lOMoARcPSD| 58504431
Câu 1: Đặc điểm loại hình ngôn ngữ tiếng Việt.
- Tiếng là đơn vị cơ sở ngữ pháp
+ Về mặt ngữ âm tiếng là âm tiết
+ Về mặt sử dụng tiếng từ hoặc yếu tố cấu tạo từ VD:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
7 tiếng/ 7 từ/ 7 âm tiết
Đọc và viết đều tách rời nhau
Đều có khả năng cấu tạo nên từ: Trở về / thôn xóm
- Từ không biến đổi hình thái
VD: Tôi, tặng, anh ấy, một cuốn sách, anh ấy, tặng tôi, một quyển vở
Từ trong tiếng Việt không biến đổi hình thái khi biểu thị ý nghĩa ngữ pháp
- Biện pháp chủ yếu để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp là sắp đặt từ Câu 2: Quan hệ đồng nhất và đối lập
trong ngôn ng.
- Quan hệ đồng nhất: Quan hệ giống nhau giữa các yếu tố ( đơn vị) ngôn ngữ về một phương diện
nào đó. Sự giống nhau đó tạosở để tập hp các yếu tố vào cùng một loại, một hệ thống nào nhỏ.
VD: âm /a/ và /ê/ đều là nguyên âm tức là các âm vị khi phát âm luồng hơi đi ra không bị cản Từ
mếu máo và khang khác đều láy phụ âm đầu, các tiếng trong mỗi từ đều giống nhau phụ âm đầu
- Quan hệ đối lập là qh giữa các yếu tố khác biệt nhau về một phương diện nào đó. Sự khác biệt trên
cùng một phương diện, tiêu chí tạo nên sự đối lập
VD: âm/a/ và âm/u/ là các nguyên âm có độ mở đối lập nhau, âm /a/ có độ mở rộng, âm /u/ độ
mở hẹp
Sự đồng nhất và đối lập luôn tồn tại song song giữa các yếu tố ngôn ngữ. Nếu không cùng tồn tại
song song thì các yếu tố sẽ trong tình trạng rời rạc biệt lập, không có quan hệ với nhau
Câu 3: Miêu tả các nguyên âm theo các tiêu chí: vị trí của lưỡi, độ mở của miệng, hình dáng của
môi
- Vị trí/ chiều hướng của lưỡi: lưỡi nhích hay lùi về phía sau
+ Nguyên âm hang trước: (I,e,…)
+ Nguyên âm hang giữa (i-)
+ Nguyên âm hàng sau:9 u,o
- Độ mở độ há của miệng
+ Nguyên âm hẹp /i,uu,u/
+ Nguyên âm hơi hẹp /e,o/ +
Nguyên âm hơi rộng:
+ Nguyên âm rộng: (a,ă)
- Hình dáng của môi: môi thu tròn hay môi có hình dẹt
+ Nguyên âm tròn môi/u,o/
+Nguyên âm không tròn môi: ( e,a)
- Âm sắc: tính chất trầm bổng của nguyên âm
+ Nguyên âm bổng: /I,e/
+ Nguyên âm trung hòa: /i-/
+ Nguyên âm trầm: /u,o/
lOMoARcPSD| 58504431
Câu 4: Phân biệt âm tố nguyên âm và âm tố phụ âm.
Khái niệm nguyên âm: là âm tiết khi phát ra luồng hơi đi ra tự do yếu có nhiều tiếng thanh khó nhận ra: Tiêu
chí miêu tả:- Vị trí/ chiều hưng của lưỡi:
+ Ng/am hàng trước
+ Ng/âm hàng giữa
+ Ng/âm hàng sau
- Độ mở, độ há của miệng
+ Ng/âm hẹp
+ Ng/âm hơi hẹp
+ Ng/âm hơi rộng
+ Ng/âm rộng
- Hình dáng của môi: môi thu tròn hay môi có hình dẹt
+ Ng/âm tròn môi
+ Ng/âm không tròn môi
- Âm sắc
+ Ng/âm bổng
+ Ng/âm trung hòa
+ Ng/âm trầm
Khái niệm phụ âm: khi phát âm luồng không khí từ phổi đi qua các khoang phát âm bị cản trở một vị trí nào
đó trong các khoang
Tiêu chí miêu tả: - Phương thức phát âm
Đặc
điểm
Âm tố nguyên âm
Âm tố phâm
Đặc
đim
phát
âm
Âm tố nguyên âm những âm thanh
phát ra không sự cản tr hay
thay đổi dòng khí qua các cơ quan phát
âm. Khi phát âm nguyên âm, dòng khí
đi từ phổi ra miệng không bị cản trở
bởi bất kỳ quan phát âm nào (như
môi, răng, lưỡi, vòm miệng).
Âm tố phụ âm là những âm thanh được phát ra
khi sự cản trở, nghẽn hoặc thay đổi
dòng khí trong quá trình phát âm. Các
ph âm thường được tạo ra bởi sự va
chạm, tạo khe hhay ếp xúc giữa các
bộ phận của thể như môi, răng, ỡi,
vòm miệng và họng.
Vị trí
phát
âm
Vị trí của lưỡi môi thay đổi để tạo
âm.
Vị trí của các bộ phận như môi, lưỡi,
vòm miệng tạo sự cản trở.
Âm
thanh
ợt mà, dễ nghe
Có sự nghẽn hoặc cản tr
Ví dụ
a, i, u, e, o, ư, ơ...
b, c, d, t, k, p, m, n, s, l...
lOMoARcPSD| 58504431
+ Phụ âm tắc
+ Phụ âm xát
+ Phụ âm rung
- Vị trí phát âm
+ Phụ âm môi
+ Phụ âm lưỡi
+ Phụ âm thanh hầu
- Thanh tính: Dựa vào sự tham gia của dây thanh ở những mức độ khác nhau Hữu
thanh/ vô thanh
Câu 5:
Tính võ đoán và tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ.
- Tính võ đoán: Mối quan hệ giữa từ ngữ và ý nghĩa là do con người quy ước, thỏa mãn với nhau,
không giải thích được
Một số tín hiệu có tính võ đoán thấp: + Từ tượng thanh: meo meo, gâu gâu
+ Từ tượng hình: lấp lánh
+ Kí hiệu trực quan: các biển báo giao thông
- Tính hình tuyến: Các âm thanh ngôn ngữ diễn ra lần lượt kế tiếp nhau trong thời gian , cái này
nối tiếp cái kiathành một chuỗi
VD: Ôi-tiếng-việt-như-đất-cày-như-lụa
Các loại tín hiệu có thể xuất hiện đồng thời ( Pháo hiệu)
Lưu ý: Do phải xuất hiện theo một dòng tuyến tính nên trong ngôn ngữ trật tự sắp xếp với các tín hiệu đóng vai
trò quan trọng và chính trật tự đó tham gia vào việc biểu đạt ý nghĩa. ( khi thay đổi vị trí, trật tự của từ trong câu
thì nghĩa của câu sẽ thay đổi )
Câu 6. Tính đa trị và tính phức tạp nhiều tầng của tín hiệu ngôn ngữ Tính
đa trị:
- Một tín hiệu ngôn ngữ biểu thị nhiều nội dung khác nhau ( từ nhiều nghĩa, từ đồng âm) =>1/n-
Nhiều tín hiệu ngôn ngữ biểu thị một nội dung ( từ đồng nghĩa) => n/1 Tính phức tạp nhiều tầng:
Ngôn ngữ được tổ chức theo nhiều cấp độ từ nhỏ ( âm vị, từ) đến lớn ( câu, văn bản)
Âm vị: Các âm đơn lẻ như h,o,c thành học
Câu 7. Phân tích sự khác nhau giữa phương thức phụ gia/ phụ tố phương thức ghép, từ phái sinh
từ ghép.
Sự khác nhau giữa phương thức phụ gia/ phụ tố và phương thức từ ghép
Phương thức phụ gia/ phụ tố: Dùng phụ tố để gắn vào gốc từ tạo ra từ mới
Phụ tố không có khả năng đứng độc lập, nó chỉ mamg nghĩa bổ sung và gắn liền với từ gốc được gọi là từ phái
sinh
VD: un+ happy => unhappy
lOMoARcPSD| 58504431
Phương thức từ ghép: dùng hai hay nhiều gốc từ có nghĩa độc lập tạo ra từ mới
Các thành phần trong từ ghép thường có khả năng đứng độc lập trong ngôn ng
VD: bánh + mì => bánh mì
Book+ store => bookstore
Sụ khác nhau giữa từ phái sinh và từ ghép
Câu 8. Các nhóm từ dưới đây có điểm gì giống nhau về ý nghĩa ngữ pháp? Mỗi nhóm từ sử dụng phương
thức ngữ pháp nào?
a. tables, students, houses, classes, babies, watches , fishes, glasses
b. teeth, geese, men, women, sang, sat, drank, feet
c. ngày ngày, người người, nhà nhà, đêm đêm, sáng sáng
a) Ý nghĩa ngữ pháp: Các từ này biểu thị ý nghĩa số nhiều trong tiếng anh. Trong ngữ pháp học đây là một phạm
trù thuộc ngữ pháp hình thái
- Phương thức ngữ pháp: sử dụng phương thức phụ tố
+ Thêm hậu tố e/es để biểu đạt ý nghĩa số nhiều
b) Ý nghĩa ngữ pháp: Biểu thị số nhiều bất quy tắc và quá khứ bất quy tắc
Phương thức ngữ pháp: Phương thức biến đổi hình thái
+ Thay đổi thành phần bên trong của gốc từ ( như nguyên âm hoặc cấu trúc âm vị) để biểu đạt ý nghĩa ngữ pháp
+ Đặc trưng này phổ biến trong các ngôn ngữ hòa kết như tiếng Anh
C) Biểu đạt hai ý nghĩa ngữ pháp: Nhấn mạnh và khái quát hóa
Phương thức ngữ pháp: láy toàn bộ . lặp lại nguyên dạng gốc từ để bổ sung ý nghĩa ngữ pháp ( nhấn mạnh hóa
hoặc phổ quát hóa)
Câu 9. Phân loại và giải thích các phương thức ngữ pháp của những từ sau đây: foot - feet, pen - pens, man
- men, orange - oranges, play - played, sing - sang, tree - trees, tooth - teeth, người người, nhà nhà, ngày ngày
- foot-feet, man-men, tooth-teeth
Biểu thị phạm trù ngữ pháp số nhiều
+ Phương thức ngữ pháp: phương thức biến đổi hình thái: Gốc từ bị thay đổi nội bộ ( nguyên âm)
-pen-pens, orange- oranges, tree- trees,
Ý nghĩa ngữ pháp : Biểu thị phạm trù số nhiều
Hình thái học: Biểu đạt bằng cách thêm hậu tố s- es vào từ gốc
Phương thức ngữ pháp: Phương thức phụ tố
- play- played
Biểu thị phạm trù thì quá kh
lOMoARcPSD| 58504431
Được biểu đạt bằng cách thêm hậu tố ed
Phương thức ngữ pháp: Phương thức phụ tố
- sing-sang
Ý nghĩa ngữ pháp: Biểu thị thì quá khứ trong động từ bất quy tắc tiếng Anh
Biểu đạt bằng sự biến đổi nội bộ của từ gốc thay đổi nguyên âm
Phương thức ngữ pháp: Phương thức biến đổi hình thái
- người người, nhà nhà, ngày ngày
Biểu thị hai ý nghĩa ngữ pháp chính:
+ Nhấn mạnh: Chỉ sự lặp lại hoặc tính đều đănh
+ Phổ quát hóa: Bao trùm
Hình thái học: Lặp lại hoàn toàn gốc từ
Phương thức ngữ pháp: Phương thức láy từ: cụ thể là láy toàn bộ : Gốc từ được lặp lại hoàn chỉnh
Câu 10. Chứng minh rằng hệ thống ngôn ngữ là một tổng thể bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ qua lại với
nhau.
Hệ thống ngôn ngữ là một tổng thể được tổ chức bởi nhiều yếu tố ngôn ngữ như âm vị, từ vựng,
ngữ pháp. Các yếu tố này không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung
tác động qua lại, tạo nên một hệ thống thống nhất phục vụ cho mục đích giao tiếp. Sự tồn tại của
mỗi yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ không ch rời phụ thuộc vào các yếu tố khác, từ đó thể
hiện rõ đặc tính của một hệ thống.
Thứ nhất, trong hệ thống âm vị học, các âm vị không ý nghĩa tự thân chỉ chức năng
phân biệt ý nghĩa khi đứng trong mối quan hệ với các âm vị khác. Ví dụ, trong tiếng Việt, các âm
“b” và “m” tạo nên sự khác biệt ý nghĩa trong hai từ “ba” và “ma”. Sự khác biệt này chỉ tồn tại khi
c âm vị được đặt trong một hệ thống đối lập và liên kết.
Thứ hai, từ vựng trong ngôn ngữ cũng thể hiện tính hệ thống rõ rệt. Một từ không chỉ được hình
thành từ sự kết hợp của các âm vị còn mang ý nghĩa nhờ sự liên hệ với các từ khác trong h
thống từ vựng. dụ, từ “hoa” chỉ ý nghĩa khi đứng trong ngữ cảnh ngôn ngữ các từ khác
như “hoa sen”, “hoa hồng”, hoặc khi được đối chiếu với các từ không cùng trường nghĩa như
“cây”, “lá”.
Thứ ba, ngữ pháp là yếu tố gắn kết các từ và cụm từ trong hệ thống ngôn ngữ, tạo thành các
câu có ý nghĩa hoàn chỉnh. Cấu trúc ngữ pháp phụ thuộc vào quy tắc sắp xếp từ, và sự thay đổi trật
tự từ thể làm thay đổi ý nghĩa câu. Ví dụ, trong tiếng Việt, câu “Tôi yêu bạn” khác hoàn toàn
với câu “Bạn yêu tôi” dù các từ sử dụng giống nhau. Điều này cho thấy sự tương tác giữa từ vựng
và ngữ pháp trong hệ thống.
lOMoARcPSD| 58504431
Như vậy, hệ thống ngôn ngữ là một tổng thể thống nhất, nơi mà mỗi yếu tố như âm vị, từ vựng,
ngữ pháp đều có vai trò riêng nhưng không tồn tại độc lập. Chúng liên kết chặt chẽ, tương tác và
bổ sung cho nhau, đảm bảo cho ngôn ngữ thực hiện được chức năng giao tiếp và biểu đạt ý nghĩa
của mình.
Câu 13: Chứng minh rằng “Quan hệ liên tưởng là cơ sở cho sự lựa chọn yếu tố khi sử dụng và
là cơ sở cho sự phân loại các yếu tố trong nghiên cứu”. (Bùi Minh Toán, Giáo trình Dẫn luận
ngôn ngữ học, NXB Đại học Sư phạm, trang 81)
Quan hệ liên tưởng là mối quan hệ giữa các đơn vị ngôn ngữ trong ý thức của con người, được
hình thành dựa trên sự tương đồng hoặc đối lập về nghĩa, hình thức hoặc chức năng. Khi một từ
hoặc một đơn vị ngôn ngữ xuất hiện, khnăng gợi lên các từ hoặc yếu tố liên quan khác
trong tâm trí của người nói hoặc người nghe. Chẳng hạn, khi nhắc đến từ “ăn”, người ta sẽ liên
tưởng đến các món ăn như cơm, cháo, phở, bánh mỳ, thịt gà... Những liên tưởng này hình thành
dựa trên mối quan hệ về ngữ nghĩa: tất cả các yếu tố được gợi lên đều liên quan đến hành động
“ăn” hoặc các đối tượng có thể ăn được. Chính nhờ quan hệ liên tưởng, hệ thống ngôn ngữ trở nên
phong phú và có tổ chức hơn.
2. Quan hệ liên tưởng là cơ sở cho sự lựa chọn yếu tố khi sử dụng
Trong giao tiếp, quan hệ liên tưởng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp người nói lựa chọn từ
ngữ phù hợp với ngữ cảnh ý nghĩa cần truyền đạt. Những yếu tố ngôn ngữ có chung đặc điểm
ngữ âm, ngữ nghĩa hoặc ngữ pháp sẽ được liên kết lại với nhau, từ đó người nói thể chọn ra yếu
tố thích hợp nhất. Ví dụ, khi nói “ăn sáng”, người ta sẽ liên tưởng đến những món ăn quen thuộc
như bánh mỳ, phở hoặc xôi. Quan hệ liên tưởng giúp người nói không sử dụng từ không phù hợp,
như “ăn nước” hoặc “ăn bút”, vì những từy không có mối quan hệ ngữ nghĩa với hành động ăn.
Ngoài ra, nhờ mối quan hệ liên tưởng, các sắc thái ý nghĩa cũng được thể hiện rõ hơn. Chẳng hạn,
thay vì nói “ăn nhanh”, người nói có thể chọn từ “ăn vội” để nhấn mạnh sự gấp gáp và hoàn cảnh
cụ thể. Sự lựa chọn yếu tố trong giao tiếp không chỉ giúp thông điệp trở nên chính xác, ràng
mà còn làm nổi bật giá trị ngữ nghĩa và tạo ấn tượng trong giao tiếp.
3. Quan hệ liên tưởng là cơ sở cho sự phân loại các yếu tố trong nghiên cứu
Không chỉ vai trò trong giao tiếp, quan hệ liên tưởng còn sở để phân loại các yếu tố
ngôn ngữ trong nghiên cứu. Những yếu tố có cùng đặc điểm liên tưởng thường được xếp vào cùng
một nhóm, giúp việc phân loại trở nên dễ dàng và hệ thống hơn. dụ, các từ liên quan đến
động từ “ăn” như cơm, cháo, bánh mỳ, phở đều có thể được xếp vào nhóm danh từ chỉ thực phẩm.
Trong khi đó, các từ như nhai, nuốt, cắn sẽ thuộc nhóm động từ liên quan đến hành động ăn uống.
Việc phân loại này không chỉ giúp làm mối quan hệ giữa các từ mà còn hỗ trợ nghiên cứu v
ngữ nghĩa, ngữ âmngpháp của từng nhóm. Ngoài ra, quan hệ liên tưởng còn giúp nghiên cứu
ngôn ngữ ở mức độ sâu hơn, như phân tích mối liên hệ giữa từ và khái niệm. Chẳng hạn, nhóm từ
miêu tả vị giác như “ngọt”, “chua”, “mặn” thể được liên kết với nhóm danh từ chỉ thực phẩm
để tìm hiểu cách ngôn ngữ biểu đạt cảm giác của con người
Tóm lại, quan hệ liên tưởng là yếu tố không thể thiếu trong cả việc sử dụng và nghiên cứu ngôn
ngữ. Nhờ quan hệ này, người nói thể lựa chọn yếu tố ngôn ngữ phù hợp với ngữ cảnh, đồng thời
lOMoARcPSD| 58504431
các nhà nghiên cứu có thể dễ dàng phân loại và khám phá hệ thống ngôn ngữ. Quan hệ liên tưởng
không chỉ làm phong phú khả năng biểu đạt của con người mà còn góp phần quan trọng vào sự tổ
chức và phát triển của ngôn ngữ học.
Câu 15:
Quá trình và cách thức phát triển của ngôn ngữ loài người. Cách thức phát triển đó có gì đặc biệt so với
các hiện tượng xã hội khác thuộc kiến trúc thượng tầng? Phân tích một số ví dụ trong tiếng Việt để minh
họa cho sự phát triển đó.
1. Quá trình phát triển của ngôn ngữ:
Trải qua hàng nghìn năm cùng sự tiến hóa của xã hội loài người.
Ngôn ngữ không ngừng thay đổi và phát triển theo nhu cầu giao tiếp và nhận thức của con người
- Ngôn ngữ bộ lạc và biến thể của nó
+ Là ngôn ngữ đầu tiên
+ Biến thể: phát triển theo hai xu hướng: + Chia cắt phân li
+ Hợp nhất
- Ngôn ngữ khu vực: Bước quá độ trên con đường phát triển ngôn ngữ loài người
+ Do sự phát triển của kinh tế, thủ công nghiệp, thương mại---> những mối liên hệ thị tộc, bộ lạc dần mất đi
nhường chỗ cho các mối quan hệ về kinh tế,...
- Ngôn ngữ dân tộc:
+ Sự phát triển của dân tộc, nhà nước đẩy mạnh sự thống nhất kinh tế, chính trị, văn hóa => các thị tộc, bộ lạc
tan ra => dân tộc ra đời - Ngôn ngữ văn hóa:
+ Ngôn ngữ dân tộc phát triển => hình thành ngôn ngữ văn hóa nhưng vẫn tuân thủ chuẩn mực ngôn ngữ dân
tộc
+ Được trau chuốt, tinh luyện, đạt đến chuẩn mực xã hội và được sử dụng trong mọi lĩnh vực xã hội
- Ngôn ngữ cộng đồng tương lai: Đây là dự đoán. Các ngôn ngữ hòa nhập vào nhau
2. Cách thức phát triển: Biến đổi nội tại và tiếp xúc ngôn ngữ
- Ngôn ngữ biến đổi từ từ, liên tục, không đột biến: phát triển kế thừa và bảo tồn những cái đã có
- Sự phát triển không đồng đều giữa các mặt
+ Ngôn ngữ phát triển không đều ở các đơn vị của nó
Lĩnh vực từ vựng biến đổi nhanh và nhiều hơn
Ngữ âm và ngữ pháp biến đổi chậm hơn
- Cách thức phát triển Khác biệt với hiện tượng xã hội khác:
· Phát triển tự nhiên và liên tục: Ngôn ngữ phát triển tự nhiên qua giao tiếp hàng ngày, không
cần can thiệp từ các cơ quan hay thể chế, và thay đổi liên tục qua các thế hệ.
·Biến đổi dần dần: Ngôn ngữ thay đổi từ từ, không đột ngột như các hiện tượng xã hội khác, với
sự biến đổi trong từ vựng, ngữ pháp, và ngữ âm.
Thích ứng linh hoạt: Ngôn ngữ thích ứng nhanh chóng với sự phát triển của xã hội và văn hóa,
không bị ràng buộc bởi quyết định từ các cơ quan lãnh đạo.
3. Ví dụ trong tiếng Việt:
Sự xuất hiện của từ mới: “smartphone” (điện thoại thông minh), “livestream”, phản ánh nhu cầu giao tiếp trong
thời đại công nghệ.
Biến đổi từ cổ sang hiện đại: Từ “thê tử” (vợ) nay ít dùng, thay vào đó là “vợ” hay “bà xã”. Câu
16:
lOMoARcPSD| 58504431
Chứng minh nhận định sau: “Có thể khẳng định rằng, chức năng giao tiếp chức năng thứ nhất, còn
chức năng phản ánh (tư duy, tức sự phản ánh thế giới xung quanh bởi con người, chủ yếu được thực
hiện dưới hình thức ngôn ngữ) thứ hai, đồng thời cả hai chức năng này đều liên hệ chặt chẽ với nhau”
(V.C. Kasevich, Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, NXB Giáo dục 1998, trang 12 - 13).
Ngôn ngữ là công cụ quan trọng bậc nhất để con người tồn tại và phát triển. Theo V.C. Kasevich,
chức năng giao tiếp của ngôn ngữ được coi là chức năng thứ nhất, bởi nó gắn liền với bản chất xã
hội và nhu cầu tương tác của con người. Đồng thời, chức năng phản ánh – tức là khả năng tư duy
tái hiện thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ chức năng thứ hai, hỗ trợ bổ trợ cho chức
năng giao tiếp. Hai chức năng này luôn mối liên hệ chặt chẽ với nhau, vừa độc lập vừa tương
hỗ.
Trước hết, chức năng giao tiếp của ngôn ngữ cơ bản quan trọng nhất vì con người là một thực
thể xã hội. Ngôn ngữ là phương tiện để truyền đạt thông tin, trao đổi cảm xúc, ý kiến và thực hiện
các hoạt động hội. Ví dụ, trong đời sống hàng ngày, câu nói “Hôm nay trời mưa nên tôi mang
ô” không chỉ truyền tải thông tin về thời tiết mà còn phục vụ giao tiếp để giải thích hành động của
người nói. Chính thông qua giao tiếp, các cá nhân gắn kết với cộng đồng, hình thành và phát triển
xã hội.
Chức năng phản ánh – tức là khả năng duy và tái hiện thế giới bằng ngôn ngữ – đóng vai trò hỗ
trợ, song không kém phần quan trọng. Ngôn ngữ giúp con người nhận thức diễn đạt các khái
niệm, sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Chẳng hạn, trong văn học, câu thơ của Nguyễn
Du: Trăm năm trong cõi người ta / Chữ tài chữ mệnh khéo ghét nhau” vừa phản ánh triết
sống, vừa ghi lại bối cảnh xã hội thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, việc phản ánh này luôn gắn liền
với mục đích giao tiếp, bởi thông qua đó, tác giả truyền đạt cảm xúc và suy tư đến người đọc.
Hai chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ và không thể tách rời. Chức năng phản ánh giúp hoàn
thiện nội dung giao tiếp, bởi mọi thông tin được trao đổi đều xuất phát từ nhận thức của người nói
về thế giới xung quanh. Ví dụ, khi một nhà khoa học trình bày nghiên cứu về biến đổi khí hậu, bài
thuyết trình không chỉ nhằm mục đích trao đổi ý kiến (giao tiếp) mà còn phản ánh dữ liệu và hiện
tượng thực tế một cách khách quan. Ngược lại, giao tiếp phương tiện để hiện thực hóa chức
năng phản ánh, giúp truyền tải tư duy cá nhân đến cộng đồng.
Tóm lại, chức năng giao tiếp chức năng phản ánh của ngôn ngluôn tồn tại song hành và bổ
trợ lẫn nhau. Giao tiếp là chức năng cơ bản, phản ánh là chức năng hỗ trợ, nhưng cả hai đều là biểu
hiện của vai trò thiết yếu của ngôn ngữ trong việc duy trì và phát triển xã hội loài người.
Câu 17:
Trình bày những hiểu biết về tín hiệu nói chung, tín hiệu ngôn ngữ nói riêng. Từ đó cho biết, tín hiệu ngôn
ngữ có điểm gì giống và khác so với các tín hiệu khác?
1. Khái niệm tín hiệu nói chung
Tín hiệu là một hiện tượng vật chất (âm thanh, hình ảnh, ký hiệu...) được sử dụng để truyền tải thông tin từ ngưi
phát đến người nhận.
Tín hiệu có hai mặt cơ bản:
Cái biểu đạt (hình thức bên ngoài, vật chất có thể cảm nhận).
Cái được biểu đạt (nội dung, ý nghĩa mà tín hiệu mang lại).
Ví dụ: Đèn giao thông đỏ biểu đạt thông tin “phải dng lại”.
2. Tín hiệu ngôn ngữ
lOMoARcPSD| 58504431
Là loại tín hiệu đặc biệt được con người sử dụng trong giao tiếp, thể hiện qua ngôn ngữ nói hoặc viết.
Đặc điểm của tín hiệu ngôn ngữ:
Tính đoán: Không mối liên hệ tự nhiên giữa hình thức âm thanh/ngữ âm ý nghĩa của từ. dụ: Từ “bàn”
(tiếng Việt) khác với “table” (tiếng Anh).
Tính xã hội: Tín hiệu ngôn ngữ được chấp nhận và sử dụng chung trong một cộng đồng.
Tính hệ thống: Tín hiệu ngôn ngữ hoạt động trong một hệ thống quy tắc chặt chẽ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp).
Tính tuyến tính: Các tín hiệu ngôn ngữ được phát ra tuần tự theo thời gian và không gian.
3. Kết luận
Tín hiệu ngôn ngữ vừa mang đặc điểm của tín hiệu nói chung, vừa có những đặc trưng riêng biệt: tính võ đoán,
tính hệ thống, tính xã hội và tính tuyến tính.
Sự khác biệt này làm cho n hiệu ngôn ngữ trthành công cgiao tiếp đặc biệt và quan trọng nhất của con
người, giúp truyền tải không chỉ thông tin mà còn tư duy, cảm xúc và nhận thức về thế giới xung quanh.
18. Chứng minh nhận định sau: Ngôn ngữ là một hệ thống bởi cũng bao gồm các yếu tố các
quan hệ giữa các yếu tố đó(Nguyễn Thiện Giáp (1994), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, trang
53)
Ngôn ngữ được xem là một hệ thống vì nó bao gồm các yếu tố cơ bản và các mối quan hệ chặt chẽ giữa các
yếu tố đó. Trong hệ thống ngôn ngữ, các yếu tố như âm vị, hình vị, từ, cụm từ, và câu đóng vai trò quan trọng,
cùng với hai mối quan hệ chính là quan hệ tuyến tính và quan hệ liên tưởng, giúp ngôn ngữ vận hành một cách
thống nhất.
Trước tiên, các yếu tố trong ngôn ngữ những thành phần bản cấu thành hệ thống. Âm vị đơn vị âm
thanh nhỏ nhất, không mang ý nghĩa nhưng có vai trò phân biệt ý nghĩa giữa các từ. Ví dụ, âm vị /b/ và /m/ giúp
phân biệt từ “ba” “ma.” Tiếp theo, hình vị là đơn vị ngữ pháp nhỏ nhất mang nghĩa hoặc chức năng. Ví dụ,
từ “học sinh” gồm hai hình vị: “học” (mang nghĩa học tập) và “sinh” (người).Từ là đơn vị bản trong giao tiếp,
được hình thành từ một hoặc nhiều hình vị. Ví dụ, từ “bàn” là một từ đơn, còn “đẹp trai” là sự kết hợp của hai
từ đơn tạo thành từ ghép. Khi các từ kết hợp với nhau theo quy tắc ngữ pháp, chúng tạo thành cụm từ Ví dụ,
“ngôi nhà đẹp” là một cụm từ, trong đó từ “đẹp” bổ sung ý nghĩa cho danh từ “ngôi nhà.” Cuối cùng, các cụm
từ kết hợp với nhau tạo thành câu đơn vị ngôn ngữ hoàn chỉnh nhất. Ví dụ, câu “Tôi đi học” vừa tuân theo quy
tắc ngữ pháp vừa diễn đạt ý nghĩa trọn vẹn. Các yếu tố này tồn tại vận hành trong hai mối quan hệ chính
quan hệ tuyến tính và quan hệ liên tưởng.
Quan hệ tuyến tính là mối quan hệ giữa các yếu tố xuất hiện liên tiếp trong chuỗi lời nói, được sắp xếp theo
thứ tự thời gian và không gian. Trong giao tiếp, các từ phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định để đảm bảo
ý nghĩa rõ ràng. Ví dụ, trong câu “Tôi đi học,” các từ “tôi,” “đi,” và “học” phải được đặt đúng vị trí để diễn đạt
ý nghĩa hoàn chỉnh. Nếu đảo lộn thứ tự thành “Học tôi đi,” câu nói sẽ mất đi ý nghĩa ban đầu hoặc trở nên khó
hiểu. Điều này cho thấy, quan hệ tuyến tính đóng vai trò quyết định trong việc tổ chức các yếu tố ngôn ngữ, đảm
bảo tính mạch lạc trong giao tiếp.
Quan hệ liên tưởng mối quan hệ giữa các yếu tố khả năng thay thế hoặc liên kết với nhau trong cùng một
hệ thống ngôn ngữ. Mối quan hệ này không phụ thuộc vào vị trí trong chuỗi lời nói, mà dựa trên sự liên kết về
ý nghĩa, chức năng hoặc vai trò ngữ pháp. Ví dụ, trong câu “Tôi đi học,” từ “tôi” có thể được thay thế bằng các
đại từ khác như “bạn,” “anh,” hoặc “chị” để tạo thành các câu “Bạn đi học,” “Anh đi học,” hoặc “Chị đi học.”
Quan hệ liên tưởng giúp ngôn ngữ trở nên phong phú linh hoạt, đáp ng nhu cầu biểu đạt đa dạng của con
người.
Như vậy, ngôn ngữ là một hệ thống bao gồm các yếu tố n âm vị, hình vị, từ, cụm từ và câu, được kết nối
vận hành thông qua hai mối quan hệ chính tuyến tính liên tưởng. Quan hệ tuyến tính đảm bảo trật tự
tính logic của chuỗi lời nói, trong khi quan hệ liên ởng mang lại sự linh hoạt sáng tạo. Nhận định của
Nguyễn Thiện Giáp đã phản ánh chính xác bản chất hệ thống của ngôn ngữ, nơi các yếu tố mối quan hệ kết
hợp để phục vụ mục đích giao tiếp hiệu quả.
lOMoARcPSD| 58504431
Câu 19: Chứng minh rằng: Ngôn ngữ không chỉ một hiện tượng xã hội mà còn là một hiện tượng
hội đặc biệt.
Ngôn ngữ, tlâu, đã được xem một hiện tượng hội quan trọng không thể thiếu trong cuộc sống con người.
Ngôn ngữ có thể được định nghĩa là hệ thống các dấu hiệu, âm thanh, từ ngữ, hay ký tự mà con người sử dụng
để giao tiếp, trao đổi thông tin và thể hiện cảm xúc, tư tưởng. Tuy nhiên, ngôn ngữ không chỉ là một hiện tượng
xã hội đơn thuần mà còn là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bởi nó không chỉ phục vụ mục đích giao tiếp mà còn
phản ánh ý thức xã hội và gắn liền với sự tồn tại, phát triển của xã hội. Hiện tượng xã hội là những sự kiện, hành
vi hay quy tắc được tạo ra và duy trì bởi các thành viên trong xã hội, như các phong tục, tập quán, ngôn ng, tín
ngưỡng. Để chứng minh điều này, chúng ta cần làm ba khía cạnh chính: ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp,
ngôn ngữ phản ánh ý thức xã hội, và ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại, phát triển của xã hội.
Trước hết, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp không thể thiếu trong xã hội. Ngôn ngữ ra đời từ nhu cầu trao
đổi thông tin, giúp con người giao tiếp, hiểu nhau và hợp tác trong mọi lĩnh vực. Khi con người có nhu cầu trao
đổi ý tưởng, chia sẻ cảm xúc hay làm việc chung, ngôn ngữ chính là công cụ hiệu quả nhất. Ví dụ, sinh viên sử
dụng ngôn ngữ để giao tiếp với giáo viên, tiếp thu kiến thức, hay trong các cuộc họp, ngôn ngữ là phương tiện
giúp các cá nhân, tổ chức truyền đạt ý tưởng và quan điểm của mình. Vì vậy, ngôn ngữ có vai trò thiết yếu trong
việc duy trì sự kết nối và hợp tác giữa con người vi nhau.
Ngôn ngữ cũng phản ánh sâu sắc ý thức xã hội của một cộng đồng, dân tộc. không chỉ là công cụ giao tiếp
còn là biểu hiện của tư tưởng, quan điểm và văn hóa của xã hội đó. Mỗi quốc gia, dân tộc có ngôn ngữ riêng,
và ngôn ngữ ấy không chỉ thể hiện cách thức giao tiếp mà còn phản ánh những giá trị xã hội, tôn chỉ của cộng
đồng. Chẳng hạn, người Mỹ sử dụng tiếng Anh để thể hiện tiếng nói và bày tỏ quan điểm về các vấn đề toàn cầu,
trong khi đó, ở Việt Nam, tiếng Việt là công cụ để các lãnh đạo, như Chủ tịch nước, thể hiện quan điểm chính trị
tư tưởng của Đảng. Ngôn ngữ chính là công cụ để truyền đạt tư tưởng của xã hội, qua đó tạo ra sự đồng thuận
và gắn kết giữa các cá nhân trong cộng đồng.
Hơn nữa, ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại phát triển của xã hội. Ngôn ngữ không phải một hiện tượng
tự nhiên, mà một sản phẩm của hội. Nó tồn tại không chỉ nhu cầu của một cá nhân sự phát triển
chung của hội. Khi hội phát triển, ngôn ngữ cũng phát triển theo, từ ngôn ngữ ợng hình của thời kỳ
nguyên thủy cho đến ngôn ngữ viết, ngôn ngữ khoa học và hiện đại ngày nay. Những thay đổi trong xã hội như
sự ra đời của những khái niệm mới, các phát minh hay tiến bộ trong khoa học đều tạo ra những từ mới, khái
niệm mới trong ngôn ngữ, như chúng ta thấy từ thời phong kiến đến hiện đại, ngôn ngữ đã thay đổi và phát triển
theo sự tiến bộ của hội. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ sự phát triển của hội mối quan hệ đồng chiều,
tức là khi xã hội thay đổi, ngôn ngữ cũng thay đổi và phát triển theo.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ là một hiện tượng hội đặc biệt vì nó không phải là sản phẩm của sở hạ tầng
mà là một công cụ giao tiếp của tập thể xã hội, được hình thành và bảo vệ qua nhiều thời đại. Ngôn ngữ không
thay đổi hay biến mất khi cơ sở hạ tầng thay đổi, nó chỉ phát triển và hoàn thiện dần theo thời gian. Ví dụ,
mặc các công trình, kiến trúc, hay sở vật chất thể thay đổi, nhưng ngôn ngữ vẫn tồn tại phát triển
theo sự thay đổi của hội. Ngôn ngữ không gắn liền với một giai cấp nào, phục vụ cho toàn xã hội, giúp
con người giao tiếp, truyền đạt và thực hiện các hoạt động trong mọi lĩnh vực, từ chính trị đến đời sống thường
nhật. Trong thời phong kiến, dù hội có sự phân chia giai cấp rõ rệt, ngôn ngữ vẫn là công cụ để các trí thức
và sĩ phu đấu tranh, bày tỏ quan điểm và tham gia vào các cuộc cách mạng xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng ngôn ngữ không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn là một hiện
tượng xã hội đặc biệt. Nó phương tiện giao tiếp không thể thiếu trong mọi hoạt động xã hội, đồng thời cũng
là công cụ thể hiện và phản ánh ý thức hội, tư tưởng chính trị của cộng đồng. Ngôn ngữ không phục vụ cho
một cá nhân hay giai cấp nào cụ thể mà phục vụ cho toàn thể xã hội, giúp con người hiểu nhau tổ chức các
hoạt động trong mọi lĩnh vực. Chính vì những đặc thù này, ngôn ngữ xứng đáng được xem là một hiện tượng
hội đặc biệt, có vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Câu 20: Chứng minh nhận định: “… Ngôn ngữ ý thức thực tại, thực tiễn, ngôn ngữ
cũng tồn tại cho cả những người khác nữa, như vậy là cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản
lOMoARcPSD| 58504431
thân tôi nữa; và, cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra do nhu cầu, do cần thiết phải
giao dịch với người khác”. (Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB
Giáo dục 2000, trang 12)
Ngôn ngữ một hiện ợng hội đặc biệt, mang bản chất hội sâu sắc không thể tách rời
khỏi đời sống của con người. Nhận định trên khẳng định vai trò của ngôn ngữ không chỉ là phương
tiện giao tiếp mà còn là ý thức thực tại, phản ánh đời sống thực tiễn và các mối quan hệ xã hội. Để
làm nhận định này, ta sẽ chứng minh ngôn ngữ mang bản chất hội một hiện tượng
hội đặc biệt.
1. Ngôn ngữ mang bản chất xã hội
Ngôn ngữ nảy sinh, tồn tại phát triển trong hội loài người. không phải hiện tượng tự
nhiên, mà kết quả của nhu cầu giao tiếp tổ chức đời sống chung. Khi con người sống thành
bầy đàn và hợp tác lao động, họ cần một công cụ để chia sẻ thông tin, phối hợp hành động và biểu
đạt tư duy. Từ những tiếng kêu, ám hiệu ban đầu, ngôn ngữ đã dần phát triển thành một hệ thống
phức tạp, đáp ứng các nhu cầu xã hội ngày càng cao.
dụ, trong thời kỳ nguyên thủy, tiếng kêu cảnh báo hoặc tín hiệu săn bắn đã trở thành phương
tiện giao tiếp khai. Khi hội phát triển, ngôn ngữ cũng thay đổi để phù hợp với những nhu
cầu mới như trao đổi tri thức, cảm xúc và xây dựng văn hóa. Ngày nay, sự xuất hiện của các thuật
ngữ như “internet”, “blockchain” cho thấy ngôn ngữ không ngừng phát triển cùng sự tiến bộ của
xã hội loài người.
Ngôn ngữ cũng phục vụ hội với cách phương tiện giao tiếp quan trọng nhất. Thông qua
ngôn ngữ, con người trao đổi thông tin, tổ chức các hoạt động chung và xây dựng các mối quan hệ
hội. Không chỉ vậy, ngôn ngữ còn giúp con người biểu đạt cảm xúc, truyền tải tri thức tạo
nên sự gắn kết trong cộng đồng. Ngôn ngữ không chỉ tồn tại để phục vụ người khác mà còn giúp
cá nhân nhận thức rõ hơn về bản thân qua quá trình giao tiếp.
Cuối cùng, ngôn ngữ phương tiện biểu đạt ý thức xã hội. Nó không chỉ phản ánh tư duy cá nhân
mà còn lưu giữ các giá trị, quan điểm và ý thức của cả một cộng đồng. Ngôn ngữ là công cụ giúp
con người nhận thức thế giới, truyền tải tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác và phản ánh những
thay đổi trong ý thức xã hội.
2. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt
Ngôn ngữ vị trí đặc biệt trong hội không thuộc sở hạ tầng hay kiến trúc thượng
tầng.
Trước hết, ngôn ngữ không thuộc sở hạ tầng, không trực tiếp tham gia vào quá trình sản
xuất vật chất hay quyết định các mối quan hệ kinh tế. Dù không tạo ra của cải, ngôn ngữ vẫn đóng
vai trò trung gian quan trọng trong việc tổ chức và điều phối sản xuất.
lOMoARcPSD| 58504431
Thứ hai, ngôn ngữ không thuộc kiến trúc thượng tầng, vì không bị chi phối bởi hệ tư tưởng
hay giai cấp thống trị. Ngôn ngữ tài sản chung của toàn hội, được sử dụng để phục vụ mọi
tầng lớp mà không phân biệt giai cấp hay địa vị.
Đặc biệt, ngôn ngữ không mang tính giai cấp. Trong cùng một cộng đồng, dù là người lao động
hay trí thức, tất cả đều sử dụng chung một hthống ngôn ngữ. Ngôn ngvượt qua mọi ranh giới
xã hội, trở thành công cụ giao tiếp chung cho tất cả mọi người, từ đó thể hiện bản chất dân chủ và
phổ quát của mình.
Tóm lại, ngôn ngữ không chỉ phương tiện giao tiếp còn phản ánh ý thức thực tại các
mối quan hệ hội. Ngôn ngữ mang bản chất xã hội vì nảy sinh, tồn tại và phát triển trong cộng
đồng loài người, đồng thời phục vụ các nhu cầu giao tiếp biểu đạt ý thức xã hội. Bên cạnh đó,
ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì không thuộc cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng và
không mang tính giai cấp. Nhận định trên đã khẳng định rõ vai trò quan trọng của ngôn ngữ trong
đời sống con người và sự phát triển của xã hội.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58504431
Câu 1: Đặc điểm loại hình ngôn ngữ tiếng Việt. -
Tiếng là đơn vị cơ sở ngữ pháp
+ Về mặt ngữ âm tiếng là âm tiết
+ Về mặt sử dụng tiếng là từ hoặc yếu tố cấu tạo từ VD:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
7 tiếng/ 7 từ/ 7 âm tiết
Đọc và viết đều tách rời nhau
Đều có khả năng cấu tạo nên từ: Trở về / thôn xóm -
Từ không biến đổi hình thái
VD: Tôi, tặng, anh ấy, một cuốn sách, anh ấy, tặng tôi, một quyển vở
Từ trong tiếng Việt không biến đổi hình thái khi biểu thị ý nghĩa ngữ pháp -
Biện pháp chủ yếu để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp là sắp đặt từ Câu 2: Quan hệ đồng nhất và đối lập trong ngôn ngữ. -
Quan hệ đồng nhất: Quan hệ giống nhau giữa các yếu tố ( đơn vị) ngôn ngữ về một phương diện
nào đó. Sự giống nhau đó tạo cơ sở để tập hợp các yếu tố vào cùng một loại, một hệ thống nào nhỏ.
VD: âm /a/ và /ê/ đều là nguyên âm tức là các âm vị khi phát âm luồng hơi đi ra không bị cản Từ
mếu máo và khang khác đều láy phụ âm đầu, các tiếng trong mỗi từ đều giống nhau phụ âm đầu -
Quan hệ đối lập là qh giữa các yếu tố khác biệt nhau về một phương diện nào đó. Sự khác biệt trên
cùng một phương diện, tiêu chí tạo nên sự đối lập
VD: âm/a/ và âm/u/ là các nguyên âm có độ mở đối lập nhau, âm /a/ có độ mở rộng, âm /u/ có độ mở hẹp
 Sự đồng nhất và đối lập luôn tồn tại song song giữa các yếu tố ngôn ngữ. Nếu không cùng tồn tại
song song thì các yếu tố sẽ trong tình trạng rời rạc biệt lập, không có quan hệ với nhau
Câu 3: Miêu tả các nguyên âm theo các tiêu chí: vị trí của lưỡi, độ mở của miệng, hình dáng của môi -
Vị trí/ chiều hướng của lưỡi: lưỡi nhích hay lùi về phía sau
+ Nguyên âm hang trước: (I,e,…)
+ Nguyên âm hang giữa (i-) + Nguyên âm hàng sau:9 u,o -
Độ mở độ há của miệng + Nguyên âm hẹp /i,uu,u/
+ Nguyên âm hơi hẹp /e,o/ + Nguyên âm hơi rộng: + Nguyên âm rộng: (a,ă) -
Hình dáng của môi: môi thu tròn hay môi có hình dẹt + Nguyên âm tròn môi/u,o/
+Nguyên âm không tròn môi: ( e,a) -
Âm sắc: tính chất trầm bổng của nguyên âm + Nguyên âm bổng: /I,e/
+ Nguyên âm trung hòa: /i-/ + Nguyên âm trầm: /u,o/ lOMoAR cPSD| 58504431
Câu 4: Phân biệt âm tố nguyên âm và âm tố phụ âm.
Đặc Âm tố nguyên âm Âm tố phụ âm điểm
Âm tố nguyên âm là những âm thanh Âm tố phụ âm là những âm thanh được phát ra
phát ra mà không có sự cản trở hay khi có sự cản trở, nghẽn hoặc thay đổi
thay đổi dòng khí qua các cơ quan phát dòng khí trong quá trình phát âm. Các Đặc
âm. Khi phát âm nguyên âm, dòng khí phụ âm thường được tạo ra bởi sự va điểm
đi từ phổi ra miệng mà không bị cản trở chạm, tạo khe hở hay tiếp xúc giữa các phát
bởi bất kỳ cơ quan phát âm nào (như bộ phận của cơ thể như môi, răng, lưỡi, âm
môi, răng, lưỡi, vòm miệng). vòm miệng và họng.
Vị trí Vị trí của lưỡi và môi thay đổi để tạo Vị trí của các bộ phận như môi, lưỡi, phát âm.
vòm miệng tạo sự cản trở. âm Âm Mượt mà, dễ nghe
Có sự nghẽn hoặc cản trở thanh
Ví dụ a, i, u, e, o, ư, ơ...
b, c, d, t, k, p, m, n, s, l...
Khái niệm nguyên âm: là âm tiết khi phát ra luồng hơi đi ra tự do yếu có nhiều tiếng thanh khó nhận ra: Tiêu
chí miêu tả:- Vị trí/ chiều hướng của lưỡi: + Ng/am hàng trước + Ng/âm hàng giữa + Ng/âm hàng sau -
Độ mở, độ há của miệng + Ng/âm hẹp + Ng/âm hơi hẹp + Ng/âm hơi rộng + Ng/âm rộng -
Hình dáng của môi: môi thu tròn hay môi có hình dẹt + Ng/âm tròn môi + Ng/âm không tròn môi - Âm sắc + Ng/âm bổng + Ng/âm trung hòa + Ng/âm trầm
Khái niệm phụ âm: khi phát âm luồng không khí từ phổi đi qua các khoang phát âm bị cản trở ở một vị trí nào đó trong các khoang
Tiêu chí miêu tả: - Phương thức phát âm lOMoAR cPSD| 58504431 + Phụ âm tắc + Phụ âm xát + Phụ âm rung - Vị trí phát âm + Phụ âm môi + Phụ âm lưỡi + Phụ âm thanh hầu -
Thanh tính: Dựa vào sự tham gia của dây thanh ở những mức độ khác nhau Hữu thanh/ vô thanh Câu 5:
Tính võ đoán và tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ. -
Tính võ đoán: Mối quan hệ giữa từ ngữ và ý nghĩa là do con người quy ước, thỏa mãn với nhau, không giải thích được
Một số tín hiệu có tính võ đoán thấp: + Từ tượng thanh: meo meo, gâu gâu
+ Từ tượng hình: lấp lánh
+ Kí hiệu trực quan: các biển báo giao thông -
Tính hình tuyến: Các âm thanh ngôn ngữ diễn ra lần lượt kế tiếp nhau trong thời gian , cái này
nối tiếp cái kiathành một chuỗi
VD: Ôi-tiếng-việt-như-đất-cày-như-lụa
Các loại tín hiệu có thể xuất hiện đồng thời ( Pháo hiệu)
Lưu ý: Do phải xuất hiện theo một dòng tuyến tính nên trong ngôn ngữ trật tự sắp xếp với các tín hiệu đóng vai
trò quan trọng và chính trật tự đó tham gia vào việc biểu đạt ý nghĩa. ( khi thay đổi vị trí, trật tự của từ trong câu
thì nghĩa của câu sẽ thay đổi )
Câu 6. Tính đa trị và tính phức tạp nhiều tầng của tín hiệu ngôn ngữ Tính đa trị: -
Một tín hiệu ngôn ngữ biểu thị nhiều nội dung khác nhau ( từ nhiều nghĩa, từ đồng âm) =>1/n-
Nhiều tín hiệu ngôn ngữ biểu thị một nội dung ( từ đồng nghĩa) => n/1 Tính phức tạp nhiều tầng:
Ngôn ngữ được tổ chức theo nhiều cấp độ từ nhỏ ( âm vị, từ) đến lớn ( câu, văn bản)
Âm vị: Các âm đơn lẻ như h,o,c thành học
Câu 7. Phân tích sự khác nhau giữa phương thức phụ gia/ phụ tố và phương thức ghép, từ phái sinh và từ ghép.
Sự khác nhau giữa phương thức phụ gia/ phụ tố và phương thức từ ghép
Phương thức phụ gia/ phụ tố: Dùng phụ tố để gắn vào gốc từ tạo ra từ mới
Phụ tố không có khả năng đứng độc lập, nó chỉ mamg nghĩa bổ sung và gắn liền với từ gốc được gọi là từ phái sinh VD: un+ happy => unhappy lOMoAR cPSD| 58504431
Phương thức từ ghép: dùng hai hay nhiều gốc từ có nghĩa độc lập tạo ra từ mới
Các thành phần trong từ ghép thường có khả năng đứng độc lập trong ngôn ngữ
VD: bánh + mì => bánh mì Book+ store => bookstore
Sụ khác nhau giữa từ phái sinh và từ ghép
Câu 8. Các nhóm từ dưới đây có điểm gì giống nhau về ý nghĩa ngữ pháp? Mỗi nhóm từ sử dụng phương thức ngữ pháp nào?
a. tables, students, houses, classes, babies, watches , fishes, glasses
b. teeth, geese, men, women, sang, sat, drank, feet
c. ngày ngày, người người, nhà nhà, đêm đêm, sáng sáng
a) Ý nghĩa ngữ pháp: Các từ này biểu thị ý nghĩa số nhiều trong tiếng anh. Trong ngữ pháp học đây là một phạm
trù thuộc ngữ pháp hình thái
- Phương thức ngữ pháp: sử dụng phương thức phụ tố
+ Thêm hậu tố e/es để biểu đạt ý nghĩa số nhiều
b) Ý nghĩa ngữ pháp: Biểu thị số nhiều bất quy tắc và quá khứ bất quy tắc
Phương thức ngữ pháp: Phương thức biến đổi hình thái
+ Thay đổi thành phần bên trong của gốc từ ( như nguyên âm hoặc cấu trúc âm vị) để biểu đạt ý nghĩa ngữ pháp
+ Đặc trưng này phổ biến trong các ngôn ngữ hòa kết như tiếng Anh
C) Biểu đạt hai ý nghĩa ngữ pháp: Nhấn mạnh và khái quát hóa
Phương thức ngữ pháp: láy toàn bộ . lặp lại nguyên dạng gốc từ để bổ sung ý nghĩa ngữ pháp ( nhấn mạnh hóa hoặc phổ quát hóa)
Câu 9. Phân loại và giải thích các phương thức ngữ pháp của những từ sau đây: foot - feet, pen - pens, man
- men, orange - oranges, play - played, sing - sang, tree - trees, tooth - teeth, người người, nhà nhà, ngày ngày
- foot-feet, man-men, tooth-teeth
Biểu thị phạm trù ngữ pháp số nhiều
+ Phương thức ngữ pháp: phương thức biến đổi hình thái: Gốc từ bị thay đổi nội bộ ( nguyên âm)
-pen-pens, orange- oranges, tree- trees,
Ý nghĩa ngữ pháp : Biểu thị phạm trù số nhiều
Hình thái học: Biểu đạt bằng cách thêm hậu tố s- es vào từ gốc
Phương thức ngữ pháp: Phương thức phụ tố - play- played
Biểu thị phạm trù thì quá khứ lOMoAR cPSD| 58504431
Được biểu đạt bằng cách thêm hậu tố ed
Phương thức ngữ pháp: Phương thức phụ tố - sing-sang
Ý nghĩa ngữ pháp: Biểu thị thì quá khứ trong động từ bất quy tắc tiếng Anh
Biểu đạt bằng sự biến đổi nội bộ của từ gốc thay đổi nguyên âm
Phương thức ngữ pháp: Phương thức biến đổi hình thái
- người người, nhà nhà, ngày ngày
Biểu thị hai ý nghĩa ngữ pháp chính:
+ Nhấn mạnh: Chỉ sự lặp lại hoặc tính đều đănh + Phổ quát hóa: Bao trùm
Hình thái học: Lặp lại hoàn toàn gốc từ
Phương thức ngữ pháp: Phương thức láy từ: cụ thể là láy toàn bộ : Gốc từ được lặp lại hoàn chỉnh
Câu 10. Chứng minh rằng hệ thống ngôn ngữ là một tổng thể bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ qua lại với nhau.
Hệ thống ngôn ngữ là một tổng thể được tổ chức bởi nhiều yếu tố ngôn ngữ như âm vị, từ vựng,
ngữ pháp. Các yếu tố này không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung và
tác động qua lại, tạo nên một hệ thống thống nhất phục vụ cho mục đích giao tiếp. Sự tồn tại của
mỗi yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ không tách rời mà phụ thuộc vào các yếu tố khác, từ đó thể
hiện rõ đặc tính của một hệ thống.
Thứ nhất, trong hệ thống âm vị học, các âm vị không có ý nghĩa tự thân mà chỉ có chức năng
phân biệt ý nghĩa khi đứng trong mối quan hệ với các âm vị khác. Ví dụ, trong tiếng Việt, các âm
“b” và “m” tạo nên sự khác biệt ý nghĩa trong hai từ “ba” và “ma”. Sự khác biệt này chỉ tồn tại khi
các âm vị được đặt trong một hệ thống đối lập và liên kết.
Thứ hai, từ vựng trong ngôn ngữ cũng thể hiện tính hệ thống rõ rệt. Một từ không chỉ được hình
thành từ sự kết hợp của các âm vị mà còn mang ý nghĩa nhờ sự liên hệ với các từ khác trong hệ
thống từ vựng. Ví dụ, từ “hoa” chỉ có ý nghĩa khi đứng trong ngữ cảnh ngôn ngữ có các từ khác
như “hoa sen”, “hoa hồng”, hoặc khi được đối chiếu với các từ không cùng trường nghĩa như “cây”, “lá”.
Thứ ba, ngữ pháp là yếu tố gắn kết các từ và cụm từ trong hệ thống ngôn ngữ, tạo thành các
câu có ý nghĩa hoàn chỉnh. Cấu trúc ngữ pháp phụ thuộc vào quy tắc sắp xếp từ, và sự thay đổi trật
tự từ có thể làm thay đổi ý nghĩa câu. Ví dụ, trong tiếng Việt, câu “Tôi yêu bạn” khác hoàn toàn
với câu “Bạn yêu tôi” dù các từ sử dụng giống nhau. Điều này cho thấy sự tương tác giữa từ vựng
và ngữ pháp trong hệ thống. lOMoAR cPSD| 58504431
Như vậy, hệ thống ngôn ngữ là một tổng thể thống nhất, nơi mà mỗi yếu tố như âm vị, từ vựng,
ngữ pháp đều có vai trò riêng nhưng không tồn tại độc lập. Chúng liên kết chặt chẽ, tương tác và
bổ sung cho nhau, đảm bảo cho ngôn ngữ thực hiện được chức năng giao tiếp và biểu đạt ý nghĩa của mình.
Câu 13: Chứng minh rằng “Quan hệ liên tưởng là cơ sở cho sự lựa chọn yếu tố khi sử dụng và
là cơ sở cho sự phân loại các yếu tố trong nghiên cứu”. (Bùi Minh Toán, Giáo trình Dẫn luận
ngôn ngữ học
, NXB Đại học Sư phạm, trang 81)
Quan hệ liên tưởng là mối quan hệ giữa các đơn vị ngôn ngữ trong ý thức của con người, được
hình thành dựa trên sự tương đồng hoặc đối lập về nghĩa, hình thức hoặc chức năng. Khi một từ
hoặc một đơn vị ngôn ngữ xuất hiện, nó có khả năng gợi lên các từ hoặc yếu tố liên quan khác
trong tâm trí của người nói hoặc người nghe. Chẳng hạn, khi nhắc đến từ “ăn”, người ta sẽ liên
tưởng đến các món ăn như cơm, cháo, phở, bánh mỳ, thịt gà... Những liên tưởng này hình thành
dựa trên mối quan hệ về ngữ nghĩa: tất cả các yếu tố được gợi lên đều liên quan đến hành động
“ăn” hoặc các đối tượng có thể ăn được. Chính nhờ quan hệ liên tưởng, hệ thống ngôn ngữ trở nên
phong phú và có tổ chức hơn.
2. Quan hệ liên tưởng là cơ sở cho sự lựa chọn yếu tố khi sử dụng
Trong giao tiếp, quan hệ liên tưởng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp người nói lựa chọn từ
ngữ phù hợp với ngữ cảnh và ý nghĩa cần truyền đạt. Những yếu tố ngôn ngữ có chung đặc điểm
ngữ âm, ngữ nghĩa hoặc ngữ pháp sẽ được liên kết lại với nhau, từ đó người nói có thể chọn ra yếu
tố thích hợp nhất. Ví dụ, khi nói “ăn sáng”, người ta sẽ liên tưởng đến những món ăn quen thuộc
như bánh mỳ, phở hoặc xôi. Quan hệ liên tưởng giúp người nói không sử dụng từ không phù hợp,
như “ăn nước” hoặc “ăn bút”, vì những từ này không có mối quan hệ ngữ nghĩa với hành động ăn.
Ngoài ra, nhờ mối quan hệ liên tưởng, các sắc thái ý nghĩa cũng được thể hiện rõ hơn. Chẳng hạn,
thay vì nói “ăn nhanh”, người nói có thể chọn từ “ăn vội” để nhấn mạnh sự gấp gáp và hoàn cảnh
cụ thể. Sự lựa chọn yếu tố trong giao tiếp không chỉ giúp thông điệp trở nên chính xác, rõ ràng
mà còn làm nổi bật giá trị ngữ nghĩa và tạo ấn tượng trong giao tiếp.
3. Quan hệ liên tưởng là cơ sở cho sự phân loại các yếu tố trong nghiên cứu
Không chỉ có vai trò trong giao tiếp, quan hệ liên tưởng còn là cơ sở để phân loại các yếu tố
ngôn ngữ trong nghiên cứu. Những yếu tố có cùng đặc điểm liên tưởng thường được xếp vào cùng
một nhóm, giúp việc phân loại trở nên dễ dàng và có hệ thống hơn. Ví dụ, các từ liên quan đến
động từ “ăn” như cơm, cháo, bánh mỳ, phở đều có thể được xếp vào nhóm danh từ chỉ thực phẩm.
Trong khi đó, các từ như nhai, nuốt, cắn sẽ thuộc nhóm động từ liên quan đến hành động ăn uống.
Việc phân loại này không chỉ giúp làm rõ mối quan hệ giữa các từ mà còn hỗ trợ nghiên cứu về
ngữ nghĩa, ngữ âm và ngữ pháp của từng nhóm. Ngoài ra, quan hệ liên tưởng còn giúp nghiên cứu
ngôn ngữ ở mức độ sâu hơn, như phân tích mối liên hệ giữa từ và khái niệm. Chẳng hạn, nhóm từ
miêu tả vị giác như “ngọt”, “chua”, “mặn” có thể được liên kết với nhóm danh từ chỉ thực phẩm
để tìm hiểu cách ngôn ngữ biểu đạt cảm giác của con người
Tóm lại, quan hệ liên tưởng là yếu tố không thể thiếu trong cả việc sử dụng và nghiên cứu ngôn
ngữ. Nhờ quan hệ này, người nói có thể lựa chọn yếu tố ngôn ngữ phù hợp với ngữ cảnh, đồng thời lOMoAR cPSD| 58504431
các nhà nghiên cứu có thể dễ dàng phân loại và khám phá hệ thống ngôn ngữ. Quan hệ liên tưởng
không chỉ làm phong phú khả năng biểu đạt của con người mà còn góp phần quan trọng vào sự tổ
chức và phát triển của ngôn ngữ học. Câu 15:
Quá trình và cách thức phát triển của ngôn ngữ loài người. Cách thức phát triển đó có gì đặc biệt so với
các hiện tượng xã hội khác thuộc kiến trúc thượng tầng? Phân tích một số ví dụ trong tiếng Việt để minh
họa cho sự phát triển đó.

1. Quá trình phát triển của ngôn ngữ:
Trải qua hàng nghìn năm cùng sự tiến hóa của xã hội loài người.
Ngôn ngữ không ngừng thay đổi và phát triển theo nhu cầu giao tiếp và nhận thức của con người
- Ngôn ngữ bộ lạc và biến thể của nó
+ Là ngôn ngữ đầu tiên
+ Biến thể: phát triển theo hai xu hướng: + Chia cắt phân li + Hợp nhất
- Ngôn ngữ khu vực: Bước quá độ trên con đường phát triển ngôn ngữ loài người
+ Do sự phát triển của kinh tế, thủ công nghiệp, thương mại---> những mối liên hệ thị tộc, bộ lạc dần mất đi
nhường chỗ cho các mối quan hệ về kinh tế,... - Ngôn ngữ dân tộc:
+ Sự phát triển của dân tộc, nhà nước đẩy mạnh sự thống nhất kinh tế, chính trị, văn hóa => các thị tộc, bộ lạc
tan ra => dân tộc ra đời - Ngôn ngữ văn hóa:
+ Ngôn ngữ dân tộc phát triển => hình thành ngôn ngữ văn hóa nhưng vẫn tuân thủ chuẩn mực ngôn ngữ dân tộc
+ Được trau chuốt, tinh luyện, đạt đến chuẩn mực xã hội và được sử dụng trong mọi lĩnh vực xã hội
- Ngôn ngữ cộng đồng tương lai: Đây là dự đoán. Các ngôn ngữ hòa nhập vào nhau
2. Cách thức phát triển: Biến đổi nội tại và tiếp xúc ngôn ngữ
- Ngôn ngữ biến đổi từ từ, liên tục, không đột biến: phát triển kế thừa và bảo tồn những cái đã có
- Sự phát triển không đồng đều giữa các mặt
+ Ngôn ngữ phát triển không đều ở các đơn vị của nó
Lĩnh vực từ vựng biến đổi nhanh và nhiều hơn
Ngữ âm và ngữ pháp biến đổi chậm hơn
- Cách thức phát triển Khác biệt với hiện tượng xã hội khác:
· Phát triển tự nhiên và liên tục: Ngôn ngữ phát triển tự nhiên qua giao tiếp hàng ngày, không
cần can thiệp từ các cơ quan hay thể chế, và thay đổi liên tục qua các thế hệ.
·Biến đổi dần dần: Ngôn ngữ thay đổi từ từ, không đột ngột như các hiện tượng xã hội khác, với
sự biến đổi trong từ vựng, ngữ pháp, và ngữ âm.
Thích ứng linh hoạt: Ngôn ngữ thích ứng nhanh chóng với sự phát triển của xã hội và văn hóa,
không bị ràng buộc bởi quyết định từ các cơ quan lãnh đạo.
3. Ví dụ trong tiếng Việt:
Sự xuất hiện của từ mới: “smartphone” (điện thoại thông minh), “livestream”, phản ánh nhu cầu giao tiếp trong thời đại công nghệ.
Biến đổi từ cổ sang hiện đại: Từ “thê tử” (vợ) nay ít dùng, thay vào đó là “vợ” hay “bà xã”. Câu 16: lOMoAR cPSD| 58504431
Chứng minh nhận định sau: “Có thể khẳng định rằng, chức năng giao tiếp là chức năng thứ nhất, còn
chức năng phản ánh (tư duy, tức là sự phản ánh thế giới xung quanh bởi con người, chủ yếu được thực
hiện dưới hình thức ngôn ngữ) là thứ hai, đồng thời cả hai chức năng này đều có liên hệ chặt chẽ với nhau”
(V.C. Kasevich, Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, NXB Giáo dục 1998, trang 12 - 13).

Ngôn ngữ là công cụ quan trọng bậc nhất để con người tồn tại và phát triển. Theo V.C. Kasevich,
chức năng giao tiếp của ngôn ngữ được coi là chức năng thứ nhất, bởi nó gắn liền với bản chất xã
hội và nhu cầu tương tác của con người. Đồng thời, chức năng phản ánh – tức là khả năng tư duy
và tái hiện thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ – là chức năng thứ hai, hỗ trợ và bổ trợ cho chức
năng giao tiếp. Hai chức năng này luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, vừa độc lập vừa tương hỗ.
Trước hết, chức năng giao tiếp của ngôn ngữ là cơ bản và quan trọng nhất vì con người là một thực
thể xã hội. Ngôn ngữ là phương tiện để truyền đạt thông tin, trao đổi cảm xúc, ý kiến và thực hiện
các hoạt động xã hội. Ví dụ, trong đời sống hàng ngày, câu nói “Hôm nay trời mưa nên tôi mang
ô” không chỉ truyền tải thông tin về thời tiết mà còn phục vụ giao tiếp để giải thích hành động của
người nói. Chính thông qua giao tiếp, các cá nhân gắn kết với cộng đồng, hình thành và phát triển xã hội.
Chức năng phản ánh – tức là khả năng tư duy và tái hiện thế giới bằng ngôn ngữ – đóng vai trò hỗ
trợ, song không kém phần quan trọng. Ngôn ngữ giúp con người nhận thức và diễn đạt các khái
niệm, sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Chẳng hạn, trong văn học, câu thơ của Nguyễn
Du: “Trăm năm trong cõi người ta / Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” vừa phản ánh triết lý
sống, vừa ghi lại bối cảnh xã hội thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, việc phản ánh này luôn gắn liền
với mục đích giao tiếp, bởi thông qua đó, tác giả truyền đạt cảm xúc và suy tư đến người đọc.
Hai chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ và không thể tách rời. Chức năng phản ánh giúp hoàn
thiện nội dung giao tiếp, bởi mọi thông tin được trao đổi đều xuất phát từ nhận thức của người nói
về thế giới xung quanh. Ví dụ, khi một nhà khoa học trình bày nghiên cứu về biến đổi khí hậu, bài
thuyết trình không chỉ nhằm mục đích trao đổi ý kiến (giao tiếp) mà còn phản ánh dữ liệu và hiện
tượng thực tế một cách khách quan. Ngược lại, giao tiếp là phương tiện để hiện thực hóa chức
năng phản ánh, giúp truyền tải tư duy cá nhân đến cộng đồng.
Tóm lại, chức năng giao tiếp và chức năng phản ánh của ngôn ngữ luôn tồn tại song hành và bổ
trợ lẫn nhau. Giao tiếp là chức năng cơ bản, phản ánh là chức năng hỗ trợ, nhưng cả hai đều là biểu
hiện của vai trò thiết yếu của ngôn ngữ trong việc duy trì và phát triển xã hội loài người. Câu 17:
Trình bày những hiểu biết về tín hiệu nói chung, tín hiệu ngôn ngữ nói riêng. Từ đó cho biết, tín hiệu ngôn
ngữ có điểm gì giống và khác so với các tín hiệu khác?
1. Khái niệm tín hiệu nói chung
Tín hiệu là một hiện tượng vật chất (âm thanh, hình ảnh, ký hiệu...) được sử dụng để truyền tải thông tin từ người phát đến người nhận.
Tín hiệu có hai mặt cơ bản:
Cái biểu đạt (hình thức bên ngoài, vật chất có thể cảm nhận).
Cái được biểu đạt (nội dung, ý nghĩa mà tín hiệu mang lại).
Ví dụ: Đèn giao thông đỏ biểu đạt thông tin “phải dừng lại”. 2. Tín hiệu ngôn ngữ lOMoAR cPSD| 58504431
Là loại tín hiệu đặc biệt được con người sử dụng trong giao tiếp, thể hiện qua ngôn ngữ nói hoặc viết.
Đặc điểm của tín hiệu ngôn ngữ:
Tính võ đoán: Không có mối liên hệ tự nhiên giữa hình thức âm thanh/ngữ âm và ý nghĩa của từ. Ví dụ: Từ “bàn”
(tiếng Việt) khác với “table” (tiếng Anh).
Tính xã hội: Tín hiệu ngôn ngữ được chấp nhận và sử dụng chung trong một cộng đồng.
Tính hệ thống: Tín hiệu ngôn ngữ hoạt động trong một hệ thống quy tắc chặt chẽ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp).
Tính tuyến tính: Các tín hiệu ngôn ngữ được phát ra tuần tự theo thời gian và không gian. 3. Kết luận
Tín hiệu ngôn ngữ vừa mang đặc điểm của tín hiệu nói chung, vừa có những đặc trưng riêng biệt: tính võ đoán,
tính hệ thống, tính xã hội và tính tuyến tính.
Sự khác biệt này làm cho tín hiệu ngôn ngữ trở thành công cụ giao tiếp đặc biệt và quan trọng nhất của con
người, giúp truyền tải không chỉ thông tin mà còn tư duy, cảm xúc và nhận thức về thế giới xung quanh.
18. Chứng minh nhận định sau: “Ngôn ngữ là một hệ thống bởi vì nó cũng bao gồm các yếu tố và các
quan hệ giữa các yếu tố đó” (Nguyễn Thiện Giáp (1994), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, trang 53)
Ngôn ngữ được xem là một hệ thống vì nó bao gồm các yếu tố cơ bản và các mối quan hệ chặt chẽ giữa các
yếu tố đó. Trong hệ thống ngôn ngữ, các yếu tố như âm vị, hình vị, từ, cụm từ, và câu đóng vai trò quan trọng,
cùng với hai mối quan hệ chính là quan hệ tuyến tính và quan hệ liên tưởng, giúp ngôn ngữ vận hành một cách thống nhất.
Trước tiên, các yếu tố trong ngôn ngữ là những thành phần cơ bản cấu thành hệ thống. Âm vị là đơn vị âm
thanh nhỏ nhất, không mang ý nghĩa nhưng có vai trò phân biệt ý nghĩa giữa các từ. Ví dụ, âm vị /b/ và /m/ giúp
phân biệt từ “ba” và “ma.” Tiếp theo, hình vị là đơn vị ngữ pháp nhỏ nhất mang nghĩa hoặc chức năng. Ví dụ,
từ “học sinh” gồm hai hình vị: “học” (mang nghĩa học tập) và “sinh” (người).Từ là đơn vị cơ bản trong giao tiếp,
được hình thành từ một hoặc nhiều hình vị. Ví dụ, từ “bàn” là một từ đơn, còn “đẹp trai” là sự kết hợp của hai
từ đơn tạo thành từ ghép. Khi các từ kết hợp với nhau theo quy tắc ngữ pháp, chúng tạo thành cụm từ Ví dụ,
“ngôi nhà đẹp” là một cụm từ, trong đó từ “đẹp” bổ sung ý nghĩa cho danh từ “ngôi nhà.” Cuối cùng, các cụm
từ kết hợp với nhau tạo thành câu đơn vị ngôn ngữ hoàn chỉnh nhất. Ví dụ, câu “Tôi đi học” vừa tuân theo quy
tắc ngữ pháp vừa diễn đạt ý nghĩa trọn vẹn. Các yếu tố này tồn tại và vận hành trong hai mối quan hệ chính là
quan hệ tuyến tính và quan hệ liên tưởng.
Quan hệ tuyến tính là mối quan hệ giữa các yếu tố xuất hiện liên tiếp trong chuỗi lời nói, được sắp xếp theo
thứ tự thời gian và không gian. Trong giao tiếp, các từ phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định để đảm bảo
ý nghĩa rõ ràng. Ví dụ, trong câu “Tôi đi học,” các từ “tôi,” “đi,” và “học” phải được đặt đúng vị trí để diễn đạt
ý nghĩa hoàn chỉnh. Nếu đảo lộn thứ tự thành “Học tôi đi,” câu nói sẽ mất đi ý nghĩa ban đầu hoặc trở nên khó
hiểu. Điều này cho thấy, quan hệ tuyến tính đóng vai trò quyết định trong việc tổ chức các yếu tố ngôn ngữ, đảm
bảo tính mạch lạc trong giao tiếp.
Quan hệ liên tưởng là mối quan hệ giữa các yếu tố có khả năng thay thế hoặc liên kết với nhau trong cùng một
hệ thống ngôn ngữ. Mối quan hệ này không phụ thuộc vào vị trí trong chuỗi lời nói, mà dựa trên sự liên kết về
ý nghĩa, chức năng hoặc vai trò ngữ pháp. Ví dụ, trong câu “Tôi đi học,” từ “tôi” có thể được thay thế bằng các
đại từ khác như “bạn,” “anh,” hoặc “chị” để tạo thành các câu “Bạn đi học,” “Anh đi học,” hoặc “Chị đi học.”
Quan hệ liên tưởng giúp ngôn ngữ trở nên phong phú và linh hoạt, đáp ứng nhu cầu biểu đạt đa dạng của con người.
Như vậy, ngôn ngữ là một hệ thống bao gồm các yếu tố như âm vị, hình vị, từ, cụm từ và câu, được kết nối và
vận hành thông qua hai mối quan hệ chính là tuyến tính và liên tưởng. Quan hệ tuyến tính đảm bảo trật tự và
tính logic của chuỗi lời nói, trong khi quan hệ liên tưởng mang lại sự linh hoạt và sáng tạo. Nhận định của
Nguyễn Thiện Giáp đã phản ánh chính xác bản chất hệ thống của ngôn ngữ, nơi các yếu tố và mối quan hệ kết
hợp để phục vụ mục đích giao tiếp hiệu quả. lOMoAR cPSD| 58504431
Câu 19: Chứng minh rằng: Ngôn ngữ không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn là một hiện tượng xã
hội đặc biệt.
Ngôn ngữ, từ lâu, đã được xem là một hiện tượng xã hội quan trọng không thể thiếu trong cuộc sống con người.
Ngôn ngữ có thể được định nghĩa là hệ thống các dấu hiệu, âm thanh, từ ngữ, hay ký tự mà con người sử dụng
để giao tiếp, trao đổi thông tin và thể hiện cảm xúc, tư tưởng. Tuy nhiên, ngôn ngữ không chỉ là một hiện tượng
xã hội đơn thuần mà còn là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bởi nó không chỉ phục vụ mục đích giao tiếp mà còn
phản ánh ý thức xã hội và gắn liền với sự tồn tại, phát triển của xã hội. Hiện tượng xã hội là những sự kiện, hành
vi hay quy tắc được tạo ra và duy trì bởi các thành viên trong xã hội, như các phong tục, tập quán, ngôn ngữ, tín
ngưỡng. Để chứng minh điều này, chúng ta cần làm rõ ba khía cạnh chính: ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp,
ngôn ngữ phản ánh ý thức xã hội, và ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại, phát triển của xã hội.
Trước hết, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp không thể thiếu trong xã hội. Ngôn ngữ ra đời từ nhu cầu trao
đổi thông tin, giúp con người giao tiếp, hiểu nhau và hợp tác trong mọi lĩnh vực. Khi con người có nhu cầu trao
đổi ý tưởng, chia sẻ cảm xúc hay làm việc chung, ngôn ngữ chính là công cụ hiệu quả nhất. Ví dụ, sinh viên sử
dụng ngôn ngữ để giao tiếp với giáo viên, tiếp thu kiến thức, hay trong các cuộc họp, ngôn ngữ là phương tiện
giúp các cá nhân, tổ chức truyền đạt ý tưởng và quan điểm của mình. Vì vậy, ngôn ngữ có vai trò thiết yếu trong
việc duy trì sự kết nối và hợp tác giữa con người với nhau.
Ngôn ngữ cũng phản ánh sâu sắc ý thức xã hội của một cộng đồng, dân tộc. Nó không chỉ là công cụ giao tiếp
mà còn là biểu hiện của tư tưởng, quan điểm và văn hóa của xã hội đó. Mỗi quốc gia, dân tộc có ngôn ngữ riêng,
và ngôn ngữ ấy không chỉ thể hiện cách thức giao tiếp mà còn phản ánh những giá trị xã hội, tôn chỉ của cộng
đồng. Chẳng hạn, người Mỹ sử dụng tiếng Anh để thể hiện tiếng nói và bày tỏ quan điểm về các vấn đề toàn cầu,
trong khi đó, ở Việt Nam, tiếng Việt là công cụ để các lãnh đạo, như Chủ tịch nước, thể hiện quan điểm chính trị
và tư tưởng của Đảng. Ngôn ngữ chính là công cụ để truyền đạt tư tưởng của xã hội, qua đó tạo ra sự đồng thuận
và gắn kết giữa các cá nhân trong cộng đồng.
Hơn nữa, ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ngôn ngữ không phải là một hiện tượng
tự nhiên, mà là một sản phẩm của xã hội. Nó tồn tại không chỉ vì nhu cầu của một cá nhân mà vì sự phát triển
chung của xã hội. Khi xã hội phát triển, ngôn ngữ cũng phát triển theo, từ ngôn ngữ tượng hình của thời kỳ
nguyên thủy cho đến ngôn ngữ viết, ngôn ngữ khoa học và hiện đại ngày nay. Những thay đổi trong xã hội như
sự ra đời của những khái niệm mới, các phát minh hay tiến bộ trong khoa học đều tạo ra những từ mới, khái
niệm mới trong ngôn ngữ, như chúng ta thấy từ thời phong kiến đến hiện đại, ngôn ngữ đã thay đổi và phát triển
theo sự tiến bộ của xã hội. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và sự phát triển của xã hội là mối quan hệ đồng chiều,
tức là khi xã hội thay đổi, ngôn ngữ cũng thay đổi và phát triển theo.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì nó không phải là sản phẩm của cơ sở hạ tầng
mà là một công cụ giao tiếp của tập thể xã hội, được hình thành và bảo vệ qua nhiều thời đại. Ngôn ngữ không
thay đổi hay biến mất khi cơ sở hạ tầng thay đổi, mà nó chỉ phát triển và hoàn thiện dần theo thời gian. Ví dụ,
mặc dù các công trình, kiến trúc, hay cơ sở vật chất có thể thay đổi, nhưng ngôn ngữ vẫn tồn tại và phát triển
theo sự thay đổi của xã hội. Ngôn ngữ không gắn liền với một giai cấp nào, mà phục vụ cho toàn xã hội, giúp
con người giao tiếp, truyền đạt và thực hiện các hoạt động trong mọi lĩnh vực, từ chính trị đến đời sống thường
nhật. Trong thời phong kiến, dù xã hội có sự phân chia giai cấp rõ rệt, ngôn ngữ vẫn là công cụ để các trí thức
và sĩ phu đấu tranh, bày tỏ quan điểm và tham gia vào các cuộc cách mạng xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng ngôn ngữ không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn là một hiện
tượng xã hội đặc biệt. Nó là phương tiện giao tiếp không thể thiếu trong mọi hoạt động xã hội, đồng thời cũng
là công cụ thể hiện và phản ánh ý thức xã hội, tư tưởng chính trị của cộng đồng. Ngôn ngữ không phục vụ cho
một cá nhân hay giai cấp nào cụ thể mà phục vụ cho toàn thể xã hội, giúp con người hiểu nhau và tổ chức các
hoạt động trong mọi lĩnh vực. Chính vì những đặc thù này, ngôn ngữ xứng đáng được xem là một hiện tượng xã
hội đặc biệt, có vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Câu 20: Chứng minh nhận định: “… Ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn, ngôn ngữ
cũng tồn tại cho cả những người khác nữa, như vậy là cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản
lOMoAR cPSD| 58504431
thân tôi nữa; và, cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra do nhu cầu, do cần thiết phải
giao dịch với người khác”. (Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Dẫn luận ngôn ngữ học
, NXB
Giáo dục 2000, trang 12)

Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, mang bản chất xã hội sâu sắc và không thể tách rời
khỏi đời sống của con người. Nhận định trên khẳng định vai trò của ngôn ngữ không chỉ là phương
tiện giao tiếp mà còn là ý thức thực tại, phản ánh đời sống thực tiễn và các mối quan hệ xã hội. Để
làm rõ nhận định này, ta sẽ chứng minh ngôn ngữ mang bản chất xã hội và là một hiện tượng xã hội đặc biệt.
1. Ngôn ngữ mang bản chất xã hội
Ngôn ngữ nảy sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội loài người. Nó không phải là hiện tượng tự
nhiên, mà là kết quả của nhu cầu giao tiếp và tổ chức đời sống chung. Khi con người sống thành
bầy đàn và hợp tác lao động, họ cần một công cụ để chia sẻ thông tin, phối hợp hành động và biểu
đạt tư duy. Từ những tiếng kêu, ám hiệu ban đầu, ngôn ngữ đã dần phát triển thành một hệ thống
phức tạp, đáp ứng các nhu cầu xã hội ngày càng cao.
Ví dụ, trong thời kỳ nguyên thủy, tiếng kêu cảnh báo hoặc tín hiệu săn bắn đã trở thành phương
tiện giao tiếp sơ khai. Khi xã hội phát triển, ngôn ngữ cũng thay đổi để phù hợp với những nhu
cầu mới như trao đổi tri thức, cảm xúc và xây dựng văn hóa. Ngày nay, sự xuất hiện của các thuật
ngữ như “internet”, “blockchain” cho thấy ngôn ngữ không ngừng phát triển cùng sự tiến bộ của xã hội loài người.
Ngôn ngữ cũng phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất. Thông qua
ngôn ngữ, con người trao đổi thông tin, tổ chức các hoạt động chung và xây dựng các mối quan hệ
xã hội. Không chỉ vậy, ngôn ngữ còn giúp con người biểu đạt cảm xúc, truyền tải tri thức và tạo
nên sự gắn kết trong cộng đồng. Ngôn ngữ không chỉ tồn tại để phục vụ người khác mà còn giúp
cá nhân nhận thức rõ hơn về bản thân qua quá trình giao tiếp.
Cuối cùng, ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt ý thức xã hội. Nó không chỉ phản ánh tư duy cá nhân
mà còn lưu giữ các giá trị, quan điểm và ý thức của cả một cộng đồng. Ngôn ngữ là công cụ giúp
con người nhận thức thế giới, truyền tải tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác và phản ánh những
thay đổi trong ý thức xã hội.
2. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt
Ngôn ngữ có vị trí đặc biệt trong xã hội vì không thuộc cơ sở hạ tầng hay kiến trúc thượng tầng.
Trước hết, ngôn ngữ không thuộc cơ sở hạ tầng, vì nó không trực tiếp tham gia vào quá trình sản
xuất vật chất hay quyết định các mối quan hệ kinh tế. Dù không tạo ra của cải, ngôn ngữ vẫn đóng
vai trò trung gian quan trọng trong việc tổ chức và điều phối sản xuất. lOMoAR cPSD| 58504431
Thứ hai, ngôn ngữ không thuộc kiến trúc thượng tầng, vì nó không bị chi phối bởi hệ tư tưởng
hay giai cấp thống trị. Ngôn ngữ là tài sản chung của toàn xã hội, được sử dụng để phục vụ mọi
tầng lớp mà không phân biệt giai cấp hay địa vị.
Đặc biệt, ngôn ngữ không mang tính giai cấp. Trong cùng một cộng đồng, dù là người lao động
hay trí thức, tất cả đều sử dụng chung một hệ thống ngôn ngữ. Ngôn ngữ vượt qua mọi ranh giới
xã hội, trở thành công cụ giao tiếp chung cho tất cả mọi người, từ đó thể hiện bản chất dân chủ và phổ quát của mình.
Tóm lại, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn phản ánh ý thức thực tại và các
mối quan hệ xã hội. Ngôn ngữ mang bản chất xã hội vì nó nảy sinh, tồn tại và phát triển trong cộng
đồng loài người, đồng thời phục vụ các nhu cầu giao tiếp và biểu đạt ý thức xã hội. Bên cạnh đó,
ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì không thuộc cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng và
không mang tính giai cấp. Nhận định trên đã khẳng định rõ vai trò quan trọng của ngôn ngữ trong
đời sống con người và sự phát triển của xã hội.