






Preview text:
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU: lý do chỌn đề tài NỘI DUNG Chương 1: MỞ ĐẦU
Lý do chỌn đề tài:
Nền kinh tế của chúng ta đang trong đà hội nhập và phát triển, cùng với tốc độ đi
lên nhanh chóng của xã hội trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa. Con người
ngày càng có những nhu cầu sống, sinh hoạt, mong muốn phát triển kinh tế cao hơn
đã gây ra một vấn đề nhức nhối đó là ô nhiễm môi trường. Đặc biệt ô nhiễm môi
trường từ rác thải đang là mối quan ngại to lớn đối với mỗi quốc gia và đặc biệt là
với Việt Nam cũng là một đất nước nằm trong tình trạng ô nhiễm môi trường rất
cao, điều đó làm mất cảnh quan đô thị, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe và chất
lượng đời sống của hàng triệu con người cũng như cảnh quan thiên nhiên. Ô nhiễm
môi trường từ rác thải phát sinh từ nhiều nguyên nhân và có rất nhiều loại như: rác
thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt,….Bởi vậy, Đảng và nhà nước đã rất quan tâm
về vấn đề bảo vệ môi trường. Chúng ta cần bảo vệ môi trường vì đó là yếu tố quan
trọng để chúng ta tồn tại và phát triển.
Theo số liệu thống kê, Thành Phố Hồ Chí Minh là một trong hai thành phố có số
dân đông nhất cả nước và cũng là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước với nhiều khu
công nghiệp khu chế xuất với quy mô lớn. Vì thế nơi đây đã xảy ra rất nhiều vấn
nạn về ô nhiễm môi trường , nhìn vào thực trạng hiện nay rất dễ thấy những bãi rác
to nhỏ lung tung hay những túi nilong , vỏ chai,hay rác thải sinh hoạt không nằm ở
nơi tập kết mà vất rải rác bên đường hay những cống nước đen ngòm bốc mùi , đây
là vấn nạn cần được giải quyết và khắc phục nhanh chóng. Các dịch bệnh xuất phát
từ môi trường cũng tăng nhanh ,các bệnh về đường hô hấp cũng rất nhiều, mà
nguyên nhân chủ yếu là do ô nhiễm từ rác thải, hiện nay Thành Phố Hồ Chí Minh
đã trở nên ngày càng ô nhiễm do lượng lớn rác thải, chúng ta phải có làm rõ và có
biến pháp xử lý kịp thời.
Vì những lí do nêu trên nên em xin chọn đề tài “ô nhiễm môi trường từ rác thải
ở Thành Phố Hồ Chí Minh hiện nay-tiếp cận từ góc độ duy vật biện chứng làm đề
tài tiểu luận kết thúc học phần môn triết học Mác – Lênin. NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng
1.1.1.Nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch,
mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật
chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ
gây ra những hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân
thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được gán cho đối
tượng cái mà nó không có. Nhìn chung, nhận thức, cải tạo sự vật, hiện tượng, phải
xuất phát từ chính bản thân sự vật, hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ
bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý
chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính
sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục
tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi
dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung,
nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh 2tế tri thức, toàn cầu hóa hiện nay;
coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm
sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động
chủ quan, còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết
kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong
sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.
1.1.2. Nguyên tắc toàn diện
Từ nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khái quát
thành nguyên tắc toàn diện với những yêu cầu đối với chủ thể hoạt động nhận thức
và thực tiễn sau: Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó
trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc
tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó; “cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả
các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”, tức là trong
chỉnh thể thống nhất của “tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những
sự vật khác” . Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của
đối tượng đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như
vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều
thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng. Thứ ba,
cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường
xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không
gian, thời gian nhất định, tức là cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng
trong quá khứ, hiện tại và phán đoán tương lai. Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập
với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác;
hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của
đối tượng nên dễ rơi vào thuật ngụy biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành
không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các
mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
1.1.3. Nguyên tắc phát triển
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp nhận thức được rằng, muốn nắm
được bản chất, khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng thì phải tự giác tuân
thủ nguyên tắc phát triển, tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
Nguyên tắc này yêu cầu:
Thứ nhất,khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng
biến đổi của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo
được khuynh hướng phát triển trong tương lai.
Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức,
phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện
cho nó phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Thứ tư, trong quá
trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu tố tích cực
từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới. Tóm lại, muốn
nắm được bản chất, khuynh hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu cần “phải
xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự vận động” (...), trong sự biến đổi của nó”
1.1.4.Nguyên tắc lịch sử cụ thể
Nguyên tắc này là khoa học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển, tức là một
hệ thống các nguyên lý, quy phạm, phạm trù nói về mối liên hệ phổ biến và về sự
phát triển xảy ra trong toàn bộ thế giới. Mỗi sự vật, hiện tượng hay quá trình tồn tại
hiện thực đều được tạo thành từ những yếu tố, bộ phân khác nhau; có muôn vàn sự
tương tác (mối liên hệ, quan hệ) với nhau và với các sự vật, hiện tượng hay quá
trình khác nhau; qua đó nó bộc lộ ra thành những đặc điểm tính chất không giống
nhau. Thêm vào đó, mỗi sự vật, hiện tương hay quá trình đều tồn tại trong tiến trình
phát sinh, phát triển và diệt vong của chính mình; quá trình này thể hiện một cách
cụ thể bao gồm mọi sự thay đổi và phát triển diễn ra trong những điều kiện, hoàn
cảnh khác nhau, tương tác với những sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau,
trong những không gian và theo những thời gian không như nhau.
1.2. Tiếp cận ô nhiễm môi trường từ rác thải từ góc độ duy vật biên chứng.
1.2.1. khái niệm và đặc điểm
* Ô nhiễm môi trường(Environmental pollution) là 1 hiện tượng môi trường tự
nhiên bị bẩn, cùng với nó là các tính chất vật lý, sinh học, hóa học của môi
trường bị thay đổi gây tác hại tới sức khỏe của con người và các sinh vật khác
trong tự nhiên. Ô nhiễm môi trường chủ yếu do hoạt động xả thải từ đời sống,
sinh hoạt, sản xuất của con người gây ra. Ngoài ra, ô nhiễm còn do một số hoạt
động từ tự nhiên khác có các tác động tới môi trường theo hướng tiêu cực.
* Rác thải (waste) là các chất, các vật con người chúng ta không sử dụng nữa
rồi sau đó thải ra ngoài môi trường. Điển hình là đồ ăn thừa, phế liệu, túi nilon,
chai lọ, nội thất hỏng hóc,...
- Theo nguồn gốc phát sinh thì rác thải chia thành 06 loại nhỏ hơn gồm rác
thải sinh hoạt, công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, y tế và văn phòng.
• Rác thải sinh hoạt: Được hiểu là vật và chất của con người hay động vật
được thải ra bên ngoài môi trường lúc sinh hoạt hoặc sản xuất. Đây là nhóm
chiếm tỉ lệ cao, xuất phát khắp mọi nơi. Trong rác thải sinh hoạt lại chia ra
03 loại nhỏ hơn là rác thải tái chế, vô cơ và hữu cơ.
• Rác thải công nghiệp: Loại này nếu được hình thành mà không xử lý ngay
sẽ gây ảnh hưởng cực nghiêm trọng. Đặc biệt còn chứa nhiều chất độc cho
sức khỏe người dân sinh sống xung quanh. Theo đó, rác thải công nghiệp sẽ
bao gồm khí thải, chất tẩy rửa, chất hóa học,... Ngoài ra có một số nơi chất
thải còn chưa xử lý mà thải trực tiếp ra môi trường khiến ô nhiễm đất, nguồn
nước, người dân dễ bị đột biến gen, ung thư,...
• Rác thải xây dựng: Khi triển khai xây dựng nhà ở, công trình cao tầng thì
các vật liệu không còn sử dụng được nữa là rác thải xây dựng, đó là giấy
vụn, gạch đá, cát sỏi,...
• Rác thải nông nghiệp: Thường sẽ là vỏ thuốc, túi thuốc trừ sâu,.. được
những người làm nông thải ra trong quá trình làm việc, cải tạo đất, chăm sóc
cây,... Khi không được xử lý hay loại bỏ đúng cách thì chắc chắn gây ra ảnh
hưởng đến môi trường đất và nước,...
• Rác thải y tế: được thải nhiều tại bệnh viện, phòng khám và trung tâm y tế
với cả dạng lỏng, rắn và khí. Trong loại rác này lại chia ra thành 05 loại nhỏ
hơn là dược phẩm, bệnh phẩm, vật sắc nhọn, chất thải thí nghiệm và chất thải lây nhiễm.
• Rác thải văn phòng: Bao gồm một số thứ phát sinh trong quá trình làm việc
tại các văn phòng như bút hỏng, hộp thức ăn, giấy in lỗi bỏ đi, giấy vụn, đồ dùng văn phòng,..
=>Ô nhiễm môi trường từ rác thải là tình trạng ô nhiễm phát sinh khi rác thải không
được xử lý đúng cách hay rác thải được thu gom từ các bãi phế liệu bị bốc mùi hôi.
Từ đó, chúng gây ảnh hưởng và làm ô nhiễm không khí ở các khu vực xung quanh. 1.2.2.Thực trạng
Mỗi năm, toàn thế giới thải ra khoảng 300 triệu tấn rác thải nhựa và 5.000 tỷ túi
nilon. Trong đó: Có đến một nửa sản phẩm nhựa chỉ dùng một lần; 1/3 số túi nilon
không được thu gom; 12,7 triệu tấn rác thải sẽ đi vào đại dương;….Thậm chí, lượng
rác thải này đủ để bao quanh 4 lần Trái Đất và phải mất đến hàng nghìn năm mới có thể phân hủy.
Theo số liệu thống kê mới nhất, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ở nước
ta hiện nay khoảng 24,5 triệu tấn và chất thải rắn công nghiệp là 8,1 triệu tấn. Trong
đó, rác thải nhựa, nilon hiện đang là một vấn đề khiến Chính phủ phải đau đầu. Ước
tính, mỗi ngày nước ta xả ra khoảng 2.500 tấn rác thải nhựa và có từ 0,28 đến 0,73
triệu tấn được xả ra đại dương. Đại diện Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc
cho biết, lượng rác thải nhựa trên biển của nước ta nhiều thứ 4 thế giới, chỉ sau
Trung Quốc, Indonesia và Philippines. Việt Nam có tổng cộng 112 cửa biển và 80%
rác thải trên biển đều trôi ra từ đây. Trong đó, phần lớn đều là rác thải sinh hoạt.