một cuộc sống tự do hơn, bỏ đi cái bản ngã ấy và chỉnh
là chính mình. Chúng ta có thể là chính mình mà không cần quá quan tâm đến
những gì người khác nghĩ. Bạn thấy những đứa trẻ chơi trong công viên rồi đấy,
và bạn có thể giống như chúng, sống thoải mái mà không bận tâm đến những gì người khác nghĩ.
Kết luận: Đây là vấn đề của sống thoải mái mà không bám víu vào cái tôi là ai, mà chỉ
cần là chính bản thân mình.
18. Tìm hiểu về Tứ diêu đ ̣ ế 1. Khái niệm: lOMoAR cPSD| 61178690 •
Tứ diệu đế là nền tảng của giáo lý, là cốt tủy của giáo pháp, được Đức Phật chứng
ngộ trong đêm thành Đạo tại cội bồ-đề và rồi tuyên thuyết kinh Chuyển Pháp Luân
ở Vườn Nai để độ cho 5 đạo sĩ. •
Chúng được khám phá bởi một Thánh nhân vĩ đại nhất, một người đã hoàn toàn rời
xa khỏi những ô nhiễm và bất tịnh. •
Nó sẽ làm cho con người trở nên cao thượng nếu chịu khám phá ra chúng, thâm
nhập và giác ngộ được chúng, thì chính những người ấy sẽ được trở thành một bậc Thánh nhân.
2. Tại sao là gọi là những Chân Lý Cao Diệu?
Bởi vì những chân lý đó là lẽ thật và là sự thật không thể chối cãi được của cuộc
đời. Cho dù Đức Phật có được sinh ra ở cõi người này không thì những chân lý đó
cũng sẽ tồn tại trên cõi đời này. Chính Đức Phật đã phát hiện ra những chân lý đó
và truyền dạy lại cho nhân loại. •
Điều thứ 2 được gọi là chân lý là bởi vì chúng thuộc về khoa học và đúng với khoa
học về vật lý, tâm sinh lý - thiết nghĩ độc giả cần nắm rõ tư tưởng này ngay từ đầu.
Phật giáo bàn luận những lẽ thật và những chân lý, mặc dù Phật giáo không đề cập
ngay đến vấn đề ai tạo ra chân lý đó, khoa học đó hay sự vận động của vũ trụ.
3. Các sự thật bao gồm:
Khổ đế ( dukkha: sự không thỏa mãn, sự đau đớn): là 1 tính chất bẩm sinh khi tồn
tại trong các cảnh luân hồi. •
Tập đế (samudaya: nguồn gốc, sự sanh khởi hay là nguyên nhân): cùng với khổ đế
sinh ra ái, được dịch theo 1 cách truyền thống trong các ngôn ngữ phương Tây thì
đó là nguyên nhân của khổ, ái còn có thể được xem là yếu tố buộc chúng ta vào
khổ, hoặc là 1 phản ứng với khổ, cố gắng để thoát nó. •
Diệt đế (nirodha: sự đoạn diệt, sự chấm dứt, sự giam cầm): khổ có thể được chấm
dứt hoặc được ngăn chặn bằng sự từ bỏ hoặc cứt đứt quan hệ với ái, sự từ bỏ ái sẽ
giải thoát khỏi sự trói buộc của khổ. •
Đạo đế (magga: bát chánh đạo) là con đường dẫn đến sự từ bỏ, sự đoạn diệt ái và khổ.