Đề cương nguyên lý công tác tư tưởng | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Phương pháp công tác tư tưởng là gì? Công tác tư tưởng thường sử dụng những  phương pháp nào? Hình thức công tác tư tưởng là gì? Công tác tư tưởng thường sử dụng những hình thức nào? Phân tích cơ sở khách quan và biểu hiện của tính đảng trong công tác tư tưởng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
22 trang 6 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề cương nguyên lý công tác tư tưởng | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Phương pháp công tác tư tưởng là gì? Công tác tư tưởng thường sử dụng những  phương pháp nào? Hình thức công tác tư tưởng là gì? Công tác tư tưởng thường sử dụng những hình thức nào? Phân tích cơ sở khách quan và biểu hiện của tính đảng trong công tác tư tưởng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

8 4 lượt tải Tải xuống
ĐỀ CƯƠNG NGUYÊN LÝ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
Câu 3,4 (3 phần)
PHẦN I: (4đ)
Câu 3: Phương pháp công tác tư tưởng là gì? Công tác tư tưởng thường sử
dụng những phương pháp nào?
Phương pháp công tác tư tưởng là hệ thống các cách tác động tư tưởng của chủ thể
và các cách tiếp nhận tư tưởng của đối tượng, dựa trên tính quy luật của các quá
trình tư tưởng, nhằm thực hiện mục đích của công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng thường sử dụng những phương pháp như:
1. Phương pháp đối thoại
*Phương pháp đối thoại: là phương pháp cùng trao đổi ý kiến, thảo luận, tranh luận
giữa hai hay nhiều người để làm sáng tỏ hay đi đến thống nhất vấn đề tư tưởng nào
đó
- Ưu thế: Đối thoại là phương pháp rất phù hợp với quá trình dân chủ hóa trong
công tác tư tưởng. Khi sử dụng phương pháp đối thoại có thể thực hiện thông tin
hai chiều, giải đáp kip thời những vấn đề nhiều người quan tâm với sự tham gia ý
kiến của cả đối tượng công tác tư tưởng. Phương pháp này đặt ra các tình huống
“có vấn đề”, cuốn hút đối tượng cùng tham gia giải quyết trong quá trình nhận
thức, kích thích cả trí nhớ lẫn tư duy, gây hứng thú, chủ động tìm hiểu quan điểm,
tư tưởng. Vì thế, những nội dung cần truyền đạt trong công tác tư tưởng thường
được đối tượng hiểu sâu, nhớ rất lâu. Có ý kiến cho rằng, sử dụng phương pháp đối
thoại có thể lưu giữ khoảng 50% thông tin
Thông qua đối thoại, đối tượng được trình bày ý kiến của mình, được giải tỏa tâm
lý về những vấn đề tư tưởng còn đang băn khoăn, khúc mắc. Đối thoại thành công,
cũng có nghĩa là tư tưởng được thông suốt. Đây là tiền đề quan trọng cho sự thống
nhất về hành động cách mạng. Phương pháp đối thoại được sử dụng thường xuyên
sẽ rèn kỹ năng tư duy lôgíc và khả năng ăn nói lưu loát cho người tham gia đối
thoại, bởi vì để có ý kiến có sức thuyết phục người khác, người nói bao giờ cũng
cần phải cố gắng khái quát, tổng hợp ý kiến, trình bày ý kiến mạch lạc, lập luận
vấn đề chặt chẽ.
- Hạn chế: Đối thoại là một phương pháp khó. Trong đối tượng có những ý kiến
khá sắc sảo mà ngay chủ thể cũng chưa hề nghĩ đến hoặc nắm chưa chắc. Nếu
không có trình độ tri thức vững vàng, quan điểm lập trường rõ ràng, chủ thể rất có
thể rơi vào tình thế lúng túng, bị động. Hơn nữa, cùng một vấn đề nêu ra, có thể có
rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Trong khi đó, tâm lý người
tham gia đối thoại bao giờ cũng mong muốn người khác hiểu ý mình, muốn khẳng
định ý kiến của mình, bảo vệ quan điểm của mình. Vì thế, không khí cuộc đối thoại
đôi khi trở nên rất căng thẳng và khó đi đến thống nhất được quan điểm. Phương
pháp đối thoại thường chỉ tác động trực tiếp đến một hoặc một số ít người trong
mỗi lần tác động. Vì thế, đòi hỏi chủ thể công tác tư tưởng cần có trình độ tri thức
vững vàng, lập trường, quan điểm rõ ràng, đủ khả năng hướng đối tượng đến
những quan điểm của Đảng
- Với đặc điểm là phương pháp cùng trao đổi ý kiến, tranh luận giữa chủ thể và đối
tượng để làm sáng tỏ những vấn đề tư tưởng, các phương pháp nêu vấn đề, đàm
thoại, hỏi đáp,… là những phương pháp đối thoại có hiệu quả trong công tác tư
tưởng hiện nay
+ Phương pháp nêu vấn đề là phương pháp tạo ta những tình huống có vấn đề
mâu thuẫn giữa những kiến thức đã có sẵn ở đối tượng và những kiến thức mới cần
trang bị cho họ bằng hệ thống câu hỏi
+ Phương pháp đàm thoại là phương pháp thông qua trao đổi, tranh luận của một
nhóm đối tượng về một vấn đề tư tưởng, dưới sự chủ trì của chủ thể, nhằm đi đến
thống nhất và nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề ấy
2. Phương pháp thuyết trình
*Phương pháp thuyết trình: là cách thức sử dụng lời nói để trunhf bày, giảng giải
những vấn đề tư tưởng có tính chất lý luận một cách có hệ thống, nhằm trang bị trị
thức, củng cố niềm tin cho đối tượng
- Ưu thế: Có thể trình bày vấn đề một cách hệ thống, làm rõ được các khái niệm,
quan điểm, tư tưởng. Lời nói có ý nghĩa giáo dục rất lớn vì nó tác động vào lý trí
và tình cảm của đối tượng, góp phần hình thành quan điểm, tư tưởng cho họ. Hơn
nữa, nó có thể sử dụng ở mọi lúc, mọi nơi, với mọi đối tượng mà không phụ thuộc
nhiều lắm vào điều kiện vật chất, không nhất thiết phải tốn kém kinh phí. Cũng
như các phương pháp dùng lời khác, trong phương pháp thuyết trình, chủ thể và
đối tượng trực tiếp nhìn thấy nhau, có thể chủ động điều chỉnh hành vi của nhau
(chủ thể nhắc nhở đối tượng có hành vi không đúng, đối tượng tỏ thái độ đồng tình
hay phản đối sự trình bày của chủ thể…). Chủ thể có thể điều chỉnh nội dung,
phương pháp cũng như phong cách biểu cảm của mình cho phù hợp hơn với đối
tượng để nâng cao hiệu quả. Chẳng hạn chủ thể có thể phân tích sâu hơn vào
những vấn đề mà đối tượng tỏ ra quan tâm, thích thú, lướt qua những vấn đề mà họ
tỏ ra đã biết rõ; đưa ra một số câu hỏi, một mẩu chuyện vui có liên quan đến nội
dung đúng lúc đối tượng có vẻ mệt ỏi hoặc thiếu tập trung cũng làm cho buổi
thuyết trình có sức cuốn hút hơn…
So với phương pháp đối thoại, trong phương pháp thuyết trình chủ thể có thể chủ
động hơn về nội dung dung trình bày đã được chuẩn bị từ trước. Mặt khác, phương
pháp này bao giờ cũng tác động trực tiếp đến một số đông người
- Hạn chế: Hiệu quả của nó phụ thuộc rất lớn vào sự chuẩn bị nội dung và nghệ
thuật trình bày nội dung đó của chủ thể. Nếu nội dung không được chuẩn bị cẩn
thận, gặp đâu nói đó thì dễ bị “lạc đề”, nói không chính xác, nói sai nội dung cơ
bản hoặc không biết nói gì cho hết thời gian. Có nội dung hay và sâu sắc nhưng
nghệ thuật trình bày kém sẽ làm cho đối tượng mệt mỏi, buồn chán, thiếu tập trung
cũng hạn chế lớn đến hiệu quả. Khi sử dụng phương pháp thuyết trình, có thể xuất
hiện khoảng cách lớn về quan điểm giữa người nói và người nghe về vấn đề cần
trình bày. Chủ thể phải chú ý đến tâm thế đối tượng để sử dụng cách nói thích hợp
nhằm rút ngắn khoảng cách đó. Mặt khác, có thể này sinh mâu thuẫn: chủ thể
muốn cung cấp thông tin một cách hệ thống, do đó, cần nhiều thời gian, còn đối
tượng chỉ muốn nghe những thông tin bổ ích với họ và thích thời gian ngắn.
Nhiều ý kiến cho rằng, so với phương pháp đối thoại, khả năng lưu giữ thông tin
của phương pháp thuyết trình thấp hơn (chỉ khoảng 5 đến 10%).
3. Phương pháp trực quan
*Phương pháp trực quan trong công tác tư tưởng là phương pháp sử dụng các
phương tiện trực quan để tác động vào lý trí, tình cảm con người nhằm hướng dẫn
nhận thức và hành vi của họ
Phương tiện trực quan có thể chia thành ba nhóm:
- Nhóm phương tiện trực quan tạo hình ảnh như: tranh ảnh, khẩu hiệu, áp
phích, phim, video, radio, máy chiếu đa năng, máy chiếu đa đầu,…
- Nhóm phương tiện trực quan quy ước như: biểu đồ, bản đồ, sơ đồ, đồ thị,
niên biểu,…
- Nhóm phương tiện trực quan hiện vật như trưng bày các hiện vật trong bảo
tàng, triển lãm, các di tích văn hóa, lịch sử và cách mạng,…
- Ưu thế: Dễ gây ấn tượng mạnh cho đối tượng vì hình ảnh trực quan tác động trực
tiếp vào các giác quan (tai nghe, mắt thấy), tạo cảm xúc và sự khắc sâu kiến thức.
Phương pháp trực quan có sự hỗ trợ của phương tiện kỹ thuật hiện đại, màu sắc,
âm thanh hài hòa, hợp lý càng gây được ấn tượng mạnh. Mặt khác, phương pháp
trực quan tác động trực tiếp vào tâm lý, tình cảm của đối tượng nên dễ có khái
niệm cụ thể về đúng – sai, đồng thời nhanh chóng hình thành những hành động noi
gương, bắt chước với những việc làm nhân đạo, những hành động hợp với lẽ phải
trong khả năng và điều kiện hiện có của đối tượng. Trong thông tin cổ động,
phương pháp trực quan ngày càng tỏ rõ ưu thế nhờ việc kết hợp chặt chẽ các yếu tố
kiến trúc, mỹ thuật, tuyên truyền hoành tráng với nội dung tư tưởng sâu sắc, đáp
ứng nhu cầu thẩm mỹ có tính kích thích xúc cảm, tình cảm, cổ vũ, khơi dậy hành
động tự giác theo định hướng của Đảng
- Hạn chế: Việc sử dụng nó đòi hỏi phải có điều kiện vật chất nhất định, nếu quá
lạm dụng phương pháp trực quan có thể hạn chế phát triển năng lực tư duy trừu
tượng. Mặt khác, việc sử dụng phương tiện trực quan không đúng lúc, đúng chỗ, có
thể phân tán sự chú ý vào nội dung hoặc gây cảm giác khó chịu cho đối tượng.
Chẳng hạn, khi giảng một bài lý luận chính trị mà trưng bày một loại dụng cụ trực
quan suốt từ đầu đến cuối buổi sẽ phân tán sự tập trung của đối tượng
- Điều kiện sử dụng phương pháp trực quan có hiệu quả:
+ Phương tiện trực quan phải sát với nội dung giáo dục và làm rõ tính tư tưởng
của nội dung. Chẳng hạn, khẩu hiệu, biểu ngữ phải đúng với đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, đung với tình thế, hợp với lòng người và phải cô đọng, vì
nếu dài dòng thì đối tượng khó nhớ, do đó khó làm theo
+ Phương tiện trực quan phải gây được ấn tượng mạnh: tranh cổ động thì màu sắc
mạnh mẽ, đường nét đơn giản, dễ hiểu, bố trí tranh hợp lý, thể hiện được chủ để…
nhất là trưng bày đúng lúc, đúng chỗ. Khẩu hiệu phải bố trí theo đúng khối chữ,
khối nghĩa, hình thức hợp lý, chữ viết hấp dẫn nhưng phải rõ ràng. Tổ chức hoạt
động cổ động, triển lãm phải đưa được những hình ảnh đặc trưng, tiêu biểu và ở
chỗ có đông người biết đến,…
4. Phương pháp ám thị
*Phương pháp ám thị là phương pháp dựa vào uy tín của chủ thể và tính chân lý
của thông tin, tri thức đưa ra để buộc đối tượng chấp nhận mà không cần chứng
minh và giải thích thêm
Phương pháp ám thị thường thích hợp với những nội dung công tác tư tưởng ngắn
gọn, rõ ràng và cụ thể, phù hợp với điều kiện xã hội có sự đồng thuận cao và đối
tượng khát khao hiểu biết các vấn đề chính trị - tư tưởng, nhất là trong những tình
thế cách mạng “nước sôi, lửa bỏng”. Tâm lý đối tượng của công tác tư tưởng
thường dễ chấp nhận những quan điểm, tư tưởng của những người có uy tín xã hội
cao. Chẳng hạn, những luận điểm mang tính chân lý của Hồ Chí Minh: Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng
vô sản, Không có gì quý hơn độc lập, tự do… đã có tác dụng nhanh chóng tập hợp
quần chúng nhân dân thực hiện các mục tiêu cách mạng trong cách mạng dân tộc,
dân chủ.
Trong điều kiện chiến tranh, phương pháp ám thị đã từng được sử dụng nhiều và
có tác dụng rất lớn. Hiện thực cách mạng dân tộc dân chủ là môi trường thuận lợi
để giáo dục chủ nghĩa yêu nước và ý thức cộng đồng trong nhân dân, luôn coi
trọng và đặt lợi ích tập thể, lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, lợi ích bộ phận.
Khi ấy, những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, của Hồ Chí Minh, cũng như
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam được đa số quần chúng nhân dân đón nhận
một cách dễ dàng, với niềm tin tưởng hầu như tuyệt đối
Ngày nay, điều kiện cách mạng đã thay đổi, đời sống tinh thần, tư tưởng của quần
chúng nhân dân có những diễn biến đa dạng và phức tạp hơn trước. Tuy vậy, nếu
biết sử dụng phương pháp ám thị đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng thì nó vẫn có
tác dụng mạnh và đôi khi trở thành phương pháp rất cần thiết trong công tác tư
tưởng. Chẳng hạn, với đa số quần chúng nhân dân, nhất là những người đã trải qua
hai cuộc cách mạng chống Pháp và chống Mỹ, dựa vào thực tiễn cách mạng và uy
tín của nhà tuyên truyền mà có thể đưa ra luận điểm: sự lựa chọn con đường xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn mà Đảng và Bác
Hồ đã chọn. Trong tọa đàm, hội họp, tranh luận… việc người chủ trì sử dụng
phương pháp ám thị để đưa ra những kết luận cuôi cùng cũng hết sức cần thiết.
Phương pháp ám thị đơn giản, dễ thực hiện, lại có tác dụng mạnh, song không thể
lạm dụng vì nó có thể gây phản ứng tiêu cực ở đối tượng nếu chủ thể không đủ uy
tín và thông tin không có độ tin cậy cao đối với họ
Điều kiện để sử dụng phương pháp ám thị có hiệu quả là chủ thể giáo dục phải trau
dồi năng lực và phẩm cách để có thể khiến cho đối tượng vị nể và tôn trọng. Mặt
khác, vấn đề tư tưởng đưa ra phải là những vấn đề được nhiều người trong xã hội
thừa nhận và gần gũi với nhận thức, hiểu biết vốn có của đối tượng
5. Phương pháp nêu gương
*Phương pháp nêu gương là phương pháp tác động vào tâm lý, tình cảm của đối
tượng bằng những tấm gương điển hình (tốt hoặc xấu) trong cuộc sống, nhằm tạo
ra sự bắt chước với những hành động được xã hội tôn vinh, đồng thời, ngắn ngừa
những hành động đi ngược lại lợi ích xã hội
-Ưu thế: Tốn ít thời gian và công sức mà vẫn có thể nhanh chóng thay đổi nhận
thức, thái độ và hành vi của đối tượng theo hướng chủ thể mong muốn, đem lại
hiệu quả giáo dục cao
- Hạn chế: Chỉ thích hợp với những nội dung nhất định, gắn với việc cổ vũ những
hành động cách mạng cụ thể. Mặt khác, những tấm gương đưa ra phải có tính chất
điển hình thì mới có sức cảm hóa mạnh mẽ đối tượng. Muốn đưa được những tấm
gương điển hình, có sức hấp dẫn thì chủ thể giáo dục phải am hiểu và bám sát thực
tiễn, có đầu óc quan sát, phát hiện điển hình, tìm hiểu được nguyên nhân, động lực,
cách thức hành động, những bí quyết thành công của điển hình đó, để kịp thời nhân
rộng những điển hình tiên tiến, đồng thời phê phám, uốn nắn những điển hình tiêu
cực, tạo ra dư luận xã hội khen, chê đúng đắn, kịp thời
Đối với phương pháp nêu gương, bản thân chủ thể cũng chính là tấm gương gần
nhất có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả giáo dục. Vì vậy, chủ thể giáo dục phải luôn tu
dưỡng, rèn luyện tốt, nhất là lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới mong đối
tượng tin và làm theo những gì mình muốn giáo dục ở họ.
6. Phương pháp giáo dục cá nhân
*Phương pháp giáo dục cá nhân là phương pháp tác động tư tưởng đến từng người
riêng lẻ nhằm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của họ
- Ưu thế:
+ Có thể đi sâu vào một vấn đề cụ thể sát với vấn đề mà đối tượng quan tâm,
hứng thú hoặc phù hợp với hoàn cảnh đặc biệt của đối tượng…
+ Khi tác động đến một đối tượng có thể tạo ảnh hưởng, thu được kết quả ở nhiều
đối tượng, nhất là với những đối tượng có uy tín xã hội lớn như: các nhà lãnh đạo,
quản lý, thủ lĩnh các nhóm xã hội…. Tác động tư tưởng đối với họ không những
thay đổi nhận thức, hành vi của họ mà còn có khả năng thay đổi quan điểm,
chương trình hành động của cả một địa phương, cơ sở, đơn vị
- Hạn chế:
+ Đây là phương pháp khó, đòi hỏi chủ thể phải công phu, nắm vững đặc điểm
đối tượng, biết phân loại đối tượng, nhiệt tình với công tác
+ Trong một số trường hợp, cần tiến hành giáo dục nhiều lần bằng nhiều cách
khác nhau, nhất là đối với những đối tượng cá biệt xấu (những người có quan điểm
chính trị sai trái, những người vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội, vi phạm pháp
luật…)
+ Phương pháp này đòi hỏi hình thức giáo dục linh hoạt, sinh động tùy từng điều
hiện và hoàn cảnh cụ thể như gặp gỡ trao đổi trực tiếp, nói chuyện qua điện thoại,
viết thư, trả lời ý kiến, phát tờ rơi đến từng cá nhân…
-Để sử dụng phương pháp giáo dục cá nhân có hiệu quả cần chú ý:
+ Chủ thể nắm vững đặc điểm riêng của đối tượng để có biện pháp tác động tư
tưởng kịp thời, thiết thực, đúng lúc, đúng chỗ
+ Chủ thể giáo dục phải khéo léo, tế nhị, kiên trì nhất là đối với đối tượng có đặc
điểm cá biệt
+ Cần phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng khác nhau cùng tác động giáo dục cá
nhân
Câu 4: Hình thức công tác tư tưởng là gì? Công tác tư tưởng thường sử dụng
những hình thức nào?
Hình thức công tác tư tưởng là cách thức tổ chức phối hợp hoạt động giữa chủ thể
và đối tượng, là cách bố trí sắp xếp các yếu tố bảo đảm và các bước tiến hành theo
một trật tự nhất định nhằm thực hiện mục đích công tác tư tưởng
Công tác tưởng thường sử dụng những hình thức: Lớp học, hội thảo, hội nghị, mít
tinh, lễ hội, thi tìm hiểu, trò chơi truyền hình, tư vấn
Lớp học: là hình thức cổ điển và phổ biến nhất của công tác tư tưởng theo
nghĩa rộng, bao hàm cả hoạt động giáo dục trong các nhà trường và theo
nghĩa hẹp chỉ bao hàm các lớp học do các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội
tổ chức. Lớp học là một hình thức tiến hành công tác tư tưởng mà đối tượng
được tổ chức thành đội hình tập thể với số lượng hợp lý và trình độ tương
đối đồng đều. Nội dung tư tưởng chuyển tải qua hình thức lớp học được xây
dựng theo một chủ đề nhất định, mang tính logic chặt chẽ. Phương pháp
được lựa chọn rất đa dạng nhằm trình bày nội dung một cách sinh động, dẫn
dắt đối tượng từng bước khám phá những tri thức, quan điểm tư tưởng mới.
Quy trình tổ chức lớp học thường là giáo viên trình bày bài giảng, học viên
tiếp thu, thảo luận, kiểm tra nhận thức. Ngoài các lớp học được tổ chức trong
nhà trường, lớp học còn do các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức để nghiên
cứu, quán triệt các nghị quyết của Đảng. Ở hình thức này, giáo viên chủ yếu
là cán bộ lãnh đạo (báo cáo viên), nội dung mang tính thực tiễn nhiều hơn.
Ưu điểm của hình thức lớp học là giúp đối tượng tiếp thu tri thức có hệ
thống, đi sâu vào những vấn đề tư tưởng nóng hổi và phức tạp nhất, có sự
giao tiếp trực tiếp giữa người dạy và người học nên có thể trao đổi thông tin
nhiều chiều. Tuy nhiên, hạn chế của nó là dễ làm cho người học thụ động,
mệt mỏi, sa vào lý thuyết đơn thuần, xa rời thực tiễn
Hôi thảo: Là một hình thức phổ biến của công tác tư tưởng nói chung và
công tác lý luận nói riêng. Hội thảo thực chất là một sinh hoạt khoa học mà
thông qua đó các nội dung của công tác tư tưởng được cọ xát trong môi
trường trí tuệ (thảo luận, tranh luận giữa các nhà khoa học) để đi đến chân lý
khoa học. Do đó, hội thảo là một hình thức của công tác tư tưởng nhằm tổng
kết thực tiễn, phát triển lý luận làm cơ sở để Đảng đề ra quan điểm, đường
lối đúng đắn. Chương trình của một hội thảo thông thời gồm có báo cáo đề
dẫn của cơ quan, đơn vị tổ chức hội theo; tham luận của các đại biểu; kết
luận của người chủ trì hội thảo. Điều kiện để hội thảo thành công là phải tạo
ra được không khí dân chủ, tự do tư tưởng thực sự, trong đó người tổ chức
phải khuyến khích tranh luận để tìm ra chân lý. Các đại biểu phải tôn trọng
các ý kiến khác nhau, không định kiến, áp đặt, quy chụp. Trên thực tế, khi sử
dụng hình thức này cần khắc phục khuynh hướng chỉ có “hội” mà không có
“thảo” nghĩa là hội thảo chỉ để gặp gỡ, vui vẻ, thiếu tính tranh luận. Là một
hình thức quan trọng và phổ biến nhưng hội thảo cũng có hạn chế là đối
tượng hẹp, nội dung mang tính lý luận cao, với những vấn đề phức tạp có
khi phải tổ chức hội thảo nhiều lần gây tốn kém
Hội nghị: Là một hình thức công tác tư tưởng nhưng đồng thời cũng là một
hoạt động lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý của Nhà nước và các tổ
chức xã hội. Thông thường hội nghị được sử dụng để thống nhất, nhận thức
về tình hình, nhiệm vụ, nhận xét đánh giá về một giai đoạn, một công việc
cụ thể nên là một hình thức phổ biến, được sử dụng từ lâu đời. Có nhiều
dạng hội nghị với các quy mô khác nhau. Hội nghị phổ biến nhiệm vụ định
kỳ hay đột xuất, hội nghị sơ kết, tổng kết, hội nghị toàn quốc, hội nghị
ngành, hội nghị của đơn vị. Chương trình hội nghị thường có báo cáo trung
tâm của người lãnh đạo, chỉ huy; thảo luận của các đại biểu và kết luận. Do
tính chất phổ biến của hội nghị nên trong thực tế, hội nghị thường bị lạm
dụng, tổ chức tràn lan kém hiệu quả, nhất là các hội nghị sơ kết, tổng kết.
Tuy nhiên, đó không phải là hạn chế cố hữu của hình thức này mà khuyết
điểm chính thuộc về người tổ chức. Hạn chế của hình thức này là thường
đơn điệu, tốn kém do phải đi lại, nhất là các hội nghị quy mô lớn. Để khắc
phục hạn chế này, hiện nay người ta đã sử dụng hình thức hội nghị online
(sử dụng cầu truyền hình trực tuyến, mạng internet để đại biểu không cần đi
lại mà vẫn dự hội nghị được)
Mít tinh: Là một hình thức phổ biến của công tác cổ động nhằm phát huy
triệt để các yếu tố tích cực của tâm lý tập thể. Mít tinh thường được sử dụng
để giáo dục lịch sử truyền thống, khơi dậy lòng tự hào, biểu thị sự nhất trí,
quyết tâm thực hiện một nhiệm vụ nào đó. Con đường tác động của mít tinh
chủ yếu là tình cảm nên có ảnh hưởng sâu sắc đến đối tượng. Nhiều cuộc mít
tinh đã tạo khí thế mạnh mẽ trong chiến đấu, lao động, học tập. Hạn chế của
hình thức mít tinh thường gắn với các lễ kỷ niệm ngày thành lập, ngày
truyền thống, các sự kiện chính trị lớn của đất nước và địa phương, cơ quan,
đơn vị nên dễ dẫn đến trùng lặp, đơn điệu, gây nhàm chán
Lễ hội: Đây là một hình thức tuyên truyền, cổ động sử dụng phương tiện văn
hóa, nghệ thuật để tác động đến đối tượng. Lễ hội thực chất là một sinh hoạt
văn hóa gắn với đời sống tâm linh, truyền thống văn hóa của một địa
phương, một địa danh, nhân vật lịch sử… Chương trình lễ hội thường gồm
phần lễ và phần hội, trong đó phần lễ thường tiến hành dâng hương tưởng
niệm các danh nhân, anh hùng liệt sĩ, khai mạc một sự kiện văn hóa nào đó.
Phần hội thường tái hiện sự kiện lịch sử, bản sắc văn hóa thông qua hình
thức biểu diễn nghệ thuật như: rước kiệu, đồng diễn, diễu hành, các trò dân
gian. Hình thức lễ hội có ưu thế là được gắn với đời sống tâm linh, kết hợp
với vui chơi giải trí nên con đường tác động chủ yếu là vào tình cảm, tâm lý,
lại nhẹ nhàng nên dễ đi vào lòng người, gây ấn tượng sâu sắc ở đối tượng.
Ngày nay, với sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin đại chúng, hình thức
này có phạm vi ảnh hưởng đến đông đảo công chúng, vì vậy ngày càng được
sử dụng rộng rãi trên cả nước. Hạn chế của hình thức lễ hội là cần sự hoành
tráng về màu sắc, ánh sáng, sân khấu nên gây khó khăn về kinh phí, phương
tiện bảo đảm, lệ thuộc vào địa điểm và điều kiện thời tiết. Quy mô sử dụng
đông người nê về công tác tổ chức điều hành gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi
phải có tính chuyên nghiệp cao.
Thi tìm hiểu: Là một hình thức tuyên truyền đươc sử dụng phổ biến ở nước
ta trong những năm đổi mới. Qua thực tiễn, hình thức này đã khẳng định tính
hiệu quả của nó bởi tính hấp dẫn và khả năng thu hút được đông đảo các
tầng lớp công chũng trong xã hội tham gia. Hình thức thi tìm hiểu giúp đối
tượng lĩnh hội nội dung một cách tự nguyên, nhẹ nhàng, thoải mái và tương
đối có hệ thống. Hình thức này thường do chủ thể là các tổ chức, cơ quan,
đơn vị, địa phương phát động trong nội bộ hoặc trong phạm vi toàn quốc
bằng cách nêu câu hỏi theo một chủ để nào đó kèm theo giải thưởng. Các
đối tượng tự nguyện tham gia trả lời câu hỏi để được khẳng định mình và
giành phần thưởng. Hiện nay, hình thức này có nhiều cách tổ chức rất đa
dạng. Ban đầu thi tìm hiểu chủ yếu là thi viết, hiện nay đã có thêm các dạng
khác như: gọi điện, nhắn tin, thư điện tử, trả lời câu hỏi trên các phương tiện
thông tin đại chúng; kết hợp trả lời câu hỏi với biểu diễn văn nghệ, trò chơi
(sân khấu hóa),… Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nguyên tắc của thi tìm hiểu là tự
nguyện nhưng nguyên tắc này dễ bị “căn bệnh thành tích” làm cho biến dạng
thành bắt buộ. Khi đó, người dự thi dẽ đối phó bằng cách sao chép làm giảm
hiểu quả giáo dục của hình thức này
Trò chơi truyền hình: Là một hình thức được sử dụng phổ biến cùng với sự
phát triển của công nghệ truyền hình ở nước ta. Đây là hình thức sử dụng
các trò chơi dân gian, hiện đại được quay và phát trên sóng truyền hình để
chuyển tải nội dung giáo dục đến đối tượng. Hình thức này phát huy tối đa
ưu thế của phương tiện truyền hình vốn là vũ khí sắc bén trong công tác tư
tưởng của Đảng ta. Nhân vật chính trong các trò chơi có thể là một người
hoặc một nhóm thi đấu với nhau bằng cách trả lời các câu hỏi, giải đáp các
tình huống, thực hiện các hành động do ban biên tập chương trình đưa ra và
người thắng cuộc được nhận các giải thưởng có giá trị tương đối lớn. Trò
chơi truyền hình không chỉ là cách giải trí, thư giãn thần kinh sau những giờ
làm việc căng thẳng mà còn là cách truyền tải thông tin nhẹ nhàng đến đối
tượng nên lôi cuốn được người xem nhất là thế hệ trẻ. Ưu thế của trò chơi là
có đối tượng rộng rãi, khắc phục được những trở ngại về không gian và thời
gian. Mặt khác, do tính hấp dẫn của trò chơi và tính quảng bá của truyền
hình nên chúng được các doanh nghiệp quan tâm tài trợ tạo các giải thưởng
lớn thu hút người chơi tham gia và tiết kiệm kinh phí tổ chức. Hạn chế trong
sử dụng hình thức này là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ vốn rất khó
khăn giữa tính giáo dục và tính thương mại. Việc lồng ghép các nội dung
giáo dục chính trị thường bị cho là khô cứng, không được các nhà tài trợ hài
lòng. Nếu người tổ chức không kiên định mục đích giáo dục của trò chơi thì
hình thức này dễ bị thương mại hóa, sa vào giải trí đơn thuần. Mặt khác, các
hình thức này đòi hỏi phải luôn luôn đổi mới, công tác tổ chức công phu,
tính chuyên nghiệp cao
Tư vấn: Hay còn gọi là giáo dục riêng vốn là một hình thức tuyên truyền
giáo dục phổ biến trên thế giới, nhất là ở các nước phương Tây vì nó gắn với
truyền thống tôn trọng cá nhân của họ. Ở nước ta, hình thức giáo dục riêng
tuy được sử dụng từ lâu nhưng chưa được gọi đúng tên của nó. Những năm
gần đây thuật ngữ “tư vấn” được sử dụng ngày càng rộng rãi. Quy trình của
hình thức này là chủ thể giáo dục (người tư vấn) khơi gợi, lắng nghe đối
tượng trình bày băn khoăn, vướng mắc, sau đó tiến hành giải đáp, đấu tranh,
vận động đối tượng suy nghĩ và hành động theo mục đích của mình. Trong
sự nghiệp đổi mới hiện nay, nhu cầu, lợi ích của đối tượng rất đa dạng nên tư
vấn là một hình thức được sử dụng có hiệu quả vì nó tiếp cận được từng đối
tượng cụ thể với những nét tính cách đặc thù và có thể để lại ấn tượng sâu
sắc, làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức và hành động của đối tượng. Tuy
nhiên, đây là hình thức cần nhiều thời gian, công sức, đòi hỏi chủ thể phải
thực sự là những người có phẩm chất, năng lực, uy tín cao và làm chủ được
nghệ thuật chinh phục lòng người.
PHẦN II: (4đ)
Câu 3: Phân tích cơ sở khách quan và biểu hiện của tính đảng trong công tác
tư tưởng
*Cơ sở khách quan:
Tính đảng là sự tự giác và kiên quyết đứng trên lập trường của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động
Tính đảng là nguyên tắc cơ bản nhất của công tác tư tưởng, xuất phát từ bản chất
giai cấp của hệ tư tưởng
Trong xã hội có giai cấp, hệ tư tưởng bao giờ cũng mang tính giai cấp. Điều đó
biểu hiện ở chỗ nó phản ánh, bảo vệ lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác
trong cuộc đấu tranh giữa các giai cấp. Chừng nào trong xã hội còn có sự phân chia
giai cấp và đấu tranh giai cấp thì không thể có hệ tư tưởng phi giai cấp. Trong cuộc
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, chỉ có hệ tư tưởng vô sản hay hệ
tư tưởng tư sản không có hệ tư tưởng trung gian ở ngoài hoặc trên các giai cấp.
V.I.Lênin viết:”…vấn đề đặt ra chỉ là như thế này: hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa. Không có hệ tư tưởng trung gian (vì nhân loại không tạo ra
một hệ tư tưởng “thứ ba” nào cả; vả chăng, trong một xã hội bị những sự đối kháng
giai cấp chia xẻ thì không bao giờ có hệ tư tưởng ở ngoài hoặc trên các giai cấp)”.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tuyên
bố rằng học thuyết của mình có tính giai cấp, nó hoàn toàn thể hiện lợi ích và các
quan điểm của giai cấp vô sản
Tính đảng là biểu hiện tập trung của tính giai cấp, có nghĩa là, tính đảng là tính giai
cấp, nhưng là tính giai cấp ở trình độ triệt để nhất, sâu sắc nhất, tự giác nhất. Chính
do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng mà phải phát triển
tính giai cấp thành tính đảng. “Tính đảng chặt chẽ là bạn đồng hành và kết quả của
cuộc đấu tranh giai cấp phát triển cao độ. Và, ngược lại, cần phải phát triển tính
đảng chặt chẽ để tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp công khai và rộng rãi”.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức hệ giữa hệ tư tưởng vô sản
và hệ tư tưởng tư sản ngày càng trở nên gay gắt, quyết liệt. Trong cuộc đấu tranh
đó, những người mác xít công khai tuyên bố về tính giai cấp, tính đảng của hệ tư
tưởng vô sản. Ngược lại, các nhà tư tưởng thì mưu toan che giấu tính đảng của hệ
tư tưởng tư sản. Bởi lẽ, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp tư sản và hệ tư tưởng tư sản đã trở nên lỗi thời về
mặt lịch sử, đi ngược tiến trình phát triển khách quan của xã hội loài người. Núp
dưới chiêu bài “phi hệ tư tưởng hóa’, “tính phi đảng: “tính đứng ngoài các giai
cấp”, các nhà tư tưởng tư sản đang cố gắng che dấu và làm lu mờ sự trung thành
của họ với giai cấp tư sản
Nguyên tắc tính đảng, nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với công tác tư tưởng còn là
bài học kinh nghiệm rút ra từ chính thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
Toàn bộ thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trên lĩnh vực ý thức hệ và
những biến cố quốc tế trong thế kỷ XX, kể cả những bài học đắt giá của sự sụp đổ
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh cho sự cần thiết
khách quan của nguyên tắc này trong công tác tư tưởng.
*Biểu hiện:
Tính đảng của công tác tư tưởng biểu hiện trước hết ở chỗ “mỗi khi đánh giá một
sự biến, phải trực tiếp và công khai đứng trên quan điểm của một tập đoàn xã hội
nhất định”. Vì vậy, nguyên tắc tính đảng của công tác tư tưởng đòi hỏi phải đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, luôn xuất phát từ thế giới quan Mác –
Lênin, từ quan điểm của Đảng để xem xét, đánh giá những vấn đề tư tưởng, chính
trị diễn ra trong nước và thế giới, để giải thích cho quần chúng hiểu biết đúng đắn
những sự kiện và hiện tượng diễn ra trong đời sống xã hội.
Tuân thủ nguyên tắc tính đảng có nghĩa là quán triệt hệ tư tưởng Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, coi đó là cơ sở khoa học, là
nội dung cốt lõi của công tác tư tưởng. Toàn bộ công tác lý luận, công tác tuyen
truyền, cổ động phải hướng vào việc phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin,
tuyên truyền nhiệt thành cho sự thắng lợi của tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đường lối,
chính sách của Đảng trở thành nhân tố chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần
xã hội. Mỗi bài nói, bài viết phải thắm đượm nội dung tư tưởng, chính trị trong các
quan điểm của Đảng, thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Không được tùy tiện giải thích đường lối, chính sách của Đảng khi
chưa nắm vững. Không tùy tiện đưa ra quan điểm trái với quan điểm của Đảng.
Một biểu hiện khác của tính đảng trong công tác tư tưởng là công tác tư tưởng phải
góp phần đắc lực khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội của cách mạng nước ta; kịp thời biểu dương những điển hình tiên tiến, những
nhân tố mới xuất hiện trong phong trào cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đồng thời, công tác tư tưởng phải trở thành vũ khí sắc bén bảo vệ Đảng,
bảo vệ chế độ, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh kiên quyết với các quan điểm
sai trái, thù địch, đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, thù địch đối với cách mạng nước ta.
Tính đảng không chỉ biểu hiện trong mục đích và nội dung của công tác tư tưởng,
mà còn biểu hiện về mặt tổ chức. Tính đảng đòi hỏi công tác tư tưởng phải trở
thành một bộ phận khăng khít trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, và do
đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Công tác tư
tưởng bao gồm công tác lý luận, công tác tuyên truyền, công tác cổ động phải trở
thành “một bánh xe và một đinh ốc nhỏ” trong bộ máy tổ chức của Đảng và do
“đội tiền phong giác ngộ của giai cấp công nhân điều khiển”.
Tình đảng còn thể hiện ở chỗ, khi tiến hành công tác tư tưởng phải đứng vững trên
lập trường duy vật biện chứng mácxít, đấu tranh khắc phục những biểu hiện duy
tâm, duy ý chí, chủ quan trong công tác tư tưởng. Việc chỉ ra và khắc phục những
biểu hiện trên không chỉ xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả, nâng
cao tính khoa học của công tác tư tưởng mà còn xuất phát từ chính yêu cầu nâng
cao tính đảng.
Một sô biểu hiện duy tâm, duy ý chí, chủ quan, có thể xuất hiện trong công tác tư
tưởng là:
- Không xuất phát từ hiện thực khách quan, từ tồn tại xã hội để giải thích
nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện, biến đổi, vận động của các hiện tượng
tư tưởng, của các quá trình tư tưởng, mà chỉ xuất phát từ nguyên nhân tư
tưởng để giải thích
- Muốn cải tạo, xóa bỏ tư tưởng cũ ngay lập tức (duy nhất bằng con đường
giáo dục tư tưởng) trong khi cơ sở xã hội, tồn tại xã hội sinh ra và nuôi
dưỡng nó chưa được cải tạo hoặc xóa bỏ; không gắn quá trình cải tạo tư
tưởng với quá trình cải tạo tư tưởng với quá trình cải tạo tồn tại xã hội;
không gắn biện pháp tư tưởng với biện pháp tổ chức và kinh tế. Hoặc muốn
có ngay tư tưởng mới, mang tính xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hoàn thiện, toàn
diện khi điều kiện kinh tế, văn hóa của chủ nghĩa xã hội còn chưa phát triển
toàn diện, chín muồi
- Coi thường điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan, cho rằng có ý chí cao,
quyết tâm lớn là có thể giải quyết được mọi vấn đề, làm xong mọi việc, hoặc
chỉ dùng biện pháp tư tưởng đơn thuần trong giải quyết công việc
- Không đánh giá đúng tác dụng của tư tưởng trong điều kiện lịch sử cụ thể,
cắt nghĩa mọi thành công, mọi thất bại đều do tư tưởng và công tác tư tưởng
tốt hay kém
- Tiến hành công tác tư tưởng không tuân thủ quy luật khách quan, quy luật
vận động, biến đổi của lĩnh vực tư tưởng. Khi tác động vào lĩnh vực tư
tưởng chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, không thấy lĩnh vực tư tưởng cũng
vận động, biến đổi theo quy luật khách quan, độc lập với ý thức và ý chí của
con người
- Tính đảng hoàn toàn thống nhất với tính khoa học trong công tác tư tưởng.
Tính đảng càng cao thì tính khoa học càng sâu, do đó công tác tư tưởng càng
phục vụ đắc lực nhiệm vụ chính trị của Đảng, phục vụ sự nghiệp cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
- Thực tiễn chỉ ra rằng, những biểu hiện của tính đảng đã nêu trên phụ thuộc
nhiều vào trình độ lý luận – chính trị, tư tưởng và tình cảm cách mạng của
người làm công tác tư tưởng. Để nâng cao tính đảng trước kia, hiện nay và
sau này, vấn đề nâng cao trình độ lý luận, chính trị và tư tưởng, lập trường
giai cấp cho đội ngũ cán bộ tư tưởng là rất quan trọng. Bồi dưỡng lập trường
tính đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị và sự nhạy bén về tư tưởng cần trở
thành một nội dung quan trọng, xuyên suốt toàn bộ quá trình đào tạo rèn
luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác này.
Câu 4: Phân tích cơ sở khách quan và biểu hiện của tính khoa học trong công
tác tư tưởng
*Cơ sở khách quan:
Tính khoa học là khái niệm chỉ sự phù hợp với quy luật khách quan khi tiến hành
công tác tư tưởng và là một nguyên tắc cơ bản của công tác tư tưởng
Tính khoa học không chỉ xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng,
mà có cơ sở sâu xa từ bản chất cách mạng và khoa học của hệ tư tưởng Mác –
Lênin và đường lối, quan điểm của Đảng. Ngay từ khi chủ nghĩa Mác ra đời,
Ph.Ăngghen đã nhắc nhở những người cộng sản rằng, chủ nghĩa Mác là một học
thuyết khoa học, đòi hỏi phải được đối xử như một khoa học. Công tác tư tưởng,
xét về nội dung là quá trình phát triển và truyền bá hệ tư tưởng Mác – Lênin, làm
cho chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành hệ tư tưởng thống trị trong toàn xã hội, cũng
đòi hỏi phải được tiến hành một cách khoa học. Do yêu cầu truyền bá hệ tư tưởng
Mác – Lênin vào phong trào công nhân và quần chúng lao động, tiếp tục phát triển
hệ tư tưởng Mác – Lênin và vận dụng nó để đề ra chiến lược sách lược cho phong
trào cách mạng của giai cấp vô sản, công tác tư tưởng trở thành một bộ phận không
thể tách rời của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính C. Mác đã nói, học thuyết của ông
không chỉ nhằm giải thích thế giới mà còn là công cụ để cải tạo thế giới. Để có sức
mạnh cải tạo thế giới, học thuyết đó phải thâm nhập vào quần chúng, trở thành vũ
khí tinh thần, kim chỉ nam cho hành động cách mạng cải tạo thực tiễn. Để thâm
nhập vào quần chúng và để trở nên hoàn bị, học thuyết đó tất yếu phải bao gồm
một bộ phận lý luận khoa học nghiên cứu tính quy luật của quá trình vận dụng nó
vào thực tiễn để đề ra chiến lược, sách lược cách mạng, nghiên cứu tính quy luật
của quá trình chuyển hóa tri thức khoa học cách mạng thành hành động cách mạng.
Khoa học nghiên cứu những tính quy luật này chính là khoa học công tác tư tưởng.
*Biểu hiện:
Công tác tư tưởng mang tính khoa học trước hết phải tuân thủ những quy luật vận
động, biến đối của lĩnh vực tư tưởng và biết dựa vào những thành tựu của khoa học
khác, chủ yếu là của khoa học xã hội, khoa học nhan vă để từng bước nâng cao,
hoàn bị trình độ khoa học của mình
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X chỉ rõ:
“Công tác tư tưởng của Đảng là công tác đối với con người, một nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp, đòi hỏi phải nắm vững những quy luật riêng của tư tưởng, có thái
độ, phương pháp khoa học, kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu định hướng tư tưởng với
tự nguyện, giữa lý trí và tình cảm, giữa lời nói và việc làm, giữa “xây” và “chống”,
lấy xây làm chính, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”
Để nắm vững và vận dụng sáng tạo các quy luật của lĩnh vực tư tưởng nâng cao
tính khoa học của công tác tư tưởng, cán bộ tư tưởng cần nắm vững chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, hiểu biết sâu
sắc xã hội học, tâm lý học, giáo dục học, ngôn ngữ học, lôgíc học, lý thuyết giao
tiếp, lý thuyết thông tin…
Nguyên tắc tính khoa học đòi hòi và tạo ra cơ sở để công tác tư tưởng thường
xuyên sáng tạo những nội dung mới phù hợp với trình độ giác ngộ và những yêu
cầu ngày càng cao về thông tin của đối tượng, phát hiện những hình thức và
phương pháp mới phù hợp với mức độ phát triển đi lên của cuộc sống. Tính khoa
học đồng thời cũng yêu cầu phải sử dụng những thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ
thuật, những phương tiện tác động tư tưởng hiện đại vào công tác tư tưởng
Một biểu hiện khác của tính khoa học là tình chân thật, mà cơ sở của nó là hệ tư
tưởng Mác – Lênin phù hợp với quy luật phát triển khách quan. Tính chân thật
đảm bảo sức mạnh cho tư tưởng, vì bản thân sự thật có sức mạnh thuyết phục, lôi
cuốn quần chúng vào hành động đúng. Cũng chính do có tính chân thực, phản ánh
đúng hiện thực mà tuyên truyền vô sản gây được niềm tin khoa học cho quần
chúng, tạo ra cơ sở khách quan để đập tan những luận điệu xuyên tạc, phản tuyên
truyền của giai cấp tư sản.
Tính khoa học, tính chân thực trong công tác tư tưởng của chúng ta còn có nghĩa là
phản ánh một cách khách quan cả những thành tựu to lớn lẫn những khó khắn và
thiếu sót còn mắc phải trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dũng cảm nêu
những nguyên nhân và quy rõ trách nhiệm. Chỉ có tuân thủ đòi hỏi ấy mới khắc
phục được chủ nghĩa chủ quan, khuynh hướng tô hồng hoặc bôi đen cuộc sống.
Tính khoa học của công tác tư tưởng không thể dung thứ, không thể không phê
phán có cơ sở khoa học và triệt để nhận thức phiến diện, một chiều, thái độ chủ
quan, thậm chí có ý đồ xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử, hạ thấp những giá trị, những
thành quả đã giành được trong quá khứ anh hùng của Đảng và nhân dân ta ở một
số người, trong đó có những kẻ vô tình hoặc cố ý tiếp tay cho kẻ thù của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư
tưởng – văn hóa.
PHẦN III: (2đ)
Câu 3: Vì sao niềm tin lại là tiêu chuẩn quan trọng trong đánh giá hiệu quả
công tác tư tưởng?
* Niềm tin là tiêu chuẩn quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng
vì: Trên cơ sở tri thức có căn cứ khoa học và thực tiễn, nhận thức biến thành niềm
tin. Niềm tin là tiêu chuẩn cao nhất của hiệu quả cụ thể của công tác tư tưởng về
mặt tinh thần. Trên cơ sở niềm tin, con người có lòng trung thành với chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng
và Bác Hồ đã lựa chọn. Những tiêu chuẩn biểu hiện niềm tin:
Một là, mức độ tin tưởng vào tính khoa học, tính cách mạng của chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng vào sự đúng đắn
của tư tưởng, lý luận, quan điểm được trang bị
Hai là, khả năng đánh giá đúng và định hướng đúng, sự kiên định lập trường, quan
điểm trước những diễn biến phức tạp của hiện thực xã hội
Ba là, ý chí vững vàng trong cuộc đấu tranh chống ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư
sản và các quan điểm, luận thuyết phi khoa học; tinh thần, ý chí đấu tranh bảo vệ
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng
Bốn là, sự kết hợp chặt chẽ quan điểm với hành động thực tế, sự sẵn sàng hành
động phù hợp với tri thức được trang bị. Do đó, niềm tin tự nó bao hàm sự thống
nhất lời nói với việc làm
Hiện nay vấn đề hình thành niềm tin của quần chúng đối với chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đối với Đảng, với chủ nghĩa xã hội là rất quan trọng. Để
hình thành niềm tin cho đối tượng người cán bộ tự tưởng trước hết phải có niềm tin
vững chắc vào những vấn đề tuyên truyền, giáo dục.
Niềm tin tạo ra sự ổn định và đoàn kết, là nền tảng vững chắc giúp duy trì sự ổn
định và đoàn kết trong một tập thể, tổ chức hay xã hội. Khi người ta tin vào mục
tiêu chung, lý tưởng hay đường lối tư tưởng mà tổ chức, nhà nước đưa ra, họ sẽ
đồng lòng, hợp tác, tạo nên sức mạnh tập thể để thực hiện các mục tiêu đó. Để thực
hiện được những mục tiêu tư tưởng, con người không chỉ cần có thông tin hay lý
thuyết đúng đắn, mà còn cần có sự tin tưởng vào tính khả thi và hiệu quả của
những quyết định, kế hoạch đó. Khi niềm tin được xây dựng vững chắc, người dân
hoặc các thành viên sẽ hành động một cách quyết đoán, sáng tạo và hiệu quả.
Niềm tin là thước đo hiệu quả truyền tải thông điệp tư tưởng, công tác tư tưởng
không chỉ là việc truyền đạt thông tin, mà quan trọng hơn là làm sao để người
nghe, người tiếp nhận có thể tin tưởng và áp dụng những giá trị, nguyên lý mà
công tác tư tưởng hướng tới. Nếu niềm tin không được xây dựng và củng cố, thông
điệp tư tưởng sẽ khó đạt được hiệu quả.
Niềm tin giúp bảo vệ và phát triển các giá trị văn hóa, đạo đức và truyền thống
trong xã hội. Công tác tư tưởng có hiệu quả khi nó tạo ra sự tin tưởng vào những
giá trị này, giúp người dân nhận thức được tầm quan trọng của chúng và bảo vệ
chúng khỏi những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Một xã hội, một tổ chức hay một
quốc gia có niềm tin mạnh mẽ vào tương lai sẽ thúc đẩy sự sáng tạo, cải tiến và
phát triển bền vững. Niềm tin vào khả năng của bản thân, của cộng đồng, của quốc
gia sẽ giúp thúc đẩy nỗ lực cá nhân và tập thể để đạt được các mục tiêu lớn.
Niềm tin không chỉ là một yếu tố quan trọng trong công tác tư tưởng mà còn
là động lực thúc đẩy sự phát triển và thực hiện các mục tiêu lớn trong xã hội.
Việc đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng phải dựa trên mức độ niềm tin mà
nó tạo ra, vì niềm tin quyết định hành động và sự thành công của các chiến
lược tư tưởng đó.
Câu 4: Tại sao nói: Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp chủ yếu nâng cao
hiệu quả giáo dục thế giới quan khoa học?
Trong toàn bộ hệ thống công tác giáo dục thế giới quan khoa học ở nước ta hiện
nay, việc giảng dạy, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ
phận trung tâm, cốt lõi. Bởi vì, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
nội dung cơ bản của thế giới quan khoa học
Cần đặc biệt chú ý rằng, trong khuôn khổ môi trường sư phạm thông thường, việc
giảng dạy và học tập bất kỳ một bộ môn khoa học và học thuật nào cũng chỉ cần và
chỉ có thể đạt tới mục tiêu đem lại cho đối tượng sư phạm tri thức, kiến thức khoa
học về các lĩnh vực nhất định. Trong khi đó, những năng lực xã hội – thực tiễn của
con người về các mặt chính trị, thẩm mỹ, đạo đức… cũng như việc họ quyết định
sẵn sàng trực tiếp tham gia một cách thích hợp và có hiệu quả vào các lĩnh vực
hoạt động này, thì lại còn phải dựa trên cơ sở trang thái tình cảm, sự xúc động và
trải nghiệm của họ về các mặt tương ứng. Chỉ có công tác giáo dục chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết là triết học duy vật biện chứng – duy
vật lịch sử, mới có khả năng và tiềm năng đem lại hiệu quả sư phạm tổng hợp. Bởi
vì, đó là khoa học đặc biệt, khoa học đem lại không chỉ tri thức về đối tượng hiện
thực, mà cả tri thức về đánh giá và tri thức về hành động. Hơn nữa, bản thân nó
còn cung cấp cho người học một hệ giá trị, hệ lý tưởng đúng đắn, hợp lý và khoa
học xét từ tiêu chí thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội; qua đó khơi gợi, thúc đẩy
mạnh mẽ, trực tiếp chính thế giới quan cá nhân của họ. Do vậy, việc giáo dục chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và triết học duy vật biện
chứng – duy vật lịch sử nói riêng sẽ trang bị cho chủ thể - quần chúng nhân dân lao
động – một tri thức thế giới quan hoàn bị nhất, đồng thời đưa chủ thể ấy tiếp cận
gần nhất ranh giới từ nhận thức khách quan đúng đắn chuyển sang hành động tích
cực cách mạng. Đó chính là tiền đề trực tiếp và đầy đủ nhất để hình thành toàn bộ
chỉnh thể thế giới quan mới trong chủ thể này.
Tuy nhiên, xét từ yêu cầu giáo dục thế giới quan hiện nay, hiệu quả tuyên truyền,
giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa cao. Chức năng thế
giới quan của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có lúc, có nơi được
hiểu chưa toàn diện. Những khía cạnh giá trị luận (đánh giá – điều chỉnh) và thực
tiễn luận (thúc đẩy – hoạt động) của các nội dung giáo dục ấy còn ít được nghiên
| 1/22

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG NGUYÊN LÝ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Câu 3,4 (3 phần) PHẦN I: (4đ)
Câu 3: Phương pháp công tác tư tưởng là gì? Công tác tư tưởng thường sử
dụng những phương pháp nào?

Phương pháp công tác tư tưởng là hệ thống các cách tác động tư tưởng của chủ thể
và các cách tiếp nhận tư tưởng của đối tượng, dựa trên tính quy luật của các quá
trình tư tưởng, nhằm thực hiện mục đích của công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng thường sử dụng những phương pháp như:
1. Phương pháp đối thoại
*Phương pháp đối thoại: là phương pháp cùng trao đổi ý kiến, thảo luận, tranh luận
giữa hai hay nhiều người để làm sáng tỏ hay đi đến thống nhất vấn đề tư tưởng nào đó
- Ưu thế: Đối thoại là phương pháp rất phù hợp với quá trình dân chủ hóa trong
công tác tư tưởng. Khi sử dụng phương pháp đối thoại có thể thực hiện thông tin
hai chiều, giải đáp kip thời những vấn đề nhiều người quan tâm với sự tham gia ý
kiến của cả đối tượng công tác tư tưởng. Phương pháp này đặt ra các tình huống
“có vấn đề”, cuốn hút đối tượng cùng tham gia giải quyết trong quá trình nhận
thức, kích thích cả trí nhớ lẫn tư duy, gây hứng thú, chủ động tìm hiểu quan điểm,
tư tưởng. Vì thế, những nội dung cần truyền đạt trong công tác tư tưởng thường
được đối tượng hiểu sâu, nhớ rất lâu. Có ý kiến cho rằng, sử dụng phương pháp đối
thoại có thể lưu giữ khoảng 50% thông tin
Thông qua đối thoại, đối tượng được trình bày ý kiến của mình, được giải tỏa tâm
lý về những vấn đề tư tưởng còn đang băn khoăn, khúc mắc. Đối thoại thành công,
cũng có nghĩa là tư tưởng được thông suốt. Đây là tiền đề quan trọng cho sự thống
nhất về hành động cách mạng. Phương pháp đối thoại được sử dụng thường xuyên
sẽ rèn kỹ năng tư duy lôgíc và khả năng ăn nói lưu loát cho người tham gia đối
thoại, bởi vì để có ý kiến có sức thuyết phục người khác, người nói bao giờ cũng
cần phải cố gắng khái quát, tổng hợp ý kiến, trình bày ý kiến mạch lạc, lập luận vấn đề chặt chẽ.
- Hạn chế: Đối thoại là một phương pháp khó. Trong đối tượng có những ý kiến
khá sắc sảo mà ngay chủ thể cũng chưa hề nghĩ đến hoặc nắm chưa chắc. Nếu
không có trình độ tri thức vững vàng, quan điểm lập trường rõ ràng, chủ thể rất có
thể rơi vào tình thế lúng túng, bị động. Hơn nữa, cùng một vấn đề nêu ra, có thể có
rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Trong khi đó, tâm lý người
tham gia đối thoại bao giờ cũng mong muốn người khác hiểu ý mình, muốn khẳng
định ý kiến của mình, bảo vệ quan điểm của mình. Vì thế, không khí cuộc đối thoại
đôi khi trở nên rất căng thẳng và khó đi đến thống nhất được quan điểm. Phương
pháp đối thoại thường chỉ tác động trực tiếp đến một hoặc một số ít người trong
mỗi lần tác động. Vì thế, đòi hỏi chủ thể công tác tư tưởng cần có trình độ tri thức
vững vàng, lập trường, quan điểm rõ ràng, đủ khả năng hướng đối tượng đến
những quan điểm của Đảng
- Với đặc điểm là phương pháp cùng trao đổi ý kiến, tranh luận giữa chủ thể và đối
tượng để làm sáng tỏ những vấn đề tư tưởng, các phương pháp nêu vấn đề, đàm
thoại, hỏi đáp,… là những phương pháp đối thoại có hiệu quả trong công tác tư tưởng hiện nay
+ Phương pháp nêu vấn đề là phương pháp tạo ta những tình huống có vấn đề
mâu thuẫn giữa những kiến thức đã có sẵn ở đối tượng và những kiến thức mới cần
trang bị cho họ bằng hệ thống câu hỏi
+ Phương pháp đàm thoại là phương pháp thông qua trao đổi, tranh luận của một
nhóm đối tượng về một vấn đề tư tưởng, dưới sự chủ trì của chủ thể, nhằm đi đến
thống nhất và nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề ấy
2. Phương pháp thuyết trình
*Phương pháp thuyết trình: là cách thức sử dụng lời nói để trunhf bày, giảng giải
những vấn đề tư tưởng có tính chất lý luận một cách có hệ thống, nhằm trang bị trị
thức, củng cố niềm tin cho đối tượng
- Ưu thế: Có thể trình bày vấn đề một cách hệ thống, làm rõ được các khái niệm,
quan điểm, tư tưởng. Lời nói có ý nghĩa giáo dục rất lớn vì nó tác động vào lý trí
và tình cảm của đối tượng, góp phần hình thành quan điểm, tư tưởng cho họ. Hơn
nữa, nó có thể sử dụng ở mọi lúc, mọi nơi, với mọi đối tượng mà không phụ thuộc
nhiều lắm vào điều kiện vật chất, không nhất thiết phải tốn kém kinh phí. Cũng
như các phương pháp dùng lời khác, trong phương pháp thuyết trình, chủ thể và
đối tượng trực tiếp nhìn thấy nhau, có thể chủ động điều chỉnh hành vi của nhau
(chủ thể nhắc nhở đối tượng có hành vi không đúng, đối tượng tỏ thái độ đồng tình
hay phản đối sự trình bày của chủ thể…). Chủ thể có thể điều chỉnh nội dung,
phương pháp cũng như phong cách biểu cảm của mình cho phù hợp hơn với đối
tượng để nâng cao hiệu quả. Chẳng hạn chủ thể có thể phân tích sâu hơn vào
những vấn đề mà đối tượng tỏ ra quan tâm, thích thú, lướt qua những vấn đề mà họ
tỏ ra đã biết rõ; đưa ra một số câu hỏi, một mẩu chuyện vui có liên quan đến nội
dung đúng lúc đối tượng có vẻ mệt ỏi hoặc thiếu tập trung cũng làm cho buổi
thuyết trình có sức cuốn hút hơn…
So với phương pháp đối thoại, trong phương pháp thuyết trình chủ thể có thể chủ
động hơn về nội dung dung trình bày đã được chuẩn bị từ trước. Mặt khác, phương
pháp này bao giờ cũng tác động trực tiếp đến một số đông người
- Hạn chế: Hiệu quả của nó phụ thuộc rất lớn vào sự chuẩn bị nội dung và nghệ
thuật trình bày nội dung đó của chủ thể. Nếu nội dung không được chuẩn bị cẩn
thận, gặp đâu nói đó thì dễ bị “lạc đề”, nói không chính xác, nói sai nội dung cơ
bản hoặc không biết nói gì cho hết thời gian. Có nội dung hay và sâu sắc nhưng
nghệ thuật trình bày kém sẽ làm cho đối tượng mệt mỏi, buồn chán, thiếu tập trung
cũng hạn chế lớn đến hiệu quả. Khi sử dụng phương pháp thuyết trình, có thể xuất
hiện khoảng cách lớn về quan điểm giữa người nói và người nghe về vấn đề cần
trình bày. Chủ thể phải chú ý đến tâm thế đối tượng để sử dụng cách nói thích hợp
nhằm rút ngắn khoảng cách đó. Mặt khác, có thể này sinh mâu thuẫn: chủ thể
muốn cung cấp thông tin một cách hệ thống, do đó, cần nhiều thời gian, còn đối
tượng chỉ muốn nghe những thông tin bổ ích với họ và thích thời gian ngắn.
Nhiều ý kiến cho rằng, so với phương pháp đối thoại, khả năng lưu giữ thông tin
của phương pháp thuyết trình thấp hơn (chỉ khoảng 5 đến 10%). 3. Phương pháp trực quan
*Phương pháp trực quan trong công tác tư tưởng là phương pháp sử dụng các
phương tiện trực quan để tác động vào lý trí, tình cảm con người nhằm hướng dẫn
nhận thức và hành vi của họ
Phương tiện trực quan có thể chia thành ba nhóm:
- Nhóm phương tiện trực quan tạo hình ảnh như: tranh ảnh, khẩu hiệu, áp
phích, phim, video, radio, máy chiếu đa năng, máy chiếu đa đầu,…
- Nhóm phương tiện trực quan quy ước như: biểu đồ, bản đồ, sơ đồ, đồ thị, niên biểu,…
- Nhóm phương tiện trực quan hiện vật như trưng bày các hiện vật trong bảo
tàng, triển lãm, các di tích văn hóa, lịch sử và cách mạng,…
- Ưu thế: Dễ gây ấn tượng mạnh cho đối tượng vì hình ảnh trực quan tác động trực
tiếp vào các giác quan (tai nghe, mắt thấy), tạo cảm xúc và sự khắc sâu kiến thức.
Phương pháp trực quan có sự hỗ trợ của phương tiện kỹ thuật hiện đại, màu sắc,
âm thanh hài hòa, hợp lý càng gây được ấn tượng mạnh. Mặt khác, phương pháp
trực quan tác động trực tiếp vào tâm lý, tình cảm của đối tượng nên dễ có khái
niệm cụ thể về đúng – sai, đồng thời nhanh chóng hình thành những hành động noi
gương, bắt chước với những việc làm nhân đạo, những hành động hợp với lẽ phải
trong khả năng và điều kiện hiện có của đối tượng. Trong thông tin cổ động,
phương pháp trực quan ngày càng tỏ rõ ưu thế nhờ việc kết hợp chặt chẽ các yếu tố
kiến trúc, mỹ thuật, tuyên truyền hoành tráng với nội dung tư tưởng sâu sắc, đáp
ứng nhu cầu thẩm mỹ có tính kích thích xúc cảm, tình cảm, cổ vũ, khơi dậy hành
động tự giác theo định hướng của Đảng
- Hạn chế: Việc sử dụng nó đòi hỏi phải có điều kiện vật chất nhất định, nếu quá
lạm dụng phương pháp trực quan có thể hạn chế phát triển năng lực tư duy trừu
tượng. Mặt khác, việc sử dụng phương tiện trực quan không đúng lúc, đúng chỗ, có
thể phân tán sự chú ý vào nội dung hoặc gây cảm giác khó chịu cho đối tượng.
Chẳng hạn, khi giảng một bài lý luận chính trị mà trưng bày một loại dụng cụ trực
quan suốt từ đầu đến cuối buổi sẽ phân tán sự tập trung của đối tượng
- Điều kiện sử dụng phương pháp trực quan có hiệu quả:
+ Phương tiện trực quan phải sát với nội dung giáo dục và làm rõ tính tư tưởng
của nội dung. Chẳng hạn, khẩu hiệu, biểu ngữ phải đúng với đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, đung với tình thế, hợp với lòng người và phải cô đọng, vì
nếu dài dòng thì đối tượng khó nhớ, do đó khó làm theo
+ Phương tiện trực quan phải gây được ấn tượng mạnh: tranh cổ động thì màu sắc
mạnh mẽ, đường nét đơn giản, dễ hiểu, bố trí tranh hợp lý, thể hiện được chủ để…
nhất là trưng bày đúng lúc, đúng chỗ. Khẩu hiệu phải bố trí theo đúng khối chữ,
khối nghĩa, hình thức hợp lý, chữ viết hấp dẫn nhưng phải rõ ràng. Tổ chức hoạt
động cổ động, triển lãm phải đưa được những hình ảnh đặc trưng, tiêu biểu và ở
chỗ có đông người biết đến,… 4. Phương pháp ám thị
*Phương pháp ám thị là phương pháp dựa vào uy tín của chủ thể và tính chân lý
của thông tin, tri thức đưa ra để buộc đối tượng chấp nhận mà không cần chứng minh và giải thích thêm
Phương pháp ám thị thường thích hợp với những nội dung công tác tư tưởng ngắn
gọn, rõ ràng và cụ thể, phù hợp với điều kiện xã hội có sự đồng thuận cao và đối
tượng khát khao hiểu biết các vấn đề chính trị - tư tưởng, nhất là trong những tình
thế cách mạng “nước sôi, lửa bỏng”. Tâm lý đối tượng của công tác tư tưởng
thường dễ chấp nhận những quan điểm, tư tưởng của những người có uy tín xã hội
cao. Chẳng hạn, những luận điểm mang tính chân lý của Hồ Chí Minh: Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng
vô sản, Không có gì quý hơn độc lập, tự do… đã có tác dụng nhanh chóng tập hợp
quần chúng nhân dân thực hiện các mục tiêu cách mạng trong cách mạng dân tộc, dân chủ.
Trong điều kiện chiến tranh, phương pháp ám thị đã từng được sử dụng nhiều và
có tác dụng rất lớn. Hiện thực cách mạng dân tộc dân chủ là môi trường thuận lợi
để giáo dục chủ nghĩa yêu nước và ý thức cộng đồng trong nhân dân, luôn coi
trọng và đặt lợi ích tập thể, lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, lợi ích bộ phận.
Khi ấy, những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, của Hồ Chí Minh, cũng như
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam được đa số quần chúng nhân dân đón nhận
một cách dễ dàng, với niềm tin tưởng hầu như tuyệt đối
Ngày nay, điều kiện cách mạng đã thay đổi, đời sống tinh thần, tư tưởng của quần
chúng nhân dân có những diễn biến đa dạng và phức tạp hơn trước. Tuy vậy, nếu
biết sử dụng phương pháp ám thị đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng thì nó vẫn có
tác dụng mạnh và đôi khi trở thành phương pháp rất cần thiết trong công tác tư
tưởng. Chẳng hạn, với đa số quần chúng nhân dân, nhất là những người đã trải qua
hai cuộc cách mạng chống Pháp và chống Mỹ, dựa vào thực tiễn cách mạng và uy
tín của nhà tuyên truyền mà có thể đưa ra luận điểm: sự lựa chọn con đường xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn mà Đảng và Bác
Hồ đã chọn. Trong tọa đàm, hội họp, tranh luận… việc người chủ trì sử dụng
phương pháp ám thị để đưa ra những kết luận cuôi cùng cũng hết sức cần thiết.
Phương pháp ám thị đơn giản, dễ thực hiện, lại có tác dụng mạnh, song không thể
lạm dụng vì nó có thể gây phản ứng tiêu cực ở đối tượng nếu chủ thể không đủ uy
tín và thông tin không có độ tin cậy cao đối với họ
Điều kiện để sử dụng phương pháp ám thị có hiệu quả là chủ thể giáo dục phải trau
dồi năng lực và phẩm cách để có thể khiến cho đối tượng vị nể và tôn trọng. Mặt
khác, vấn đề tư tưởng đưa ra phải là những vấn đề được nhiều người trong xã hội
thừa nhận và gần gũi với nhận thức, hiểu biết vốn có của đối tượng 5. Phương pháp nêu gương
*Phương pháp nêu gương là phương pháp tác động vào tâm lý, tình cảm của đối
tượng bằng những tấm gương điển hình (tốt hoặc xấu) trong cuộc sống, nhằm tạo
ra sự bắt chước với những hành động được xã hội tôn vinh, đồng thời, ngắn ngừa
những hành động đi ngược lại lợi ích xã hội
-Ưu thế: Tốn ít thời gian và công sức mà vẫn có thể nhanh chóng thay đổi nhận
thức, thái độ và hành vi của đối tượng theo hướng chủ thể mong muốn, đem lại hiệu quả giáo dục cao
- Hạn chế: Chỉ thích hợp với những nội dung nhất định, gắn với việc cổ vũ những
hành động cách mạng cụ thể. Mặt khác, những tấm gương đưa ra phải có tính chất
điển hình thì mới có sức cảm hóa mạnh mẽ đối tượng. Muốn đưa được những tấm
gương điển hình, có sức hấp dẫn thì chủ thể giáo dục phải am hiểu và bám sát thực
tiễn, có đầu óc quan sát, phát hiện điển hình, tìm hiểu được nguyên nhân, động lực,
cách thức hành động, những bí quyết thành công của điển hình đó, để kịp thời nhân
rộng những điển hình tiên tiến, đồng thời phê phám, uốn nắn những điển hình tiêu
cực, tạo ra dư luận xã hội khen, chê đúng đắn, kịp thời
Đối với phương pháp nêu gương, bản thân chủ thể cũng chính là tấm gương gần
nhất có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả giáo dục. Vì vậy, chủ thể giáo dục phải luôn tu
dưỡng, rèn luyện tốt, nhất là lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới mong đối
tượng tin và làm theo những gì mình muốn giáo dục ở họ.
6. Phương pháp giáo dục cá nhân
*Phương pháp giáo dục cá nhân là phương pháp tác động tư tưởng đến từng người
riêng lẻ nhằm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của họ - Ưu thế:
+ Có thể đi sâu vào một vấn đề cụ thể sát với vấn đề mà đối tượng quan tâm,
hứng thú hoặc phù hợp với hoàn cảnh đặc biệt của đối tượng…
+ Khi tác động đến một đối tượng có thể tạo ảnh hưởng, thu được kết quả ở nhiều
đối tượng, nhất là với những đối tượng có uy tín xã hội lớn như: các nhà lãnh đạo,
quản lý, thủ lĩnh các nhóm xã hội…. Tác động tư tưởng đối với họ không những
thay đổi nhận thức, hành vi của họ mà còn có khả năng thay đổi quan điểm,
chương trình hành động của cả một địa phương, cơ sở, đơn vị - Hạn chế:
+ Đây là phương pháp khó, đòi hỏi chủ thể phải công phu, nắm vững đặc điểm
đối tượng, biết phân loại đối tượng, nhiệt tình với công tác
+ Trong một số trường hợp, cần tiến hành giáo dục nhiều lần bằng nhiều cách
khác nhau, nhất là đối với những đối tượng cá biệt xấu (những người có quan điểm
chính trị sai trái, những người vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội, vi phạm pháp luật…)
+ Phương pháp này đòi hỏi hình thức giáo dục linh hoạt, sinh động tùy từng điều
hiện và hoàn cảnh cụ thể như gặp gỡ trao đổi trực tiếp, nói chuyện qua điện thoại,
viết thư, trả lời ý kiến, phát tờ rơi đến từng cá nhân…
-Để sử dụng phương pháp giáo dục cá nhân có hiệu quả cần chú ý:
+ Chủ thể nắm vững đặc điểm riêng của đối tượng để có biện pháp tác động tư
tưởng kịp thời, thiết thực, đúng lúc, đúng chỗ
+ Chủ thể giáo dục phải khéo léo, tế nhị, kiên trì nhất là đối với đối tượng có đặc điểm cá biệt
+ Cần phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng khác nhau cùng tác động giáo dục cá nhân
Câu 4: Hình thức công tác tư tưởng là gì? Công tác tư tưởng thường sử dụng những hình thức nào?
Hình thức công tác tư tưởng là cách thức tổ chức phối hợp hoạt động giữa chủ thể
và đối tượng, là cách bố trí sắp xếp các yếu tố bảo đảm và các bước tiến hành theo
một trật tự nhất định nhằm thực hiện mục đích công tác tư tưởng
Công tác tưởng thường sử dụng những hình thức: Lớp học, hội thảo, hội nghị, mít
tinh, lễ hội, thi tìm hiểu, trò chơi truyền hình, tư vấn
 Lớp học: là hình thức cổ điển và phổ biến nhất của công tác tư tưởng theo
nghĩa rộng, bao hàm cả hoạt động giáo dục trong các nhà trường và theo
nghĩa hẹp chỉ bao hàm các lớp học do các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội
tổ chức. Lớp học là một hình thức tiến hành công tác tư tưởng mà đối tượng
được tổ chức thành đội hình tập thể với số lượng hợp lý và trình độ tương
đối đồng đều. Nội dung tư tưởng chuyển tải qua hình thức lớp học được xây
dựng theo một chủ đề nhất định, mang tính logic chặt chẽ. Phương pháp
được lựa chọn rất đa dạng nhằm trình bày nội dung một cách sinh động, dẫn
dắt đối tượng từng bước khám phá những tri thức, quan điểm tư tưởng mới.
Quy trình tổ chức lớp học thường là giáo viên trình bày bài giảng, học viên
tiếp thu, thảo luận, kiểm tra nhận thức. Ngoài các lớp học được tổ chức trong
nhà trường, lớp học còn do các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức để nghiên
cứu, quán triệt các nghị quyết của Đảng. Ở hình thức này, giáo viên chủ yếu
là cán bộ lãnh đạo (báo cáo viên), nội dung mang tính thực tiễn nhiều hơn.
Ưu điểm của hình thức lớp học là giúp đối tượng tiếp thu tri thức có hệ
thống, đi sâu vào những vấn đề tư tưởng nóng hổi và phức tạp nhất, có sự
giao tiếp trực tiếp giữa người dạy và người học nên có thể trao đổi thông tin
nhiều chiều. Tuy nhiên, hạn chế của nó là dễ làm cho người học thụ động,
mệt mỏi, sa vào lý thuyết đơn thuần, xa rời thực tiễn
 Hôi thảo: Là một hình thức phổ biến của công tác tư tưởng nói chung và
công tác lý luận nói riêng. Hội thảo thực chất là một sinh hoạt khoa học mà
thông qua đó các nội dung của công tác tư tưởng được cọ xát trong môi
trường trí tuệ (thảo luận, tranh luận giữa các nhà khoa học) để đi đến chân lý
khoa học. Do đó, hội thảo là một hình thức của công tác tư tưởng nhằm tổng
kết thực tiễn, phát triển lý luận làm cơ sở để Đảng đề ra quan điểm, đường
lối đúng đắn. Chương trình của một hội thảo thông thời gồm có báo cáo đề
dẫn của cơ quan, đơn vị tổ chức hội theo; tham luận của các đại biểu; kết
luận của người chủ trì hội thảo. Điều kiện để hội thảo thành công là phải tạo
ra được không khí dân chủ, tự do tư tưởng thực sự, trong đó người tổ chức
phải khuyến khích tranh luận để tìm ra chân lý. Các đại biểu phải tôn trọng
các ý kiến khác nhau, không định kiến, áp đặt, quy chụp. Trên thực tế, khi sử
dụng hình thức này cần khắc phục khuynh hướng chỉ có “hội” mà không có
“thảo” nghĩa là hội thảo chỉ để gặp gỡ, vui vẻ, thiếu tính tranh luận. Là một
hình thức quan trọng và phổ biến nhưng hội thảo cũng có hạn chế là đối
tượng hẹp, nội dung mang tính lý luận cao, với những vấn đề phức tạp có
khi phải tổ chức hội thảo nhiều lần gây tốn kém
 Hội nghị: Là một hình thức công tác tư tưởng nhưng đồng thời cũng là một
hoạt động lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý của Nhà nước và các tổ
chức xã hội. Thông thường hội nghị được sử dụng để thống nhất, nhận thức
về tình hình, nhiệm vụ, nhận xét đánh giá về một giai đoạn, một công việc
cụ thể nên là một hình thức phổ biến, được sử dụng từ lâu đời. Có nhiều
dạng hội nghị với các quy mô khác nhau. Hội nghị phổ biến nhiệm vụ định
kỳ hay đột xuất, hội nghị sơ kết, tổng kết, hội nghị toàn quốc, hội nghị
ngành, hội nghị của đơn vị. Chương trình hội nghị thường có báo cáo trung
tâm của người lãnh đạo, chỉ huy; thảo luận của các đại biểu và kết luận. Do
tính chất phổ biến của hội nghị nên trong thực tế, hội nghị thường bị lạm
dụng, tổ chức tràn lan kém hiệu quả, nhất là các hội nghị sơ kết, tổng kết.
Tuy nhiên, đó không phải là hạn chế cố hữu của hình thức này mà khuyết
điểm chính thuộc về người tổ chức. Hạn chế của hình thức này là thường
đơn điệu, tốn kém do phải đi lại, nhất là các hội nghị quy mô lớn. Để khắc
phục hạn chế này, hiện nay người ta đã sử dụng hình thức hội nghị online
(sử dụng cầu truyền hình trực tuyến, mạng internet để đại biểu không cần đi
lại mà vẫn dự hội nghị được)
 Mít tinh: Là một hình thức phổ biến của công tác cổ động nhằm phát huy
triệt để các yếu tố tích cực của tâm lý tập thể. Mít tinh thường được sử dụng
để giáo dục lịch sử truyền thống, khơi dậy lòng tự hào, biểu thị sự nhất trí,
quyết tâm thực hiện một nhiệm vụ nào đó. Con đường tác động của mít tinh
chủ yếu là tình cảm nên có ảnh hưởng sâu sắc đến đối tượng. Nhiều cuộc mít
tinh đã tạo khí thế mạnh mẽ trong chiến đấu, lao động, học tập. Hạn chế của
hình thức mít tinh thường gắn với các lễ kỷ niệm ngày thành lập, ngày
truyền thống, các sự kiện chính trị lớn của đất nước và địa phương, cơ quan,
đơn vị nên dễ dẫn đến trùng lặp, đơn điệu, gây nhàm chán
 Lễ hội: Đây là một hình thức tuyên truyền, cổ động sử dụng phương tiện văn
hóa, nghệ thuật để tác động đến đối tượng. Lễ hội thực chất là một sinh hoạt
văn hóa gắn với đời sống tâm linh, truyền thống văn hóa của một địa
phương, một địa danh, nhân vật lịch sử… Chương trình lễ hội thường gồm
phần lễ và phần hội, trong đó phần lễ thường tiến hành dâng hương tưởng
niệm các danh nhân, anh hùng liệt sĩ, khai mạc một sự kiện văn hóa nào đó.
Phần hội thường tái hiện sự kiện lịch sử, bản sắc văn hóa thông qua hình
thức biểu diễn nghệ thuật như: rước kiệu, đồng diễn, diễu hành, các trò dân
gian. Hình thức lễ hội có ưu thế là được gắn với đời sống tâm linh, kết hợp
với vui chơi giải trí nên con đường tác động chủ yếu là vào tình cảm, tâm lý,
lại nhẹ nhàng nên dễ đi vào lòng người, gây ấn tượng sâu sắc ở đối tượng.
Ngày nay, với sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin đại chúng, hình thức
này có phạm vi ảnh hưởng đến đông đảo công chúng, vì vậy ngày càng được
sử dụng rộng rãi trên cả nước. Hạn chế của hình thức lễ hội là cần sự hoành
tráng về màu sắc, ánh sáng, sân khấu nên gây khó khăn về kinh phí, phương
tiện bảo đảm, lệ thuộc vào địa điểm và điều kiện thời tiết. Quy mô sử dụng
đông người nê về công tác tổ chức điều hành gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi
phải có tính chuyên nghiệp cao.
 Thi tìm hiểu: Là một hình thức tuyên truyền đươc sử dụng phổ biến ở nước
ta trong những năm đổi mới. Qua thực tiễn, hình thức này đã khẳng định tính
hiệu quả của nó bởi tính hấp dẫn và khả năng thu hút được đông đảo các
tầng lớp công chũng trong xã hội tham gia. Hình thức thi tìm hiểu giúp đối
tượng lĩnh hội nội dung một cách tự nguyên, nhẹ nhàng, thoải mái và tương
đối có hệ thống. Hình thức này thường do chủ thể là các tổ chức, cơ quan,
đơn vị, địa phương phát động trong nội bộ hoặc trong phạm vi toàn quốc
bằng cách nêu câu hỏi theo một chủ để nào đó kèm theo giải thưởng. Các
đối tượng tự nguyện tham gia trả lời câu hỏi để được khẳng định mình và
giành phần thưởng. Hiện nay, hình thức này có nhiều cách tổ chức rất đa
dạng. Ban đầu thi tìm hiểu chủ yếu là thi viết, hiện nay đã có thêm các dạng
khác như: gọi điện, nhắn tin, thư điện tử, trả lời câu hỏi trên các phương tiện
thông tin đại chúng; kết hợp trả lời câu hỏi với biểu diễn văn nghệ, trò chơi
(sân khấu hóa),… Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nguyên tắc của thi tìm hiểu là tự
nguyện nhưng nguyên tắc này dễ bị “căn bệnh thành tích” làm cho biến dạng
thành bắt buộ. Khi đó, người dự thi dẽ đối phó bằng cách sao chép làm giảm
hiểu quả giáo dục của hình thức này
 Trò chơi truyền hình: Là một hình thức được sử dụng phổ biến cùng với sự
phát triển của công nghệ truyền hình ở nước ta. Đây là hình thức sử dụng
các trò chơi dân gian, hiện đại được quay và phát trên sóng truyền hình để
chuyển tải nội dung giáo dục đến đối tượng. Hình thức này phát huy tối đa
ưu thế của phương tiện truyền hình vốn là vũ khí sắc bén trong công tác tư
tưởng của Đảng ta. Nhân vật chính trong các trò chơi có thể là một người
hoặc một nhóm thi đấu với nhau bằng cách trả lời các câu hỏi, giải đáp các
tình huống, thực hiện các hành động do ban biên tập chương trình đưa ra và
người thắng cuộc được nhận các giải thưởng có giá trị tương đối lớn. Trò
chơi truyền hình không chỉ là cách giải trí, thư giãn thần kinh sau những giờ
làm việc căng thẳng mà còn là cách truyền tải thông tin nhẹ nhàng đến đối
tượng nên lôi cuốn được người xem nhất là thế hệ trẻ. Ưu thế của trò chơi là
có đối tượng rộng rãi, khắc phục được những trở ngại về không gian và thời
gian. Mặt khác, do tính hấp dẫn của trò chơi và tính quảng bá của truyền
hình nên chúng được các doanh nghiệp quan tâm tài trợ tạo các giải thưởng
lớn thu hút người chơi tham gia và tiết kiệm kinh phí tổ chức. Hạn chế trong
sử dụng hình thức này là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ vốn rất khó
khăn giữa tính giáo dục và tính thương mại. Việc lồng ghép các nội dung
giáo dục chính trị thường bị cho là khô cứng, không được các nhà tài trợ hài
lòng. Nếu người tổ chức không kiên định mục đích giáo dục của trò chơi thì
hình thức này dễ bị thương mại hóa, sa vào giải trí đơn thuần. Mặt khác, các
hình thức này đòi hỏi phải luôn luôn đổi mới, công tác tổ chức công phu, tính chuyên nghiệp cao
 Tư vấn: Hay còn gọi là giáo dục riêng vốn là một hình thức tuyên truyền
giáo dục phổ biến trên thế giới, nhất là ở các nước phương Tây vì nó gắn với
truyền thống tôn trọng cá nhân của họ. Ở nước ta, hình thức giáo dục riêng
tuy được sử dụng từ lâu nhưng chưa được gọi đúng tên của nó. Những năm
gần đây thuật ngữ “tư vấn” được sử dụng ngày càng rộng rãi. Quy trình của
hình thức này là chủ thể giáo dục (người tư vấn) khơi gợi, lắng nghe đối
tượng trình bày băn khoăn, vướng mắc, sau đó tiến hành giải đáp, đấu tranh,
vận động đối tượng suy nghĩ và hành động theo mục đích của mình. Trong
sự nghiệp đổi mới hiện nay, nhu cầu, lợi ích của đối tượng rất đa dạng nên tư
vấn là một hình thức được sử dụng có hiệu quả vì nó tiếp cận được từng đối
tượng cụ thể với những nét tính cách đặc thù và có thể để lại ấn tượng sâu
sắc, làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức và hành động của đối tượng. Tuy
nhiên, đây là hình thức cần nhiều thời gian, công sức, đòi hỏi chủ thể phải
thực sự là những người có phẩm chất, năng lực, uy tín cao và làm chủ được
nghệ thuật chinh phục lòng người. PHẦN II: (4đ)
Câu 3: Phân tích cơ sở khách quan và biểu hiện của tính đảng trong công tác tư tưởng *Cơ sở khách quan:
Tính đảng là sự tự giác và kiên quyết đứng trên lập trường của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Tính đảng là nguyên tắc cơ bản nhất của công tác tư tưởng, xuất phát từ bản chất
giai cấp của hệ tư tưởng
Trong xã hội có giai cấp, hệ tư tưởng bao giờ cũng mang tính giai cấp. Điều đó
biểu hiện ở chỗ nó phản ánh, bảo vệ lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác
trong cuộc đấu tranh giữa các giai cấp. Chừng nào trong xã hội còn có sự phân chia
giai cấp và đấu tranh giai cấp thì không thể có hệ tư tưởng phi giai cấp. Trong cuộc
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, chỉ có hệ tư tưởng vô sản hay hệ
tư tưởng tư sản không có hệ tư tưởng trung gian ở ngoài hoặc trên các giai cấp.
V.I.Lênin viết:”…vấn đề đặt ra chỉ là như thế này: hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa. Không có hệ tư tưởng trung gian (vì nhân loại không tạo ra
một hệ tư tưởng “thứ ba” nào cả; vả chăng, trong một xã hội bị những sự đối kháng
giai cấp chia xẻ thì không bao giờ có hệ tư tưởng ở ngoài hoặc trên các giai cấp)”.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tuyên
bố rằng học thuyết của mình có tính giai cấp, nó hoàn toàn thể hiện lợi ích và các
quan điểm của giai cấp vô sản
Tính đảng là biểu hiện tập trung của tính giai cấp, có nghĩa là, tính đảng là tính giai
cấp, nhưng là tính giai cấp ở trình độ triệt để nhất, sâu sắc nhất, tự giác nhất. Chính
do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng mà phải phát triển
tính giai cấp thành tính đảng. “Tính đảng chặt chẽ là bạn đồng hành và kết quả của
cuộc đấu tranh giai cấp phát triển cao độ. Và, ngược lại, cần phải phát triển tính
đảng chặt chẽ để tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp công khai và rộng rãi”.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức hệ giữa hệ tư tưởng vô sản
và hệ tư tưởng tư sản ngày càng trở nên gay gắt, quyết liệt. Trong cuộc đấu tranh
đó, những người mác xít công khai tuyên bố về tính giai cấp, tính đảng của hệ tư
tưởng vô sản. Ngược lại, các nhà tư tưởng thì mưu toan che giấu tính đảng của hệ
tư tưởng tư sản. Bởi lẽ, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp tư sản và hệ tư tưởng tư sản đã trở nên lỗi thời về
mặt lịch sử, đi ngược tiến trình phát triển khách quan của xã hội loài người. Núp
dưới chiêu bài “phi hệ tư tưởng hóa’, “tính phi đảng: “tính đứng ngoài các giai
cấp”, các nhà tư tưởng tư sản đang cố gắng che dấu và làm lu mờ sự trung thành
của họ với giai cấp tư sản
Nguyên tắc tính đảng, nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với công tác tư tưởng còn là
bài học kinh nghiệm rút ra từ chính thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
Toàn bộ thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trên lĩnh vực ý thức hệ và
những biến cố quốc tế trong thế kỷ XX, kể cả những bài học đắt giá của sự sụp đổ
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh cho sự cần thiết
khách quan của nguyên tắc này trong công tác tư tưởng. *Biểu hiện:
Tính đảng của công tác tư tưởng biểu hiện trước hết ở chỗ “mỗi khi đánh giá một
sự biến, phải trực tiếp và công khai đứng trên quan điểm của một tập đoàn xã hội
nhất định”. Vì vậy, nguyên tắc tính đảng của công tác tư tưởng đòi hỏi phải đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, luôn xuất phát từ thế giới quan Mác –
Lênin, từ quan điểm của Đảng để xem xét, đánh giá những vấn đề tư tưởng, chính
trị diễn ra trong nước và thế giới, để giải thích cho quần chúng hiểu biết đúng đắn
những sự kiện và hiện tượng diễn ra trong đời sống xã hội.
Tuân thủ nguyên tắc tính đảng có nghĩa là quán triệt hệ tư tưởng Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, coi đó là cơ sở khoa học, là
nội dung cốt lõi của công tác tư tưởng. Toàn bộ công tác lý luận, công tác tuyen
truyền, cổ động phải hướng vào việc phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin,
tuyên truyền nhiệt thành cho sự thắng lợi của tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đường lối,
chính sách của Đảng trở thành nhân tố chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần
xã hội. Mỗi bài nói, bài viết phải thắm đượm nội dung tư tưởng, chính trị trong các
quan điểm của Đảng, thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Không được tùy tiện giải thích đường lối, chính sách của Đảng khi
chưa nắm vững. Không tùy tiện đưa ra quan điểm trái với quan điểm của Đảng.
Một biểu hiện khác của tính đảng trong công tác tư tưởng là công tác tư tưởng phải
góp phần đắc lực khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội của cách mạng nước ta; kịp thời biểu dương những điển hình tiên tiến, những
nhân tố mới xuất hiện trong phong trào cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đồng thời, công tác tư tưởng phải trở thành vũ khí sắc bén bảo vệ Đảng,
bảo vệ chế độ, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh kiên quyết với các quan điểm
sai trái, thù địch, đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, thù địch đối với cách mạng nước ta.
Tính đảng không chỉ biểu hiện trong mục đích và nội dung của công tác tư tưởng,
mà còn biểu hiện về mặt tổ chức. Tính đảng đòi hỏi công tác tư tưởng phải trở
thành một bộ phận khăng khít trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, và do
đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Công tác tư
tưởng bao gồm công tác lý luận, công tác tuyên truyền, công tác cổ động phải trở
thành “một bánh xe và một đinh ốc nhỏ” trong bộ máy tổ chức của Đảng và do
“đội tiền phong giác ngộ của giai cấp công nhân điều khiển”.
Tình đảng còn thể hiện ở chỗ, khi tiến hành công tác tư tưởng phải đứng vững trên
lập trường duy vật biện chứng mácxít, đấu tranh khắc phục những biểu hiện duy
tâm, duy ý chí, chủ quan trong công tác tư tưởng. Việc chỉ ra và khắc phục những
biểu hiện trên không chỉ xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả, nâng
cao tính khoa học của công tác tư tưởng mà còn xuất phát từ chính yêu cầu nâng cao tính đảng.
Một sô biểu hiện duy tâm, duy ý chí, chủ quan, có thể xuất hiện trong công tác tư tưởng là:
- Không xuất phát từ hiện thực khách quan, từ tồn tại xã hội để giải thích
nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện, biến đổi, vận động của các hiện tượng
tư tưởng, của các quá trình tư tưởng, mà chỉ xuất phát từ nguyên nhân tư tưởng để giải thích
- Muốn cải tạo, xóa bỏ tư tưởng cũ ngay lập tức (duy nhất bằng con đường
giáo dục tư tưởng) trong khi cơ sở xã hội, tồn tại xã hội sinh ra và nuôi
dưỡng nó chưa được cải tạo hoặc xóa bỏ; không gắn quá trình cải tạo tư
tưởng với quá trình cải tạo tư tưởng với quá trình cải tạo tồn tại xã hội;
không gắn biện pháp tư tưởng với biện pháp tổ chức và kinh tế. Hoặc muốn
có ngay tư tưởng mới, mang tính xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hoàn thiện, toàn
diện khi điều kiện kinh tế, văn hóa của chủ nghĩa xã hội còn chưa phát triển toàn diện, chín muồi
- Coi thường điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan, cho rằng có ý chí cao,
quyết tâm lớn là có thể giải quyết được mọi vấn đề, làm xong mọi việc, hoặc
chỉ dùng biện pháp tư tưởng đơn thuần trong giải quyết công việc
- Không đánh giá đúng tác dụng của tư tưởng trong điều kiện lịch sử cụ thể,
cắt nghĩa mọi thành công, mọi thất bại đều do tư tưởng và công tác tư tưởng tốt hay kém
- Tiến hành công tác tư tưởng không tuân thủ quy luật khách quan, quy luật
vận động, biến đổi của lĩnh vực tư tưởng. Khi tác động vào lĩnh vực tư
tưởng chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, không thấy lĩnh vực tư tưởng cũng
vận động, biến đổi theo quy luật khách quan, độc lập với ý thức và ý chí của con người
- Tính đảng hoàn toàn thống nhất với tính khoa học trong công tác tư tưởng.
Tính đảng càng cao thì tính khoa học càng sâu, do đó công tác tư tưởng càng
phục vụ đắc lực nhiệm vụ chính trị của Đảng, phục vụ sự nghiệp cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
- Thực tiễn chỉ ra rằng, những biểu hiện của tính đảng đã nêu trên phụ thuộc
nhiều vào trình độ lý luận – chính trị, tư tưởng và tình cảm cách mạng của
người làm công tác tư tưởng. Để nâng cao tính đảng trước kia, hiện nay và
sau này, vấn đề nâng cao trình độ lý luận, chính trị và tư tưởng, lập trường
giai cấp cho đội ngũ cán bộ tư tưởng là rất quan trọng. Bồi dưỡng lập trường
tính đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị và sự nhạy bén về tư tưởng cần trở
thành một nội dung quan trọng, xuyên suốt toàn bộ quá trình đào tạo rèn
luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác này.
Câu 4: Phân tích cơ sở khách quan và biểu hiện của tính khoa học trong công tác tư tưởng *Cơ sở khách quan:
Tính khoa học là khái niệm chỉ sự phù hợp với quy luật khách quan khi tiến hành
công tác tư tưởng và là một nguyên tắc cơ bản của công tác tư tưởng
Tính khoa học không chỉ xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng,
mà có cơ sở sâu xa từ bản chất cách mạng và khoa học của hệ tư tưởng Mác –
Lênin và đường lối, quan điểm của Đảng. Ngay từ khi chủ nghĩa Mác ra đời,
Ph.Ăngghen đã nhắc nhở những người cộng sản rằng, chủ nghĩa Mác là một học
thuyết khoa học, đòi hỏi phải được đối xử như một khoa học. Công tác tư tưởng,
xét về nội dung là quá trình phát triển và truyền bá hệ tư tưởng Mác – Lênin, làm
cho chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành hệ tư tưởng thống trị trong toàn xã hội, cũng
đòi hỏi phải được tiến hành một cách khoa học. Do yêu cầu truyền bá hệ tư tưởng
Mác – Lênin vào phong trào công nhân và quần chúng lao động, tiếp tục phát triển
hệ tư tưởng Mác – Lênin và vận dụng nó để đề ra chiến lược sách lược cho phong
trào cách mạng của giai cấp vô sản, công tác tư tưởng trở thành một bộ phận không
thể tách rời của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính C. Mác đã nói, học thuyết của ông
không chỉ nhằm giải thích thế giới mà còn là công cụ để cải tạo thế giới. Để có sức
mạnh cải tạo thế giới, học thuyết đó phải thâm nhập vào quần chúng, trở thành vũ
khí tinh thần, kim chỉ nam cho hành động cách mạng cải tạo thực tiễn. Để thâm
nhập vào quần chúng và để trở nên hoàn bị, học thuyết đó tất yếu phải bao gồm
một bộ phận lý luận khoa học nghiên cứu tính quy luật của quá trình vận dụng nó
vào thực tiễn để đề ra chiến lược, sách lược cách mạng, nghiên cứu tính quy luật
của quá trình chuyển hóa tri thức khoa học cách mạng thành hành động cách mạng.
Khoa học nghiên cứu những tính quy luật này chính là khoa học công tác tư tưởng. *Biểu hiện:
Công tác tư tưởng mang tính khoa học trước hết phải tuân thủ những quy luật vận
động, biến đối của lĩnh vực tư tưởng và biết dựa vào những thành tựu của khoa học
khác, chủ yếu là của khoa học xã hội, khoa học nhan vă để từng bước nâng cao,
hoàn bị trình độ khoa học của mình
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X chỉ rõ:
“Công tác tư tưởng của Đảng là công tác đối với con người, một nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp, đòi hỏi phải nắm vững những quy luật riêng của tư tưởng, có thái
độ, phương pháp khoa học, kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu định hướng tư tưởng với
tự nguyện, giữa lý trí và tình cảm, giữa lời nói và việc làm, giữa “xây” và “chống”,
lấy xây làm chính, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”
Để nắm vững và vận dụng sáng tạo các quy luật của lĩnh vực tư tưởng nâng cao
tính khoa học của công tác tư tưởng, cán bộ tư tưởng cần nắm vững chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, hiểu biết sâu
sắc xã hội học, tâm lý học, giáo dục học, ngôn ngữ học, lôgíc học, lý thuyết giao
tiếp, lý thuyết thông tin…
Nguyên tắc tính khoa học đòi hòi và tạo ra cơ sở để công tác tư tưởng thường
xuyên sáng tạo những nội dung mới phù hợp với trình độ giác ngộ và những yêu
cầu ngày càng cao về thông tin của đối tượng, phát hiện những hình thức và
phương pháp mới phù hợp với mức độ phát triển đi lên của cuộc sống. Tính khoa
học đồng thời cũng yêu cầu phải sử dụng những thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ
thuật, những phương tiện tác động tư tưởng hiện đại vào công tác tư tưởng
Một biểu hiện khác của tính khoa học là tình chân thật, mà cơ sở của nó là hệ tư
tưởng Mác – Lênin phù hợp với quy luật phát triển khách quan. Tính chân thật
đảm bảo sức mạnh cho tư tưởng, vì bản thân sự thật có sức mạnh thuyết phục, lôi
cuốn quần chúng vào hành động đúng. Cũng chính do có tính chân thực, phản ánh
đúng hiện thực mà tuyên truyền vô sản gây được niềm tin khoa học cho quần
chúng, tạo ra cơ sở khách quan để đập tan những luận điệu xuyên tạc, phản tuyên
truyền của giai cấp tư sản.
Tính khoa học, tính chân thực trong công tác tư tưởng của chúng ta còn có nghĩa là
phản ánh một cách khách quan cả những thành tựu to lớn lẫn những khó khắn và
thiếu sót còn mắc phải trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dũng cảm nêu
những nguyên nhân và quy rõ trách nhiệm. Chỉ có tuân thủ đòi hỏi ấy mới khắc
phục được chủ nghĩa chủ quan, khuynh hướng tô hồng hoặc bôi đen cuộc sống.
Tính khoa học của công tác tư tưởng không thể dung thứ, không thể không phê
phán có cơ sở khoa học và triệt để nhận thức phiến diện, một chiều, thái độ chủ
quan, thậm chí có ý đồ xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử, hạ thấp những giá trị, những
thành quả đã giành được trong quá khứ anh hùng của Đảng và nhân dân ta ở một
số người, trong đó có những kẻ vô tình hoặc cố ý tiếp tay cho kẻ thù của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa. PHẦN III: (2đ)
Câu 3: Vì sao niềm tin lại là tiêu chuẩn quan trọng trong đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng?
* Niềm tin là tiêu chuẩn quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng
vì: Trên cơ sở tri thức có căn cứ khoa học và thực tiễn, nhận thức biến thành niềm
tin. Niềm tin là tiêu chuẩn cao nhất của hiệu quả cụ thể của công tác tư tưởng về
mặt tinh thần. Trên cơ sở niềm tin, con người có lòng trung thành với chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng
và Bác Hồ đã lựa chọn. Những tiêu chuẩn biểu hiện niềm tin:
Một là, mức độ tin tưởng vào tính khoa học, tính cách mạng của chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng vào sự đúng đắn
của tư tưởng, lý luận, quan điểm được trang bị
Hai là, khả năng đánh giá đúng và định hướng đúng, sự kiên định lập trường, quan
điểm trước những diễn biến phức tạp của hiện thực xã hội
Ba là, ý chí vững vàng trong cuộc đấu tranh chống ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư
sản và các quan điểm, luận thuyết phi khoa học; tinh thần, ý chí đấu tranh bảo vệ
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng
Bốn là, sự kết hợp chặt chẽ quan điểm với hành động thực tế, sự sẵn sàng hành
động phù hợp với tri thức được trang bị. Do đó, niềm tin tự nó bao hàm sự thống
nhất lời nói với việc làm
Hiện nay vấn đề hình thành niềm tin của quần chúng đối với chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đối với Đảng, với chủ nghĩa xã hội là rất quan trọng. Để
hình thành niềm tin cho đối tượng người cán bộ tự tưởng trước hết phải có niềm tin
vững chắc vào những vấn đề tuyên truyền, giáo dục.
Niềm tin tạo ra sự ổn định và đoàn kết, là nền tảng vững chắc giúp duy trì sự ổn
định và đoàn kết trong một tập thể, tổ chức hay xã hội. Khi người ta tin vào mục
tiêu chung, lý tưởng hay đường lối tư tưởng mà tổ chức, nhà nước đưa ra, họ sẽ
đồng lòng, hợp tác, tạo nên sức mạnh tập thể để thực hiện các mục tiêu đó. Để thực
hiện được những mục tiêu tư tưởng, con người không chỉ cần có thông tin hay lý
thuyết đúng đắn, mà còn cần có sự tin tưởng vào tính khả thi và hiệu quả của
những quyết định, kế hoạch đó. Khi niềm tin được xây dựng vững chắc, người dân
hoặc các thành viên sẽ hành động một cách quyết đoán, sáng tạo và hiệu quả.
Niềm tin là thước đo hiệu quả truyền tải thông điệp tư tưởng, công tác tư tưởng
không chỉ là việc truyền đạt thông tin, mà quan trọng hơn là làm sao để người
nghe, người tiếp nhận có thể tin tưởng và áp dụng những giá trị, nguyên lý mà
công tác tư tưởng hướng tới. Nếu niềm tin không được xây dựng và củng cố, thông
điệp tư tưởng sẽ khó đạt được hiệu quả.
Niềm tin giúp bảo vệ và phát triển các giá trị văn hóa, đạo đức và truyền thống
trong xã hội. Công tác tư tưởng có hiệu quả khi nó tạo ra sự tin tưởng vào những
giá trị này, giúp người dân nhận thức được tầm quan trọng của chúng và bảo vệ
chúng khỏi những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Một xã hội, một tổ chức hay một
quốc gia có niềm tin mạnh mẽ vào tương lai sẽ thúc đẩy sự sáng tạo, cải tiến và
phát triển bền vững. Niềm tin vào khả năng của bản thân, của cộng đồng, của quốc
gia sẽ giúp thúc đẩy nỗ lực cá nhân và tập thể để đạt được các mục tiêu lớn.
Niềm tin không chỉ là một yếu tố quan trọng trong công tác tư tưởng mà còn
là động lực thúc đẩy sự phát triển và thực hiện các mục tiêu lớn trong xã hội.
Việc đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng phải dựa trên mức độ niềm tin mà
nó tạo ra, vì niềm tin quyết định hành động và sự thành công của các chiến lược tư tưởng đó.
Câu 4: Tại sao nói: Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp chủ yếu nâng cao
hiệu quả giáo dục thế giới quan khoa học?

Trong toàn bộ hệ thống công tác giáo dục thế giới quan khoa học ở nước ta hiện
nay, việc giảng dạy, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ
phận trung tâm, cốt lõi. Bởi vì, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
nội dung cơ bản của thế giới quan khoa học
Cần đặc biệt chú ý rằng, trong khuôn khổ môi trường sư phạm thông thường, việc
giảng dạy và học tập bất kỳ một bộ môn khoa học và học thuật nào cũng chỉ cần và
chỉ có thể đạt tới mục tiêu đem lại cho đối tượng sư phạm tri thức, kiến thức khoa
học về các lĩnh vực nhất định. Trong khi đó, những năng lực xã hội – thực tiễn của
con người về các mặt chính trị, thẩm mỹ, đạo đức… cũng như việc họ quyết định
sẵn sàng trực tiếp tham gia một cách thích hợp và có hiệu quả vào các lĩnh vực
hoạt động này, thì lại còn phải dựa trên cơ sở trang thái tình cảm, sự xúc động và
trải nghiệm của họ về các mặt tương ứng. Chỉ có công tác giáo dục chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết là triết học duy vật biện chứng – duy
vật lịch sử, mới có khả năng và tiềm năng đem lại hiệu quả sư phạm tổng hợp. Bởi
vì, đó là khoa học đặc biệt, khoa học đem lại không chỉ tri thức về đối tượng hiện
thực, mà cả tri thức về đánh giá và tri thức về hành động. Hơn nữa, bản thân nó
còn cung cấp cho người học một hệ giá trị, hệ lý tưởng đúng đắn, hợp lý và khoa
học xét từ tiêu chí thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội; qua đó khơi gợi, thúc đẩy
mạnh mẽ, trực tiếp chính thế giới quan cá nhân của họ. Do vậy, việc giáo dục chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và triết học duy vật biện
chứng – duy vật lịch sử nói riêng sẽ trang bị cho chủ thể - quần chúng nhân dân lao
động – một tri thức thế giới quan hoàn bị nhất, đồng thời đưa chủ thể ấy tiếp cận
gần nhất ranh giới từ nhận thức khách quan đúng đắn chuyển sang hành động tích
cực cách mạng. Đó chính là tiền đề trực tiếp và đầy đủ nhất để hình thành toàn bộ
chỉnh thể thế giới quan mới trong chủ thể này.
Tuy nhiên, xét từ yêu cầu giáo dục thế giới quan hiện nay, hiệu quả tuyên truyền,
giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa cao. Chức năng thế
giới quan của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có lúc, có nơi được
hiểu chưa toàn diện. Những khía cạnh giá trị luận (đánh giá – điều chỉnh) và thực
tiễn luận (thúc đẩy – hoạt động) của các nội dung giáo dục ấy còn ít được nghiên