-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đề cương ôn tập - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Hà Nội
- Cách đây khoảng 4000 năm - Là thời đại kim khí : đồ đồng và đồ sắt để sản xuất. hiệu suất lao động tăng lên rất nhiều - Trên lãnh thổ Việt Nam hình thành 3 trung tâm văn hóa, tiền đề cho sự hình thành nhà nước sau này: + Văn hóa Đông Sơn (miền Bắc) được coi là cốt lõi của người Việt cổ. + Văn hóa Sa Huỳnh (Miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Chămpa. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Preview text:
lOMoARcPSD|46342985
1. VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI SƠ
SỬ - Cách đây khoảng 4000 năm
- Là thời đại kim khí : đồ đồng và đồ sắt để sản xuất. hiệu suất lao động tăng lên rất nhiều
- Trên lãnh thổ Việt Nam hình thành 3 trung tâm văn hóa, tiền đề cho sự hình thành nhà nước sau này:
+ Văn hóa Đông Sơn (miền Bắc) được coi là cốt lõi của người Việt cổ.
+ Văn hóa Sa Huỳnh (Miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Chămpa.
+ Văn hóa Đồng Nai (miền Nam)
1.1Từ văn hóa tiền Đông Sơn đến văn hóa Đông Sơn
- Văn hóa Đông Sơn (Thanh Hóa) miền Bắc. Hình thành trên cơ sở văn hóa Phùng
Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả). Từ thời Pháp
thuộc người ta đã tìm thấy rất nhiều công cụ lao động bằng đồng. Sau này ở nhiều nơi
khác ở miền bắc như Hà Nam, Ninh Bình, Hà Nội người ta cũng tìm thấy những công cụ
tương tự Thanh Hóa nên gọi chung là Văn hóa Đông Sơn- nền văn hóa đồ đồng. Chuẩn
bị cho sự ra đời của nhà nước đầu tiên: Nhà nước Văn Lang
- Đây là thời đại kỹ thuật luyện đồng thau đạt một trình độ rất cao, bắt đầu xuất hiện đồ
sắt. Với sự tiến bộ về mặt kĩ thuật, người ta đã tìm thấy các mỏ đồng hoặc mua đồng ở
nơi khác. Dùng lửa và tinh luyện lên rất nhiều đồ sản xuất, trang sức, đồ dùng cho cuộc sống hàng ngày
VÍ DỤ: Thạc đồng đào thịnh- yên bái, lưỡi cày bằng đồng thể hiện sự tiến bộ trong kĩ
thuật đúc đồng, ngoài ra còn có dao, mũi tên, lẫy bằng đồng. Ở đồng bằng sông Hồng
người ta tìm thấy rất nhiều mộ thuyền, trong đó có đồ dùng sinh hoạt bằng đồng được chôn theo người chết
- Kinh tế: nông nghiệp trồng lúa nước có bước tiến mới, cày cuốc bằng đồng, năng suất
lao động cao hơn hẳn. Họ đã biết chăn nuôi một số gia súc như trâu; bò; lợn gà; … Làng
mạc giai đoạn này có diện tích rộng và tầng văn hoá dày. Chinh phục, khai phá sông
Hồng để trồng lúa nước.
- Nhà nước Văn Lang ra đời với không gian phân bố rất rộng trên sông Hồng, sông Mã và cả sông Cả.
- Văn hóa sinh hoạt – vật chất: Cư dân văn hoá thời đại đồng thau miền Bắc Việt Nam có
đời sống tinh thần phong phú. Điều đó thể hiện trong tư duy và sáng tạo nghệ thuật của
họ. Đặc biệt; họ đã làm chủ được nghệ thuật nhịp điệu trong ca múa; biểu hiện tính đối
xứng chặt chẽ của các mô típ hoa văn trong trang trí. Họ biết tới nhiều dạng đối xứng
khác nhau. Điều này cho thấy sự phát triển nhận thức hình học và tư duy chính xác nhờ
hoạt động sản xuất nông nghiệp và kĩ thuật chế tác đá; đúc đồng. lOMoARcPSD|46342985
+ Xuất hiện huyền thoại: Con rồng cháu tiên, sơn tinh thủy tinh, thánh gióng, sự tích bánh chưng bánh dày.
+ Người Đông Sơn ưu thích đồ trang sức; họ đeo đồ trang sức ở tay; cổ tay và cả ở chân.
Đồ trang sức thường được làm bằng đồng; thuỷ tinh; song không thấy đồ vàng bạc hay đá
quý. Khác với cư dân trước đó (ăn gạo nếp là chủ yếu) cư dân Đông Sơn bắt đầu ăn gạo
tẻ. Điều này được các nhà nghiên cứu lí giải bằng sự bùng nổ dân số vào giai đoạn đầu
của văn hoá Đông Sơn; khiến cho cư dân phải mở rộng diện cư trú đến những vùng đất
mới. Ngoài gạo họ còn ăn các loại hoa màu; rau quả; thuỷ sản. Mô hình cơm- rau- cá
trong cơ cấu bữa ăn của người Đông Sơn chứng tỏ sự hiểu biết thấu đáo và sự hoà hợp
cao độ của người Đông Sơn với môi sinh. Nhà ở của cư dân Đông Sơn được tạo ra bằng
những vật liệu dễ bị phá huỷ theo thời gian. Hình dáng nhà có các loại mái cong; mái tròn; và là nhà sàn.
+ Người Đông Sơn đã có những phong tục; y phục khá phong phú; không phải chỉ biết có
ở trần; đóng khổ; mặc vỏ sui như nhiều người thường nghĩ. Dựa trên trang trí trên cán
dao găm hình người; hoa văn trên trống đồng và thư tịch cổ; ta biết được ít nhất có bốn kiêủ để tóc.
+ Người Đông Sơn còn có tư duy khoa học; điều này thể hiện ở tri thức thiên văn học;
khái niệm số đếm; khái niệm lịch pháp…Tục thờ mặt trời: dẫn chứng cụ thể chính là hình
vẽ trên mặt trống đồng Đông Sơn. Các tia trên mặt trống đồng chính là các tia mặt trời.
Hay hình ảnh con chim lạc được trang trí xung quanh hình mặt trời bay theo hướng từ
đông sang tây thể hiện cho hướng đi của mặt trời
+ Nghệ thuật âm nhạc là ngành nghệ thuật quan trọng đã khá phát triển thể hiện đời sống
tinh thần của cả cư dân Đông Sơn. Trống đồng Đông Sơn không chỉ là công cụ tín
ngưỡng, tập hợp mà còn chính là nhạc cụ. Vừa thỏa mãn đời sống tinh thần vừa thỏa mãn
niềm tin con người về các tín ngưỡng. 1.2 Văn hóa Sa Huỳnh
- Văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi): Miền Trung. Dọc miền trung các dấu tích về thời sơ
sử rất giống nhau. Là tiền đề cho sự hình thành của nhà nước Champa
Trung tâm hay đỉnh cao của văn hoá thời đại kim khí Việt Nam ở miền Trung (từ Đèo
Ngang đến Đồng Nai) được gọi tên theo một địa điểm khảo cổ học ven biển tỉnh Quảng
Ngãi. Đó là văn hoá Sa Huỳnh.
- Nông nghiệp trồng năng suất không cao như ở khu vực phái Bắc. Khí hậu khô hạn, khắc
nghiệt. Kinh tế đa thành phần, gồm trồng trọt trên nương rẫy và khai thác sản phẩm núi
rừng, trồng lúa ở đồng bằng, phát triển các nghề thủ công đánh bắt cá ven biển và trao đổi
giao lưu rộng rãi với Đông Nam Á và xa hơn với Ấn Độ, Trung Hoa
- Nghề thủ công: Nghề làm gốm phát triển mạnh mẽ, thậm chí còn có tập tục chôn người
chết trong mộ chum. Đồ gốm tạo dáng thanh nhã, cân đối; hoa văn phong phú, sinh động;
lửa được khống chế tốt. Ở nền văn hóa Sa Huỳnh thì nghề chế tác đồ trang sức bằng đá
và thủy tinh là nghề thủ công quan trọng. Cư dân có năng khiếu, khéo tay và giàu mỹ lOMoARcPSD|46342985
cảm, họ ưa thích dùng đồ trang sức (vòng nhẫn, khuyên tai ba mấu, khuyên tai hai đầu
thú, vật đeo hình dấu phẩy, hạt chuỗi, …) bằng thủy tinh, mã não, đá quý, đá hay đất nung
Đặc trưng văn hoá:
Một đặc trưng tiêu biểu của văn hoá Sa Huỳnh là hình thức mai táng bằng chum gốm
suốt từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn (ngoại trừ mộ huyệt đất ở Bình Châu- Quảng
Ngãi). Tuy vậy; nguồn gốc của hình thức mai táng này đòi hỏi phải có nhiều nghiên cứu
tiếp. Trên địa bàn phân bố của văn hoá Sa Huỳnh từ gò đồi phía Tây cho đến đồng bằng
ven biển và hải đảo phía Đông; đã phát hiện nhiều khu mộ- những bãi mộ chum rộng lớn;
nhiều tầng lớp với những loại hình vò; chum mai táng hình cầu; hình trứng; hình trụ có
kích thước lớn nắp đậy hình nón cụt hay lồng bàn; phân bố thành cụm hay lẻ tẻ.
Trong và ngoài chum chứa nhiều đồ tuỳ táng với các chất liệu đá; đá quý; thuỷ tinh;
đồng; sắt và gốm. Ngoại trừ một vài chum còn vết tích xương răng trẻ em (Hậu Xá- Hội
An- Quảng Nam; Mỹ Tường- Thuận Hải); hầu như các chum chỉ còn đồ tuỳ táng; cát
trắng và ít than tro. Theo các nhà nghiên cứu có thể do hoả táng; có thể do hình thức mộ tượng trưng.
Ở những giai đoạn sớm và giữa; đồng thau đã được người Sa Huỳnh sử dụng để chế tác
công cụ và vũ khí. Sang tới giai đoạn cuối; đồ sắt chiếm lĩnh cả về số lượng và chất
lượng. Nét độc đáo của cư dân Sa Huỳnh là kĩ thuật chế tạo đồ sắt (chủ yếu bằng phương
pháp rèn). Nếu thống kê các đồ sắt Sa Huỳnh đã được phát hiện đến nay thì số lượng lên
đến hàng trăm chiếc; chủng loại đa dạng gồm rựa; dao quắm; giáo; mai; liềm; thuổng;
kiếm ngắn;… Đặt trong tương quan với các trung tâm văn hoá Đông Sơn ở phía Bắc; văn
hoá Đồng Nai ở phía Nam; số lượng và sự phổ biến rộng rãi của đồ sắt của văn hoá Sa Huỳnh nhiều hơn hẳn.
Cùng với việc đạt đến trình độ cao của kĩ thuật chế tạo sắt (cả việc đúc gang); cư dân văn
hoá Sa Huỳnh còn đạt đến bước phát triển cao với các nghề se sợi; dệt vải; chế tạo gốm;
làm đồ trang sức. Trong các di tích tìm thấy nhiều dọi xe chỉ các loại và những dấu vải
còn in trên công cụ vũ khí bằng sắt trong các mộ chum. Nghề gốm rất phát triển với
nhiều loại chum; vò; bát bồng; đèn; hình bình lãng hoa; bình con tiện; cốc cao chân… và
vô số những đồ gia dụng.
Gốm được trang trí phong phú với những đồ án phức tạp kết hợp tô màu; khắc vạch.
Nhiều đồ gốm được nung ở nhiệt độ cao; lửa được khống chế tốt (đôi khi cứng như sành).
Cư dân văn hoá Sa Huỳnh cũng là những người có năng khiếu thẩm mĩ; rất khéo tay và
có một mĩ cảm phát triển tuyệt vời. Họ rất ưa dùng đồ trang sức (vòng; nhẫn; khuyên
tai…) bằng thuỷ tinh; mã não; đá; gốm; nephrit. Chất liệu được ưa thích nhất là mã não
(mã não được nhập từ nơi khác đến vì vùng miền Trung không có nguyên liệu này).
Khuyên tai (hay bùa đeo) hai đầu thú và ba mẩu là một chế phẩm Sa Huỳnh đặc thù.
Trong các di tích văn hoá Sa Huỳnh tìm thấy số lượng lớn những loại khuyên tai này. Ở
di tích Đại Lộc- Quảng Nam còn tìm thấy một khuyên tai hai mấu còn ở tình trạng chế
tác dở dang. Trong một số di tích đương đại của nền văn hoá Đông Sơn (Bắc Việt Nam); lOMoARcPSD|46342985
Philipin; Thái Lan… cũng tìm thấy những loại khuyên tai này. Đó là bằng chứng của sự
lan toả ảnh hưởng của văn hoá Sa Huỳnh. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh còn biết nấu cát làm
thuỷ tinh và dùng thuỷ tinh để chế tạo đồ trang sức (hạt cườm; hạt chuỗi; vòng tai;
khuyên tai ba mấu; hai đầu thú…). Từ đây đồ trang sức thuỷ tinh lan ra cả phía Bắc và vào phương Nam.
Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của những cư dân nong nghiệp trồng lúa ở những đồng
bằng ven biển cồn bàu. Tuy vậy nền kinh tế của họ là nền kinh tế đa thành phần; họ sớm
biết khai thác những nguồn lợi của biển; của rừng; biết phát triển các nghề phổ thông;
từng bước họ đã mở rộng quan hệ buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á
lục địa; hải đảo và rộng hơn với Ấn Độ; với Trung Hoa. Đặc biệt ở giai đoạn cuối; nghề
buôn bán bằng đường biển rất phát triển. Ở ven biển miền Trung; vào những thế kỉ trước;
sau công nguyên đã hình thành một số tiền cảng thị hay cảng thị sơ khai.
Mật độ phân bố di tích cũng như quy mô lớn của các di chỉ văn hoá Sa Huỳnh là
chứng cớ của sự quần tụ đông đúc dân cư; sự phong phú về kiểu loại; số lượng của các
loại hình hiện vật từ nhiều chất liệu là dấu hiệu về sức sản xuất mạnh mẽ của cư dân văn
hoá này; đều chứng tỏ ở giai đoạn cuối đã hình thành một nhà nước sơ khai.
Sự trùng hợp về địa bàn phân bố; của niên đại kết thúc của văn hoá Sa Huỳnh và niên đại
mở đầu của văn minh Chămpa cũng như sự nối tiếp của một số loại hình hiện vật đặc biệt
là đồ gốm và đồ trang sức; của táng thức; của các ngành nghề kinh tế cho thấy Nhà nước
Chămpa là sự tiếp nối của nhà nước Sa Huỳnh. Nhà nước Chămpa được hình thành trên
cốt lõi của văn hoá Sa Huỳnh dưới ảnh hưởng của những yếu tố văn hoá ngoại sinh
Trung Hoa; Ấn Độ. Và sự “Ấn Độ hoá” ban đầu chỉ xảy ra ở lớp mặt của văn hoá (tôn
giáo) ở tầng lớp trên của xã hội. 1.3 Văn hóa Đồng Nai
- Văn hóa Đồng Nai: miền Nam. Cội nguồn văn hóa Óc Eo của cư dân nhóm Mã Lai – đa
đảo sống TK sau CN ở vùng Đông và Tây Nam Bộ, gắn liền với vương quốc Phù Nam
Văn hoá Đồng Nai được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hoá tại chỗ ở
Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt. Hàng trăm di tích của các giai đoạn
sớm; giữa; muộn đã được phát hiện và nghiên cứu. Những di tích này phân bố suốt từ
vùng đồi gò cao cho tới trung; hạ lưu các con sông và ven biển. Mỗi một tiểu môi trường
sinh thái ứng với một mô thức sản xuất- văn hoá thích hợp.
- Kinh tế đa dạng do có môi trường sống đa dạng. Con người sinh sống từ khu vực đồi gò
cho đến đồng bằng cho đến những nơi thấp trũng ven biển. Nền kinh tế biển phát triển và
cả kinh tế săn bắt hái lượm, trao đổi buôn bán đường sông, đường biển. Khan hiếm mỏ
quặng kim loại: chủ yếu là đá – lấn át mạnh mẽ và tồn tại lâu dài. Kỹ thuật chế tác đá
thực dụng, kỹ thuật chuyên môn hóa cao, đàn đá được xem là chế phẩm đặc thù
Nghề gốm và nghề làm gốm đã xuất hiện trong những di tích sớm và tồn tại trong suốt
quá trình lịch sử cư dân văn hoá Đồng Nai. Chế tạo và sử dụng đồ dùng đun nấu- ăn uống
đơn giản về dáng vẻ; mộc mạc và trang trí không cầu kì; song gốm được nung ở độ nung
cao và bằng kĩ thuật bàn xoay. lOMoARcPSD|46342985
Với những loại hình chủ đạo nồi vò bát; bát có chân Cà ràng; dọi xe sợi; bi; bàn xoa gốm.
Loại hình Cà ràng (còn được gọi là gốm sừng bò) thực chất là một loại bếp ba chân có
bàn đế thích hợp với môi trường sông nước; được phát hiện trong nhiều di tích bàn xoa
gốm là loại dụng cụ được sử dụng trong việc tạo dáng đồ đựng bằng gốm nhằm xoa lên
mặt trong gốm cho đều; phẳng; nhẵn và làm cứng phôi gốm.
2.ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA THỜI LÝ- TRẦN
Trong lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, thời đại Lý – Trần được xem như là
mốc son chói lọi, đánh dấu bước ngoặt căn bản trong tư duy, nhận thức của người Việt về
lòng yêu nước và tinh thần độc lập, tự cường. Nhắc đến văn hóa Thăng Long thời Lý –
Trần là nhắc tới nền văn hóa nền tảng của Thăng Long – Hà Nội nói riêng và nền văn hóa
dân tộc nói chung. Văn hóa Thăng Long thời Lý – Trần được hội tụ bởi các yếu tố văn
hóa cung đình, văn hóa đô thị, văn hóa nghẹ thuật và văn hóa chữ nghĩa, học đường, thi cử … - Văn hóa vật chất
+ Kiến trúc: Nhiều công trình kiến trúc quy mô lớn. Thành Thăng Long, Trung tâm của
hoàng thành thăng long đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Ngoài ra còn có
nhiều ngôi chùa đc xây dưng, phật giáo lên ngôi như chùa Một Cột, chùa Phật Tích.
+ Nghệ thuật điêu khắc trên đá, các chân cột làm bằng đá khắc nhiều hoa văn, họa tiết
+ Các nghề thủ công rất phát triển như dệt gốm, mỹ nghệ, làm ra ngói bằng sứ trắng, có
niên hiệu, khắc tên thời nhà Lý Trần
+ « An Nam tứ đại khí » (Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm; Tháp Báo Thiên; Chuông Quy
Điền, Vạc Phổ Minh). Nhân gian có một câu hát ca ngợi tháp Báo Thiên:
“Mênh mông biển lúa xanh rờn
Tháp cao sừng sững trang vờn bóng cau
Một vùng phong cảnh trước sau
Bức tranh thiên cổ, đượm màu giang sơn”
Hay nhà thơ Phạm Sư Mạnh đời Trần cũng ca ngợi tháp Báo Thiên
“Trấn áp dông tây, giữ đế kỳ.
Một mình cao ngất tháp uy nghi.
Chống trời cột trụ non sông vững.
Sừng sững ngàn năm một đỉnh chùy.
Chuông khánh gió đưa vang đối đáp.
Đèn sao đêm đến rực quang huy.
Đến đây những muốn lưu danh tính. lOMoARcPSD|46342985
Mài mực sông xuân viết ngẫu thi”
Tuy nhiên khi nhà Minh đô hộ nước ta, cả 4 cái này bị nhà Minh thu lại, nấu nóng chảy ra và đúc làm vũ khí. - Văn hóa tinh thần
+ Tử tưởng khai phóng đa nguyên “tam giáo đồng quy” (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo)
nhưng Phật giáo phát triển rực rỡ, hưng thịnh nhất. Theo nhà sử học Lê Văn Hưu: “Đời
nhà Lý dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền”. Phật giáo
trong suốt chặng đường hai ngàn năm hiện hữu trên đất Việt, đạo phật đã hòa chung cùng
bước thăng trầm lịch sử dân tộc. Tinh thần phóng khoáng giáo lý Phật được các bậc Tổ
đức Thiền Sư kết hợp với bản sắc văn hóa cổ truyền yêu cuộc sống quê hương đất nước
của nhân dân Việt Nam. Trong trang sử vàng đó phải kể đến thời kỳ “hoàng kim” Phật
giáo thời Lý. Các chùa đào tạo sư tăng, tri thức đương đại đã nối liền Phật giáo, Nho
giáo, Đạo giáo đặt nền móng cho cơ sở “tam giáo đồng quy”. Nho giáo chính thức được
tiếp xúc, xuất phát từ nhu cầu: củng cố vai trò bậc quân vương, hoàn thiện hóa đội ngũ
quan liêu, tuyển chọn người tài vào bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, giáo dục thời kỳ Lí
Trần nho giáo có bước phát triển mới với 3 cột mốc: Năm 1070 dựng Văn Miếu, năm
1075 mở khoa thi đầu tiên, năm 1076 mở Quốc Tử Giám. Nền văn hóa bác học hình
thành với các tác phẩm nổi tiếng có thể kể đến Nam Quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Hịnh
tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Phú sông Bạch Đằng (Trương Hán Siêu).
+Không những thế, tinh thần độc lập, văn hóa dân tộc, tự cường ở thời Lý – Trần còn
được thể hiện qua dấu ấn Champa. Những địa điểm Champa thường tập trung ở các địa
danh có chữ Sở: Yên Sở (Hoài Đức, Hà Nội), sở Hoài Lâm (Long Biên), Đắc Sở (Phú
Thượng, Từ Liêm), làng Cổ Sở (Yên Sở, Đắc Sở, Hoài Đức) … Các ngôi chùa mang dấu
ấn Champa có thể kể đến: chùa Bà Già, chùa Võng La, chùa Bà Đanh, … Ngoài ra, vấn
đề trồng lúa của người Việt cũng có sự du nhập lúa Chiêm, vụ Chiêm của người Champa.
Dấu ấn văn hóa Champa còn xuất hiện ở các công trình kiến trúc hoàng cung, các tác
phẩm diêu khắc như trang trí kiến trúc bằng đá mô típ hoa dây tại 18 Hoàng Diệu, tượng
Kinari chùa Phật Tích, tượng thần Shiva, … Trần Quốc Vượng từng viết: “Sau thế kỷ 10,
thời kỳ phục hồi dân tộc và phục hưng văn hóa dân tộc … Những ảnh hưởng cũ của văn
hóa Ấn Độ (Phật giáo và cả Bà La Môn) qua việc thờ Đế Thích và Nhị Thiên Vương (hai
thần Nhật Nguyệt đời Lý) cũng như ảnh hưởng mới từ văn hóa Chiêm Thành, Chân Lạp
– những nền văn hóa cao và không Trung Hoa, trở thành “đối trọng” của văn hóa Việt
Nam có tác dụng trung hòa ảnh hưởng văn minh Trung Quốc, tăng cường cái căn cước
riêng biệt của Việt Nam…” Đọc những dòng trên thiết nghĩ, việc Đại Việt lấy nguồn cảm
hứng từ phương Nam, từ Champa để tạo nên một đối trọng với phương Bắc, một diện
mạo mới cố gắng tách khỏi sự ràng buộc trong văn hóa từ phương Bắc cũng là điều tự
nhiên, hoàn toàn tự nhiên. lOMoARcPSD|46342985
3. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA THỜI HẬU LÊ
- Là sự phục hưng văn hóa dân tộc lần thứ hai bởi thời kỳ Lí- Trần các loại sách vở văn
hiến có giá trị bị nhà Minh lấy mất, cái gì không có giá trị thì bị đốt sạch. Thậm chí bộ
Đại Việt Sử kí của Lê Văn Hưu đến nay vẫn chưa tìm thấy. - Văn hóa vật chất
+Tu sửa mở rộng Hoàng thành và nhiều công trình kiến trúc khác
+ Quy hoạch 36 phố phường
+ Quan tâm đến phát triển nông nghiệp và buôn bán
+ Các ngành nghề, làng nghề thủ công phát triển
+ Quan tâm đến đắp đê: đê Hồng Đức
+ Thủ công nghiệp và thương nghiệp rất phát triển như nghề làm gốm sứ: gốm Bát
Tràng, gốm Chu Đậu. Các đoàn thương thuyền phương Tây đến buôn bán rất nhiều. - Văn hóa tinh thần:
+ Nho giáo chiếm địa vị ưu thế, giữ vị trí thượng tôn, trở thành quốc giáo, hạn chế Phật giáo + Xuất hiện Kito giáo
+ Luật pháp: Luật Hồng Đức (1438) được ban hành dưới thời Lê Thánh Tông, sau này
liên tục đc bổ sung, thể hiện sự phát triển về văn hóa và luật pháp
+ Giáo dục mở mang, chế độ khoa cử trở nên quy củ, vua Lê Thánh Tông rất coi trọng
việc học. Vì vậy đã cho khắc tên của những vị trạng nguyên, tiến sĩ trên bia đá để ghi nhớ.
+ Nền văn hóa bác học phát triển mạnh: văn học phát triển, đặc biệt là văn học chữ Nôm,
ngoài ra văn học chữ Hán cũng phát triển. Sử học được chú trọng
+ Xuất hiện nhiều loại hình tín ngưỡng truyền thống: thờ thành hoàng làng, thờ Mẫu
như Chùa Tây Phương Thạch Thất, HN, Đình Tây Đằng- Ba Vì HN
4. TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN: ĐẶC ĐIỂM CHUNG, MỘT SỐ TÍN NGƯỠNG
TIÊU BIỂU (TÍN NGƯỠNG SÙNG BÁI TỰ NHIÊN, TÍN NGƯỠNG SÙNG BÁI
CON NGƯỜI, TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG)
- Với tôn giáo, con người không thể giải thích được các hiện tượng xảy ra xung quanh
mình thì với khái niệm tín ngưỡng, nguồn gốc ra đời của nó cũng là việc con người chẳng
thể giải thích được các hiện tượng tự nhiên diễn ra quanh cuộc sống. GS Đào Duy Anh đã
từng giải thích “Tín ngưỡng là lòng ngưỡng mộ, mê tín đối với một tôn giáo hoặc một
chủ nghĩa”. Hán – Việt từ điển Trường Thi xb, Sài Gòn, 1957, tập hai, tr 283. Là sản
phẩm văn hóa của con người với con người, con người với môi trường tự nhiên, con lOMoARcPSD|46342985
người với môi trường xã hội. Là sự thần thánh hóa, thiêng liêng hóa của con người với
một vật hay nhiều hiện tượng thiên nhiên nào đó.
Một số tín ngưỡng tiêu biểu
*Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên:
+ Nguồn gốc ra đời của tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là việc con người sống phụ thuộc
vào tự nhiên, tự nhiên cho con người chỗ ở, thức ăn thức uống, nuôi dưỡng lên con người
vì vậy họ có xu hướng thần thánh hóa, thiêng liêng hóa các hiện tượng tự nhiên. Đồng
thời cũng là một cư dân nông nghiệp lúa nước, vì vậy việc thiêng liêng hóa tự nhiên cũng
là thể hiện lòng thành kính với trời đất để mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mong mùa màng bội thu.
Đặc điểm: sùng bái, thiêng hóa đa thần và đồng nhất với các nữ thần:
+ Đời sống người Việt gắn bó với nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến hậu quả
trong lĩnh vực nhận thức có lối tư duy tổng hợp, và trong lĩnh vực tín ngưỡng là “tín ngưỡng đa thần”.
+ Chất âm tính của nền văn hóa nông nghiệp dẫn đến hậu quả trong quan hệ xã hội là lối
sống thiên về tình cảm, trọng nữ ; dẫn đến tình trạng “các nữ thần chiếm ưu thế” trong tín
ngưỡng. Nhưng vì cái đích của nền nông nghiệp hướng tới sự phồn thực, cho nên nữ thần
không là các cô gái trẻ đẹp mà là các Bà mẹ, các Mẫu. Biểu hiện:
Thờ các hiện tượng tự nhiên: thờ thần mây, thần mặt trời,…. Tiêu biểu là việc
thờ tứ pháp (các vị thần đại diện cho các hiện tượng tự nhiên: mây, mưa, sấm,
chớp): Pháp Vân – thần Mây - ở chùa bà Dậu. Pháp Vũ – thần Mưa - ở chùa bà
Đậu. Pháp Lôi – thần Sấm - ở chùa bà Tướng và pháp Điện – thần Chớp – chùa
bà Dàn. Nó đã góp phần thể hiện sự gắn bó của cư dân gốc nông nghiệp núa
nước, dung hòa giữa Phật giao và yếu tố bản địa.
Thờ thời gian, không gian: biểu hiện chính là ngày Tết Nguyên Đán hằng năm
của mỗi người dân Việt Nam. Tết Nguyên Đán thường kéo dài từ 7 – 8 ngày cuối
của năm cũ và khoảng 7 ngày đầu của năm mới (23 tháng Chạp đến ngày mồng 7
của tháng Giêng. Là dịp để mọi người sum vầy, tụ họp gia đình, là dịp để nghỉ lOMoARcPSD|46342985
ngơi sau một năm làm việc đầy vất vả và để đón một năm mới đầy sức sống và
năng suất hơn. Đặc biệt, vào thời khắc chuyển giao giữa năm mới và năm cũ, nhà
nhà đều làm một mâm cơm cúng đầy đủ để cúng tổ tiên cũng như các vị thần trên
trời, cầu mong một năm mới mùa màng bội thu, làm ăn phát đạt. Cũng vào
khoảnh khắc ấy, mỗi gia đình thường có tục xông nhà tức là một người sẽ hợp
với mệnh của gia chủ nhà đó, không ngoại trừ bất kì ai, kể cả bố mẹ, con cái, sẽ
là người bước vào căn nhà đầu tiên với quan niệm sẽ có được một năm mới làm
ăn phát đạt, túi tiền rủng rỉnh, ăn nên làm ra, con cái đều thành tài. Hay có thể kể
đến với sự tích 12 con giáp, có bao giờ bạn từng thắc mắc về việc tại sao lại lấy
tên của 12 con giáp để chỉ cho giờ, ngày, tháng cho đến năm chưa ? Đó là bởi
theo như được nghe kể lại, ngày xưa, vào ngày sinh nhật của mình, Ngọc Hoàng
có tổ chức một cuộc chạy đua giữa các loài vật, theo thứ tự tương ứng làn lượt
mỗi con vật về đích trước sẽ lấy tên loài vật đó để đặt tên theo năm hay mùa. Vì
vậy, có khác khung giờ: Tý – Sửu – Dần – Mão – Thìn – Tỵ - Ngọ - Mùi – Thân
– Dậu – Tuất – Hợi. Tuy nhiên, tương ướng với mỗi quốc qua khác nhau mà
những con vật này cũng có sự khác nhau, ví dụ như ở Trung Quốc, người dân
quan niệm con Mão lại là con Mèo,…đồng thời thứ tự mỗi con vật tương ứng
cũng thể hiện cho triết lý âm dương hài hòa, làm nên nét riêng biệt trong truyền
thống văn hóa của dân tộc ta.
Tục thờ động vật, thực vật, thờ thần tự nhiên, vạn vật hữu linh (một số bộ tộc ở
Tây Nguyên thờ hổ, chim ưng…).Ở vùng sông nước: chim, rắn, cá sấu là loại
động vật phổ biến và được con người vùng sông nước hay sùng bái “Nhất điểu,
nhì xù, tam ngư, tứ tượng”.Đôi khi, một số loài động vật được đưa lên thành biểu
trưng như Tiên, Rồng. (Tiên Rồng là một cặp đôi, Tiên trừu tượng hóa cho giống
chim, Rồng trừu tượng hóa từ hai loài bò sát là rắn và cá sấu).Thực vật được tôn
sùng nhất là cây Lúa, nhiều vùng đều có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn Lúa,…
Sau đó cũng có một số loài cây được tôn sùng nhiều như cây Cau, cây Đa…
* Sùng bái con người:
+ Nguồn gốc:Người xưa thường cho rằng, con người gồm 2 phần là phần thể xác và
linh hồn. Thế nhưng người Việt Nam lại cho rằng con người có 3 phần: Tinh – Khí –
Thần, tinh trong tinh anh về trí tuệ, khí là nguồn năng lượng của con người còn thần là
thái độ, thần thái, cách cư xử của con người. Vía là phần trung gian, là nơi liên kết phần
hồn và thể xác trìu tượng. Do đó, nam có 7 vía còn phụ nữ thì có 9 vía. lOMoARcPSD|46342985
+Biểu hiện: Với quan niệm “ Chết không phải là hết mà chỉ là trở về với ông bà tổ tiên”
vì vậy có thể thấy được biểu hiện rõ nhất cho tín ngưỡng sùng bái con người chính là
việc lập bàn thờ ông bà, tổ tiên, những người đã khuất trong gia đình. Trong gia đình
người Việt, bàn thở tổ tiên luôn được sắp xếp, bố trí và đặt và ở nơi trang trọng nhất
trong gia đình, đồ ăn thức uống mỗi dịp cúng giỗ đều được chuẩn bị rất đầy đủ và tươm
tất, đặc biệt biểu hiện rõ nhất cho việc thờ cúng ông bà tổ tiên chính là việc đốt vàng mã.
Người Việt ta quan niệm mỗi khi đốt quần áo, tiền bạc hay đồ dùng cho người đã khuất
thì cần phải đốt hết, không được để xót nếu không người bên kia sẽ nhận được quần áo
rách hay tiền rách, không thể sử dụng được. Không chỉ thờ cúng ông bà tổ tiên, người
Việt ta còn có quan niệm thờ thần Thổ công – vị thần cai quản, định đoạt hạnh phúc, sự
bình yên của một gia đình : “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Có thể nói thần thổ công
được coi là “đệ nhất gia chi chủ”, nếu như bàn thờ tổ tiên được đặt ở nơi trang trọng nhất
trong nhà thì bàn thờ thổ công được đặt ở nơi trang trọng thứ hai trong nhà.
+ Tín ngưỡng thờ cúng của người Việt không chỉ bó hẹp ở phạm vi gia đình mà còn mở
rộng ra tới làng xã, cộng đồng, thờ những người đã có công với cộng đồng, đất nước như
làng Phù Đổng ở xã Phù Đồng thờ Thánh Gióng – người có công trong việc đánh đuổi
giặc Ân xâm lược nước ta. Hay việc thờ các vị vua Hùng – những người đã đánh đổi rất
nhiều mồ hôi, thậm chí là máu sương của mình để quyết giành lại chủ quyền cho nước
nhà. Vì vậy vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hằng năm, tất cả mọi người từ công nhân
viên chức cho đến các cấp học sinh đều được nghỉ học để có thể hiện tấm lòng thành
kính, biết ơn của mình tới những con người đã có công dựng nước, đồng thời cũng là thể
hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta, một lòng thành kính.Bên cạnh
đó, Người Việt còn có một tín ngưỡng thờ cúng đặc biệt, đó là tục thờ Tứ bất tử (bốn
người không chết).Đức thánh Tản Viên là Sơn Tinh với truyền thuyết “Sơn Tinh Thủy
Tinh” (biểu tượng cho mua thuận gió hòa) và Thánh Gióng với truyền thuyết “ Thánh
Gióng” (khát vọng tự chủ, độc lập tự do dân tộc) : biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết của
một cộng đồng cư dân nông nghiệp, vừa để ứng phó với môi trường tự nhiên là chống lũ
lụt, hạn hán ; vừa để ứng phó với môi trường xã hội đó là chống giặc ngoại xâm. Chử
Đồng Tử biểu tượng cho khát vọng xây dựng cuộc sống no đủ, giàu sang cả về vật chất
và hanh phúc về tinh thần. Thánh mẫu Liễu Hạnh biểu tượng cho ước vọng cuộc sống
con người bình dị, tự do, hạnh phúc ; đặc biệt là niềm tin về sự bình đẳng nam nữ, đề cao phụ nữ. * Thờ thành Hoàng Làng: lOMoARcPSD|46342985
+Khái niệm:Thành hoàng: là một từ Hán – Việt: hào bao quanh thành (thành – thành trì;
hoàng – hào). Thành hoàng làng: vị thần bảo trợ một thành quách, vị thần bảo vệ, che chở
cho thành trì, đô thị, định đoạt phúc họa cho dân làng đó.
+ Nguồn gốc: Bắt nguồn từ Trung Quốc thời xuân thu chiến quốc, họ đã xây dựng lên
các thành trì, sau đó lập miếu để thờ ông thần – người đã coi giữ và bảo vệ thành làng. Ở
những làng xã Việt Nam xưa họ vốn đã có tục thờ vị thần bản địa, nhưng chỉ khi đến thời
Đường thì tín ngưỡng này mới được hòa hợp chung cùng văn hóa bản địa. Tính thờ thành
Hoàng Làng thể hiện ở tính hỗn dung giữa (văn hóa bản địa cùng văn hóa ngoại lai) và
tính linh hoạt là bởi nếu như ở Trung Quốc coi trọng các đô thị thì đến với Vietnam lại
coi trọng các tập thể làng xã, mang tính cộng đồng .
+ Nguồn gốc ở Việt Nam: được chia ra làm 3 nguồn gốc cơ bản là thiên thần (Mây,
mưa, sấm chớp,..thờ Nhiên thần (đất, núi, sông) và thờ nhân thần (Chính tà hoặc Tà
thần). Thờ Thần Hoàng Làng thể hiện sự thờ cúng thiêng liêng, là chỗ dựa cho nhiều
người nông dân từ bao đời nay. Thành Hoàng Làng là một nhân vật biểu tượng cho sức
mạnh tự nhiên hay một nhận vật lịch sử nào đó đã cố công với làng, với nước. Thông
thường mỗi làng thờ một thành Hoàng Làng, có khi có 2, 3 và thậm chí nhiều làng thờ
một vị thần, ví dụ như: ở làng Bình Đà (huyện Thanh Oai, Hà Nội) thờ tới hai vị Thành
hoàng là Lạc Long Quân và Linh Lang Đại vương. Các làng Lũng Khê, Thanh Tương,
Tam Á, Đề Cầu huyện Thuận Thành, làng Đại Trung huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh cùng
thờ Sỹ Nhiếp,… Các vị thần được chia ra thành các cấp bậc tôn ti khác nhau: Thượng
đẳng thần (những người có công lớn, được nhà vua sắc phong như: Chử Đồng Tử, Trần
Hưng Đạo, Thánh mẫu Liễu Hạnh), Trung đẳng thần là những vị quan hay các quan địa
phương có công lập ấp, có khi cũng là những vị thần mà người dân đã thờ cúng lâu năm
nhưng không rõ tên tuổi và cuối cùng là Hạ đẳng thần – những người có công giúp làng, mang lại nghề cho làng.
+ Các vị chính thần – những người mang lại phúc lành cho làng thì đều được Nhà nước
cho phép thờ phụng, thế nhưng vẫn còn xuất hiện một số trường hợp như: những người
ăn cắp, ăn trộm hay làm việc xấu,… quy chung gọi là tà thần và tại sao lại vẫn được nhân
dân ta lập đền thờ phụng ? Lí do là bởi những con người ấy khi làm trộm cắp hoặc làm
những việc xấu bị dân làng ta bắt được, xử tội và không may mất vào đúng những giờ
“linh thiêng”, vì vậy dân làng phải lập đền thờ phụng bởi sợ sẽ bị họ sẽ quấy nhiễu làn,
nhưng lâu dần họ cho rằng làm như vậy để đảm bảo cho sự bình yên, phát triển của làng lOMoARcPSD|46342985
xã, ví dụ có kể đến như: thần ăn trộm ở làng Lộng Khê (Thái Bình), thần ăn mày trở
thành Thành hoàng ở làng Thư Lan (Hà Nam),… https://baophapluat.vn/phong-thuy-va-
tin-nguong-tho-than-thanh-tai-cac-tu-tran-viet-nam-ky-9-su-sang-tao-cua-tin-nguong-tho-
thanh-hoang-lang-post417488.html
Những lễ hội hằng năm đều được tổ chức để thể hiện lòng thành kính, biết ơn của người
dân nơi đó tới những vị Thần Hoàng Làng có công lớn với làng xã mình, tuy nhiên mỗi
nơi lại có nghi lễ, các cách thể hiện lòng thành kính khác nhau: “người dân trong làng
cùng nhau tự phong, tự thờ vị Thành hoàng riêng của mình như vị thần bản mệnh, chủ
yếu đảm bảo mưa thuận gió hòa, đem lại sự bình yên cho cộng đồng” Trần Đăng Sinh,
Chủ biên, (2017), Đạo lý uống nước nhớ nguồn - cơ sở triết học và giá trị trong lịch sử
dân tộc, Nxb. Giáo dục Hà Nội, tr.60. Tuy nhiên chính những sự khác biệt của từng làng
xã ấy đã tạo nên cho truyền thống văn hóa Việt ta càng thêm phong phú, đa dạng, thể
hiện được tính vĩnh cữu với thời gian, sau này và mãi mãi vẫn như thế. Và đến đây ta có
thể khẳng định rằng: “Dường như sự ngưỡng mộ Thành hoàng của người dân không kém
gì sự ngưỡng mộ đối với tổ tiên của họ, ở cấp độ cao hơn Tổ nhà, Tổ họ vì đây là Tổ
làng” Nguyễn Thị Thọ (Chủ biên) (2017), Bản thể luận xã hội về đạo Hiếu ở Việt Nam
hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.95.
Tóm lại, qua việc tìm hiểu một số tín ngưỡng dân gian tiêu biểu của làng quê Việt
Nam cho người nhận ra được một số đặc điểm chung của các tín ngưỡng:
Thứ nhất, tín ngưỡng Việt Nam là nơi hội tụ của rất nhiều nền văn hóa, tín ngưỡng khác
nhau, vì vậy có thể nói người Việt Nam đa tín, mê tín nhưng không cuồng tín, cực tín.
Thứ hai, tín ngưỡng Việt Nam đều thể hiện thái độ tôn trọng tự nhiên, sùng bái, tôn thờ
tự nhiên bởi những gì mà tự nhiên mang đến cho ta là không thể phủ nhận, vì vậy người
Việt luôn luôn thể hiện lòng biết ơn của mình tới tạo hóa, tự nhiên.
Thứ ba, do người Việt luôn có tư duy tổng hợp, vì vậy những tín ngưỡng đều có tính tổng
hợp cao ( thờ đa thần) và dung hợp cao (tiếp thu nhưng nền văn hóa ngoại lai nhưng có
sự linh hoạt, khéo léo trong cách tiếp nhận).
Thứ tư, thể hiện tính linh hoạt cao, có sự dân chủ, bình đẳng , mối quan hệ giữa đối
tượng thờ phụng và người thực hiện hành vi thờ phụng.
Thứ năm, đề cao vai trò của nữ giới, yếu tố “Mẹ”, được thể hiện qua việc thờ cúng Công
chúa Liễu Hành, tứ đại pháp,…. lOMoARcPSD|46342985
Cuối cùng, coi trọng sự cân bằng hài hòa giữa âm và dương – quan niệm ăn sâu vào trong
tiềm thức, lối sống, nếp sinh hoạt hằng ngày của nhân dân ta từ bao đời nay. Thờ Phật
Ông – Phật Bà, nhiều chùa chiền mang tên “Bà”, các tín đồ đi chùa phần lớn là phụ nữ.
5. TỔ CHỨC LÀNG VIỆT CỔ TRUYỀN: NGUỒN GỐC, NGUYÊN TẮC HÌNH
THÀNH, ĐẶC TRƯNG, DIỆN MẠO. Khái niệm Làng:
Là đơn vị tổ chức xã hội trên một không gian chung của các cư dân nông nghiệp, có
nền kinh tế tự cung tự cấp, mẫu hình xã hội phù hợp với sản xuất tiểu nông, cơ cấu
gia đình, dòng họ, đảm bảo sự tồn tại vững bền của các cơ cấu kinh tế-xã hội đó.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, làng xã là đơn vị cơ sở để hình thành nên nước,
là một cộng đồng bao gồm nhiều dòng họ, nhiều gia đình với số lượng khác nhau
cùng chung sống trên một vùng đất đai.
Là tổ chức quần cư của một cộng đồng người có liên kết vs nhau về huyết thống, lịch
sử cư trú hoặc phương thức kinh tế, nằm tại khu vực hiện nay là vùng sản xuất nông
thôn hoặc từng là vùng sản xuất nông thôn (Nguyễn Thừa Hỷ, "Văn hóa VN truyền
thống - Một góc nhìn"). Nguồn gốc:
Cho đến nay trong giới nghiên cứ về làng xã Việt Nam vẫn còn tồn tại hai ý kiến về
nguồn gốc lịch sử của làng Việt.Ý kiến thứ nhất cho rẳng: làng Việt ra đời do sự tan rã
của công xã nguyên thuỷ.Chính nguyên nhân tư hữu về tư liệu sản xuất đã đưa đến sự
phân hoá giàu nghèo trong xã hội,tạo ra một sự “phân ly” trong công xã nguyên
thuỷ,khiến một bộ phận dân cư từ bỏ thị tộc của mình đi nơi khác.Bộ phận dân cư phân
ly đó đã tập hợp lại trên một địa điểm mới tạo ra một công xã nông thông thôn mới-cơ sở
ban đầu của làng xã.Có ý kiến khác cho rẳng.làng xã Việt Nam được hình thành trong
quá tình liên tiếp giữa những người nông dân lao động trên con đường chinh phục những
vùng đất mới để trồng trọt,họ phải cố kết với nhau chiến đấu liên tục và bền bỉ đấu lại
thiên tai,ngoại xăm nhằm bảo vệ cuộc sống và an ninh chung. Nguyên tắc hình thành:
Cơ sở huyết thống (nguyên lí cội nguồn, nguyên lí cùng dòng máu):
o Làng là nơi ở của một hoặc vài ba dòng họ lớn, lấy tên họ đặt tên cho làng.
o Mang đậm tính đoàn kết, đề cao thứ bậc, tôn ti. Nhưng dẫn theo tính gia trưởng
hay tính bảo thủ, đóng kín. lOMoARcPSD|46342985
o Dấu tích còn lại cho tới nay của tổ chức nông thôn theo huyết thống là một số
tên địa danh (xá – nơi ở; Nguyễn – họ) : Nguyễn Xá, Lê Xá, Đoàn Xá...
Cơ sở địa vực (nguyên lí cùng chỗ):
o Đề cao quan hệ láng giềng hay tính cộng đồng, qua đó thể hiện tính bình đẳng
trong cộng đồng. Tính dân chủ bình đẳng kéo theo mặt trái dẫn là thói đố kị,
cạnh tranh, thói cào bằng hay tính ỷ lại, dựa dẫm vào người khác.
o Có 2 tên: tên chữ Nôm và tên chữ Hán.
o Phân biệt rạch ròi giữa chính cư và ngụ cư.
Cơ sở nghề nghiệp của nông thôn (nguyên lí quan hệ giai cấp, nghề
nghiệp): o Nông thôn chủ yếu sản xuất với nền nông nghiệp lúa nước.
o Cơ sở nông nghiệp khác như trồng dâu nuôi tằm, trồng cây ăn quả...
o Cơ sở nghề nghiệp thủ công như đúc đồng, dệt vải, làm gốm sứ…
- Đặc trưng: Làng có 2 đặc trưng chính là tính cộng đồng và tính tự trị.
Về tính cộng đồng thì sẽ nhấn mạnh hơn về sự đồng nhất: kinh tế, chính trị, xã hội,
….Biểu tượng cho làng thường sẽ là những vật rất gần gũi, thân thuộc mà mỗi khi
nói đến làng ai cũng đều phải nhớ: Cây đa – giếng nước – sân đình, đi vào văn
chương : “Cây đa cũ bến đò xưa, bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ” hay để thể
hiện tâm tình "Trèo lên quán dốc cây đa, gặp chị bán rượu say đà thêm say",…Còn
sân đình trở thành biểu tượng của mỗi làng quê là bởi nó là trung tâm hành chính:
hội họp, lệ làng,..là trung tâm kinh tế: thu sưu thuế,..không những thế còn là nơi để
mọi người vui chơi, tổ chức các dịp quan trọng như họp hội làng, tế lễ,….và nó
cũng đi vào văn chương một cách tự nhiên như bao đời nay nó vẫn thế : “Qua đình
mà ngóng trông đình. Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Ưu điểm của
việc tổ chức làng theo tính cộng đồng là nó đề cao tính cộng đồng, đoàn kết, sẵn
sàng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau những lúc hoạn nạn: “Bán anh em xa, mua láng
giềng gần” hay “Đôi bên là kẻ thuộc quen. Trong cơn tối lửa tắt đèn có nhau”,.. đủ
cho thấy việc đề cao tính cộng đồng, tuy nhiên chính vì vậy mà nó cũng xuất hiện
những nhược điểm như hình thành thói ỷ lại, phụ thuộc, “Cha chung không ai
khóc, lắm sãi không ai đóng cửa chùa” dựa dẫm vào người khác bởi mình không
làm thì cũng có người khác giúp đỡ và ý thức cá nhân bị thủ tiêu, vùi dập, người ta
không dám khẳng định con người cá nhân của mình, chỉ dám nghe theo lời số
đông. Dẫn đến hình thành thế bị động trước mọi việc trong cuộc sống.
Về tính tự trị thì lại nhấn mạnh được sự khác biệt. Biểu tượng cho những ngôi làng tự
trị là những hương ước, lũy tre làng: “Làng tôi có lũy tre xanh. Có sông Tô Lịch lOMoARcPSD|46342985
uốn quanh xóm làng”, mỗi làng lại có những luật lệ, quy định riêng, buộc mọi
người phải tuân thủ theo, những quy định ấy nghiêm ngặt đến độ “phép vua phải
thua lệ làng”. Tính tự trị của làng được thể hiện ở: Tồn tại song song 2 hình thức
quyền lực là Nhà nước và nội bộ cộng đồng làng xã (Triều đình đặt ra các chức
quan ở làng nhưng thực tế chỉ để phê duyệt chứ không tổ chức bổ nhiệm). Mỗi
làng đều có đội dân phòng tự quản riêng để bảo vệ làng. Chính quyền làng xã là bộ
phận đại diện của làng trước Nhà nước và đại diện của Nhà nước trước dân làng,
vừa làm việc vừa thừa hành pháp luật vừa làm chức năng hành pháp. Do đó,
Quyền lực tập trung ở bộ máy quan viên làng xã. Ưu điểm của những ngôi làng tự
trị là nơi hình thành, là cơ sở của lòng yêu nước, cần cù, chịu khó. Tạo ra đức tính
cần cù, chịu khó cho người trong làng, làng nào sống làng nấy nên họ không thể
dựa dẫm vào cộng đồng bên ngoài. Tuy nhiên cũng bộc lộ những nhược điểm như
hình thành thói tưu hữu ích kỷ, gia trưởng, hương ước trở thành những mặt tiêu
cực của địa phương dẫn đến tư tưởng bè phái được hình thành. Đồng thời chế độ
tôn ti ngôi thứ, mang tính thứ bậc phân bậc sâu sắc. Có làng trọng xỉ thì đưa những
bô lão càng lớn tuổi lên làm chức vụ cao trong làng, có làng trọng tước thì lại coi
trọng những quan lại, những người có bằng cấp, có tước vua ban (thường xuất
hiện ở thời Lê Nguyễn). Thói tư hữu, ích kỉ: “Ăn cây nào rào cây ấy” ; “Trâu ta ăn
cỏ đồng ta”; “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”... Tính bè phái, gia trưởng, địa
phương chủ nghĩa: bênh vực người cùng làng, cùng địa phương gây khó khăn
cho người làm công tác lãnh đạo. Diện mạo:
Làng Việt (đặc trưng):
+ Có ý thức cộng đồng làng.
+ Ý thức tự quản (quyền quản lí làng xã thể hiện trong hương ước của làng).
+ Tính đặc thù độc đáo riêng của mỗi làng thể hiện trong tập quán, nếp sống, tín
ngưỡng, tôn giáo, cách ứng xử…
+ Làng của người Việt là một môi trường văn hóa. Mọi thành tố, hiện tượng văn hóa
được sinh thành và phát triển, lưu giữ và truyền cho mọi cá thể con người trong làng.
+ Một mặt, làng có sức sống mãnh liệt bởi nó ẩn chứa đời sống con người. Mặt khác,
xét về cấu trúc, làng là một cấu trúc động, không có làng bất biến. (Sự biến đổi làng
so sự biến đổi chung của đất nước qua tác động của những mối quan hệ làng và siêu
làng. Xã hội miền Trung, miền Nam tuy gốc gác là người Việt từ miền Bắc di cư vào,
nhưng để thích nghi với môi trường mới, cơ cấu làng và các quan hệ xã hội cũng thay
đổi, không còn mang nhiều đặc điểm như làng Bắc Bộ).
Làng Bắc Bộ: lOMoARcPSD|46342985
+ Phân bố co cụm theo từng vùng.
+ Là hình thức công xã nông thôn “nửa kín, nửa hở” (GS. Trần Quốc Vượng) với những đặc thù riêng.
Tổ chức làng theo phụ hệ (tính nam):
+ Gọi tên làng theo tên các dòng họ, tên các giáp.
+ Chỉ cho phép nam giới trong làng tham gia tổ chức làng.
+ Chia ra thành 3 giáp là Ti ấu (<18 tuổi), Đinh (18-59 tuổi), Lão (>60 tuổi).
+ Mang tính tôn ti trật tự nhưng thể hiện đậm tính phụ quyền, gia trưởng.
Tổ chức làng theo hành chính (thôn-xã):
+ Quản lý làng và cư dân làng bằng hộ tịch.
+ Tổ chức dựa vào dân chính cư: Chức sắc, chức dịch và tổ chức 3 giáp.
+ Đặc điểm phân biệt dân chính cư – dân ngụ cư. Làng Nam Bộ:
+ Phân bố dọc theo các kênh rạch hoặc ven lộ.
+ Thành phần cư dân thường xuyên biến động do thường xuyên di chuyển liên tục có
thể do tính chất công việc… + Mang tính mở cao. 6. QUỐC GIA (NHÀ NƯỚC)
-Cơ sở hình thành nhà nước:
+Thời tiền sử, sản xuất vật chất thấp kém nên con ngưởi sản xuất chưa được nhiều. Với
sự tiến bộ của công cụ lao động và nông nghiệp ra đời, đời sống của con người tốt hơn và
nguồn của cải nhiều hơn. Từ đó kinh tế xuất hiện chế độ tư hữu về sản xuất. Bên cạnh đó
xã hội bắt đầu phân hóa giai cấp sâu sắc, phân ra người giàu và người nghèo bằng rất
nhiều cách thức: người có địa vị, người chăm chỉ, người lười biếng, các cuộc chiến tranh
cướp của cải của các bộ tộc, …
+ Bên cạnh đó nhà nước ra đời ở các nước phương Đông còn do nhu cầu chống giặc
ngoại xâm và nhu cầu làm thủy lợi. Hầu hết các nhà nước được hình thành ở lưu vực các
dòng sông lớn như: Trung Quốc sông Hòang Hà, Ấn Độ sông Hằng, …
+ Nhà nước ở Việt Nam hình thành khá sớm, là sự tập hợp của các ngôi làng dần dần
hình thành nên, có đặc trưng và chức năng giống làng nhưng quy mô khác và rộng hơn. lOMoARcPSD|46342985 - Quan hệ Làng- Nước
Trong việc ứng phó với môi trường tự nhiên, nếu ở phạm vi làng có sự liên kết, đồng nhất để
sản xuất ra kịp thời vụ thì ở phạm vi cả nước liên kết, đồng nhất để chống thiên tai ứng phó
với lũ lụt. Từ khi lập quốc, chống lụt được xem là nhiệm vụ hàng đầu của quốc gia và liên
quan đến sự sinh tồn của dân tộc ta. Trong việc ứng phó với môi trường xã hội, nếu ở phạm
vi làng là chống trộm cướp thì ở phạm vi quốc gia là chống ngoại xâm. Tinh thần đoàn kết và
lòng yêu nước là hai yếu tố có sẵn trong tính cộng đồng, tự trị của làng xã. Khởi nguồn từ
cuộc sống nông nghiệp, tính cộng đồng coi mọi người trong làng như anh chị em trong nhà
từ đó phát triển lên ý thức công động trong phạm vi quốc gia:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Hay cách gọi mọi người trong cùng đất nước là “đồng bào”. Về tính tự trị, các làng xã,
quốc gia của người Việt và các nước có nền văn hóa nông nghiệp thường mang tính khép
kín, có ý thức quốc gia rất mạnh mẽ. Vì vậy, Việt Nam và các nước phương Đông hay
nảy sinh những tranh chấp chủ quyền quốc gia do đó đòi hỏi phải có ý thức dân tộc và lòng yêu nước.
- Nhà nước mang “tính dân chủ kiểu văn hóa nông nghiệp”
+ Mối quan hệ: người lãnh đạo dân chúng, người dân - thần thánh. Điều này được duy trì
trong nhiều năm lịch sử: đứng đầu nhà nước là vua, đi lên từ thủ lĩnh buôn làng, coi dân
như cháu mình; người dân thờ cúng thần thánh và đòi hỏi thần thánh có trách nhiệm phù
hộ cho dân, nếu không sẽ kiện “Cóc kiện trời”.
+ Truyền thống lãnh đạo tập thể: Hội đồng già làng, hội đồng kì mục, vua chị - em
(Trưng Trắc, Trưng Nhị), ba anh em nhà Nguyễn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn
Huệ), … Sản phẩm của lối tư duy tổng hợp, biện chứng và vẫn được duy trì đến ngày nay
đó là Đảng Cộng sản Việt Nam
+ Luật pháp: Bởi người Việt Nam sống dựa vào tình cảm, dễ ngủi lòng, dễ tha thứ, ý thức
pháp luật kém hơn so với phương Tây. Luật Hồng Đức và luật Gia Long
Là hai bộ luật có giá trị rất lớn trong lịch sử pháp chế phong kiến Việt Nam.
+ Tuyển chọn nhân tài bằng hệ thống thi cử, không phân biệt giàu nghèo, tất cả trẻ em
đều có quyền được học hành, thi cử, đỗ đạt làm quan
+ Phân chia giai cấp: trước kia vẫn có quan niệm “cha truyền con nối”, “con vua thì lại
làm vua”: khi nhà vua mất thì con trai dù còn nhỏ nhưng vẫn phải thay thế và gánh vác
trách nhiệm bảo vệ phát tiển giang sơn, đất nước. “Con sãi ở chùa thì quét lá đa” câu này
hàm ý những đứa trẻ sinh ra trong gia đình có địa thấp kém, không có quyền lực thì số
phận cũng bần hàn như cha họ. Nhưng sau này tầng lớp giai cấp phân biệt không còn
nghiêm ngặt, rõ ràng; dân có thể làm quan, vua; vua quan cũng có thể bị phế truất làm dân thường. lOMoARcPSD|46342985
+ Ngành nghề trong xã hội: sắp xếp theo thứ tự: sĩ – nông – công – thương, kẻ “sĩ” được
coi trong; sau đó là nhưng người nông dân bởi họ nuôi dưỡng cộng đồng, làm nên truyền
thống văn hóa người Việt
7. VĂN HOÁ GIAO TIẾP VIỆT
- Khái niệm: Văn hóa giao tiếp là một bộ phận của văn hóa, bao gồm các phương thức,
quy tắc, tâm lý, địa vị và các đặc trưng khác trong tiếp xúc và ứng xử giữa các thành viên trong xã hội
- Văn hóa giao tiếp chịu ảnh hưởng của:
+ Nội dung giao tiếp (nghi lễ, nghi thức, công việc, hoạt động chuyên môn, lao động sản xuất, thường nhật)
+ Địa vị và mối quan hệ xã hội của các thành viên tham gia giao tiếp
+ Quy tắc, phong tục tập quán về giao tiếp
+ Dân tộc, vùng miền, địa phương, thôn làng, … + Thái độ giao tiếp
- Đặc điểm văn hóa giao tiếp của người Việt
+ Thái độ: vừa thích giao tiếp vừa rụt rè, thích viếng thăm, hiếu khách, trọng tình nghĩa
+ Với đối tượng giao tiếp: ưa quan sát, đánh giá, tìm hiểu đối tượng, các vấn đề cá
nhân, xuất thân (tuổi tác, nghề nghiệp, …)
+ Cách thức giao tiếp: Ý tứ, tế nhị, có lối nói vòng vo nên hay do dự, thiếu tính quyết đoán
+ Quan hệ giao tiếp: lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử.
+ Chủ thể: trọng danh dự và sợ tiếng đồn đại (vừa là ưu điểm cũng vừa là nhược điểm)
+ Tính cộng động trong giao tiếp
+ Hệ thống ngôn ngữ, nghi thức rất phong phú
Trải qua hơn 2000 năm văn hiến thì không một ai hay tổ chức nào phủ nhận được tính
đa dạng và phong phú trong văn hóa giao tiếp của người dân Việt Nam.
Xét về thái độ đối với việc giao tiếp, có thể thấy đặc điểm của người Việt Nam là vừa
thích giao tiếp, lại vừa rất rụt rè. lOMoARcPSD|46342985
Như đã nói, người Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi trọng
việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng, chính tính cộng
đồng này là nguyên nhân khiến người Việt Nam đặc biệt coi trọng việc giao tiếp, và
do vậy rất thích giao tiếp. Việc thích giao tiếp này thể hiện chủ yếu ở hai đặc điểm:
- Từ góc độ của chủ thể giao tiếp thì người Việt Nam có tính thích thăm viếng. Đã
thân nhau, thì cho dù hàng ngày có gặp nhau bao nhiêu lần chăng nữa, lúc rảnh rỗi họ
vẫn tới thăm nhau. Thăm viếng không còn là nhu cầu công việc (như ở phương Tây)
mà là biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng thắt chặt thêm quan hệ.
- Với đối tượng giao tiếp thì người Việt Nam có tính hiếu khách. Có khách đến nhà,
dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến đâu cũng cố gắng tiếp đón
chu đáo và tiếp đãi thịnh tình, dành cho khách các tiện nghi tốt nhất, đồ ăn ngon nhất:
Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi lẽ đói năm, không bằng đói bữa. Tính hiếu khách
này càng tăng lên khi ta về những miền quê hẻo lánh, những miền rừng núi xa xôi.
Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có đặc tính hầu như ngược lại
là rất rụt rè – điều mà những người quan sát nước ngoài rất hay nhắc đến. Sự tồn tại
đồng thời của hai tính cách trái ngược nhau (thích giao tiếp và rụt rè) này bắt nguồn từ
hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị. Khi đang ở
trong phạm vi của cộng đồng quen thuộc, nơi tính cộng đồng ngự trị thì người Việt
Nam sẽ tỏ ra xởi lởi, thích giao tiếp. Còn khi ở ngoài cộng đồng, trước những người
lạ, nơi tính tự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam sẽ tỏ ra rụt rè. Hai tính cách
tưởng như trái ngược nhau ấy ko hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong những
môi trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất, là biểu hiện cho
cách ứng xử linh hoạt của người Việt Nam.
Đặc điểm trọng tình nghĩa ghi dấu trong văn hoá giao tiếp của người Việt
Xét về quan hệ giao tiếp, văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn người
Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử:Yêu nhau yêu cả đường đi/
ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng; Yêu nhau cau sáu bổ ba/ghét nhau cau sáu bổ ra
làm mười; Yêu nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau củ ấu cũng tròn/ghét nhau quả bồ
hòn cũng méo; Yêu nhau mọi việc chẳng nề/một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng…
Nếu nói khái quát, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm trọng nhưng vẫn
thiên về âm hơn, thì trong cuộc sống, người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn lOMoARcPSD|46342985
thiên về tình hơn: Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình. Người Việt Nam luôn coi
trọng tình cảm hơn mọi thứ trên đời. Ai nhớ mình một chút đều phải nhớ ơn, ai bảo
ban một chút cũng phải tôn làm thầy – khái niệm “thầy” được mở ra rất rộng: thầy đồ,
thầy võ, thầy thuốc, thầy bói, thầy cúng, thầy địa lý, thầy phù thủy…
Với đối tượng giao tiếp, người Việt Nam có thể quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá…
Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng gia đình (bố mẹ còn hay
mất, đã có vợ/ chồng chưa, có con chưa, mấy trai mấy gái…) là những vấn đề người
Việt Nam thường quan tâm. Thói quen ưa tìm hiểu này khiến cho người nước ngoài
có nhận xét là người Việt Nam hay tò mò. Đặc tính này – dù gọi bằng tên gì đi nữa –
chẳng qua cũng chỉ là một sản phẩm của tính cộng đồng làng xã mà ra.
Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người
khác, mà muốn quan tâm thì phải biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do lối sống trọng tình
cảm, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô riêng, nên nếu không có đủ thông
tin thì không thể lựa chọn từ xưng hô cho thích hợp được. Biết tính cách, biết người
để lựa chọn từ xưng hô cho phù hợp: Chọn mặt gửi vàng; Tùy mặt gửi lời/tùy người
gửi của. Khi không được lựa chọn thì người Việt Nam dùng chiến lược thích ứng một
cách linh hoạt: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.
Tính cộng đồng trong văn hoá giao tiếp của người Việt
Tính cộng đồng còn khiến người Việt Nam, dưới góc độ chủ thể giao tiếp, có đặc
điểm là trọng danh dự: Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Trâu chết
để da, người ta chết để tiếng. Danh dự gắn với năng lực giao tiếp: Lời hay nói ra để
lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm; lời dở truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt Nam mắc bệnh sĩ diện: Ở đời muôn sự
của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi; Đem chuông đi đấm nước người,
không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh; Một quan tiền công không bằng một đồng tiền
thưởng. Ở làng quê, thói sỹ diện thể hiện trầm trọng qua tục lệ ngôi thứ nơi đình
ttrung và tục chia phần. Do danh dự (sỹ diện), các cụ già vẫn có thể to tiếng nhau vì
miếng ăn: Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Lối sống trọng danh dự dẫn