








Preview text:
lOMoAR cPSD| 61178690
TÔN GIÁO VÀ XÃ HỘI
Câu 1: Vô thường của đạo Phật là gì?
Vô thường là một trong những học thuyết nền tảng của Đạo Phật, được đề cập trong Tam
pháp Ấn: Vô thường – Khổ – Vô ngã.
“Vô” trong “vô thường” tức là “không” hoặc “không thật”. Còn từ “thường” trong vô thường
tức là “bền vững” hoặc “thường còn”. Hiểu về mặt từ ngữ thì vô thường là không bền vững.
Kinh điển Phật giáo nhắc tới thuyết vô thường rất nhiều, điển hình như câu nói “đời là vô thường”.
Phật giáo khẳng định rằng toàn bộ sự sống đều không bền vững, không có gì tồn tại mãi mãi,
không có ngoại lệ, mọi thứ từ vật chất đến tinh thần đều chịu sự chi phối và ảnh hưởng bởi thời gian.
Vô thường mang tới ý nghĩa vô cùng lớn đối với cuộc sống này. Nó sẽ giúp cho con người có
tâm nhẹ nhàng, lòng rắn rỏi và mạnh mẽ hơn để vượt qua mọi khó khăn. Một số ý nghĩa sâu sắc
của vô thường trong cuộc sống có thể kể đến đó là: -
Quy luật của sự vô thường sẽ giúp mọi người biết được không gì là tồn tạimãi mãi. Vì thế
con người cần phải bình tâm để chấp nhận và có thể tận hưởng chúng được trọn vẹn. -
Luật vô thường được ứng dụng trong cuộc sống sẽ giúp cho mỗi người đượcan yên, bình lặng hơn rất nhiều. -
Vì đã biết vô thường là không có gì mãi mãi và không trường tồn vĩnh cửu.Do đó khi con
người đối diện với sự mất mát, chia ly tâm thế cũng từ đó mà trở nên được nhẹ lòng hơn rất nhiều. -
Quy luật này còn giúp cho con người có thể thấu hiểu và biết trân trọng hơnnhững gì mà mình đã trải qua. -
Luật vô thường cũng sẽ giúp cho con người ta sống vì hiện tại và sẽ sốnghoà động, nhiệt
tình và sống hết mình để thỏa mãn được kiếp người.
Mỗi người chúng ta cần nắm được và sống theo quy luật vô thường. Hãy nhẹ nhàng nhất để giữ
được cái tâm của mình sáng nhất, loại bỏ đi tham ái hay dục vọng. Đừng sa ngã vào thứ được gọi
là tầm thường, dung tục tạm bợ. Hãy cố gắng tìm kiếm một tâm hồn và niềm hạnh phúc thật chân chính nhất.
Câu 2; Quan điểm của mình về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam và nó ảnh hưởng
đến đời sống hiện nay ?
Phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt có từ rất lâu đời. Đó là một phong tục đẹp, giàu
bản sắc, có tính chất giáo dục truyền thống cho các thế hệ. Tự bản thân phong tục thờ cúng tổ tiên
đã mang trong nó những giá trị văn hoá nhân bản. Cùng với thờ cúng tổ tiên thì thờ “thành hoàng
làng” và thờ “vua hùng” cũng là những phong tục lâu đời của người Việt nam ta. Vậy chúng ta
cần hiểu tín ngưỡng là gì? lOMoAR cPSD| 61178690
Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và để mang
lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi được hiểu là tôn giáo. Điểm khác
biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân tộc nhiều hơn tôn giáo, tín
ngưỡng có tổ chức không chặt chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến
tín ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn giáo thì không mang tính dân tộc.
- Tại sao người Việt lại thờ cúng tổ tiên?
Tổ tiên theo quan niệm của người Việt Nam, trước hết là những người cùng huyết thống, như
cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ v.v… là người đã sinh ra mình. Tổ tiên cũng là những người có công tạo
dựng nên cuộc sống hiện tại như các vị “Thành hoàng làng” ….
*Cơ sở tâm linh: Cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ tôn giáo tín ngưỡng nào
cũng là quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt
xuất phát từ nhận thức “vạn vật hữu linh” – mọi vật đều có linh hồn, và bắt đầu từ giới tự nhiên
xung quanh mình, và linh hồn trở thành đầu mối của tín ngưỡng. Từ quan niệm đó hình thành nên
niềm tin về sự tồn tại của linh hồn và mối liên hệ giữa người đã chết và người sống (cùng chung
huyết thống). Người đã chết bằng linh hồn trở về chứng kiến, theo dõi hành vi của con cháu, quở
trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ.
Ngoài lí do tin vào những người đã khuất, ý thức tôn trọng cội nguồn và đức tính hiếu thảo của
người Việt cũng là cơ sở quan trọng hình thành nên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Con cháu bày tỏ
lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành, lúc họ đã chết cũng như khi còn sống đồng thời cũng thể
hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu cầu của tổ tiên. Trách nhiệm được
biểu hiện không chỉ trong các hành vi sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của gia đình,
dòng họ, đất nước) mà còn ở trong các hành vi cúng tế cụ thể. Từ đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần được hình thành. Câu 3: Giác ngộ là gì?
Giác ngộ giúp cho việc thức tỉnh nhận ra chân lý
Theo nghĩa Hán Việt, giác ngộ chính là sự thức tỉnh và hiểu rõ ra một chân lý nào đó. Hay nói cách
khác, giác ngộ là sự hiểu biết không chỉ bằng lý luận, tri thức mà còn cả kinh nghiệm sống thực tế
và cảm nhận sâu xa. Vì thế giác ngộ còn được gọi là tuệ giác.
Tuy nhiên, để giải thích đơn giản hơn nữa. Giác ngộ chính là khi ta từ bỏ đi những thói xấu của
mình để hướng tới lẽ phải. Nhưng đó vẫn chưa phải là sự giác ngộ của đạo Phật. Bởi trong đạo
Phật, giác ngộ là sự thấu hiểu sự thật về con người từ thuở ban sơ cho đến cuối cùng và ngộ ra thứ
từ xưa đến giờ ta chưa biết đến. lOMoAR cPSD| 61178690
Câu 4 :“Con người đau khổ vì họ bị mắc kẹt trong quan điểm,chỉ khi nào chúng ta giải phóng
được những quan điểm đó,chúng ta mới tự do và không còn đau khổ”
Đây là một phát ngôn sâu sắc,chiêm nghiệm của thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Quan điểm là điểm xuất phát quyết định phương hướng suy nghĩ,cách xem xét và hiểu các hiện
tượng,các vấn đề của ai đó.
Chính vì vậy,đôi khi “có chính kiến” và “bảo thủ,mắc kẹt trong quan điểm” chỉ cách nhau một
ranh giới mong manh.Chính do bạn mắc kẹt trong các quan điểm cá nhân tưởng như vô hại,nhưng
có thể làm bạn lún sâu vào đau khổ,khiến cảm xúc trở nên tiêu cực và khó giải thoát cho chính bản thân.
Ví dụ,có những người hay suy nghĩ,quan điểm nặng nề,ám ảnh về các biến cố trong quá khứ.Cũng
có những người tự dằn vặt bản thân khi mắc lỗi một cách quá mức,thiếu sự cởi mở trong suy
nghĩ.Hoặc là có những trường hợp bảo thủ trong suy nghĩ phiến diện của mình,không thoát
ra,không chấp nhận tiếp thu những góc nhìn khác…..Tất cả những người như vậy không tự giải
phóng được và cứ mắc kẹt trong quan điểm cố chấp thái quá,và chắc chắn họ sẽ sống trong những
đau khổ dằn vặt triền miên.
Càng nghĩ nhiều về một biến cố căng thẳng, càng có nhiều khả năng bị trầm cảm. Các nhà nghiên
cứu phát hiện ra rằng việc giảm tin đồn thất thiệt sẽ giúp giảm bớt tâm trạng chán nản. Thay vì
nhớ lại những biến cố không thể thay đổi, hãy tăng cường các năng lượng tích cực như lập kế
hoạch cho tương lai hoặc tận hưởng khoảnh khắc hiện tại.
Qua một chặng đường cuộc đời, ai cũng từng có những biến cố lớn hay nhỏ. Nhưng chúng ta cứ
hay suy nghĩ về một biến cố căng thẳng từ quá khứ của mình, cho dù biến cố đó là 05 năm trước
hay 05 phút trước đều không tốt cho tâm lý của mỗi người.Muốn giảm bớt đau khổ, muốn tự tin
và hạnh phúc hơn,như thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nói,chúng ta cần giải phóng những quan
điểm,vướng mắc trong lòng,khi đó chúng ta mới tự do và không còn đau khổ nữa.
Câu 5: Ý nghĩa 10 điều Răn của Chúa:
1. Điều răn 1:“Ta là Thượng Đế, CHÚA ngươi…Ngoài ta, ngươi không được có thần nào khác”,
Xuất-ê-díp-tô-ký 20: 2-3 (BPT).
Chỉ có duy một Đức Chúa Trời đáng được tôn kính. Đó không phải là vấn đề của việc tin cậy nơi
một chúa, mà phải là Chúa- Đức Chúa Trời thật. Những người mong muốn để trở nên công bình
phải tôn thờ chỉ một Đức Chúa Trời.
2. Điều răn 2:“Không được dựng bất kỳ “1 hình tượng” nào để thờ (dù hình tượng đó là vật trên
trời, dưới đất, hay dưới nước)”, Xuất-ê-díp-tô-ký 20:4-5 (BPT).
Con người được chỉ dẫn đến việc không chỉ là tôn thờ một hình ảnh, hoặc thần tượng của bất kỳ
chúa nào, cho dù điều đó đúng hay sai. Đức Chúa Trời thậm chí đã không muốn con người quỳ lOMoAR cPSD| 61178690
lạy trước các hình ảnh, hình tượng hoặc tranh ảnh mà đại diện cho Ngài. Vì Đức Chúa Trời là thần,
nên không cần con người phải tạo ra một hình ảnh vật lý về Ngài. Không có hình ảnh nào mà con
người tạo ra xứng đáng với sự thờ phượng- chỉ duy Đức Chúa Trời chân thật là xứng đáng được thờ phượng.
3. Điều răn 3:“Ngươi không được dùng danh CHÚA là Thượng Đế ngươi một cách bừa bãi; CHÚA
sẽ trừng phạt kẻ nào lạm dụng danh Ngài”, Xuất-ê-díp-tô-ký 20:7 (BPT)
Đức Chúa Trời nói với con người rằng Ngài phải luôn luôn được tôn trọng. Là một Đức Chúa Trời
toàn năng, thậm chí tên của Ngài không được dùng một cách bừa bãi. Là một Đấng xét đoán của
cả thế giới, Ngài xứng đáng với sự tôn kính. Điều răn thứ ba rất rõ ràng. Để được công bình, con
người phải tôn kính Đức Chúa Trời tối cao.
4. Điều răn 4:“Hãy nhớ giữ ngày Sa-bát làm ngày thánh. Hãy làm việc trong sáu ngày, nhưng
ngày thứ bảy là ngày nghỉ để tôn kính CHÚA là Thượng Đế ngươi. Trong ngày đó, không ai
được phép làm việc gì cả: ngươi, con trai con gái, tôi trai tớ gái, súc vật ngươi, hay những người
ngoại quốc cư ngụ trong các thị trấn ngươi cũng vậy.”Xuất-ê-díp-tô-ký 20:8-10 (BPT).
Đức Chúa Trời phán với dân Y-sơ-ra-ên rằng họ phải giữ ngày thứ bảy, Saturday, là một ngày nghỉ.
Ngày đặc biệt này sẽ chỉ cho cả thế giới rằng Đức Chúa Trời đã thiết lập một mối quan hệ riêng biệt với họ.
5. Điều răn 5:“Hãy tôn kính cha mẹ ngươi…”, Xuất-ê-díp-tô-ký 20:12 (BPT)
Trong điều răn này, Đức Chúa Trời nói rằng con cái phải tôn kính cha mẹ của mình. Đức Chúa
Trời nói rằng một gia đình tiêu chuẩn nên là một nơi có sự bình an, không phải là sự thù nghịch.
Con cái phải rất kính trọng và vâng lời. Trong tình huống này, cha mẹ phải tìm kiếm những điều
tốt nhất cho gia đình họ. Đức Chúa Trời muốn các gia đình là những nơi có thứ tự và sự tôn trọng,
không phải là sự lộn xộn và giận giữ
6. Điều răn 6:“Ngươi không được giết người.”, Xuất-ê-díp-tô-ký 20:13 (BPT)
Đức Chúa Trời đã ban sự sống cho con người, và vì vậy việc con người lấy đi sự sống cùa người
khác là sai trái. Nhưng Đức Chúa Trời có ý nghĩ sâu hơn chỉ là hành động giết người trong tâm trí.
Ngài cũng nhắm đến những ý định đằng sau những hành động. Bởi vì Đức Chúa Trời nhìn vào
tấm lòng. Đức Chúa Trời cho rằng một số loại cảm xúc giận dữ có thể được xem là giết người. Để
đạt được tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời về sự công bình, một người phải không được nóng tính
hoặc giận dữ mà không có một lý do chính đáng.
7. Điều răn 7:“Ngươi không được phạm tội ngoại tình.”, Xuất-ê-díp-tô-ký 20:14 (BPT) Đức Chúa
Trời phán rằng thời gian để quan hệ tình dục được chấp nhận duy nhất đó là sau khi kết hôn, và
chỉ có một người đúng đắn duy nhất để có mối quan hệ mật thiết đó chính là vợ hoặc chồng của
mình. Việc nhìn một ai đó mà bạn không kết hôn cùng và mong muốn để ăn nằm cùng nhau, có lOMoAR cPSD| 61178690
nghĩa là bạn đã phá vỡ luật này. Để được thánh khiết có nghĩa là một người cần có một tâm trí
trong sáng cũng như là hành động trong sáng.
8. Điều răn 8:“Ngươi không được trộm cắp.”, Xuất-ê-díp-tô-ký 20:15 (BPT)
Đức Chúa Trời không muốn bất kỳ một ai lấy những thứ thuộc về người khác. Đức Chúa Trời là
Đấng duy nhất để ban cho mỗi người quyền để sở hữu những thứ của mình. Trộm cắp là không
vâng lời Đức Chúa Trời, và một người đã trộm cắp thì không thể được xem là công bình.
9. Điều răn 9:“Ngươi không được đặt điều nói dối về người láng giềng mình.”, Xuất-ê-díp-tô-ký 20:15 (BPT)
Con người phải luôn thật thà, vì Đức Chúa Trời sẽ không có dự phần nào trong sự dối trá, lừa lọc.
Lẽ thật đến từ bản tính tự nhiên của Đức Chúa Trời- đó là bản chất thật của chính Ngài. Bởi vì
Đức Chúa Trời là chân thật, đối với Ngài tất cả điều dối trá đều giống như một cái tát trên mặt. Sa-
tan là cha của sự dối trá, và bất cứ ai nói một lời nói dối là theo mưu kế của Sa-tan. Kết tội sai, vu
khống, phỉ báng, nhiều chuyện- tất cả những điều này là tội lỗi theo như luật của Ngài. 10.
Điều răn 10:“Ngươi không được thèm muốn nhà người láng giềng mình. Ngươi không
được tham vợ người, tôi trai tớ gái, bò, lừa của người hay bất cứ vật gì thuộc về láng giềng
ngươi.”, Xuất-ê-díp-tô-ký 20:17 (BPT)
Con người không được ghen tỵ với những của cải của người khác, những khả năng của họ, vẻ bên
ngoài của họ. hoặc bất cứ cái gì họ có.
Câu 6: Ý nghĩa 10 điều Răn của Đức Phật: 1; Không sát sanh:
Sát sinh là diệt mạng sống của kẻ khác hoặc loài khác, nói chung là chúng sinh hữu tình. Sát lOMoAR cPSD| 61178690
sinh là tự mình cầm khí giới trực tiếp sát hại hoặc dùng phương tiện như bẫy, thuốc độc giết hại,
hoặc sai bảo người khác giết hại, hoặc thấy sự giết hại mà trong tâm mình hoan hỷ, đều là nghiệp
sát sinh cả. Nghiệp sát sinh này tùy theo tâm trạng khi sát sinh, tùy theo đối tượng bị sát sinh và
tùy theo thời gian thực hiện mà phân biệt tội nặng nhẹ khác nhau. 2. Không trộm cướp
Không trộm cướp nghĩa là không chiếm đoạt những vật không phải do bản thân sở hữu và người
đó cũng không có ý định cho mình.
Ai cũng có quyền tư hữu. Mạng sống quý giá nhưng cuộc sống luôn phải đảm bảo đủ vật chất cần
thiết như nhà cửa, áo quần…đảm bảo cho đời sống hiện tại và tương lai. Do đó, việc bị trộm cắp
hết của cải, tài sản cũng sẽ gây ra đau khổ, buồn bã như bị mất đi một phần sinh mạng.
Của cãi có do phi nghĩa thường tiêu hao rất nhanh mà người trộm cướp còn bị người đời khinh
bỉ, phỉ nhổ. Trong khi đó người không trộm cướp lòng dạ luôn được thảnh thơi, chẳng lo thù oán
với ai, tinh thần luôn an lạc. 3. Không tà dục
Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Lòng dâm không trừ, thì không thể ra khỏi trần
lao”. Dâm dật chính là cái nhân sanh tử luân hồi.
Trong đời sống hằng ngày
của con người, Phật chỉ ngăn nạn tà dâm, nghĩa là vợ chồng có cưới hỏi chính thức mới được ăn
ở với nhau, nhưng phải có tiết độ và không được lang chạ,
ngoại tình. Những người có thói tà dâm, cả vợ lẫn chồng đều gây ra ác nghiệp. Nhất là đối với
người vợ, khi lạng chạ với người khác mà thụ thai thì
con mình không phải là con của chồng mình, tức không phải là con của dòng
họ chồng mình, không thuộc huyết thống của gia đình, dòng họ. Nếu người chồng biết đứa con
do lang chạ không phải là con mình, thì hạnh phúc gia đình dễ đổ vỡ, gây đau khổ không chỉ cho
vợ và chồng mà cho cả cha mẹ và con cái nữa. Người chồng khi thực hiện việc tà dâm với nhiều
phụ nữ khác thì gây rất nhiều nghiệp nặng. Những đứa con do người nữ mà người chồng
chung chạ được đẻ ra sẽ không có cha hoặc không biết cha, chúng sẽ có
những đau khổ dằn vặt suốt đời. 4. Không nói dối:
Không nói dối là nói sự thật, nghĩ gì nói đó, suy nghĩ và lời nói thống nhất với nhau. Nói dối để lừa
phỉnh chơi làm cho mọi người xung quanh không còn tin vào những lời ta nói thật. Nói dối vì sợ
hãi làm cho ta quen che giấu tội lỗi cũng như không biết sửa chữa lỗi lầm. Nói dối để thu lợi hay
khoe khoang thì càng bị tội nặng. Dù thế nào đi nữa thì nói dối đều có hại vì nó làm cho thành
quen với thói xấu ấy, thậm chí có hại khi nói thật vì nhiều người sẽ không tin nữa. lOMoAR cPSD| 61178690
Có nhiều loại nói dối : Nói dối vì đùa vui, nói dối vì lừa phỉnh, nói dối để khoe khoang, nói dối vì
sợ hãi khiếp nhược, nói dối để thu lợi bất chính v.v…tất cả những tội nói dối ấy đều mắc tội mà
nhà Phật gọi là tội vọng ngữ, sẽ bị đọa vào ba đường ác tùy theo tội nặng hay nhẹ. Vì vậy kinh
sách Phật đều dạy ta không được nói dối.
5: Không nói lời thêu dệt (Không ỷ ngữ) :
Không nói lời thêu dệt (không ỷ ngữ) tức là không nói lời văn hoa trau chuốt mỹ miều. Người
không ỷ ngữ thì lời nói của họ không như hoa thêu, gấm dệt, không ngọt ngào, đường mật với
dụng tâm làm lung lạc lòng người. Lời nói của họ không quyến rũ người khác để làm những điều sai trái.
Những kẻ nói lời thêu dệt là những kẻ có tâm bất chính. Họ thường lợi dụng lòng tin của người để
lừa gạt, phỉnh phờ trục lợi. Những người này thường xuất phát từ lòng tham và ý nghĩ đen tối mà
nói ra những lời đẹp đẽ, êm tai, ngọt ngào để dễ chinh phục người nghe vì lợi ích của mình. Người
nói lời thêu dệt thường bị người đời coi rẻ chê cười, và xa lánh để khỏi bị tổn hại tài sản, danh giá
và ngày cả đến tính mạng nữa.
6: Không dâm thọc( không nói lưỡi 2 chiều):
Không nói lưỡi hai chiều nghĩa là không đến bên này nói xấu bên kia, đến bên kia lại nói xấu bên
này, làm cho đôi bên mâu thuẫn dẫn đến ác cảm, thù oán lẫn nhau. Người không nói lưỡi 2 chiều
là người không có ác tâm, không nói những lời trái ngược để gây hiểu lầm giữa mọi người, làm
cho kẻ thân thành thù, thù thành xa. 7:Không nói lời thô ác:
Không nói lời hung ác là không nói ác độc, hung dữ, thô tục hay mắng nhiếc gây đau khổ cho
người khác. Người không nói lời hung ác để bươi móc người khác là người chỉ nói những điều tốt
đẹp, đạo đức, từ bi khiến ai nghe cũng hân hoan, kính trọng. 8: Không tham lam:
Lòng tham là cái gốc của sinh tử luân hồi. Lòng tham hay sự ham muốn dục lạc bao gồm năm thứ
gồm : tài (tiền của), danh (danh vọng), sắc (sắc đẹp), thực (sự ăn uống) và thùy (ngủ nghỉ). Năm
điều này người ta không ai có thể tránh khỏi. Lòng tham được thỏa mãn thì vui mừng, sung sướng.
Còn ngược lại khi lòng tham không được toại nguyện thì sinh tâm đau khổ, sầu não. lOMoAR cPSD| 61178690
Lòng tham của con người là vô cùng vô tận, nó như một cái thùng không đáy, có bao nhiêu cũng
không đủ. Khi không có thì muốn có, khi có rồi, lại muốn có nhiều hơn. Do đó con người ta phải
cả đời làm lụng nhọc nhằn, vất vả để được sung sướng để thỏa mãn lòng tham muốn. Nhưng vì
lòng tham là vô tận, người không biết dừng thì không bao giờ thấy đủ, do vậy cả đời là khổ, nhiều khi gây vạ vào thân. 9: Không sân hận:
Người không có lòng sân hận thường không để tâm vào những việc trái ý, nghịch lòng. Trước
những điều sảy ra không hay cho mình, họ không biểu lộ sự hờn giận, họ luôn luôn giữ sắc mặt
bình thường, hiền hòa, không cau có, không đỏ mặt, không bực bội, không nổi cơn hung ác mà
vẫn thản nhiên như không có điều gì sảy ra, thậm chí có khi tươi tỉnh đón nhận sự không vừa lòng
cho mình. Người không sân hận nhận biết được rằng dù có cau có, khó chịu thì sự việc cũng đã
sảy ra và chỉ còn tìm cách để mọi việc được ổn thỏa. Mà để cho ổn thỏa thì trước hết là thái độ của
mình biết nhẫn nhịn, thậm chí tha thứ thì kẻ gây ra điều trái ý mới có thể nhận ra những điều họ
gây ra trái ý với mình. Người không có lòng sân hận không bao giờ biểu thị thái độ tức giận, hờn
mát, ghen ghét, đố kỵ, buồn bực, mà còn biểu lộ cái tâm tùy hỷ trước mọi thành công và thắng lợi của người khác.
Trái lại, người có lòng sân hận là người luôn luôn biểu lộ bằng nét mặt, bằng lời nói hoặc bằng
hành động trước những sự việc mà họ không vừa lòng. Trên khuôn mặt thì ngay từ ánh mắt, sự
cau có, đỏ mặt, nét bực bội, khó chịu đều biểu lộ một cách rõ ràng. Bằng cửa miệng, họ tuôn ra
những lời nói giận giữ, lời nói ác độc, thậm chí đay nghiến, chửi rủa. Với hành động, họ vung tay
vung chân một cách giận giữ, thậm chí muốn đánh người hay hành hung người khác. 10: Không si mê:
Người không si mê là người có sự hiểu biết đúng đắn (chính kiến) và suy nghĩ đúng đắn (chính tư
duy), không nhận định một cách mê mờ, không cố chấp vào kiến thức chủ quan của mình, không
che đậy sự dốt nát của mình, không tin vào những tà thuyết, những điều không hợp lý, phản khoa
học (nghĩa là không mê tín dị đoan). Người không si mê là người có trí tuệ thông minh, hiểu biết
những giáo lý của Đức Phật như vô thường, luật nhân quả, thuyết luân hồi, biết làm điều lành tránh
điều ác. Họ thường có tâm tỉnh giác cao, không bị hôn trầm, trạng thái tâm trí không mờ mịt.
Người không si mê là người biết phá trừ mọi chấp trước, biết tìm rõ nguồn gốc vô minh.
Trái lại người si mê là người thiếu hiểu biết, trí tuệ hạn hẹp, cố chấp, tin vào sự mê mờ, kiến thức
kém phát triển và hay chủ quan theo sự hiểu biết kém cỏi của mình. Họ thường hay tin vào tà lOMoAR cPSD| 61178690
thuyết, những điều phi lý về khoa học, bị đám mây mù che phủ không phân biệt rõ đâu là chính,
đâu là tà nên họ hay sa đà vào những tà kiến, dễ bị đi vào con đường mê tín dị đoan. Si mê trên
thực tế là sự si mê cái Tôi, cái Của Tôi và cái Tự ngã của tôi. Người si mê là người thường thiếu
bản lĩnh và kém trí tuệ nên hay nghe theo những điều không đúng đắn, ai nói gì cũng nghe và tin
theo một cách mù quáng, không suy xét. Chính vì vậy, người Phật tử nếu có đầu óc si mê thường
bị lôi kéo vào con đường mê tín dị đoan làm tổn hại đến tín ngưỡng giáo lý đạo Phật, xa lìa chính
pháp của Đức Thế tôn. Những người như vậy, trong khi tu tập thường hay bị hôn trầm, thùy miên,
ngủ gục. Những điều đó thường là những chướng ngại trên con đường tu tập.
Câu 7: Phân tích nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo và công tác vận động quần chúng (
Hội nghị lần t7 BCHCU Đảng lần t9 về công tác tôn giáo)
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn
bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo
đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước,
ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh
tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung,
trong đó có đồng bào tôn giáo.