Đề cương ôn tập cuối kì | Mỹ học đại cương | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Đề cương ôn tập cuối kỳ môn Mỹ Học Đại Cương tại Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh, là tài liệu tổng hợp các chủ đề, khái niệm, và tác phẩm nghệ thuật quan trọng đã được học trong suốt học kỳ. Nó cung cấp một hướng dẫn chi tiết về những gì sinh viên nên tập trung ôn tập, bao gồm các phong cách nghệ thuật, trường phái, tác phẩm đại diện, và các khái niệm lý thuyết quan trọng. Đề cương này giúp sinh viên tổ chức và hiệu quả hóa quá trình ôn tập, đảm bảo họ chuẩn bị tốt nhất cho kỳ thi cuối kỳ.

lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Câu 1: Tại sao Mỹ học là khoa học nhân văn? Tại sao Mỹ học lại nghiên cứu cái
đẹp và nghệ thuật? Tính ứng dụng của Mỹ học?
* Mỹ học là khoa học nhân văn:
Mỹ học khoa học nhân n, bởi cái đẹp một phạm trù mang tính nhân
văn, hướng tới vẻ đẹp của con người. Cái đẹp mang tính chủ quan, cùng một sự
vật hiện tượng, mỗi người có thể có những ý kiến, nhận định khác nhau.
Mỹ học một bộ phận của Triết học, quan tâm đến bản chất mối liên h
giữa các khách thể như cái Đẹp, cái Bi, cái Hài và cái Cao Cả. Học mỹ học chính là
trau dồi khả năng cảm thụ cái đẹp. Mỹ học một ngành khoa học, vậy nên các kết
quả nghiên cứu của môn học này là các lập luận logic, khách quan. Bản thân Mỹ học
không dạy con người trở nên tốt đẹp hơn hay xấu xa hơn. Thế nhưng những công
trình nghiên cứu Mỹ học thể cung cấp cho con người nhiều kiến thức về cái Đẹp
và Nghệ thuật, từ đó nâng cao khả năng cảm thụ của con người. Bằng con đường nói
trên, Mỹ học giúp con người năng lực tạo lập cảm xúc tích cực trong chính cuộc
sống của mình thông quan việc việc nâng cao khả năng cảm thụ cái đẹp nghệ
thuật. Từ thời Hy Lạp cố đại, Aristotle đã cho rằng nghệ thuật khả năng "thanh
lọc" (catharsis) tâm hồn con người, giúp họ loại bỏ cảm xúc tiêu cực hướng đến
sự tích cực. Một bộ phim hay, một bản nhạc du dương hay một n ăn ngon thể
làm tâm trạng chúng ta tốt lên nhiều. Nếu chúng ta trau dồi kiến thức Mỹ học nhiều
hơn, ta thể cảm thụ nghệ thuật ở một mức độ cao hơn, được “thanh lọc” một cách
triệt để hơn, đồng thời cũng thể cảm thụ được cái đẹp trong các tác phẩm nghệ
thuật trừu tượng, khó hiểu hơn so với nghệ thuật đại chúng. Như vậy, Mỹ học
ngành khoa học nhân văn không phải vì dạy chúng ta phải nhân văn cung cấp
cho ta những tri thức cần thiết để thể cảm nhận cái Đẹp sâu sắc hơn, tđó thúc
đẩy các cảm xúc tích cực trong ta, khiến ta năng lực để sống đẹp hơn, sống nhân
văn hơn.
* Mỹ học lại nghiên cứu cái đẹp và nghệ thuật vì:
Nghệ thuật chính là dạng vật chất của cái Đẹp - một trong những đối tượng
nghiên cứu cơ bản của Mỹ học.
Mỹ học là một bước trung gian, mỹ học nghiên cứu về cái đẹp, mà nghệ thuật
là nơi tập trung cái đẹp.
Cái đẹp và nghệ thuật mang đến cảm xúc tích cực cho người tiếp nhận. Đó là
cảm năng học, cái mà mỹ học hướng đến.
* Tính ứng dụng của Mỹ học:
Mỹ học hay thể nói giáo dục thẩm mỹ giúp phát triển nhân cách nói
chung và khả năng thưởng thức nghệ thuật và cái đẹp nói riêng vậy nên mỹ học được
ứng dụng rộng rãi vào thực tiễn. đơn giản hơn, thể hiểu ứng dụng mỹ học
chính ở sự nhận thức, thưởng thức cảm nhận cái đẹp bằng sự rung động bản năng của
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
con người, điều ai cũng thể rèn luyện học hỏi được, càng sớm càng tốt
không phân biệt lứa tuổi. Càng tiếp xúc với nhiều điều tốt đẹp thì duy càng
hội cởi mở, càng hiểu được sự đa dạng khác biệt của cái đẹp, để từ đó con người
có thể tự học được cách tôn trọng sự khác biệt và cũng sớm định vị được bản thân để
không tự ti.
Câu 2: Phân tích chứng minh lao động nguồn gốc hình thành quan hệ
thẩm mỹ. Tính thẩm mỹ của sản phẩm lao động hình thành như thế nào?
Con người ban đầu sinh thể tự nhiên, sau nhờ quá trình lao động phát
triển thành sinh thể xã hội. Độc lập khỏi giới tự nhiên, không những không phụ
thuộc còn lợi dụng, tận dụng tự nhiên, biết khai thác sản vật từ tự nhiên để phục
vụ cho nhu cầu sống của mình. Khi đó, con người trở thành chủ thể, chủ động và bắt
đầu hoạt động thực tiễn. Hoàn cảnh sống xung quanh con người chính khách thể,
mà khách thể chính là vùng quan tâm của chủ thể là con người.
Lao động chính là quá trình khởi nguồn của quan hthẩm mỹ. Lao động
hoạt động mục đích, ý thức của con người nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên
phù hợp với nhu cầu của con người. Có thể hiểu lao động vận dụng các sức mạnh
của tay chân hoặc trí óc thông qua công cụ lao động để cải tạo thiên nhiên nhằm mục
đích tinh thần phục vụ con người. Càng phát triển, càng có nhiều dạng thức lao động
(lao động tay chân, lao động trí óc, lao động phức tạp, lao động nghệ thuật…). Học
tập là lao động dự trữ, càng xài càng không mất đi mà nó nhiều lên.
Lao động nguồn gốc hình thành quan hệ thẩm mỹ bởi qtrình lao động
giúp cho con người hoàn thiện các giác quan đôi bàn tay. Giác quan bao gồm mắt
tai, đó chính là năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Đôi bàn tay kỹ năng kỹ xảo, chính
năng lực sáng tạo thẩm mỹ. Đôi tay con người vừa công cụ lao động vừa
quan lao động tạo ra sản phẩm mang tính thực dụng cho nhu cầu vật chất mang
tính thẩm mỹ cao. VD: Đồ thủ công mỹ nghệ các tác phẩm nghệ thuật mang tính
thẩm mỹ cao, là sản phẩm tạo ra bởi năng lực tinh thần, kỹ năng, kỹ xảo và thủ pháp
nghệ thuật. Thông qua các sản phẩm này, cảm xúc của người sáng tạo được truyền
đạt đến người tiếp nhận
Câu 3: Phân tích chứng minh sự đồng hóa trên lĩnh vực tinh thần nội
dung của quan hệ thẩm mỹ. Ý nghĩa của vấn đề này trong đời sống thẩm mỹ?
Khái niệm quan hệ thẩm mỹ mối quan hệ giữa chủ thế thẩm mỹ - tức chủ
thể người hội nhu cầu khả năng đánh giá, thưởng thức, sáng tạo các giá trị
thẩm mỹ, với khách thể thẩm mỹ - tức những thuộc tính, khía cạnh, phẩm chất
thẩm mỹ ở các sự vật và hiện tượng trong thiên nhiên, trong xã hội và con người.
Đồng hóa làm cho giống mình, làm cho những khách thể tự nhiên có những
tưởng, tình cảm , đặc tính của con người, chiếm lĩnh thực thể tri vô giác trên
một phương diện tinh thần.
Đồng hóa tinh thần diễn ra trong ý thức, tưởng. Sự đồng hoá về mặt tinh
thần này cũng trên cơ sở hoạt động thực tiễn của xã hội, nhưng đến lượt mình nó có
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
ý nghĩa xác định tính mục đích, phương pháp định hướng cho hoạt động của con
người. Đồng hoá tinh thần là năng lực chiếm lĩnh đối tượng của chủ thể trong lĩnh
vực tinh thần, làm cho đối tượng đó có năng lực, phẩm chất như chủ thể mong muốn.
Đối tượng trở thành phương tiện để vật chất hoá tình cảm con người.
Giới tự nhiên: phản ánh vào não người, não bắt đầu tiếp nhận lưu giữ cũng
như tái tạo thông tin (tái tạo + cảm xúc), xuất hiện những tưởng tượng các hình
ảnh trong hiện thực đã được thăng hoa trong ý thức. Ý thức thực thể hóa sự thăng
hoa thành biểu trưng, chuyện kể mang tính thần thoại. Đây quá trình của sự đồng
hóa tinh thần. Đây cũng là nội dung của quan hệ thẩm mỹ.
Câu 4: Phân tích chứng minh giá trị thẩm mỹ hệ quả của quan hệ thẩm
mỹ. Ý nghĩa của giá trị thẩm mỹ trong cuộc sống?
Giá trị là đáp ứng được nhu cầu thì sẽ mang tính giá trị. Giá trị thẩm mỹ là nhu
cầu thẩm mỹ, biến đổi theo giá trị của lịch sử, những đáp ứng cho nhu cầu của
con người về cái đẹp. Giá trị sống đẹp là nhiệm vụ của quan hệ thẩm mỹ. những
thuộc tính chung quy định giá trị thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ khách quan với nhân,
chủ quan với quy định chung của cộng đồng.
Thẩm mỹ không chỉ đòi hỏi về mặt nội dung còn về mặt nhận thức. Ngoài
ra, giá trị thẩm mỹ còn có tính dân tộc, thời đại, khách quan và chủ quan.
Cái thẩm mỹ không chỉ là một thuộc tính của vật chất mà nó còn là một giá trị
xã hội quan hệ với con người trong quan hệ thẩm mỹ. Cái thẩm mỹ là một loại giá trị
hội được đo bằng thước đo thẩm mỹ của hội. Luận điểm này dựa trên học
thuyết Mác – Lênin về vai trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức, quá trình đồng
hoá thế giới về mặt thẩm mỹ.
Giá trị phản ánh qua mức độ đáp ứng được nhu cầu sống, tồn tại của loài
người. Giá trị thẩm mỹ là gtrị qua đó đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ của con
người, đáp ứng cho sự thiết định của cái đẹp.
Giá trị phản ánh nhu cầu, nhu cầu thay đổi thì giá trị sẽ thay đổi, nhu cầu mất
đi giá trị sẽ mất đi.
* Ý nghĩa:
Những giá trị được hình thành phát minh trên squy luật của cái đẹp,
tức những giá trị thẩm mỹ. Nói đến gtrị nói đến cách nhìn, cách đánh giá, từ
cách đánh giá của con người đối với thế giới về nhiều mối quan hệ khác nhau như
kinh tế, chính trị, đạo đức, triết học, pháp quyền, khoa học. Trong đó, cái thẩm mỹ
không hẳn phải đối lập với các quan hệ xã hội đó, nhưng nhất thiết phải khác về bản
chất với các quan hệ đó. Bởi, cái thẩm mỹ không đặt nền tảng trên sự thỏa mãn
những động cơ về kinh tế, sự mưu cầu những lợi ích vật chất trực tiếp của con người.
Con người tiếp nhận thông tin, sau đó tái hiện lại thông tin cảm xúc thông
qua sự tưởng tượng, đồng thời tái hiện lại thông tin vốn có, đôi lúc phóng đại nó lên.
Giáo dục là nghệ thuật phát huy năng lực và phẩm chất của con người.
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
Câu 5: Trình bày quan niệm về cái Đẹp trong lịch sử phương Tây. Ý nghĩa của
quan niệm này trong Mỹ học hiện nay?
* Quan niệm cái đẹp trong lịch sử phương Tây:
• Về mặt bản thể học: Thực chất cái đẹp là gì?
Theo quan niệm của Plato: Đẹp là ý niệm - giữ ý niệm bên trong và không thể
bị phai mờ. Còn trong quan niệm của Aristotle: Đẹp thực thể - thể hiện ra bên
ngoài, là cái có thể nhìn thấy và thay đổi theo thời gian.
Ý niệm đó tồn tại ngoài thế giới của chúng ta, ý niệm đó nhập vào con người
theo một mức độ khác nhau cho nên con người có một năng lực cảm nhận về cái đẹp
khác nhau. thể thấy, mỗi vùng miền, mỗi đất nước khác nhau con người ta lại có
những quan niệm về cái đẹp khác nhau.
Cái Đẹp là Thực thể (Kant): Môsự vâđẹp là có hình dáng, kết cấu, sự liên
kết
• Về mặt tâm thức luận: Làm thế nào tôi biết đó là đẹp?
Cái gì gây cho ta một cảm xúc vui sướng và sự hân hoan chính là cái đẹp. Đây
là cái đẹp không nghĩ về lợi ích mà phụ thuộc vào tâm ý, cảm xúc
Biểu trưng là ý nghĩa toát ra từ đối tượng, từ môhành đông
. Từ cái A dn dắt
đến cái B, vd thấy hoa sen liên tưởng đến tính cách con người.
• Làm thế nào để hiểu về cái đẹp:
Phải thông qua ngôn ngữ, không chỉ tiếng nói và chữ viết mà còn màu sắc, âm
thanh, dáng điệu, ký hiệu, biểu trưng, nghi thức
Đến giai đoạn này, sự thhiện của cái đẹp bắt đầu mở rộng về chiều sâu lý
tính. Hiểu về cái đẹp là hiểu về nghệ thuật, hiểu về nghệ thuật là hiểu được ngôn ngữ
của nghệ thuật, tạo hình và biểu hiện của nghệ thuật (văn chương).
Hiểu về chiều sâu lý tính là hiểu được ý tưởng sâu xa, thấy được ý nghĩa thoát
ra từ đối tượng.
* Ý nghĩa: Cái đẹp theo quan niệm mỹ học phương Tây Phương Đông được
tiếp cận nhiều cách nhìn khác nhau hoặc trên lập trường duy vật, hoặc trên lập
trường duy tâm. quan niệm nhấn mạnh cái đẹp sự hòa điệu, có quan niệm đồng
nhất cái đẹp với tính thiện, với đức hạnh, đồng nhất cái đẹp với tính tự nhiên,
quan niệm đi tìm cái đẹp từ thế giới siêu tự nhiên, ý niệm, tinh thần bên ngoài con
người; song cũng quan niệm phủ nhận cái đẹp, coi đó sản phẩm của tầng lớp
thống trị, cái không cần thiết. Tuy nhiên, nhìn chung các quan niệm về cái đẹp
trong thời kỳ cổ đại cũng hướng đến những giá trị chung nhất để con người phấn đấu
đạt đến đều đlại những tưởng quý báu cho những thế hệ mai sau làm giàu
thêm tư tưởng thẩm mỹ của mình.
Câu 6: Trình bày quan niệm về cái Đẹp trong lịch sử phương Đông. Ý nghĩa
của quan niệm này trong mỹ học hiện nay?
Trung Quốc:
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
Theo Kinh dịch: Cái sinh mệnh (sự sống) của con người bắt nguồn từ sự vận
động, biến đổi của trời đất, đây chính là bản chất của sinh mệnh. Bên cạnh đó
là sự thống nhất hài hoà tam tài, Thiên - Địa - Nhân, đây là yêu cầu của sinh
mệnh.
Sự vận động biến đổi phối hợp với sự thống nhất hài hoà dn đến đạo Âm -
Dương hòa hợp.
Nghệ thuật trong tranh vẽ, văn chương của TQ thống nhất một quy luật chung:
Dương hiện Âm ẩn.
Người TQ quan niệm về cái đẹp: Chú trọng cái đẹp ở con người, quan niệm
rằng các phẩm chất cần có của cái đẹp là: Nguyên - Hanh - Lợi - Trinh. Nghĩa
là:
Nguyên → bản nguyên, nguyên thủy của muôn vât, khởi nguồn, được
cho là đứng đầu cái “thiện”, trong con người có những thứ tự nhiên,
không chỉnh sửa
Hanh → sự tốt đẹp có quan hệ màu sắc, hình thức cái đẹp và sự hưởng
thụ cái đẹp của con người
Lợi → có nghĩa là lợi ích, gắn bó với quan hệ giữa cái đẹp và sự tồn tại,
phát triển của sự sống; còn được hiểu là sự tương quan giữa cảm thụ
thẩm mỹ với dục vọng sinh lý như là một cảm quan tự nhiên như là sự
phát triển lành mạnh bình thường của sự sống tự nhiên, phù hợp với đặc
điểm sinh lý con người
Trinh → có nghĩa là phù hợp với chính đạo, giữ vững chính đạo có
quan hệ giữa cái đẹp và quy luật tự nhiên, giữa cái Đẹp và đạo đức
phẩm cách của con người.
Ấn Độ:
Thờ ba vị thần chính là Brahama, Shiva, Vishiu, ngoài ra còn thờ thần Agai.
Người Ấn Độ quan niệm rằng, con người phải giải phóng từ tâm linh của
chính mình, và trong con người có 2 “cái ta” (cái tôi), một ta thật và một ta giả
- làm những không thật với chính mình. Cũng từ đây tạo ra nghiệt, sinh ra
khổ, vì thế con người phải tu tập, tìm đến thiền định, tìm thấy được cái an bình
tĩnh lặng trong tâm hồn, để có thể trở về với cái ta thật của chính mình.
Quan niệm triết học Ấn Độ cổ đại:
Cái đẹp bản chất (chân thực) đằng sau vô vàn cái đẹp hỗn tạp, mà chỉ thông
qua tu tập mới giác ngộ được.
Cái đẹp này luôn trong tiềm thức của con người nhưng phải tự giác ngộ
lấy.
Khi sinh ra, con ng mang bản chất thật sự, phản ánh những gì họ thấy,
nghe, cảm nhận đc. Nhưng sau 1 thời gian, con ng sẽ dần thành bản chất
giả, do mọi thứ xung quanh tác động lên khiến bản chất bị thay đổi, phải
mang bộ mặt giả để thích nghi với xã hội
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
Quan điểm Ấn Độ: Tư tưởng mỹ học quan niệm rằng cái đẹp là cái đẹp có
thực, nhưng không phải là cái đẹp chân thực (cái hình ảnh ko phai mờ, lưu
giữ mãi trong tim, đó mới là cái đẹp chân thực nhất)
Tóm lại: cái đẹp của Ấn Độ cổ đại được hiểu như là cái đẹp của Brahman
(linh hồn vĩ đại) đc nhận thức trong trạng thái con ng đã lánh xa đc tội lỗi,
đạt đc đến sự thanh thoát, thư thái, ko còn ham muốn dục vọng
Tạm kết: Trong quan niệm cái đẹp Triết học Đông phương:
Trung Quốc: cái đẹp chú trọng đạo đức con người: nó là cái thiện, hình thức là
cái mỹ.
Ấn Độ: cái đẹp mang ý nghĩa tôn giáo, cái đẹp mang tính chất thiêng liêng đầy
yếu tố tâm linh.
* Ý nghĩa: cái đẹp theo quan niệm mỹ học cổ đại phương Đông phương Tây
cũng được tiếp cận nhiều cách nhìn khác nhau hoặc trên lập trường duy vật, hoặc
trên lập trường duy tâm. quan niệm nhấn mạnh cái đẹp sự hòa điệu, quan
niệm đồng nhất cái đẹp với tính thiện, với đức hạnh, đồng nhất cái đẹp với tính t
nhiên, quan niệm đi tìm cái đẹp từ thế giới siêu tự nhiên, ý niệm, tinh thần bên
ngoài con người; song cũng quan niệm phủ nhận cái đẹp, coi đó sản phẩm của
tầng lớp thống trị, là cái không cần thiết. Tuy nhiên, nhìn chung các quan niệm về cái
đẹp trong thời kỳ cổ đại cũng hướng đến những giá trị chung nhất để con người phấn
đấu đạt đến và đều để lại những tư tưởng quý báu cho những thế hệ mai sau làm giàu
thêm tư tưởng thẩm mỹ của mình.
Câu 7:
Câu 8:
Câu 9: Trình bày phân tích nguồn gốc, bản chất, hệ quả các hình thức
biểu hiện của cái Bi? Dẫn chứng một tình huống Bi trong đời sống hoặc trong
nghệ thuật.
* Nguồn gốc:
Khi con người ta rơi vào bi kịch nhưng họ sẽ không thấy đời mình bi kịch. Khi
mà vượt qua được rồi, nhìn lại, tách chủ thể và đối tượng ra khỏi, mới thấy bi kịch.
Cái bi hiện tượng thẩm mỹ, diễn tả quy của một hành động hoàn chỉnh
(bao gồm tình tiết như là linh hồn, cơ sở của bi kịch và tính cách đi theo sau tình tiết)
thường kết thúc bằng một cái chết. Mặc cái chết không phải lúc nào cũng cái
bi. thực chất cái bi là cái đẹp bị thất bại, bị huỷ diệt trong quá trình đấu tranh với
cái xấu.
Cái Bi thất bại của cái đẹp, cái chết của cái “đẹp” trong quá trình chống
lại cái “xấu”.
Người học mỹ học phải biết tới Katharcis, 1 sự phản tính trong nhân cách.
(Phản tính sự nhận thức lại cái sviệc, lại giá trị của cũng như làm quay
lưng lại vs cái xấu, đấu tranh chống lại cái xấu và quay lưng lại vs cái xấu)
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
Có 3 nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh cái Bi:
- Cái bi nảy sinh do những hiện tượng tự nhiên quái ác, bất ngờ gây ra và để lại
những hậu quả nghiêm trọng cho người lương thiện: động đất, bão lụt, nước dâng…
- Cái bi nảy sinh từ các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội khi những lực lượng tiến
bộ cách mạng đứng lên nhằm lật đổ các thế lực phản động lạc hậu nhưng lực bất
tòng tâm không những không chiến thắng còn phải nhận đòn thất bại (VD: công
xã Pari, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh…)
- Cái bi là hậu quả của sự ngu dốt của con người. ngu dốt con người đã
những việc làm trái với tự nhiên, trái với quy luật nên bị thất bại thảm hại. Cũng
ngu dốt mà con người đã tự đặt ra những hủ tục lạc hậu để trói buộc mình và gây nên
những hậu quả thương tâm
* Bản chất:
Bản chất của cái bi sự xung đột. Giữa cái đẹp/ cái thiện với cái xấu/ cái ác.
diễn ra trong mỗi nhân, ý niệm của cái thiện đối chọi với cái ác, là sự đấu
tranh giữa cá nhân với xã hội, giữa đạo đức cá nhân với luân lý xã hội.
Cái bi thường gắn liền với sự thất bại, nỗi đau đớn, niềm bất hạnh của một con
người hay của một hiện tượng xã hội nào đó mà xét về mặt bản chất nó vốn thuộc về
cái đẹp, cái cao cả hoặc cái anh hùng. Nói một cách khái quát, cái bi là cái đẹp bị thất
bại tạm thời, cái đẹp nửa đường đứt gánh. Mặc dầu bthất bại nhưng cái bi không
gợi lên cảm giác về sự bi quan, bi lụy ngược lại nó vn mang âm hưởng lạc quan
bởi lẽ sự thất bại của cái bi chỉ sự thất bại có tính chất ngu nhiên tạm thời, sự thất
bại để gieo mầm chiến thắng. Trước cái bi người ta thường bộc lộ sự đồng cảm
tiếc thương sâu sắc.
“Xung đột bi kịch giữa yêu sách tất yếu về mặt lịch sử và tình trạng ko tài nào
thực hiện đc điều đó thực tiễn. Bỏ qua yếu tố ấy thì đã làm giảm sự bi kịch” (Engels)
* Hệ quả:
- Cái bi tạo ra sự đa dạng về mặt cảm xúc (sợ hãi, tích cực, vui vẻ, căm giận,...).
Nhưng những cảm xúc đó hoàn toàn mang tính tích cực đó sự thăng hoa từ
những giá trị thẩm mỹ cái bi mang lại.
=> Trạng thái: thanh lọc, thanh tẩy.
Khi một giọt nước mắt nhỏ xuống xót thương cho cái đẹp bị thất bại, hủy diệt, nghĩa
đó đã sinh ra sự phản đối, không đồng tình với cái xấu, đấu tranh tiêu diệt cái
xấu, phục sinh cái đẹp.
* Biểu hiện:
- Bi của cái cũ: những lực lượng hội đã xác lập được vị thế trong lịch sử, vn còn
năng lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội nhưng một lí do nào đó bị thất bại, huỷ
diệt từ đó nảy sinh cái bi.
- Bi của cái mới: những con người xã hội, nhân đại diện cho một trào lưu tiến bộ
mở đường cho sự phát triển, tuy nhiên trong quá trình phát triển lại bị cái xấu chống
đối tiêu diệt dn đến thất bại (“chết trong bình minh”).
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
- Cái bi lầm lạc: sự hạn chế năng lực của nhận thức
* Dẫn chứng:
Đây câu chuyện thật xảy ra từ thời Trung Cổ, “Romeo Juliet” kể về
tình yêu lãng mạn nhưng cũng đầy bi kịch giữa Romeo Montague một chàng trai
lương thiện, tốt bụng Juliet Capulet một gái xinh đẹp, thánh thiện thơ
ngây.
Tóm tắt: Trong thành Verona của Italy, hai dòng họ Montague và Capulet vốn
mối hận thù lâu đời. Bi kịch bắt đầu từ khi con trai của dòng họ Montague
Romeo trà trộn và dạ tiệc hóa trang của nhà Capulet, chàng đã gặp nàng Juliet và hai
người yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tuy nhiên, do mối hận thù sâu sắc giữa hai
dòng họ, lại thêm sự cố khiến Romeo giết chết người họ hàng của Juliet Tybalt,
nên hai người không thể đến được với nhau. Romeo bị trục xuất khỏi thành Verona,
còn Juliet thì bị gia đình ép gcho tước Paris. Nhờ tu nhà thờ giúp đỡ, nàng đã
uống một liều thuốc ngủ để giả chết trong vòng 24 giờ, vì thế đám cưới giữa Juliet và
Paris lại trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mộ của gia đình. Nghe
tin nàng chết, Romeo đau đớn trốn vVerona. Khi ngắm nhìn dung nhan người yêu
thương đã khuất, chàng uống thuốc độc tự ttheo người mình yêu. Romeo vừa gục
xuống thì cũng lúc thuốc của Juliet hết hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy nhìn thấy
xác Romeo bên cạnh. Quá tuyệt vọng, nàng rút dao tự vn.
Cái chết tang thương của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Họ đã xóa sạch
mối thù truyền kiếp bắt tay hữu nghị. Nhưng những còn lại vn nỗi xót xa
cho một cuộc tình đẹp tựa bài thơ. Câu chuyện Romeo Juliet không chỉ ngợi ca
tình yêu lãng mạn trong sáng, còn gửi gắm thông điệp đầy tính nhân văn.
Quả thật, tình yêu trong ngần đẹp tựa pha thể làm tan chảy những “thù
hận”, “định kiến”, hay bảo thủ truyền thống. Hành động của Spartacus hành
động bi kịch của nô lệ cách mạng khác với nô lệ thuần túy và nô lệ thô bỉ.
Câu 10: Trình bày phân tích nguồn gốc, bản chất, hệ quả các hình
thức biểu hiện của cái Hài? Dẫn chứng một tình huống Hài trong đời sống hoặc
trong nghệ thuật.
* Nguồn gốc:
Cái hài là sự ngụy tạo của mt nội dung xấu trong một hình thức đẹp nhưng
lại bị phát hiện và tạo ra tiếng cười phê phán.
Cái hài từ một hiện tượng trong đời sống xã hội mà hệ quả của nó thường đem
lại tiếng cười. Tuy nhiên không phải tiếng cười nào cũng hệ quả của cái hài.
những tiếng cười bắt ngun từ tâm sinh lý hay bệnh lý.
Cái hài hước được hình thành từ khập khiễng, từ sự mâu thun:
- Sự khập khiễng, mất cân xứng (“so le”) về hình thức.
- Sự mâu thun ở hình thức và nội dung.
* Bản chất:
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
Cái hài là cái xấu nhưng không cam phận xấu. Để che đậy bản chất xấu xa, đồi
bại của cái hài đã tự khoác lên mình một bộ áo giả tạo bên ngoài hiện thân của
cái đẹp để đánh lừa luận xã hội, để kéo dài sự tồn tại vốn đã lỗi thời của nó. Tuy
nhiên, dù cố tình che đậy hay bưng bít thế nào chăng nữa thì cuối cùng bản chất đích
thực của vn bị lộ trần. Cái hài bộc lộ hàng loạt các mâu thun gay gắt giữa nội
dung hình thức, giữa bên ngoài bên trong, giữa bản chất hiện tượng, giữa
khả năng hiện thực… Người ta dùng tiếng cười để cảm nhận, đánh giá phê
phán cái hài. Đây không phải tiếng cười sinh lý giản đơn, tiếng cườithưởng
phạt mà là tiếng cười của lý trí, của trí tuệ mang ý nghĩa tố cáo quyết liệt. Tiếng cười
được sử dụng đây giống như một thứ khí đấu tranh sắc bén nhằm lật mặt
công kích cái hài.
Cái hài được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau:
- Tự trào bằng cách thừa nhận khuyết điểm của mình và người thân, nói quá lên để
làm cho mình tồn tại.
- Châm biếm, mỉa mai, tỏ thái độ nghiêm khắc, không đồng tình, phê phán đối tượng
một cách sâu cay.
- Đả kích phê phán bằng thái độ quyết liệt, đấu tranh không chấp nhận cái xấu.
Cái hài trong nghệ thuật phải mang tính nhân văn, không cười trên nỗi bất hạnh của
người khác.
* Biểu hiện:
Tiếng cười trong cái hài khí phê phán, mang tính nhân văn. Đặc trưng
tiếng cười của cái hài tiếng cười của trí tuệ, tiếng cười của ng chiến thắng, tiếng
cười mang tính nhân văn
Tiếng cười của trí tuệ là phát hiện những hiện tượng chứa đựng sự khác biệt đã
tạo ra số những nghịch lý, những mâu thun không thể xếp đặt vào trong
những khuôn khổ của hiện tượng được coi là thống nhất và thuần nhất, theo thước đo
mà con người được giáo dục, được nhận biết
Tiếng cười của người chiến thắng là khi phát hiện được sự việc bị che đậy, ng
chiến thắng sử dụng tiếng cười
Sự khoan dung khi phát hiện, chủ thể đã thể hiện sự cảm thông, bqua
không quan tâm đến, đó cũng chính hình phạt nặng nề chứ không phải chỉ mặc
kệ cho qua. Tiếng cười thể hiện thái độ sẵn sàng tiễn biệt quá khứ của 1 cái xấu (cái
quá khứ ko hẳn là cái xấu mà là cái không còn phù hợp nữa) 1 cách vui v
Tiếng cười mang tính nhân văn cái hài không đến từ sự khiếm khuyết
thể, từ sự bất bình thường như là nỗi bất hạnh của ng khác
* Dẫn chứng: Phim Tiệc trăng
máu - Khôi hài
- Mỉa mai, châm biếm: Hôn nhân trở thành nấm mồ của tình yêu → cưới nhau,
nhưng chưa học được cách ở bên nhau; Ngoại tình; sự vô tâm; Cái xấu - Cái đẹp
- Đả kích: cái nhìn về LGBTQIA+
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
Mâu thun giữa nội dung và hình thức
Mỹ học đại cương
Câu 11: Trình bày cấu trúc của ý thức thẩm mỹ. Vai trò của tình cảm, thế giới
quan và hệ tư tưởng trong đời sống thẩm mỹ?
* Cấu trúc của ý thức thẩm mỹ:
Những thành tố cơ bản hợp thành ý thức TM là cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu
thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ.
- Cảm xúc thẩm mỹ: Cảm xúc thẩm mỹ là cảm xúc được nảy sinh nơi con người
khi một khách thể thẩm mỹ nào đó tác động tới. Cái bên ngoài (rung động trực
tiếp trước cái đẹp) tư, không vụ lợi tự nhiên xúc động xúc động làm
giàu cho đời sống tinh thần, là yếu tố giúp con người vượt qua những khó khăn trong
cuộc sống.
+Tính liên tưởng: khi cảm xúc thẩm mỹ hình thành nó có tính liên tưởng, 3
dạng thức: nhớ về quá khứ (hồi tưởng, hoài niêm), phóng chiếu tới tương lai, suy
ngm, suy tư về hiê tại.
+ Tính nhập cảm → đồng cảm với nhân vật → sân khấu “lấy cảm xúc” khán giả hay
“thức tỉnh” khán giả?
- Thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ (còn được gọi là óc thẩm mỹ, khiếu thẩm
mỹ, gu thẩm mỹ, sở thích thẩm mỹ) biểu hiện sự say mê, hứng thú đặc biệt của con
người trước một loại hiện tượng thẩm mỹ khách quan nhất định. Nếu cảm xúc thẩm
mỹ mang nặng tính chất cảm tính thì thị hiếu thẩm mỹ lại chứa đựng nhân tố tính.
luôn gắn với lựa chọn đánh giá của chủ thể trước đối tượng. Thị hiếu thẩm
mỹ một hiện tượng phức tạp trong đó chứa đựng hàng loạt các mâu thun
thống nhất: giữa cái riêng chung; giữa cái mới; giữa xu thế hướng nội
hướng ngoại...sự thể hiê năng lực cảm nhân, đánh giá, tiếp nhâ thẩm vào
trong chính bản thân đời sống của thẩm mĩ→ “sở thích tương đối ổn định của
nhân hay cộng đồng về phương diện thẩm mỹ”
- Lý tưởng thẩm mỹ → ước mơ, khát vọng đẹp sẽ có trong tương lai ( có ở trong
1 thi nhân đẹp, 1 công
đồng đẹp) dần loại bỏ đi stiêu cực. tưởng thẩm mỹ
một bộ phận hợp thành của lý tưởng xã hội (bên cạnh lý tưởng chính trị,
lý tưởng đạo đức, lý tưởng luật pháp, lý tưởng tôn giáo, lý tưởng khoa học)
tưởng thẩm mỹ sự khát khao, mong mỏi của con người được vươn tới shoàn
thiện hoàn mỹ trong cuộc sống. Nói một cách khái quát, tưởng thẩm mỹ
tưởng vươn tới cái đẹp. tưởng thẩm mỹ của con người được biểu hiện ra sự hình
dung cụ thể trong đầu óc của họ về những mu đời, mu người, mu vật, mu việc
hoàn thiện hoàn mỹ họ khát khao được. tưởng thẩm mỹ không phải cái
cao siêu hay xa lạ mà vốn thường trực trong đầu óc của mỗi chúng ta, trực tiếp
chỉ đạo mọi hành động sống của chúng ta. Bởi trước khi làm bất cứ điều con
người cũng hình dung ra trước cái kết quả tốt đẹp của công việc mình làm phấn
đấu hết mình cho nó.
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
+ Nội dung của lý tưởng thẩm mỹ:
● Môi trường thiên nhiên Đẹp
● Cộng đồng xã hi Đẹp ●
Một nhân cách đẹp
* Vai trò của tình cảm, thế giới quan và hệ tư tưởng:
- Cảm xúc thẩm mỹ trong cuộc sống trong sáng tạo nghệ thuật: Mặc mang
nặng tính chất cảm tính nhưng cảm xúc thẩm mỹ lại giữ một vai trò rất quan trọng
trong đời sống tâm lý cá nhân, bởi lẽ nó là cơ sở để tạo dựng nên chiều sâu, sự phong
phú trong thế giới tâm hồn tình cảm của mỗi người. Thực tế xác nhận rằng người nào
càng giàu cảm xúc thẩm mỹ cảm xúc thẩm mỹ của họ càng nhạy bén, tinh tế thì
họ càng nhiều điều kiện thuận lợi để tạo nên cho mình một thế giới tâm hồn rộng
mở, phong phú, sâu sắc. Ngược lại người nào càng ít cảm xúc thẩm mỹ hoặc cảm
xúc thẩm mỹ của họ bị chai thì chắc chắn họ sẽ một tâm hồn nông cạn, nhạt
nhẽo, trống rỗng. Trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật (bao gồm hoạt động sáng tác,
hoạt động biểu diễn, hoạt động cảm thụ) thì cảm xúc thẩm mỹ lại đặc biệt cần thiết.
Chinh cảm xúc thẩm mỹ đã tạo nên niềm say mê, sự hứng thú cho con người trong
toàn bộ qtrình hoạt động nghệ thuật. nvậy, trực tiếp ảnh hưởng tới chất
lượng của hoạt động nghệ thuật.
- Thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ liên quan trực tiếp góp phần quan trọng
vào việc hình thành lối sống, phong cách sống của mỗi người. vậy, để xây dựng
lối sống văn hóa, nhân cách văn hóa thì mỗi người cần được một thị hiếu
thẩm mỹ lành mạnh, tiến bộ.
- tưởng thẩm mỹ: Trong lĩnh vực sáng tác nghệ thuật thì tưởng thẩm mỹ giữ
vai trò quyết định bởi chi phối trực tiếp tới động mục tiêu sáng tác của
người nghệ sĩ.
Câu 12: Trình bày khái niệm, tính chất, vai trò của thị hiếu thẩm mỹ. Đặc
trưng của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ?
* Khái niệm:
Thị hiếu là sở thích cá nhân, cá nhân có sở thích riêng về cái đẹp và cảm nhận
cái đẹp.
Thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ (còn được gọi là óc thẩm mỹ, khiếu thẩm
mỹ, gu thẩm mỹ, sở thích thẩm mỹ) biểu hiện sự say mê, hứng thú đặc biệt của con
người trước một loại hiện tượng thẩm mỹ khách quan nhất định. Nếu cảm xúc thẩm
mỹ mang nặng tính chất cảm tính thì thị hiếu thẩm mỹ lại chứa đựng nhân tố tính.
Vì nó luôn gắn với lựa chn và đánh giá của chủ thể trước đối tượng
* Tính chất của thị hiếu thẩm mỹ:
Tính phản ứng mau lẹ:
Khi tiếp xúc với các hiện tượng thẩm mỹ ( trong đời sống và trong nghệ thuật
) nơi chứa đựng các phạm trù thẩm mĩ và những mặt đối lập, con người lập tức bộc
lộ thái độ một cách tự do, không e dè.
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
Những con người từng trải, vốn văn hóa cao, năng lực thẩm mĩ và nghệ thuật
sâu sắc thì càng tự tin khi biểu l phản ứng và có cảm xúc mãnh liệt hơn.
Tính hài hoà vô tư
Đó là sự đánh giá thẩm mỹ không vụ lợi, chỉ nhằm tha mãn lòng hâm mộ
của mình. Một thị hiếu vô tư giúp con người lựa chọn đúng các giá trị Chân Thiện
Mỹ. Con người phải chọn một giữa hai hướng: mơ mộng hay thực dụng. Mơ mộng
quá sẽ rơi vào phiêu lưu, không tưởng. Thực dụng quá dn đến khô khan, nghèo nàn
cảm xúc trước vẻ đẹp của đối tượng, và khi chán nản thì đã muộn. Người thực dụng
sẽ không tránh khỏi dục vọng tầm thường.
Một thị hiếu vô tư là sự hài hòa giữa mơ mộng và thực tế.
Tính cá biệt và tính xã hội:
Mỗi nhân sự thích thú khác nhau, hội được hình thành tnhiều
nhân, không nghĩa một tập hợp lộn xộn các thị hiếu thẩm nhân. Đó
những giá trị thẩm chung của cộng đồng, tác dụng lôi cuốn, định hướng thị
hiếu thẩm nhân (nói cách khác, nhân chịu áp lực tự nhiên của hội ).
Nhưng đó là mối quan hệ hai chiều, biện chứng trong đời sống thẩm mỹ.
Một nhân nghệ sáng tạo ra những giá trị nghệ thuật, sau đó được cả cộng
đồng thừa nhận như mt giá trị chung của xã hội, thậm chí của chung nhân loại.
Nhà triết học I.Kant, người đầu tiên nghiên cứu hệ thống vthị hiếu thẩm
mỹ, ông đã tuyệt đối hóa vai trò của thị hiếu thẩm nhân (cá biệt) . Ông lúng
túng không lý giải được sự song hành của cả hai loại thị hiếu đó. Ông cho rằng, sở dĩ
thị hiếu thẩm hội do ngu nhiên nhiều người cùng thị hiếu thẩm m
với những cái đẹp phổ quát.
Mỹ học Mác- Lênin giải đúng đắn hơn: không nhân nào sống tách
biệt hội hình thành được thị hiếu thẩm mỹ (hãy xem nhân vật Robinson
Crusoe trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Anh Daniel Defoe thế kỉ 19- khi sống
một mình trên đảo, anh ta hầu như chẳng thị hiếu thẩm mỹ gì nữa !) . Thực ra,
trong cộng đồng tồn tại cùng lúc các thị hiếu nhân, thị hiếu giai cấp, thị hiếu
hội và thị hiếu nhân loại.
Tính giai cấp:
Mỗi giai cấp có một thị hiếu riêng, nghĩa là, có quan niệm khác nhau về cái
đẹp.
Quý tộc phong kiến ca tụng và ưa chuộng mu người “yểu điệu thục nữ” , “liễu
yếu đào tơ”, “hào hoa phong nhã”, “nho nhã”. Người nông dân đề cao con người
khỏe mạnh thậm chí mập mạp, chất phác, duyên. Ca dao “Mười thương” bộc lộ
quan niệm của nhân dân xưa về cái đẹp phụ nữ thôn quê (Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên, Ba thương má lúm đồng tiền . . . .).
Nhân vật Natasha trong tiểu thuyết “Chiến tranh hòa bình” của L.Tolstoi
mang cả vđẹp của tiểu thư tước thượng lưu quý tộc vừa vẻ đẹp thiếu nữ
làng quê Nga . Theo nhà văn, đó là sắc đẹp hài hòa, hoàn hảo nhất. Nhìn chung, nếu
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
so với giai cấp tư sản ưa chuộng vẻ đẹp hình thức, thậm chí thiên về thể chất, thì quý
tộc phong kiến ưa vđẹp tinh thần hơn, cao nhơn.(Quan niệm thẩm của giới
quí tộc tinh tế, sắc sảo hơn sản. Vở hài kịch “Gã sản học đòi quý tộc” của
Moliere đã chứng minh điều đó).
Tính dân tộc:
Trải qua lịch sử, mỗi dân tộc hình thành một thị hiếu thẩm mỹ riêng, khi
trái ngược với dân tộc khác phương Đông: con rồng đẹp đẽ cao quý, còn phương
Tây, con rồng là độc ác, xảo quyệt …). Nghệ thuật phương Tây ưa tả thực, chuẩn xác
khiến khán giả thán phục, n nghệ thuật phương Đông ưa tạo “khoảng trống”
ước lệ khiến cho người thưởng thức phải tưởng tượng đồng sáng tạo. Mặt khác,
có những chuẩn mực chung về Chân – Thiện – Mỹ đặc biệt cái đẹp được cả nhân loại
công nhận. Chẳng hạn, màu xanh da trời được coi là màu hy vọng, ước mơ, hòa bình.
Màu đỏ hạnh phúc, màu trắng bình đẳng, màu đen tang tóc, buồn bã… Cành nguyệt
quế (olive) được coi là biểu tượng của chiến thắng vinh quang. Con chim bồ câu
tượng trưng ước vọng hoà bình .v.v…
Tính thời đại:
Thẩm mỹ trang phục thay đổi theo mùa, theo lứa tuổi, theo mode (model), rất
hiếm loại trang phục được ưa chuộng lâu bền như chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam,
bộ complet châu Âu Chưa ai biết chiếc quần jeans Âu Mỹ sẽ còn tồn tại bao lâu.
những tác phẩm nghệ thuật vừa ra đời đã được trao ngày vòng nguyệt quế
trường tồn mãi mãi. Lại tác phẩm phải chờ đợi một thời gian dài mới bừng sáng,
vì nó đi trước thời đại (Hồng Lâu Mộng, Đường Thi, Truyện Kiều, nhạc cổ điển châu
Âu thế kỉ 18-19. Nhiều tác phẩm nghệ thuật sớm nở tối tàn.
* Vai trò của thị hiếu thẩm mỹ:
- Thị hiếu thẩm mỹ đông vai trò chủ đạo trong thưởng thức thẩm mỹ, góp phần tạo ra
khuynh hướng cá nhân và nhu cầu thưởng thức của chủ thể.
- Thị hiếu thẩm mỹ chế độc đáo bảo đảm cho chủ thể kết hợp vận dụng các
tiêu chuẩn trong hoạt động đánh giá thẩm mỹ, biểu hiện như một tiêu chuẩn để đánh
giá dạng phán đoán “thích hay không thích”.
- Đóng vai trò trong sự sáng tạo thẩm mỹ, kích thích bên trong đối với hoạt động
sáng tạo, một nhân tố hướng dn chủ thể lựa chọn đề tài, chất liệu, hình thức,…
Góp phần tạo ra thiên hướng cá nhân, tạo ra phong cách độc đáo của cá nhân
- Tạo ra nhu cầu thưởng thức, trong đời sống hằng ngày thị hiếu thẩm mỹ của đông
đảo công chúng sự tác động mạnh mẽ đến hoạt động sáng tạo thẩm mỹ, sáng tạo
nghệ thuật.
- Thị hiếu thẩm mỹ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn ở nhiều lĩnh
vực khác của cuộc sống. Có thể kể ra như thẩm mỹ trong xây dựng, trang trí nội thất
nhà ở, trong văn hoá giao tiếp, Cuộc sống chúng ta cần những con người hiểu
biết về i đẹp, từ đó mới thể gìn giữ những nét đẹp truyền thống và tạo dựng
thêm những giá trị mới.
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
* Đặc trưng của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ:
- Bản chất của giáo dục thẩm mỹ theo quan điểm của mỹ học Mác Lênin gắn liền
với các hoạt động sáng tạo, nghĩa con người luôn hướng tới những giá trị mới.
Giáo dục thẩm mỹ làm hình thái năng động của chủ thể thẩm mỹ phát triển mạnh mẽ
tự do trên sở nhân sinh quan thế giới quan đúng đắn. Mỹ học Mác Lênin
khẳng định giáo dục thẩm mỹ một bộ phận hợp thành sự nghiệp giáo dục toàn
hội. gắn chặt chvới giáo dục lao động, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần quốc tế và sự hài hoà giữa truyền thống với hiện đại, cá nhân với xã hội, thể xác
với tinh thần. Nhưng giáo dục thẩm mỹ tính đặc thù khác với mọi phương tiện
giáo dục khác là ở bản chất của cái thẩm mỹ của nó. Tuy nhiên giáo dục thẩm mỹ và
các hình thức giáo dục khác mối liên hbiện chứng với nhau và đều một mục
đích chung đó là sự hoàn thiện nhân cách con người.
- Giáo dục thẩm mỹ mang nội dung hội sâu sắc trước hết phải nói đến tính dân
tộc. Các chủ thể thẩm mỹ hưởng thụ, đánh giá sáng tạo cái đẹp bao giờ cũng
một dân tộc nhất định. Xa rời nội dung tính dân tộc, giáo dục thẩm mỹ sẽ đánh mất
bản chất hội của nó.Mỗi dân tộc trong hội giai cấp đều những quan hệ
giai cấp khác nhau. Các tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ tưởng thẩm mỹ
của giai cấp đều phụ thuộc vào điều kiện sinh sống và mục tiêu giáo dục của giai cấp
đó. Trong hội giai nhiều cấp khác nhau cùng tồn tại thì thước đo giá trị thẩm
mỹ bao giờ cũng thuộc về giai cấp thống trị.Tĩnh hội của giáo dục thẩm mỹ n
gắn liền với tính thời đại, mỗi thời đại mục tiêu, hình thức, biện pháp giáo dục
xây dựng các chủ thể thẩm mỹ khác nhau. Thời lệ, phong kiến, bản ngày
nay, các chủ thể đều mang dấu ấn của thời đại mình.
Câu 13: Phân tích, nhận định dẫn chứng từ luận đề: Nghệ thuật sự phản
ánh hiện thực cuộc sống con người bằng tình yêu rộng lớn tình yêu đối với cái
đẹp
Hiện thực cuộc sống con người 3 mối liên hệ: giữa con người với tnhiên,
với người khác (quan hệ xã hội) với chính bản thân. Chính phản ánh toàn bộ
những diễn ra trong ba mối quan hệ này. Đó chính nội dung của nghệ thuật
(cuộc sống của con người). Do đó, phạm vi phản ánh của nghệ thuật cùng rộng.
Trung tâm của hiện thực là đời sống của con người. Hơn thế, con người là con người
hội. Nghệ thuật hội cũng chính nghệ thuật con người. Hiện thực phong
phú cùng tận của tự nhiên xã hội đối tượng của nghệ thuật. Biélinski đã
từng xác nhận: tất cả thế giới, tất cả những bông hoa, màu sắc và âm thanh, tất cả các
hình thức của tự nhiên và đời sống đều thể những hiện tượng của thơ ca. Xác
định một phạm vi phản ánh rộng lớn như vậy của nghệ thuật để khẳng định khả
năng to lớn của nghệ thuật trong việc miêu tả phản ánh. Hay Chernychevski đã
khẳng định phạm vi của nghệ thuật bao hàm trong tất cả những trong hiện
thực (trong tự nhiên và trong xã hội) khơi gợi được hứng thú của con người- không
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
phải với cách học giả với cách con người bình thường; cái mọi người
quan tâm trong đời sống-đó là nội dung của nghệ thuật.
Trong đời sống, con người có hai mối quan tâm lớn: mối quan tâm tới tự nhiên
mối quan tâm tới hội. Tức chính hai mối quan tâm đảm bảo cho con người
tồn tại phát triển: quan hệ tự nhiên quan hệ hội. Hai mối quan hệ này quay
quanh một trung tâm là con người. Chính những mối quan hệ trung tâm con người là
trung tâm chú ý của nghệ sĩ. Nếu như đối tượng của khoa học sự vật, hiện tượng
tồn tại độc lập với ý thức con người tđối tượng của nghệ thuật tất cả những
quan hệ với con người.
Chính yêu cuộc sống những nhà làm nghệ thuật đã tái tạo, tái hiện
những hiện thực để phản ánh cuộc sống. Qua đó gửi gắm những ước mơ, khát vọng
về cuộc sống hoàn thiện, cuộc sống tốt đẹp hơn -> mang tính tưởng. thể thấy,
nhà chính trị xem chiến tranh sự xung đột tất yếu giữa hai lực lượng xã hội đối
kháng nhau về mặt lợi ích nhưng qua góc nhìn từ nghệ thuật chiến tranh một s
kiện, một tình huống để bộc lộ tính cách, số phận con người, để bộc lộ những
tưởng, khát vọng của con người dựa trên góc nhìn nhân đạo, tình yêu thương con
người, yêu cuộc sống. Nghệ thuật tình yêu đối với cuộc sống, một cuộc sống
không đẹp nhưng nghệ thuật phải đẹp mặc trong khi tái tạo hiện thực cuộc sống
vào trong nghệ thuật, người nghệ không chtái tạo mặt tối còn gián tiếp/trực
tiếp tái tạo nên một mảng sáng của cuộc sống vào trong nghệ thuật. Cho nên tính phê
phán trong nghệ thuật một sự phê phán nhằm đi đến sự hoàn thiện chứ không đơn
thuần là phê phán đi đến sự huỷ diệt. Tất nhiên cái xấu cần được huỷ diệt, nhưng huỷ
diệt để làm gì thì câu hỏi này nghệ thuật cần có trách nhiệm trả lời.
Câu 14: Phân tích dẫn chứng từ nhận định: Bản chất của nghệ thuật
những giá trị của xã hội được đánh g theo quy định của cái Đẹp
Bản chất của nghệ thuật những thuộc tính, những yếu tố sự tồn tại bản chất
của nghệ thuật, không những thuộc tính yếu tnày thì bản chất của nghệ thuật
không tồn tại. những yếu tố thuộc tính quy định cho stồn tại, phát triển của
nghệ thuật. Cái đẹp được tạo ra mang giá trị của nghệ thuật (phụ thuộc vào thị hiểu
thẩm mỹ của con người) là cái đẹp được sự thừa nhận của công chúng. Ngoài ra bản
chất của nghệ thuật còn những giá trị hội được đánh giá theo sự thiết định của
cái đẹp. Giá trị những đáp ứng cho nhu cầu của con người xét từ tận ng nhu
cầu xã hội nhu cầu sống (Con người không có gcả, khi gắn giá cả lệ). Giá trị
hội các giá trị văn học, cuộc sống, kinh tế, hội, đạo đức, thẩm mỹ,... nói lên
giá trị của con người, nói lên nhu cầu, những gì đáp ứng nhu cầu, khát vọng sống của
con người. gtrị của giá trị. những gtrị hội được đánh giá theo quy
định riêng của tình cảm. Cái đẹp biểu trưng cho những gtrị vậy nên cái đẹp trong
nghệ thuật là giá trị của giá trị - giá trị của đời thường thăng hoa lên thành giá trị của
thẩm mỹ.
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
Tại sao người ta thấy mình không đẹp? Do người ta không thấy thứ đó sự
đáp ứng nhu cầu sâu xa của bản thân họ: yếu tố chủ quan tác động hệ giá trị khác
nhau. Ở trong mi quan hệ khác có nhu cầu khác.
Hay Phương Đông quan niệm da trắng đẹp những người phụ nữ tìm
đến các loại kem trộn…
Câu 15: Phân tích và dẫn chứng từ luận điểm: “Bản chất của nghệ thuật
những giá trị của hội được đánh giá theo quy luật riêng của tình cảm”
Giá trị XH là các giá trị văn học, cuộc sống, kinh tế, xã hội, đạo đức, thẩm mỹ,
…=> nói lên giá trị của con người, nói lên nhu cầu, những đáp ứng nhu cầu, khát
vọng sống của con người.
Bản chất của nghệ thuật là những giá trị của hội được đánh giá theo quy
luật riêng của tình cảm không đánh giá theo chuẩn mực của khoa học bởi nhận thức
thẩm mỹ khác với nhận thức khoa học.
- Thẩm mỹ là đánh giá trên góc độ cảm xúc
- Giá trị thẩm mỹ được tạo ra trên cơ sở của giá trị xã hội
Nghệ thuật là những giá trị xã hội được đánh giá theo quy luật riêng của tình
cảm.
Có công chúng nghệ thuật thì có tồn tại nghệ thuật, không có công chúng thì nghệ
thuật chết. Tác phẩm không có ai nhớ đến là tác phẩm chết.
Lý tính có đúng và sai. Nghệ thuật có Thích hay không
thích Cảm xúc -> Hành động
Câu 16: Trình bày định nghĩa, đặc trưng và vai trò của hình tượng nghệ thuật
* Định nghĩa:
Hình tượng nghệ thuật (tiếng Anh: image) là phương thức chiếm lĩnh, thể hiện
tái tạo hiện thực theo quy luật của tưởng tượng, cấu nghệ thuật. một
phương thức phản ánh, đặc biệt riêng của nghệ thuật. Tính hình tượng sự liên
kết giữa các yếu tố nhằm tạo nên chính thể mang tính sinh động của nó, biểu hiện
bên ngoài trực quan (Nó đem lại một hình ảnh cụ thể, sinh động) vmột sự vật,
chủ thể nhằm truyền tải ý nghĩa.
Sự phân tuyến giữa thế giới nghệ thuật thực tại cuộc sống, chính nhờ hình
tượng nghệ thuật mà ý thức nghệ thuật hàm chứa nhiều tưởng, cảm xúc, tình cảm
của cuộc sống thật.
Hình tượng nghệ thuật kết quả của sự tưởng tượng, → Như vậy, hình tượng
nghệ thuật chính các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng
sáng tạo trong
Hình tượng nghệ thuật thể hiện tập trung các giá trị nhân học thẩm mỹ của
nghệ thuật, Vì những lẽ trên, cấu trúc của hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng là suy
thống nhất cao do giữa các mặt đối lập: chủ quan - khách quan, lý trí và tình cảm, cá
biệt khái quát, hiện thực lý tưởng, tạo hình biểu hiện, hữu hình hình.
Và cũng chính vì những lẽ trên, hình tượng còn là một quan hệ xã hội - thẩm mỹ võ
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
cùng phức tạp. Nghệ thuật có thể cho con người nhận thức về chân lý, chân lý có thể
trực quan được thông qua hình trọng nghệ thuật.
thể nói hình tượng nghệ thuật sự kiến tạo nghệ thuật. Hình tượng nghệ
thuật yếu tố cần thiết được hình thức truyền tải của nghệ thuật nên khi nói
hình tượng nghệ thuật, bức tranh được truyền tải hiện ra giữa thế giới nghệ thuật
thế giới thực tại giúp liên kết giữa cuộc sống của người xem, trải nghiệm thế giới
tâm tư. Hình tượng nghệ thuật mối liên hệ nhận thức cảm tính chiều sâu trong
nhận thức.
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa 3 cấp độ (222 - tâm lý - vật chất)
mà thực chất là 2 cấp độ tinh thần và vật chất.
Tinh thần: cảm xúc của người nghệ sĩ và người tiếp nhận
Vật chất: ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc... sự kết hợp của chúng — vật chất hóa
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất của ba cấp độ: tư tưởng - tình cảm -
hình tượng → sự liên kết chất liệu.
Hình tượng - ý đồ: phát huy tính tưởng tượng của người nghệ sĩ (vạch ra
đường viền cơ bản của tác phẩm).
Hình tượng - cảm thụ; có tình cảm biến trong cảm thụ và có tính bất biến trong
hình tượng. Vấn đề ở đây là ý nghĩa lịch sử - xã hội đặt ra trong tác phẩm.
Hình tượng - tác phẩm: là sự thống nhất giữa tinh thần và vật chất làm nên sự
tác động toàn vẹn của nghệ thuật.
* Đặc trưng:
Hình tượng nghệ thuật gắn liền với đời sống:
Nhắc đến hai chữ nghệ thuật đôi khi người ta nhầm tưởng nó là hiện thân của
những cái hoa mỹ, diễm lệ, của những thứ lãng mạn, viển vông, xa rời thực tế,
nhưng thực chất nghệ thuật luôn đi liền với đời thực, bám sát cuộc sống, dựa
hơi người, đời, vật để nảy sinh, tồn tại và trường tồn cùng thời gian. Nghệ thuật luôn
gần gũi với cuộc đời, sống trong cuộc đời, phát triển theo nhịp sống của cuộc đời
như một người bạn đồng hành tận tụy, mt người thư ký trung thành của thời đại.
Hình tượng nghệ thuật tái hiện cuộc sống nhưng lại không đơn thuần sao
chép y nguyên những hiện tượng thật tái hiện một cách chọn lọc, sáng
tạo thông qua tài năng và trí tưởng tượng của nghệ sĩ, bằng sự khéo léo và tinh tế của
mình, họ biến những sự vật tầm thường nhất trở thành các hình tượng đẹp sức
truyền cảm mạnh mẽ, mang những ấn tượng sâu sắc đến với người cảm thụ.
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất của cái cụ thể, cá biệt, cảm tính với cái
khái quát.
Đây nét đặc trưng tiêu biểu nhất dấu hiệu dễ nhận biết nhất của hình
tượng nhưng đồng thời cũng quan trọng nhất để phân biệt sự khác nhau giữa hình
tượng khái niệm. Mọi svật, hiện tượng trong thể giới khách quan đều tồn tại
dạng riêng biệt, một thể độc lập, cụ thể. Ngay chính bản thân con người cũng
tồn tại là những cá nhân cụ thể, độc đáo, không lặp lại. Song không phải thế mà
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
chúng sống tách rời, riêng rẽ, mọi sự vật hiện tượng chỉ tồn tại được khi chúng
được đặt trong mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác xung quanh. vậy,
trong mỗi hiện tượng, sự vật biệt đều chứa đựng sự thống nhất giữa hai mặt đối
lập nhau: cái chung cái riêng. Nghĩa là, mang những dấu hiệu cụ thể, biệt,
không lặp lại những hiện tượng khác, lại vừa mang những đặc điểm bản chất đại
diện cho những hình tượng cùng loại, điển hình cho loại của mình. Một người nghệ
xuất sắc hay một nbác học tài năng cũng đều phải biết nắm bắt những chủ
yếu thuộc về bản chất của sự vật, hiện tượng, để biết tập trung sự chú ý của mình vào
những sự kiện, những quá trình của svật, hiện ợng trong đó bộc lộ đầy đủ
nhất ý nghĩa của đối tượng mình nghiên cứu và khám phá.
Điều này được thể hiện rất trong lĩnh vực văn học: “Chí Phèo” của Nam
Cao một tác phẩm điển hình với hai hình tượng nhân vật tiêu biểu Chí Phèo
Kiến. Bằng ngòi bút sắc bén của mình, Nam Cao sử dụng ngôn từ để vẽ lên chân
dung Chí một anh nông dân lành như cục đất, thế nhưng từ bốn bức tường lao lý ra
cuộc đời Chí đã trở thành một “con quỷ” của làng Đại. Chí mang những nét tính
cách riêng, biệt chẳng ai được: hắn mãi chìm sâu trong cơn say, ngủ trong
lúc say. Cứ mỗi lần say hắn chửi, tiếng chửi của hắn trở thành nỗi ám ảnh trong
lòng người đọc. Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí như một chân dung điển hình
cho những người nông dân bế tắc lâm vào bước đường cùng để rồi mất dần đi cả
nhân hình, nhân phẩm, hphản kháng lại hội, phản kháng lại bất công của cuộc
đời bằng con đường lưu manh hóa. Bên cạnh chân dung một anh Chí lưu manh
hình ảnh của Kiến tên trưởng hách dịch. Nam Cao đã dựng lên chân dung
tên địa chủ với những nét vẽ sinh động, đầy ấn tượng mang tính điển hình cao:
giọng quát “rất sang”, “cái cười Tào Tháo”, giọng nói “ngọt nhạt”, những thủ đoạn
thống trị khôn ngoan “mềm nắn rắn buông”, “nắm thằng tóc không ai dám thằng
trọc đầu”, bóp người ta thì “chbóp đến nửa chừng”, “hãy ngấm ngầm đẩy người ta
xuống sông rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”,… Tất cả những chi tiết trên đã đủ để
Kiến trở thành hình tượng điển hình cho bọn địa chủ, cường hào phong kiến của
hội cũ với bản chất gian hùng, nham hiểm, độc ác và cáo già.
Từ chính đặc điểm này hình tượng nghệ thuật khả năng tái hiện lại
cuộc sống một cách hoàn chỉnh toàn vẹn. Vậy nên, khi tiếp xúc với những tác
phẩm nghệ thuật, ta như được tận mắt chứng kiến, được tham gia vào câu chuyện đời
thực mà tác giả đề cập.
Bằng những hình tượng cụ thể, sinh động mang tính điển hình, nghệ thuật đã
truyền đến con người không chỉ những thông tin, những kiến thức mới mẻ về cuộc
sống còn đem đến cho họ những xúc cảm mới lạ, gọi dậy những tình cảm thiêng
liêng khiến con người ta nghĩ tốt và sống đẹp hơn, có ích hơn.
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan.
Nghệ thuật là hình ảnh của cuộc sống khách quá được phản chiếu qua đôi
mắt chủ quan của người nghệ sĩ đa cảm, tinh tế, sâu sắc . Nghệ thuật là hình ảnh của
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
cuộc sống khách quá được phản chiếu qua đôi mắt chủ quan của người nghệ đa
cảm, tinh tế, sâu sắc. Trong nghệ thuật, yếu tố chủ quan chi phối đến cả quá trình
sáng tạo của tác giả, hơn thế tính chất chủ quan còn in dấu nét trên mỗi tác phẩm
nghệ thuật, chính điều đó làm đã làm nên phong cách riêng của người nghệ sĩ.
Nghệ thuật phản ánh thế giới khách quan qua cái nhìn chủ quan của người nghệ sĩ.
vậy, trong một tác phẩm nghệ thuật luôn shòa quyện không thể tách rời của
hai yếu tố khách quan và chủ quan.
dụ: Tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố. Tác phẩm xoanh quanh nhân vật
chính chị Dậu gia đình đang trong mùa sưu thuế; một điển hình của cuộc sống
bần cùng hóa do sưu cao thuế nặng chế độ thực dân áp đặt lên hội Việt Nam.
Tác phẩm Tắt đèn không chỉ phản ánh được sự hống hách, bất nhân, tàn nhn của bộ
máy quan lại đương thời, mà còn cho thấy những phẩm chất cao quý của người nông
dân, được coi những kẻ dưới đáyhội qua hình ảnh chị Dậu. họ có bị tầng
lớp thống trị lấn át, cuộc sống của họ tăm tối, cùng qun đến mức nào cũng
không thể khiến họ đánh mất những đức tính cao đẹp vốn có, nhưng đồng thời cũng
thể hiện sức phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ của những người nông dân nghèo.
khi câu chuyện kết thúc, chị Dậu vn không thoát khỏi cuộc đời tăm tối của mình,
nhưng qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ, Ngô Tất Tố đã nêu lên một quy luật tự nhiên
rằng: ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh, và có lẽ đoạn trích trên chính là dấu hiệu
báo trước cho cuộc cách mạng năm 1945.
Như vậy, trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, người nghệ đặt tình cảm
chủ quan của bản thân vào trong chính hình tượng nh xây dựng. Hình tượng nghệ
thuật do đó không chỉ phản ánh hiện thực còn biểu hiện thái đchủ quan của
người nghệ sĩ đối với hiện thực ấy.
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa lý trí và tình cảm:
So với những hình thái ý thức hội khác, nghệ thuật sức tác động kỳ
diệu đến tưởng, tình cảm của con người . So với những hình thái ý thức xã hội
khác, nghệ thuật sức tác động kỳ diệu đến tư tưởng, tình cảm của con người. Sự
ám ảnh kỳ lạ của nó có thể khiến cho con người ta dù ở thế hệ nào, thời đại nào, tầng
lớp nào cũng đều bị cuốn theo những ấn tượng về xúc cảm đó, để rồi cứ thế say mê,
thèm muốn hai chữ “nghệ thuật”. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý trí tình cảm
nhân tố đưa các tác phẩm nghệ thuật trở thành những kiệt tác trường tồn cùng thời
gian. Một tác phẩm càng chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc thì càng dđi vào lòng
người vậy càng dễ chiến thắng cái khắc nghiệt của không gian thoát khỏi
quy luật bào mòn của thời gian.
Chắc hẳn không ít người đã từng rơi nước mắt khi đọc những trang n
cảm động viết về cảnh đời bất hạnh, hẳn không ít người thấy bâng khuâng xao xuyến
khi nghe một bản nhạc hay vtình quê, tình người, hẳn không ít người phải bàng
hoàng, thờ thn khi đứng trước những bức tranh làm sống dậy một thời tuổi thơ đẹp
đẽ,… Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều mang đến cho người cảm thụ chúng những cảm
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
xúc riêng, quen, lạ, tốt, xấu, điều đó không chỉ phụ thuộc vào cách diễn
đạt của người nghệ còn cái cách tiếp nhận của mỗi người… Và, mang được
cảm xúc của mình truyền đến mọi người, đó chính là thành công lớn nhất của người
nghệ sĩ.
Từ tất cả những điều trên, ta có thể khẳng định một cách khái quát rằng, trong
hình tượng nghệ thuật, tình cảm không những đối lập với trí chúng còn
quan hệ trống nhất chặt chẽ với nhau. Tình cảm được kiểm định bằng trí, trí
mượn tình cảm để đi vào lòng người. Đó skết hợp hoàn hảo giữa tình cảm và
trí trong một chỉnh thể nghệ thuật.
Hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ
Ước lệ biện pháp tái hiện sự vật, hiện tượng bằng hình tượng tính quy
ước. Nghệ thuật được hiểu một cách thức phỏng lại cuộc sống. Song, phản
chiếu cuộc sống chân thực đến đâu nghệ thuật cũng không thể mất đi yếu tố sáng tạo,
tưởng tượng trong mỗi tác phẩm tất cả những yếu tấy gọi chung tính ước lệ
của hình tượng. Không tính ước lệ, nghệ thuật sẽ chỉ một bản sao đơn điệu của
cuộc sống, sẽ chỉ cái khuôn đúc khô cứng không hơi thở của sự sống. Nghệ
thuật tái hiện cuộc sống một cách chọn lọc, sáng tạo bằng hoạt động cấu
trong qua ttưởng tượng của nghệ sĩ. Kết quả của quá trình đó những hình tượng
nghệ thuật mang tính ước lệ. Người nghệ sĩ thực sự tài năng là người có thể mang cả
cái hơi thở phập phồng của sự sống vạn vật vào trong tác phẩm của mình.
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không bị giới hạn bởi không gian
thời gian, trong khi nghệ thuật lại chịu sự chi phối về giới hạn của ngôn từ.
nhiệm vụ của nghệ thuật là phải khái quát được phạm vi rộng lớn của hiện thực cả về
chiều rộng và chiều sâu vn không pvỡ tính hoàn chỉnh, toàn vẹn của tổng thể
tác phẩm. Bởi vậy, sự xuất hiện của tính ước lệ như một lối thoát cho người nghệ sĩ.
Bằng hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, người nghệ thể thả sức sáng tạo.
Song, tính ước lệ không đồng nghĩa với việc xa rời thực tế, càng không hề đồng
nghĩa với việc xuyên tạc sự thực, chân lí. Ngược lại, nhờ tính ước lệ nghệ thuật
thể phản ánh chân thực cuộc sống, nhờ tính ước lệ bản chất cuộc sống được
thể hiện một cách đầy đủ về cả chiều rộng và chiều sâu.
Hình tượng nghệ thuật mang tính đa nghĩa:
Nghệ thuật là một trong những lĩnh vực sáng tạo phức tạp nhất của con người
để phản ánh thực tại. Sản phẩm của quá trình sáng tạo đó những hình tượng nghệ
thuật chứa đựng trong bản thân sự thống nhất biện chứng giữa các mặt đối lập:
hiện thực khách quan hòa nhập với thế giới chủ quan; tình cảm được soi sáng trong
lý trí; sự thật cuộc sống được phản ánh trong cái ước lệ, tượng trưng,... Sự thống nhất
giữa các mặt đối lập đã làm cho hình tượng nghệ thuật trở thành một tín hiệu đặc biệt
chứa đựng những thông điệp về cuộc sống, lưu giữ những tín hiệu chồng chéo về
cuộc đời.
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
Bởi vậy, một hình tượng nghệ thuật thể đem đến cho người thưởng thức
những cách nhìn nhiều chiều, những cách lý giải ở nhiều góc độ khác nhau. Đó chính
tính đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật. Tính đa nghĩa cũng là một trong những
đặc điểm nổi bật làm nên tính khác biệt giữa hình tượng nghệ thuật với các khái
niệm khoa học. Nếu như khái niệm khoa học chỉ một nghĩa phải ràng thì
trong nghệ thuật, một hình tượng được coi điển hình xây dựng thành công
khi nó có khả năng chứa đựng, bao hàm nhiều tầng nghĩa mà khi càng tìm hiểu người
ta càng phát hiện ra những lớp ý nghĩa sâu xa hơn. Đôi khí những ý nghĩa còn
nằm ngoài ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ. Nguyên “Tảng băng trôi” của
Hemingway một khẳng định vững vàng cho tính đa nghĩa của hình tượng ngh
thuật.
* Vai trò:
Chính nhờ hình tượng nghệ thuật mà ý thức nghệ thuật hàm chứa nhiều tư
tưởng. cảm xúc, tình cảm của cuộc sống thật.
Hình tượng nghệ thuật là mối liên hệ nhận thức cảm tính và chiều sâu trong
nhận thức. Truyền tải thông điệp, nghệ thuật tới ng xem, tái hiện thực tại trong
cuộc sống
TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490
| 1/21

Preview text:

lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Câu 1: Tại sao Mỹ học là khoa học nhân văn? Tại sao Mỹ học lại nghiên cứu cái
đẹp và nghệ thuật? Tính ứng dụng của Mỹ học?

* Mỹ học là khoa học nhân văn:
Mỹ học là khoa học nhân văn, bởi vì cái đẹp là một phạm trù mang tính nhân
văn, hướng tới vẻ đẹp của con người. Cái đẹp mang tính chủ quan, vì cùng một sự
vật hiện tượng, mỗi người có thể có những ý kiến, nhận định khác nhau.
Mỹ học là một bộ phận của Triết học, quan tâm đến bản chất và mối liên hệ
giữa các khách thể như cái Đẹp, cái Bi, cái Hài và cái Cao Cả. Học mỹ học chính là
trau dồi khả năng cảm thụ cái đẹp. Mỹ học là một ngành khoa học, vậy nên các kết
quả nghiên cứu của môn học này là các lập luận logic, khách quan. Bản thân Mỹ học
không dạy con người trở nên tốt đẹp hơn hay xấu xa hơn. Thế nhưng những công
trình nghiên cứu Mỹ học có thể cung cấp cho con người nhiều kiến thức về cái Đẹp
và Nghệ thuật, từ đó nâng cao khả năng cảm thụ của con người. Bằng con đường nói
trên, Mỹ học giúp con người có năng lực tạo lập cảm xúc tích cực trong chính cuộc
sống của mình thông quan việc việc nâng cao khả năng cảm thụ cái đẹp và nghệ
thuật. Từ thời Hy Lạp cố đại, Aristotle đã cho rằng nghệ thuật có khả năng "thanh
lọc" (catharsis) tâm hồn con người, giúp họ loại bỏ cảm xúc tiêu cực và hướng đến
sự tích cực. Một bộ phim hay, một bản nhạc du dương hay một món ăn ngon có thể
làm tâm trạng chúng ta tốt lên nhiều. Nếu chúng ta trau dồi kiến thức Mỹ học nhiều
hơn, ta có thể cảm thụ nghệ thuật ở một mức độ cao hơn, được “thanh lọc” một cách
triệt để hơn, đồng thời cũng có thể cảm thụ được cái đẹp trong các tác phẩm nghệ
thuật trừu tượng, khó hiểu hơn so với nghệ thuật đại chúng. Như vậy, Mỹ học là
ngành khoa học nhân văn không phải vì nó dạy chúng ta phải nhân văn mà cung cấp
cho ta những tri thức cần thiết để có thể cảm nhận cái Đẹp sâu sắc hơn, từ đó thúc
đẩy các cảm xúc tích cực trong ta, khiến ta có năng lực để sống đẹp hơn, sống nhân văn hơn.
* Mỹ học lại nghiên cứu cái đẹp và nghệ thuật vì:
Nghệ thuật chính là dạng vật chất của cái Đẹp - một trong những đối tượng
nghiên cứu cơ bản của Mỹ học.
Mỹ học là một bước trung gian, mỹ học nghiên cứu về cái đẹp, mà nghệ thuật
là nơi tập trung cái đẹp.
Cái đẹp và nghệ thuật mang đến cảm xúc tích cực cho người tiếp nhận. Đó là
cảm năng học, cái mà mỹ học hướng đến.
* Tính ứng dụng của Mỹ học:
Mỹ học hay có thể nói là giáo dục thẩm mỹ giúp phát triển nhân cách nói
chung và khả năng thưởng thức nghệ thuật và cái đẹp nói riêng vậy nên mỹ học được
ứng dụng rộng rãi vào thực tiễn. Mà đơn giản hơn, có thể hiểu và ứng dụng mỹ học
chính ở sự nhận thức, thưởng thức cảm nhận cái đẹp bằng sự rung động bản năng của TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
con người, điều ai cũng có thể rèn luyện và học hỏi được, càng sớm càng tốt và
không phân biệt lứa tuổi. Càng tiếp xúc với nhiều điều tốt đẹp thì tư duy càng có cơ
hội cởi mở, càng hiểu được sự đa dạng và khác biệt của cái đẹp, để từ đó con người
có thể tự học được cách tôn trọng sự khác biệt và cũng sớm định vị được bản thân để không tự ti.
Câu 2: Phân tích và chứng minh lao động là nguồn gốc hình thành quan hệ
thẩm mỹ. Tính thẩm mỹ của sản phẩm lao động hình thành như thế nào?

Con người ban đầu là sinh thể tự nhiên, sau nhờ quá trình lao động mà phát
triển thành sinh thể xã hội. Độc lập khỏi giới tự nhiên, không những không phụ
thuộc mà còn lợi dụng, tận dụng tự nhiên, biết khai thác sản vật từ tự nhiên để phục
vụ cho nhu cầu sống của mình. Khi đó, con người trở thành chủ thể, chủ động và bắt
đầu hoạt động thực tiễn. Hoàn cảnh sống xung quanh con người chính là khách thể,
mà khách thể chính là vùng quan tâm của chủ thể là con người.
Lao động chính là quá trình khởi nguồn của quan hệ thẩm mỹ. Lao động là
hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên
phù hợp với nhu cầu của con người. Có thể hiểu lao động là vận dụng các sức mạnh
của tay chân hoặc trí óc thông qua công cụ lao động để cải tạo thiên nhiên nhằm mục
đích tinh thần phục vụ con người. Càng phát triển, càng có nhiều dạng thức lao động
(lao động tay chân, lao động trí óc, lao động phức tạp, lao động nghệ thuật…). Học
tập là lao động dự trữ, càng xài càng không mất đi mà nó nhiều lên.
Lao động là nguồn gốc hình thành quan hệ thẩm mỹ bởi quá trình lao động
giúp cho con người hoàn thiện các giác quan và đôi bàn tay. Giác quan bao gồm mắt
và tai, đó chính là năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Đôi bàn tay là kỹ năng kỹ xảo, chính
là năng lực sáng tạo thẩm mỹ. Đôi tay con người vừa là công cụ lao động vừa là
quan lao động tạo ra sản phẩm mang tính thực dụng cho nhu cầu vật chất và mang
tính thẩm mỹ cao. VD: Đồ thủ công mỹ nghệ là các tác phẩm nghệ thuật mang tính
thẩm mỹ cao, là sản phẩm tạo ra bởi năng lực tinh thần, kỹ năng, kỹ xảo và thủ pháp
nghệ thuật. Thông qua các sản phẩm này, cảm xúc của người sáng tạo được truyền
đạt đến người tiếp nhận
Câu 3: Phân tích và chứng minh sự đồng hóa trên lĩnh vực tinh thần là nội
dung của quan hệ thẩm mỹ. Ý nghĩa của vấn đề này trong đời sống thẩm mỹ?

Khái niệm quan hệ thẩm mỹ là mối quan hệ giữa chủ thế thẩm mỹ - tức là chủ
thể người xã hội có nhu cầu và khả năng đánh giá, thưởng thức, sáng tạo các giá trị
thẩm mỹ, với khách thể thẩm mỹ - tức là những thuộc tính, khía cạnh, phẩm chất
thẩm mỹ ở các sự vật và hiện tượng trong thiên nhiên, trong xã hội và con người.
Đồng hóa là làm cho giống mình, làm cho những khách thể tự nhiên có những
tư tưởng, tình cảm , đặc tính của con người, chiếm lĩnh thực thể vô tri vô giác trên
một phương diện tinh thần.
Đồng hóa tinh thần diễn ra trong ý thức, tư tưởng. Sự đồng hoá về mặt tinh
thần này cũng trên cơ sở hoạt động thực tiễn của xã hội, nhưng đến lượt mình nó có TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
ý nghĩa xác định tính mục đích, phương pháp và định hướng cho hoạt động của con
người. Đồng hoá tinh thần là năng lực chiếm lĩnh đối tượng của chủ thể trong lĩnh
vực tinh thần, làm cho đối tượng đó có năng lực, phẩm chất như chủ thể mong muốn.
Đối tượng trở thành phương tiện để vật chất hoá tình cảm con người.
Giới tự nhiên: phản ánh vào não người, não bắt đầu tiếp nhận và lưu giữ cũng
như tái tạo thông tin (tái tạo + cảm xúc), xuất hiện những tưởng tượng và các hình
ảnh trong hiện thực đã được thăng hoa trong ý thức. Ý thức thực thể hóa sự thăng
hoa thành biểu trưng, chuyện kể mang tính thần thoại. Đây là quá trình của sự đồng
hóa tinh thần. Đây cũng là nội dung của quan hệ thẩm mỹ.
Câu 4: Phân tích và chứng minh giá trị thẩm mỹ là hệ quả của quan hệ thẩm
mỹ. Ý nghĩa của giá trị thẩm mỹ trong cuộc sống?

Giá trị là đáp ứng được nhu cầu thì sẽ mang tính giá trị. Giá trị thẩm mỹ là nhu
cầu thẩm mỹ, biến đổi theo giá trị của lịch sử, là những gì đáp ứng cho nhu cầu của
con người về cái đẹp. Giá trị sống đẹp là nhiệm vụ của quan hệ thẩm mỹ. Có những
thuộc tính chung quy định giá trị thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ khách quan với cá nhân,
chủ quan với quy định chung của cộng đồng.
Thẩm mỹ không chỉ đòi hỏi về mặt nội dung mà còn về mặt nhận thức. Ngoài
ra, giá trị thẩm mỹ còn có tính dân tộc, thời đại, khách quan và chủ quan.
Cái thẩm mỹ không chỉ là một thuộc tính của vật chất mà nó còn là một giá trị
xã hội quan hệ với con người trong quan hệ thẩm mỹ. Cái thẩm mỹ là một loại giá trị
xã hội được đo bằng thước đo thẩm mỹ của xã hội. Luận điểm này dựa trên học
thuyết Mác – Lênin về vai trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức, quá trình đồng
hoá thế giới về mặt thẩm mỹ.
Giá trị phản ánh qua mức độ đáp ứng được nhu cầu sống, tồn tại của loài
người. Giá trị thẩm mỹ là giá trị mà qua đó đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ của con
người, đáp ứng cho sự thiết định của cái đẹp.
Giá trị phản ánh nhu cầu, nhu cầu thay đổi thì giá trị sẽ thay đổi, nhu cầu mất
đi giá trị sẽ mất đi. * Ý nghĩa:
Những giá trị được hình thành và phát minh trên cơ sở quy luật của cái đẹp,
tức là những giá trị thẩm mỹ. Nói đến giá trị là nói đến cách nhìn, cách đánh giá, từ
cách đánh giá của con người đối với thế giới về nhiều mối quan hệ khác nhau như
kinh tế, chính trị, đạo đức, triết học, pháp quyền, khoa học. Trong đó, cái thẩm mỹ
không hẳn phải đối lập với các quan hệ xã hội đó, nhưng nhất thiết phải khác về bản
chất với các quan hệ đó. Bởi, cái thẩm mỹ không đặt nền tảng trên sự thỏa mãn
những động cơ về kinh tế, sự mưu cầu những lợi ích vật chất trực tiếp của con người.
Con người tiếp nhận thông tin, sau đó tái hiện lại thông tin và cảm xúc thông
qua sự tưởng tượng, đồng thời tái hiện lại thông tin vốn có, đôi lúc phóng đại nó lên.
Giáo dục là nghệ thuật phát huy năng lực và phẩm chất của con người. TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Câu 5: Trình bày quan niệm về cái Đẹp trong lịch sử phương Tây. Ý nghĩa của
quan niệm này trong Mỹ học hiện nay?

* Quan niệm cái đẹp trong lịch sử phương Tây:
• Về mặt bản thể học: Thực chất cái đẹp là gì?
Theo quan niệm của Plato: Đẹp là ý niệm - giữ ý niệm bên trong và không thể
bị phai mờ. Còn trong quan niệm của Aristotle: Đẹp là thực thể - thể hiện ra bên
ngoài, là cái có thể nhìn thấy và thay đổi theo thời gian.
Ý niệm đó tồn tại ngoài thế giới của chúng ta, ý niệm đó nhập vào con người
theo một mức độ khác nhau cho nên con người có một năng lực cảm nhận về cái đẹp
khác nhau. Có thể thấy, mỗi vùng miền, mỗi đất nước khác nhau con người ta lại có
những quan niệm về cái đẹp khác nhau.
Cái Đẹp là Thực thể (Kant): Môṭsự vâṭđẹp là có hình dáng, kết cấu, sự liên kết
• Về mặt tâm thức luận: Làm thế nào tôi biết đó là đẹp?
Cái gì gây cho ta một cảm xúc vui sướng và sự hân hoan chính là cái đẹp. Đây
là cái đẹp không nghĩ về lợi ích mà phụ thuộc vào tâm ý, cảm xúc
Biểu trưng là ý nghĩa toát ra từ đối tượng, từ môṭhành đông ̣. Từ cái A d ̀n dắt
đến cái B, vd thấy hoa sen liên tưởng đến tính cách con người.
• Làm thế nào để hiểu về cái đẹp:
Phải thông qua ngôn ngữ, không chỉ tiếng nói và chữ viết mà còn màu sắc, âm
thanh, dáng điệu, ký hiệu, biểu trưng, nghi thức
Đến giai đoạn này, sự thể hiện của cái đẹp bắt đầu mở rộng về chiều sâu lý
tính. Hiểu về cái đẹp là hiểu về nghệ thuật, hiểu về nghệ thuật là hiểu được ngôn ngữ
của nghệ thuật, tạo hình và biểu hiện của nghệ thuật (văn chương).
Hiểu về chiều sâu lý tính là hiểu được ý tưởng sâu xa, thấy được ý nghĩa thoát ra từ đối tượng.
* Ý nghĩa: Cái đẹp theo quan niệm mỹ học ở phương Tây và Phương Đông được
tiếp cận ở nhiều cách nhìn khác nhau hoặc trên lập trường duy vật, hoặc trên lập
trường duy tâm. Có quan niệm nhấn mạnh cái đẹp ở sự hòa điệu, có quan niệm đồng
nhất cái đẹp với tính thiện, với đức hạnh, đồng nhất cái đẹp với tính tự nhiên, có
quan niệm đi tìm cái đẹp từ thế giới siêu tự nhiên, ý niệm, tinh thần ở bên ngoài con
người; song cũng có quan niệm phủ nhận cái đẹp, coi đó là sản phẩm của tầng lớp
thống trị, là cái không cần thiết. Tuy nhiên, nhìn chung các quan niệm về cái đẹp
trong thời kỳ cổ đại cũng hướng đến những giá trị chung nhất để con người phấn đấu
đạt đến và đều để lại những tư tưởng quý báu cho những thế hệ mai sau làm giàu
thêm tư tưởng thẩm mỹ của mình.
Câu 6: Trình bày quan niệm về cái Đẹp trong lịch sử phương Đông. Ý nghĩa
của quan niệm này trong mỹ học hiện nay?
Trung Quốc: TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Theo Kinh dịch: Cái sinh mệnh (sự sống) của con người bắt nguồn từ sự vận
động, biến đổi của trời đất, đây chính là bản chất của sinh mệnh. Bên cạnh đó
là sự thống nhất hài hoà tam tài, Thiên - Địa - Nhân, đây là yêu cầu của sinh mệnh.
Sự vận động biến đổi phối hợp với sự thống nhất hài hoà d ̀n đến đạo Âm - Dương hòa hợp.
Nghệ thuật trong tranh vẽ, văn chương của TQ thống nhất một quy luật chung: Dương hiện Âm ẩn.
Người TQ quan niệm về cái đẹp: Chú trọng cái đẹp ở con người, quan niệm
rằng các phẩm chất cần có của cái đẹp là: Nguyên - Hanh - Lợi - Trinh. Nghĩa là:
Nguyên → bản nguyên, nguyên thủy của muôn vât,̣ khởi nguồn, được
cho là đứng đầu cái “thiện”, trong con người có những thứ tự nhiên, không chỉnh sửa
Hanh → sự tốt đẹp có quan hệ màu sắc, hình thức cái đẹp và sự hưởng
thụ cái đẹp của con người
Lợi → có nghĩa là lợi ích, gắn bó với quan hệ giữa cái đẹp và sự tồn tại,
phát triển của sự sống; còn được hiểu là sự tương quan giữa cảm thụ
thẩm mỹ với dục vọng sinh lý như là một cảm quan tự nhiên như là sự
phát triển lành mạnh bình thường của sự sống tự nhiên, phù hợp với đặc điểm sinh lý con người
Trinh → có nghĩa là phù hợp với chính đạo, giữ vững chính đạo có
quan hệ giữa cái đẹp và quy luật tự nhiên, giữa cái Đẹp và đạo đức
phẩm cách của con người. Ấn Độ:
Thờ ba vị thần chính là Brahama, Shiva, Vishiu, ngoài ra còn thờ thần Agai.
Người Ấn Độ quan niệm rằng, con người phải giải phóng từ tâm linh của
chính mình, và trong con người có 2 “cái ta” (cái tôi), một ta thật và một ta giả
- làm những gì không thật với chính mình. Cũng từ đây tạo ra nghiệt, sinh ra
khổ, vì thế con người phải tu tập, tìm đến thiền định, tìm thấy được cái an bình
tĩnh lặng trong tâm hồn, để có thể trở về với cái ta thật của chính mình.
Quan niệm triết học Ấn Độ cổ đại:
Cái đẹp bản chất (chân thực) đằng sau vô vàn cái đẹp hỗn tạp, mà chỉ thông
qua tu tập mới giác ngộ được.
Cái đẹp này luôn trong tiềm thức của con người nhưng phải tự giác ngộ lấy.
Khi sinh ra, con ng mang bản chất thật sự, phản ánh những gì họ thấy,
nghe, cảm nhận đc. Nhưng sau 1 thời gian, con ng sẽ dần thành bản chất
giả, do mọi thứ xung quanh tác động lên khiến bản chất bị thay đổi, phải
mang bộ mặt giả để thích nghi với xã hội TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Quan điểm Ấn Độ: Tư tưởng mỹ học quan niệm rằng cái đẹp là cái đẹp có
thực, nhưng không phải là cái đẹp chân thực (cái hình ảnh ko phai mờ, lưu
giữ mãi trong tim, đó mới là cái đẹp chân thực nhất)
Tóm lại: cái đẹp của Ấn Độ cổ đại được hiểu như là cái đẹp của Brahman
(linh hồn vĩ đại) đc nhận thức trong trạng thái con ng đã lánh xa đc tội lỗi,
đạt đc đến sự thanh thoát, thư thái, ko còn ham muốn dục vọng
Tạm kết: Trong quan niệm cái đẹp Triết học Đông phương:
Trung Quốc: cái đẹp chú trọng đạo đức con người: nó là cái thiện, hình thức là cái mỹ.
Ấn Độ: cái đẹp mang ý nghĩa tôn giáo, cái đẹp mang tính chất thiêng liêng đầy yếu tố tâm linh.
* Ý nghĩa: cái đẹp theo quan niệm mỹ học cổ đại ở phương Đông và phương Tây
cũng được tiếp cận ở nhiều cách nhìn khác nhau hoặc trên lập trường duy vật, hoặc
trên lập trường duy tâm. Có quan niệm nhấn mạnh cái đẹp ở sự hòa điệu, có quan
niệm đồng nhất cái đẹp với tính thiện, với đức hạnh, đồng nhất cái đẹp với tính tự
nhiên, có quan niệm đi tìm cái đẹp từ thế giới siêu tự nhiên, ý niệm, tinh thần ở bên
ngoài con người; song cũng có quan niệm phủ nhận cái đẹp, coi đó là sản phẩm của
tầng lớp thống trị, là cái không cần thiết. Tuy nhiên, nhìn chung các quan niệm về cái
đẹp trong thời kỳ cổ đại cũng hướng đến những giá trị chung nhất để con người phấn
đấu đạt đến và đều để lại những tư tưởng quý báu cho những thế hệ mai sau làm giàu
thêm tư tưởng thẩm mỹ của mình. Câu 7: Câu 8:
Câu 9: Trình bày và phân tích nguồn gốc, bản chất, hệ quả và các hình thức
biểu hiện của cái Bi? Dẫn chứng một tình huống Bi trong đời sống hoặc trong nghệ thuật.

* Nguồn gốc:
Khi con người ta rơi vào bi kịch nhưng họ sẽ không thấy đời mình bi kịch. Khi
mà vượt qua được rồi, nhìn lại, tách chủ thể và đối tượng ra khỏi, mới thấy bi kịch.
Cái bi là hiện tượng thẩm mỹ, diễn tả quy mô của một hành động hoàn chỉnh
(bao gồm tình tiết như là linh hồn, cơ sở của bi kịch và tính cách đi theo sau tình tiết)
thường kết thúc bằng một cái chết. Mặc dù cái chết không phải lúc nào cũng là cái
bi. Vì thực chất cái bi là cái đẹp bị thất bại, bị huỷ diệt trong quá trình đấu tranh với cái xấu.
Cái Bi là thất bại của cái đẹp, là cái chết của cái “đẹp” trong quá trình chống lại cái “xấu”.
Người học mỹ học phải biết tới Katharcis, 1 sự phản tính trong nhân cách.
(Phản tính là sự nhận thức lại cái sự việc, xđ lại giá trị của nó cũng như làm quay
lưng lại vs cái xấu, đấu tranh chống lại cái xấu và quay lưng lại vs cái xấu) TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Có 3 nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh cái Bi:
- Cái bi nảy sinh do những hiện tượng tự nhiên quái ác, bất ngờ gây ra và để lại
những hậu quả nghiêm trọng cho người lương thiện: động đất, bão lụt, nước dâng…
- Cái bi nảy sinh từ các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội khi những lực lượng tiến
bộ cách mạng đứng lên nhằm lật đổ các thế lực phản động lạc hậu nhưng vì lực bất
tòng tâm không những không chiến thắng mà còn phải nhận đòn thất bại (VD: công
xã Pari, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh…)
- Cái bi là hậu quả của sự ngu dốt của con người. Vì ngu dốt mà con người đã có
những việc làm trái với tự nhiên, trái với quy luật nên bị thất bại thảm hại. Cũng vì
ngu dốt mà con người đã tự đặt ra những hủ tục lạc hậu để trói buộc mình và gây nên
những hậu quả thương tâm
* Bản chất:
Bản chất của cái bi là sự xung đột. Giữa cái đẹp/ cái thiện với cái xấu/ cái ác.
Nó diễn ra trong mỗi cá nhân, ý niệm của cái thiện đối chọi với cái ác, là sự đấu
tranh giữa cá nhân với xã hội, giữa đạo đức cá nhân với luân lý xã hội.
Cái bi thường gắn liền với sự thất bại, nỗi đau đớn, niềm bất hạnh của một con
người hay của một hiện tượng xã hội nào đó mà xét về mặt bản chất nó vốn thuộc về
cái đẹp, cái cao cả hoặc cái anh hùng. Nói một cách khái quát, cái bi là cái đẹp bị thất
bại tạm thời, là cái đẹp nửa đường đứt gánh. Mặc dầu bị thất bại nhưng cái bi không
gợi lên cảm giác về sự bi quan, bi lụy mà ngược lại nó v ̀n mang âm hưởng lạc quan
bởi lẽ sự thất bại của cái bi chỉ là sự thất bại có tính chất ng ̀u nhiên tạm thời, sự thất
bại để gieo mầm chiến thắng. Trước cái bi người ta thường bộc lộ sự đồng cảm và tiếc thương sâu sắc.
“Xung đột bi kịch giữa yêu sách tất yếu về mặt lịch sử và tình trạng ko tài nào
thực hiện đc điều đó thực tiễn. Bỏ qua yếu tố ấy thì đã làm giảm sự bi kịch” (Engels) * Hệ quả:
- Cái bi tạo ra sự đa dạng về mặt cảm xúc (sợ hãi, tích cực, vui vẻ, căm giận,...).
Nhưng những cảm xúc đó hoàn toàn mang tính tích cực vì đó là sự thăng hoa từ
những giá trị thẩm mỹ cái bi mang lại.
=> Trạng thái: thanh lọc, thanh tẩy.
Khi một giọt nước mắt nhỏ xuống xót thương cho cái đẹp bị thất bại, hủy diệt, nghĩa
là ở đó đã sinh ra sự phản đối, không đồng tình với cái xấu, đấu tranh tiêu diệt cái
xấu, phục sinh cái đẹp.
* Biểu hiện:
- Bi của cái cũ: những lực lượng xã hội đã xác lập được vị thế trong lịch sử, v ̀n còn
năng lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội nhưng vì một lí do nào đó bị thất bại, huỷ
diệt từ đó nảy sinh cái bi.
- Bi của cái mới: những con người xã hội, cá nhân đại diện cho một trào lưu tiến bộ
mở đường cho sự phát triển, tuy nhiên trong quá trình phát triển lại bị cái xấu chống
đối tiêu diệt d ̀n đến thất bại (“chết trong bình minh”). TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
- Cái bi lầm lạc: sự hạn chế năng lực của nhận thức * Dẫn chứng:
Đây là câu chuyện có thật xảy ra từ thời Trung Cổ, “Romeo và Juliet” kể về
tình yêu lãng mạn nhưng cũng đầy bi kịch giữa Romeo Montague – một chàng trai
lương thiện, tốt bụng – và Juliet Capulet – một cô gái xinh đẹp, thánh thiện và thơ ngây.
Tóm tắt: Trong thành Verona của Italy, hai dòng họ Montague và Capulet vốn
có mối hận thù lâu đời. Bi kịch bắt đầu từ khi con trai của dòng họ Montague là
Romeo trà trộn và dạ tiệc hóa trang của nhà Capulet, chàng đã gặp nàng Juliet và hai
người yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tuy nhiên, do mối hận thù sâu sắc giữa hai
dòng họ, lại thêm sự cố khiến Romeo giết chết người họ hàng của Juliet là Tybalt,
nên hai người không thể đến được với nhau. Romeo bị trục xuất khỏi thành Verona,
còn Juliet thì bị gia đình ép gả cho bá tước Paris. Nhờ tu sĩ nhà thờ giúp đỡ, nàng đã
uống một liều thuốc ngủ để giả chết trong vòng 24 giờ, vì thế đám cưới giữa Juliet và
Paris lại trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mộ của gia đình. Nghe
tin nàng chết, Romeo đau đớn trốn về Verona. Khi ngắm nhìn dung nhan người yêu
thương đã khuất, chàng uống thuốc độc tự tử theo người mình yêu. Romeo vừa gục
xuống thì cũng là lúc thuốc của Juliet hết hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy và nhìn thấy
xác Romeo bên cạnh. Quá tuyệt vọng, nàng rút dao tự v ̀n.
Cái chết tang thương của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Họ đã xóa sạch
mối thù truyền kiếp và bắt tay hữu nghị. Nhưng những gì còn lại v ̀n là nỗi xót xa
cho một cuộc tình đẹp tựa bài thơ. Câu chuyện Romeo và Juliet không chỉ ngợi ca
tình yêu lãng mạn và trong sáng, mà nó còn gửi gắm thông điệp đầy tính nhân văn.
Quả thật, tình yêu trong ngần và đẹp tựa pha lê có thể làm tan chảy những gì là “thù
hận”, là “định kiến”, hay là bảo thủ truyền thống. Hành động của Spartacus là hành
động bi kịch của nô lệ cách mạng khác với nô lệ thuần túy và nô lệ thô bỉ.
Câu 10: Trình bày và phân tích nguồn gốc, bản chất, hệ quả và các hình
thức biểu hiện của cái Hài? Dẫn chứng một tình huống Hài trong đời sống hoặc trong nghệ thuật.
* Nguồn gốc:
Cái hài là sự ngụy tạo của một nội dung xấu trong một hình thức đẹp nhưng
lại bị phát hiện và tạo ra tiếng cười phê phán.
Cái hài từ một hiện tượng trong đời sống xã hội mà hệ quả của nó thường đem
lại tiếng cười. Tuy nhiên không phải tiếng cười nào cũng là hệ quả của cái hài. Có
những tiếng cười bắt nguồn từ tâm sinh lý hay bệnh lý.
Cái hài hước được hình thành từ khập khiễng, từ sự mâu thu ̀n:
- Sự khập khiễng, mất cân xứng (“so le”) về hình thức.
- Sự mâu thu ̀n ở hình thức và nội dung. * Bản chất: TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Cái hài là cái xấu nhưng không cam phận xấu. Để che đậy bản chất xấu xa, đồi
bại của nó cái hài đã tự khoác lên mình một bộ áo giả tạo bên ngoài là hiện thân của
cái đẹp để đánh lừa dư luận xã hội, để kéo dài sự tồn tại vốn đã lỗi thời của nó. Tuy
nhiên, dù cố tình che đậy hay bưng bít thế nào chăng nữa thì cuối cùng bản chất đích
thực của nó v ̀n bị lộ trần. Cái hài bộc lộ hàng loạt các mâu thu ̀n gay gắt giữa nội
dung và hình thức, giữa bên ngoài và bên trong, giữa bản chất và hiện tượng, giữa
khả năng và hiện thực… Người ta dùng tiếng cười để cảm nhận, đánh giá và phê
phán cái hài. Đây không phải là tiếng cười sinh lý giản đơn, tiếng cười vô thưởng vô
phạt mà là tiếng cười của lý trí, của trí tuệ mang ý nghĩa tố cáo quyết liệt. Tiếng cười
được sử dụng ở đây giống như một thứ vũ khí đấu tranh sắc bén nhằm lật mặt và công kích cái hài.
Cái hài được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau:
- Tự trào bằng cách thừa nhận khuyết điểm của mình và người thân, nói quá lên để làm cho mình tồn tại.
- Châm biếm, mỉa mai, tỏ thái độ nghiêm khắc, không đồng tình, phê phán đối tượng một cách sâu cay.
- Đả kích phê phán bằng thái độ quyết liệt, đấu tranh không chấp nhận cái xấu.
Cái hài trong nghệ thuật phải mang tính nhân văn, không cười trên nỗi bất hạnh của người khác.
* Biểu hiện:
Tiếng cười trong cái hài là vũ khí phê phán, mang tính nhân văn. Đặc trưng
tiếng cười của cái hài là tiếng cười của trí tuệ, là tiếng cười của ng chiến thắng, tiếng cười mang tính nhân văn
Tiếng cười của trí tuệ là phát hiện những hiện tượng chứa đựng sự khác biệt đã
tạo ra vô số những nghịch lý, những mâu thu ̀n mà không thể xếp đặt vào trong
những khuôn khổ của hiện tượng được coi là thống nhất và thuần nhất, theo thước đo
mà con người được giáo dục, được nhận biết
Tiếng cười của người chiến thắng là khi phát hiện được sự việc bị che đậy, ng
chiến thắng sử dụng tiếng cười
Sự khoan dung là khi phát hiện, chủ thể đã thể hiện sự cảm thông, bỏ qua và
không quan tâm đến, đó cũng chính là hình phạt nặng nề chứ không phải chỉ là mặc
kệ cho qua. Tiếng cười thể hiện thái độ sẵn sàng tiễn biệt quá khứ của 1 cái xấu (cái
quá khứ ko hẳn là cái xấu mà là cái không còn phù hợp nữa) 1 cách vui vẻ
Tiếng cười mang tính nhân văn là cái hài không đến từ sự khiếm khuyết cơ
thể, từ sự bất bình thường như là nỗi bất hạnh của ng khác
* Dẫn chứng: Phim Tiệc trăng máu - Khôi hài
- Mỉa mai, châm biếm: Hôn nhân trở thành nấm mồ của tình yêu → cưới nhau,
nhưng chưa học được cách ở bên nhau; Ngoại tình; sự vô tâm; Cái xấu - Cái đẹp
- Đả kích: cái nhìn về LGBTQIA+ TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
→ Mâu thu ̀n giữa nội dung và hình thức Mỹ học đại cương
Câu 11: Trình bày cấu trúc của ý thức thẩm mỹ. Vai trò của tình cảm, thế giới
quan và hệ tư tưởng trong đời sống thẩm mỹ?

* Cấu trúc của ý thức thẩm mỹ:
Những thành tố cơ bản hợp thành ý thức TM là cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu
thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ. -
Cảm xúc thẩm mỹ: Cảm xúc thẩm mỹ là cảm xúc được nảy sinh nơi con người
khi có một khách thể thẩm mỹ nào đó tác động tới. Cái bên ngoài (rung động trực
tiếp trước cái đẹp) → vô tư, không vụ lợi → tự nhiên xúc động là xúc động → làm
giàu cho đời sống tinh thần, là yếu tố giúp con người vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
+Tính liên tưởng: khi cảm xúc thẩm mỹ hình thành nó có tính liên tưởng, 3
dạng thức: nhớ về quá khứ (hồi tưởng, hoài niêm),̣ phóng chiếu tới tương lai, suy
ng ̀m, suy tư về hiêṇ tại.
+ Tính nhập cảm → đồng cảm với nhân vật → sân khấu “lấy cảm xúc” khán giả hay
“thức tỉnh” khán giả? -
Thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ (còn được gọi là óc thẩm mỹ, khiếu thẩm
mỹ, gu thẩm mỹ, sở thích thẩm mỹ) biểu hiện sự say mê, hứng thú đặc biệt của con
người trước một loại hiện tượng thẩm mỹ khách quan nhất định. Nếu cảm xúc thẩm
mỹ mang nặng tính chất cảm tính thì thị hiếu thẩm mỹ lại chứa đựng nhân tố lý tính.
Vì nó luôn gắn với lựa chọn và đánh giá của chủ thể trước đối tượng. Thị hiếu thẩm
mỹ là một hiện tượng phức tạp mà trong đó chứa đựng hàng loạt các mâu thu ̀n –
thống nhất: giữa cái riêng và chung; giữa cái cũ và mới; giữa xu thế hướng nội và
hướng ngoại...sự thể hiêṇ môṭnăng lực cảm nhân,̣ đánh giá, tiếp nhâṇ thẩm mĩ vào
trong chính bản thân đời sống của thẩm mĩ→ “sở thích tương đối ổn định của cá
nhân hay cộng đồng về phương diện thẩm mỹ” -
Lý tưởng thẩm mỹ → ước mơ, khát vọng đẹp sẽ có trong tương lai ( có ở trong
1 thi nhân đẹp, 1 công ̣ đồng đẹp) dần loại bỏ đi sự tiêu cực. Lý tưởng thẩm mỹ là
một bộ phận hợp thành của lý tưởng xã hội (bên cạnh lý tưởng chính trị,
lý tưởng đạo đức, lý tưởng luật pháp, lý tưởng tôn giáo, lý tưởng khoa học)
Lý tưởng thẩm mỹ là sự khát khao, mong mỏi của con người được vươn tới sự hoàn
thiện hoàn mỹ trong cuộc sống. Nói một cách khái quát, lý tưởng thẩm mỹ là lý
tưởng vươn tới cái đẹp. Lý tưởng thẩm mỹ của con người được biểu hiện ra sự hình
dung cụ thể trong đầu óc của họ về những m ̀u đời, m ̀u người, m ̀u vật, m ̀u việc
hoàn thiện hoàn mỹ mà họ khát khao có được. Lý tưởng thẩm mỹ không phải là cái
gì cao siêu hay xa lạ mà nó vốn thường trực trong đầu óc của mỗi chúng ta, trực tiếp
chỉ đạo mọi hành động sống của chúng ta. Bởi vì trước khi làm bất cứ điều gì con
người cũng hình dung ra trước cái kết quả tốt đẹp của công việc mình làm và phấn đấu hết mình cho nó. TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3 +
Nội dung của lý tưởng thẩm mỹ:
● Môi trường thiên nhiên Đẹp
● Cộng đồng xã hội Đẹp ● Một nhân cách đẹp
* Vai trò của tình cảm, thế giới quan và hệ tư tưởng:
- Cảm xúc thẩm mỹ trong cuộc sống và trong sáng tạo nghệ thuật: Mặc dù mang
nặng tính chất cảm tính nhưng cảm xúc thẩm mỹ lại giữ một vai trò rất quan trọng
trong đời sống tâm lý cá nhân, bởi lẽ nó là cơ sở để tạo dựng nên chiều sâu, sự phong
phú trong thế giới tâm hồn tình cảm của mỗi người. Thực tế xác nhận rằng người nào
càng giàu cảm xúc thẩm mỹ và cảm xúc thẩm mỹ của họ càng nhạy bén, tinh tế thì
họ càng có nhiều điều kiện thuận lợi để tạo nên cho mình một thế giới tâm hồn rộng
mở, phong phú, sâu sắc. Ngược lại người nào càng ít cảm xúc thẩm mỹ hoặc cảm
xúc thẩm mỹ của họ bị chai lì thì chắc chắn họ sẽ có một tâm hồn nông cạn, nhạt
nhẽo, trống rỗng. Trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật (bao gồm hoạt động sáng tác,
hoạt động biểu diễn, hoạt động cảm thụ) thì cảm xúc thẩm mỹ lại đặc biệt cần thiết.
Chinh cảm xúc thẩm mỹ đã tạo nên niềm say mê, sự hứng thú cho con người trong
toàn bộ quá trình hoạt động nghệ thuật. Và như vậy, nó trực tiếp ảnh hưởng tới chất
lượng của hoạt động nghệ thuật.
- Thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ liên quan trực tiếp và góp phần quan trọng
vào việc hình thành lối sống, phong cách sống của mỗi người. Vì vậy, để xây dựng
lối sống có văn hóa, nhân cách có văn hóa thì mỗi người cần có được một thị hiếu
thẩm mỹ lành mạnh, tiến bộ.
- Lý tưởng thẩm mỹ: Trong lĩnh vực sáng tác nghệ thuật thì lý tưởng thẩm mỹ giữ
vai trò quyết định bởi nó chi phối trực tiếp tới động cơ và mục tiêu sáng tác của người nghệ sĩ.
Câu 12: Trình bày khái niệm, tính chất, vai trò của thị hiếu thẩm mỹ. Đặc
trưng của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ?
* Khái niệm:
Thị hiếu là sở thích cá nhân, cá nhân có sở thích riêng về cái đẹp và cảm nhận cái đẹp.
Thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ (còn được gọi là óc thẩm mỹ, khiếu thẩm
mỹ, gu thẩm mỹ, sở thích thẩm mỹ) biểu hiện sự say mê, hứng thú đặc biệt của con
người trước một loại hiện tượng thẩm mỹ khách quan nhất định. Nếu cảm xúc thẩm
mỹ mang nặng tính chất cảm tính thì thị hiếu thẩm mỹ lại chứa đựng nhân tố lý tính.
Vì nó luôn gắn với lựa chọn và đánh giá của chủ thể trước đối tượng
* Tính chất của thị hiếu thẩm mỹ: Tính phản ứng mau lẹ:
Khi tiếp xúc với các hiện tượng thẩm mỹ ( trong đời sống và trong nghệ thuật
) nơi chứa đựng các phạm trù thẩm mĩ và những mặt đối lập, con người lập tức bộc
lộ thái độ một cách tự do, không e dè. TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Những con người từng trải, vốn văn hóa cao, năng lực thẩm mĩ và nghệ thuật
sâu sắc thì càng tự tin khi biểu lộ phản ứng và có cảm xúc mãnh liệt hơn. Tính hài hoà vô tư
Đó là sự đánh giá thẩm mỹ không vụ lợi, chỉ nhằm thỏa mãn lòng hâm mộ
của mình. Một thị hiếu vô tư giúp con người lựa chọn đúng các giá trị Chân – Thiện
– Mỹ. Con người phải chọn một giữa hai hướng: mơ mộng hay thực dụng. Mơ mộng
quá sẽ rơi vào phiêu lưu, không tưởng. Thực dụng quá d ̀n đến khô khan, nghèo nàn
cảm xúc trước vẻ đẹp của đối tượng, và khi chán nản thì đã muộn. Người thực dụng
sẽ không tránh khỏi dục vọng tầm thường.
Một thị hiếu vô tư là sự hài hòa giữa mơ mộng và thực tế.
Tính cá biệt và tính xã hội:
Mỗi cá nhân có sự thích thú khác nhau, xã hội được hình thành từ nhiều cá
nhân, không có nghĩa là một tập hợp lộn xộn các thị hiếu thẩm mĩ cá nhân. Đó là
những giá trị thẩm mĩ chung của cộng đồng, có tác dụng lôi cuốn, định hướng thị
hiếu thẩm mĩ cá nhân (nói cách khác, cá nhân chịu áp lực tự nhiên của xã hội ).
Nhưng đó là mối quan hệ hai chiều, biện chứng trong đời sống thẩm mỹ.
Một cá nhân nghệ sĩ sáng tạo ra những giá trị nghệ thuật, sau đó được cả cộng
đồng thừa nhận như một giá trị chung của xã hội, thậm chí của chung nhân loại.
Nhà triết học I.Kant, người đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về thị hiếu thẩm
mỹ, ông đã tuyệt đối hóa vai trò của thị hiếu thẩm mĩ cá nhân (cá biệt) . Ông lúng
túng không lý giải được sự song hành của cả hai loại thị hiếu đó. Ông cho rằng, sở dĩ
có thị hiếu thẩm mĩ xã hội là do ng ̀u nhiên nhiều người có cùng thị hiếu thẩm mỹ
với những cái đẹp phổ quát.
Mỹ học Mác- Lênin lý giải đúng đắn hơn: không có cá nhân nào sống tách
biệt xã hội mà hình thành được thị hiếu thẩm mỹ (hãy xem nhân vật Robinson
Crusoe trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Anh Daniel Defoe thế kỉ 19- khi sống
một mình trên đảo, anh ta hầu như chẳng có thị hiếu thẩm mỹ gì nữa !) . Thực ra,
trong cộng đồng tồn tại cùng lúc các thị hiếu cá nhân, thị hiếu giai cấp, thị hiếu xã
hội và thị hiếu nhân loại. Tính giai cấp:
Mỗi giai cấp có một thị hiếu riêng, nghĩa là, có quan niệm khác nhau về cái đẹp.
Quý tộc phong kiến ca tụng và ưa chuộng m ̀u người “yểu điệu thục nữ” , “liễu
yếu đào tơ”, “hào hoa phong nhã”, “nho nhã”. Người nông dân đề cao con người
khỏe mạnh thậm chí mập mạp, chất phác, có duyên. Ca dao “Mười thương” bộc lộ
quan niệm của nhân dân xưa về cái đẹp phụ nữ thôn quê (Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên, Ba thương má lúm đồng tiền . . . .).
Nhân vật Natasha trong tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình” của L.Tolstoi
mang cả vẻ đẹp của tiểu thư bá tước thượng lưu quý tộc vừa có vẻ đẹp cô thiếu nữ
làng quê Nga . Theo nhà văn, đó là sắc đẹp hài hòa, hoàn hảo nhất. Nhìn chung, nếu TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
so với giai cấp tư sản ưa chuộng vẻ đẹp hình thức, thậm chí thiên về thể chất, thì quý
tộc phong kiến ưa vẻ đẹp tinh thần hơn, cao nhã hơn.(Quan niệm thẩm mĩ của giới
quí tộc tinh tế, sắc sảo hơn tư sản. Vở hài kịch “Gã tư sản học đòi quý tộc” của
Moliere đã chứng minh điều đó). Tính dân tộc:
Trải qua lịch sử, mỗi dân tộc hình thành một thị hiếu thẩm mỹ riêng, có khi
trái ngược với dân tộc khác phương Đông: con rồng là đẹp đẽ cao quý, còn phương
Tây, con rồng là độc ác, xảo quyệt …). Nghệ thuật phương Tây ưa tả thực, chuẩn xác
khiến khán giả thán phục, còn nghệ thuật phương Đông ưa tạo “khoảng trống” và
ước lệ khiến cho người thưởng thức phải tưởng tượng và đồng sáng tạo. Mặt khác,
có những chuẩn mực chung về Chân – Thiện – Mỹ đặc biệt cái đẹp được cả nhân loại
công nhận. Chẳng hạn, màu xanh da trời được coi là màu hy vọng, ước mơ, hòa bình.
Màu đỏ hạnh phúc, màu trắng bình đẳng, màu đen tang tóc, buồn bã… Cành nguyệt
quế (olive) được coi là biểu tượng của chiến thắng vinh quang. Con chim bồ câu
tượng trưng ước vọng hoà bình .v.v… Tính thời đại:
Thẩm mỹ trang phục thay đổi theo mùa, theo lứa tuổi, theo mode (model), rất
hiếm có loại trang phục được ưa chuộng lâu bền như chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam,
bộ complet châu Âu … Chưa ai biết chiếc quần jeans Âu Mỹ sẽ còn tồn tại bao lâu.
Có những tác phẩm nghệ thuật vừa ra đời đã được trao ngày vòng nguyệt quế và
trường tồn mãi mãi. Lại có tác phẩm phải chờ đợi một thời gian dài mới bừng sáng,
vì nó đi trước thời đại (Hồng Lâu Mộng, Đường Thi, Truyện Kiều, nhạc cổ điển châu
Âu thế kỉ 18-19. Nhiều tác phẩm nghệ thuật sớm nở tối tàn.
* Vai trò của thị hiếu thẩm mỹ:
- Thị hiếu thẩm mỹ đông vai trò chủ đạo trong thưởng thức thẩm mỹ, góp phần tạo ra
khuynh hướng cá nhân và nhu cầu thưởng thức của chủ thể.
- Thị hiếu thẩm mỹ là cơ chế độc đáo bảo đảm cho chủ thể kết hợp và vận dụng các
tiêu chuẩn trong hoạt động đánh giá thẩm mỹ, biểu hiện như một tiêu chuẩn để đánh
giá dạng phán đoán “thích hay không thích”.
- Đóng vai trò trong sự sáng tạo thẩm mỹ, kích thích bên trong đối với hoạt động
sáng tạo, là một nhân tố hướng d ̀n chủ thể lựa chọn đề tài, chất liệu, hình thức,…
Góp phần tạo ra thiên hướng cá nhân, tạo ra phong cách độc đáo của cá nhân
- Tạo ra nhu cầu thưởng thức, trong đời sống hằng ngày thị hiếu thẩm mỹ của đông
đảo công chúng có sự tác động mạnh mẽ đến hoạt động sáng tạo thẩm mỹ, sáng tạo nghệ thuật.
- Thị hiếu thẩm mỹ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn ở nhiều lĩnh
vực khác của cuộc sống. Có thể kể ra như thẩm mỹ trong xây dựng, trang trí nội thất
nhà ở, trong văn hoá giao tiếp, … Cuộc sống chúng ta cần có những con người hiểu
biết về cái đẹp, từ đó mới có thể gìn giữ những nét đẹp truyền thống và tạo dựng
thêm những giá trị mới. TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
* Đặc trưng của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ:
- Bản chất của giáo dục thẩm mỹ theo quan điểm của mỹ học Mác – Lênin gắn liền
với các hoạt động sáng tạo, nghĩa là con người luôn hướng tới những giá trị mới.
Giáo dục thẩm mỹ làm hình thái năng động của chủ thể thẩm mỹ phát triển mạnh mẽ
và tự do trên cơ sở nhân sinh quan và thế giới quan đúng đắn. Mỹ học Mác – Lênin
khẳng định giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận hợp thành sự nghiệp giáo dục toàn xã
hội. Nó gắn bó chặt chẽ với giáo dục lao động, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần quốc tế và sự hài hoà giữa truyền thống với hiện đại, cá nhân với xã hội, thể xác
với tinh thần. Nhưng giáo dục thẩm mỹ có tính đặc thù khác với mọi phương tiện
giáo dục khác là ở bản chất của cái thẩm mỹ của nó. Tuy nhiên giáo dục thẩm mỹ và
các hình thức giáo dục khác có mối liên hệ biện chứng với nhau và đều có một mục
đích chung đó là sự hoàn thiện nhân cách con người.
- Giáo dục thẩm mỹ mang nội dung xã hội sâu sắc trước hết phải nói đến tính dân
tộc. Các chủ thể thẩm mỹ hưởng thụ, đánh giá và sáng tạo cái đẹp bao giờ cũng ở
một dân tộc nhất định. Xa rời nội dung tính dân tộc, giáo dục thẩm mỹ sẽ đánh mất
bản chất xã hội của nó.Mỗi dân tộc trong xã hội có giai cấp đều có những quan hệ
giai cấp khác nhau. Các tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ
của giai cấp đều phụ thuộc vào điều kiện sinh sống và mục tiêu giáo dục của giai cấp
đó. Trong xã hội có giai nhiều cấp khác nhau cùng tồn tại thì thước đo giá trị thẩm
mỹ bao giờ cũng thuộc về giai cấp thống trị.Tĩnh xã hội của giáo dục thẩm mỹ còn
gắn liền với tính thời đại, mỗi thời đại có mục tiêu, hình thức, biện pháp giáo dục và
xây dựng các chủ thể thẩm mỹ khác nhau. Thời nô lệ, phong kiến, tư bản và ngày
nay, các chủ thể đều mang dấu ấn của thời đại mình.
Câu 13: Phân tích, nhận định và dẫn chứng từ luận đề: Nghệ thuật là sự phản
ánh hiện thực cuộc sống con người bằng tình yêu rộng lớn – tình yêu đối với cái đẹp

Hiện thực cuộc sống con người có 3 mối liên hệ: giữa con người với tự nhiên,
với người khác (quan hệ xã hội) và với chính bản thân. Chính là phản ánh toàn bộ
những gì diễn ra trong ba mối quan hệ này. Đó chính là nội dung của nghệ thuật
(cuộc sống của con người). Do đó, phạm vi phản ánh của nghệ thuật vô cùng rộng.
Trung tâm của hiện thực là đời sống của con người. Hơn thế, con người là con người
xã hội. Nghệ thuật vì xã hội cũng chính là nghệ thuật vì con người. Hiện thực phong
phú vô cùng vô tận của tự nhiên và xã hội là đối tượng của nghệ thuật. Biélinski đã
từng xác nhận: tất cả thế giới, tất cả những bông hoa, màu sắc và âm thanh, tất cả các
hình thức của tự nhiên và đời sống đều có thể là những hiện tượng của thơ ca. Xác
định một phạm vi phản ánh rộng lớn như vậy của nghệ thuật là để khẳng định khả
năng to lớn của nghệ thuật trong việc miêu tả và phản ánh. Hay Chernychevski đã
khẳng định phạm vi của nghệ thuật bao hàm trong nó tất cả những gì có trong hiện
thực (trong tự nhiên và trong xã hội) khơi gợi được hứng thú của con người- không TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
phải với tư cách là học giả mà với tư cách là con người bình thường; cái mọi người
quan tâm trong đời sống-đó là nội dung của nghệ thuật.
Trong đời sống, con người có hai mối quan tâm lớn: mối quan tâm tới tự nhiên
và mối quan tâm tới xã hội. Tức chính là hai mối quan tâm đảm bảo cho con người
tồn tại và phát triển: quan hệ tự nhiên và quan hệ xã hội. Hai mối quan hệ này quay
quanh một trung tâm là con người. Chính những mối quan hệ trung tâm con người là
trung tâm chú ý của nghệ sĩ. Nếu như đối tượng của khoa học là sự vật, hiện tượng
tồn tại độc lập với ý thức con người thì đối tượng của nghệ thuật là tất cả những gì quan hệ với con người.
Chính vì yêu cuộc sống mà những nhà làm nghệ thuật đã tái tạo, tái hiện
những hiện thực để phản ánh cuộc sống. Qua đó gửi gắm những ước mơ, khát vọng
về cuộc sống hoàn thiện, cuộc sống tốt đẹp hơn -> mang tính lý tưởng. Có thể thấy,
nhà chính trị xem chiến tranh là sự xung đột tất yếu giữa hai lực lượng xã hội đối
kháng nhau về mặt lợi ích nhưng qua góc nhìn từ nghệ thuật chiến tranh là một sự
kiện, một tình huống để bộc lộ tính cách, số phận con người, để bộc lộ những lý
tưởng, khát vọng của con người dựa trên góc nhìn nhân đạo, tình yêu thương con
người, yêu cuộc sống. Nghệ thuật là tình yêu đối với cuộc sống, một cuộc sống
không đẹp nhưng nghệ thuật phải đẹp mặc dù trong khi tái tạo hiện thực cuộc sống
vào trong nghệ thuật, người nghệ sĩ không chỉ tái tạo mặt tối mà còn gián tiếp/trực
tiếp tái tạo nên một mảng sáng của cuộc sống vào trong nghệ thuật. Cho nên tính phê
phán trong nghệ thuật là một sự phê phán nhằm đi đến sự hoàn thiện chứ không đơn
thuần là phê phán đi đến sự huỷ diệt. Tất nhiên cái xấu cần được huỷ diệt, nhưng huỷ
diệt để làm gì thì câu hỏi này nghệ thuật cần có trách nhiệm trả lời.
Câu 14: Phân tích và dẫn chứng từ nhận định: Bản chất của nghệ thuật là
những giá trị của xã hội được đánh giá theo quy định của cái Đẹp

Bản chất của nghệ thuật là những thuộc tính, những yếu tố sự tồn tại bản chất
của nghệ thuật, không có những thuộc tính và yếu tố này thì bản chất của nghệ thuật
không tồn tại. Nó là những yếu tố thuộc tính quy định cho sự tồn tại, phát triển của
nghệ thuật. Cái đẹp được tạo ra mang giá trị của nghệ thuật (phụ thuộc vào thị hiểu
thẩm mỹ của con người) là cái đẹp được sự thừa nhận của công chúng. Ngoài ra bản
chất của nghệ thuật còn là những giá trị xã hội được đánh giá theo sự thiết định của
cái đẹp. Giá trị là những gì đáp ứng cho nhu cầu của con người xét từ tận cùng nhu
cầu xã hội là nhu cầu sống (Con người không có giá cả, khi gắn giá cả nô lệ). Giá trị
xã hội là các giá trị văn học, cuộc sống, kinh tế, xã hội, đạo đức, thẩm mỹ,... nói lên
giá trị của con người, nói lên nhu cầu, những gì đáp ứng nhu cầu, khát vọng sống của
con người. Nó là giá trị của giá trị. Là những giá trị xã hội được đánh giá theo quy
định riêng của tình cảm. Cái đẹp biểu trưng cho những giá trị vậy nên cái đẹp trong
nghệ thuật là giá trị của giá trị - giá trị của đời thường thăng hoa lên thành giá trị của thẩm mỹ. TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Tại sao người ta thấy mình không đẹp? Do người ta không thấy ở thứ đó sự
đáp ứng nhu cầu sâu xa của bản thân họ: yếu tố chủ quan tác động hệ giá trị khác
nhau. Ở trong mối quan hệ khác có nhu cầu khác.
Hay ở Phương Đông quan niệm da trắng là đẹp có những người phụ nữ tìm
đến các loại kem trộn…
Câu 15: Phân tích và dẫn chứng từ luận điểm: “Bản chất của nghệ thuật là
những giá trị của xã hội được đánh giá theo quy luật riêng của tình cảm”

Giá trị XH là các giá trị văn học, cuộc sống, kinh tế, xã hội, đạo đức, thẩm mỹ,
…=> nói lên giá trị của con người, nói lên nhu cầu, những gì đáp ứng nhu cầu, khát
vọng sống của con người.
Bản chất của nghệ thuật là những giá trị của xã hội được đánh giá theo quy
luật riêng của tình cảm không đánh giá theo chuẩn mực của khoa học bởi nhận thức
thẩm mỹ khác với nhận thức khoa học. -
Thẩm mỹ là đánh giá trên góc độ cảm xúc -
Giá trị thẩm mỹ được tạo ra trên cơ sở của giá trị xã hội
Nghệ thuật là những giá trị xã hội được đánh giá theo quy luật riêng của tình cảm.
Có công chúng nghệ thuật thì có tồn tại nghệ thuật, không có công chúng thì nghệ
thuật chết. Tác phẩm không có ai nhớ đến là tác phẩm chết.
Lý tính có đúng và sai. Nghệ thuật có Thích hay không
thích Cảm xúc -> Hành động
Câu 16: Trình bày định nghĩa, đặc trưng và vai trò của hình tượng nghệ thuật
* Định nghĩa:
Hình tượng nghệ thuật (tiếng Anh: image) là phương thức chiếm lĩnh, thể hiện
và tái tạo hiện thực theo quy luật của tưởng tượng, hư cấu nghệ thuật. Là một
phương thức phản ánh, đặc biệt riêng có của nghệ thuật. Tính hình tượng là sự liên
kết giữa các yếu tố nhằm tạo nên chính thể mang tính sinh động của nó, biểu hiện
bên ngoài và trực quan (Nó đem lại một hình ảnh cụ thể, sinh động) về một sự vật,
chủ thể nhằm truyền tải ý nghĩa.
Sự phân tuyến giữa thế giới nghệ thuật và thực tại cuộc sống, chính nhờ hình
tượng nghệ thuật mà ý thức nghệ thuật hàm chứa nhiều tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của cuộc sống thật.
Hình tượng nghệ thuật là kết quả của sự tưởng tượng, → Như vậy, hình tượng
nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong
Hình tượng nghệ thuật thể hiện tập trung các giá trị nhân học và thẩm mỹ của
nghệ thuật, Vì những lẽ trên, cấu trúc của hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng là suy
thống nhất cao do giữa các mặt đối lập: chủ quan - khách quan, lý trí và tình cảm, cá
biệt và khái quát, hiện thực và lý tưởng, tạo hình và biểu hiện, hữu hình và vô hình.
Và cũng chính vì những lẽ trên, hình tượng còn là một quan hệ xã hội - thẩm mỹ võ TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
cùng phức tạp. Nghệ thuật có thể cho con người nhận thức về chân lý, chân lý có thể
trực quan được thông qua hình trọng nghệ thuật.
Có thể nói hình tượng nghệ thuật là sự kiến tạo nghệ thuật. Hình tượng nghệ
thuật có yếu tố cần thiết có được ở hình thức truyền tải của nghệ thuật nên khi nói
hình tượng nghệ thuật, bức tranh được truyền tải hiện ra giữa thế giới nghệ thuật và
thế giới thực tại giúp liên kết giữa cuộc sống của người xem, trải nghiệm và thế giới
tâm tư. Hình tượng nghệ thuật là mối liên hệ nhận thức cảm tính và chiều sâu trong nhận thức.
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa 3 cấp độ (222 - tâm lý - vật chất)
mà thực chất là 2 cấp độ tinh thần và vật chất.
Tinh thần: cảm xúc của người nghệ sĩ và người tiếp nhận
Vật chất: ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc... sự kết hợp của chúng — vật chất hóa
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất của ba cấp độ: tư tưởng - tình cảm -
hình tượng → sự liên kết chất liệu.
Hình tượng - ý đồ: phát huy tính tưởng tượng của người nghệ sĩ (vạch ra
đường viền cơ bản của tác phẩm).
Hình tượng - cảm thụ; có tình cảm biến trong cảm thụ và có tính bất biến trong
hình tượng. Vấn đề ở đây là ý nghĩa lịch sử - xã hội đặt ra trong tác phẩm.
Hình tượng - tác phẩm: là sự thống nhất giữa tinh thần và vật chất làm nên sự
tác động toàn vẹn của nghệ thuật. * Đặc trưng:
Hình tượng nghệ thuật gắn liền với đời sống:
Nhắc đến hai chữ nghệ thuật đôi khi người ta nhầm tưởng nó là hiện thân của
những cái hoa mỹ, diễm lệ, của những thứ lãng mạn, viển vông, xa rời thực tế,
nhưng thực chất nghệ thuật luôn đi liền với đời thực, nó bám sát cuộc sống, nó dựa
hơi người, đời, vật để nảy sinh, tồn tại và trường tồn cùng thời gian. Nghệ thuật luôn
gần gũi với cuộc đời, sống trong cuộc đời, phát triển theo nhịp sống của cuộc đời
như một người bạn đồng hành tận tụy, một người thư ký trung thành của thời đại.
Hình tượng nghệ thuật tái hiện cuộc sống nhưng lại không đơn thuần là sao
chép y nguyên những hiện tượng có thật mà là tái hiện một cách có chọn lọc, sáng
tạo thông qua tài năng và trí tưởng tượng của nghệ sĩ, bằng sự khéo léo và tinh tế của
mình, họ biến những sự vật dù tầm thường nhất trở thành các hình tượng đẹp có sức
truyền cảm mạnh mẽ, mang những ấn tượng sâu sắc đến với người cảm thụ.
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất của cái cụ thể, cá biệt, cảm tính với cái khái quát.
Đây là nét đặc trưng tiêu biểu nhất và dấu hiệu dễ nhận biết nhất của hình
tượng nhưng đồng thời cũng quan trọng nhất để phân biệt sự khác nhau giữa hình
tượng và khái niệm. Mọi sự vật, hiện tượng trong thể giới khách quan đều tồn tại ở
dạng riêng biệt, là một cá thể độc lập, cụ thể. Ngay chính bản thân con người cũng
tồn tại là những cá nhân cụ thể, độc đáo, không lặp lại. Song không phải vì thế mà TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
chúng sống tách rời, riêng rẽ, mọi sự vật hiện tượng chỉ có tồn tại được khi chúng
được đặt trong mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác xung quanh. Vì vậy,
trong mỗi hiện tượng, sự vật cá biệt đều chứa đựng sự thống nhất giữa hai mặt đối
lập nhau: cái chung và cái riêng. Nghĩa là, nó mang những dấu hiệu cụ thể, cá biệt,
không lặp lại ở những hiện tượng khác, lại vừa mang những đặc điểm bản chất đại
diện cho những hình tượng cùng loại, điển hình cho loại của mình. Một người nghệ
sĩ xuất sắc hay một nhà bác học tài năng cũng đều phải biết nắm bắt những gì chủ
yếu thuộc về bản chất của sự vật, hiện tượng, để biết tập trung sự chú ý của mình vào
những sự kiện, những quá trình của sự vật, hiện tượng mà trong đó bộc lộ đầy đủ
nhất ý nghĩa của đối tượng mình nghiên cứu và khám phá.
Điều này được thể hiện rất rõ trong lĩnh vực văn học: “Chí Phèo” của Nam
Cao là một tác phẩm điển hình với hai hình tượng nhân vật tiêu biểu là Chí Phèo và
Bá Kiến. Bằng ngòi bút sắc bén của mình, Nam Cao sử dụng ngôn từ để vẽ lên chân
dung Chí – một anh nông dân lành như cục đất, thế nhưng từ bốn bức tường lao lý ra
cuộc đời Chí đã trở thành một “con quỷ” của làng Vũ Đại. Chí mang những nét tính
cách riêng, cá biệt mà chẳng ai có được: hắn mãi chìm sâu trong cơn say, ngủ trong
lúc say. Cứ mỗi lần say là hắn chửi, tiếng chửi của hắn trở thành nỗi ám ảnh trong
lòng người đọc. Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí như một chân dung điển hình
cho những người nông dân bế tắc lâm vào bước đường cùng để rồi mất dần đi cả
nhân hình, nhân phẩm, họ phản kháng lại xã hội, phản kháng lại bất công của cuộc
đời bằng con đường lưu manh hóa. Bên cạnh chân dung một anh Chí lưu manh là
hình ảnh của Bá Kiến – tên Lý trưởng hách dịch. Nam Cao đã dựng lên chân dung
tên địa chủ với những nét vẽ sinh động, đầy ấn tượng và mang tính điển hình cao:
giọng quát “rất sang”, “cái cười Tào Tháo”, giọng nói “ngọt nhạt”, những thủ đoạn
thống trị khôn ngoan “mềm nắn rắn buông”, “nắm thằng có tóc không ai dám thằng
trọc đầu”, bóp người ta thì “chỉ bóp đến nửa chừng”, “hãy ngấm ngầm đẩy người ta
xuống sông rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”,… Tất cả những chi tiết trên đã đủ để Bá
Kiến trở thành hình tượng điển hình cho bọn địa chủ, cường hào phong kiến của xã
hội cũ với bản chất gian hùng, nham hiểm, độc ác và cáo già.
Từ chính đặc điểm này mà hình tượng nghệ thuật có khả năng tái hiện lại
cuộc sống một cách hoàn chỉnh và toàn vẹn. Vậy nên, khi tiếp xúc với những tác
phẩm nghệ thuật, ta như được tận mắt chứng kiến, được tham gia vào câu chuyện đời
thực mà tác giả đề cập.
Bằng những hình tượng cụ thể, sinh động mang tính điển hình, nghệ thuật đã
truyền đến con người không chỉ những thông tin, những kiến thức mới mẻ về cuộc
sống mà còn đem đến cho họ những xúc cảm mới lạ, gọi dậy những tình cảm thiêng
liêng khiến con người ta nghĩ tốt và sống đẹp hơn, có ích hơn.
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan.
Nghệ thuật là hình ảnh của cuộc sống khách quá được phản chiếu qua đôi
mắt chủ quan của người nghệ sĩ đa cảm, tinh tế, sâu sắc . Nghệ thuật là hình ảnh của TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
cuộc sống khách quá được phản chiếu qua đôi mắt chủ quan của người nghệ sĩ đa
cảm, tinh tế, sâu sắc. Trong nghệ thuật, yếu tố chủ quan chi phối đến cả quá trình
sáng tạo của tác giả, hơn thế tính chất chủ quan còn in dấu rõ nét trên mỗi tác phẩm
nghệ thuật, và chính điều đó làm đã làm nên phong cách riêng của người nghệ sĩ.
Nghệ thuật phản ánh thế giới khách quan qua cái nhìn chủ quan của người nghệ sĩ.
Vì vậy, trong một tác phẩm nghệ thuật luôn có sự hòa quyện không thể tách rời của
hai yếu tố khách quan và chủ quan.
Ví dụ: Tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố. Tác phẩm xoanh quanh nhân vật
chính là chị Dậu và gia đình đang trong mùa sưu thuế; một điển hình của cuộc sống
bần cùng hóa do sưu cao thuế nặng mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam.
Tác phẩm Tắt đèn không chỉ phản ánh được sự hống hách, bất nhân, tàn nh ̀n của bộ
máy quan lại đương thời, mà còn cho thấy những phẩm chất cao quý của người nông
dân, được coi là những kẻ ở dưới đáy xã hội qua hình ảnh chị Dậu. Dù họ có bị tầng
lớp thống trị lấn át, và dù cuộc sống của họ có tăm tối, cùng qu ̀n đến mức nào cũng
không thể khiến họ đánh mất những đức tính cao đẹp vốn có, nhưng đồng thời cũng
thể hiện sức phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ của những người nông dân nghèo. Và
dù khi câu chuyện kết thúc, chị Dậu v ̀n không thoát khỏi cuộc đời tăm tối của mình,
nhưng qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ, Ngô Tất Tố đã nêu lên một quy luật tự nhiên
rằng: ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh, và có lẽ đoạn trích trên chính là dấu hiệu
báo trước cho cuộc cách mạng năm 1945.
Như vậy, trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ đặt tình cảm
chủ quan của bản thân vào trong chính hình tượng mình xây dựng. Hình tượng nghệ
thuật do đó không chỉ phản ánh hiện thực mà còn biểu hiện thái độ chủ quan của
người nghệ sĩ đối với hiện thực ấy.
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa lý trí và tình cảm:
So với những hình thái ý thức xã hội khác, nghệ thuật có sức tác động kỳ
diệu đến tư tưởng, tình cảm của con người . So với những hình thái ý thức xã hội
khác, nghệ thuật có sức tác động kỳ diệu đến tư tưởng, tình cảm của con người. Sự
ám ảnh kỳ lạ của nó có thể khiến cho con người ta dù ở thế hệ nào, thời đại nào, tầng
lớp nào cũng đều bị cuốn theo những ấn tượng về xúc cảm đó, để rồi cứ thế say mê,
thèm muốn hai chữ “nghệ thuật”. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý trí và tình cảm là
nhân tố đưa các tác phẩm nghệ thuật trở thành những kiệt tác trường tồn cùng thời
gian. Một tác phẩm càng chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc thì càng dễ đi vào lòng
người vì vậy mà càng dễ chiến thắng cái khắc nghiệt của không gian và thoát khỏi
quy luật bào mòn của thời gian.
Chắc hẳn không ít người đã từng rơi nước mắt khi đọc những trang văn
cảm động viết về cảnh đời bất hạnh, hẳn không ít người thấy bâng khuâng xao xuyến
khi nghe một bản nhạc hay về tình quê, tình người, hẳn không ít người phải bàng
hoàng, thờ th ̀n khi đứng trước những bức tranh làm sống dậy một thời tuổi thơ đẹp
đẽ,… Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều mang đến cho người cảm thụ chúng những cảm TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
xúc riêng, có quen, có lạ, có tốt, có xấu, điều đó không chỉ phụ thuộc vào cách diễn
đạt của người nghệ sĩ mà còn ở cái cách tiếp nhận của mỗi người… Và, mang được
cảm xúc của mình truyền đến mọi người, đó chính là thành công lớn nhất của người nghệ sĩ.
Từ tất cả những điều trên, ta có thể khẳng định một cách khái quát rằng, trong
hình tượng nghệ thuật, tình cảm không những đối lập với lý trí mà chúng còn có
quan hệ trống nhất chặt chẽ với nhau. Tình cảm được kiểm định bằng lý trí, lý trí
mượn tình cảm để đi vào lòng người. Đó là sự kết hợp hoàn hảo giữa tình cảm và lí
trí trong một chỉnh thể nghệ thuật.
Hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ
Ước lệ là biện pháp tái hiện sự vật, hiện tượng bằng hình tượng có tính quy
ước. Nghệ thuật được hiểu là một cách thức mô phỏng lại cuộc sống. Song, dù phản
chiếu cuộc sống chân thực đến đâu nghệ thuật cũng không thể mất đi yếu tố sáng tạo,
tưởng tượng trong mỗi tác phẩm mà tất cả những yếu tố ấy gọi chung là tính ước lệ
của hình tượng. Không có tính ước lệ, nghệ thuật sẽ chỉ là một bản sao đơn điệu của
cuộc sống, sẽ chỉ là cái khuôn đúc khô cứng không có hơi thở của sự sống. Nghệ
thuật tái hiện cuộc sống một cách có chọn lọc, có sáng tạo bằng hoạt động hư cấu
trong qua trí tưởng tượng của nghệ sĩ. Kết quả của quá trình đó là những hình tượng
nghệ thuật mang tính ước lệ. Người nghệ sĩ thực sự tài năng là người có thể mang cả
cái hơi thở phập phồng của sự sống vạn vật vào trong tác phẩm của mình.
Cuộc sống luôn vận động và phát triển nó không bị giới hạn bởi không gian
và thời gian, trong khi nghệ thuật lại chịu sự chi phối về giới hạn của ngôn từ. Mà
nhiệm vụ của nghệ thuật là phải khái quát được phạm vi rộng lớn của hiện thực cả về
chiều rộng và chiều sâu mà v ̀n không phá vỡ tính hoàn chỉnh, toàn vẹn của tổng thể
tác phẩm. Bởi vậy, sự xuất hiện của tính ước lệ như một lối thoát cho người nghệ sĩ.
Bằng hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, người nghệ sĩ có thể thả sức sáng tạo.
Song, tính ước lệ không đồng nghĩa với việc xa rời thực tế, càng không hề đồng
nghĩa với việc xuyên tạc sự thực, chân lí. Ngược lại, nhờ tính ước lệ mà nghệ thuật
có thể phản ánh chân thực cuộc sống, nhờ tính ước lệ mà bản chất cuộc sống được
thể hiện một cách đầy đủ về cả chiều rộng và chiều sâu.
Hình tượng nghệ thuật mang tính đa nghĩa:
Nghệ thuật là một trong những lĩnh vực sáng tạo phức tạp nhất của con người
để phản ánh thực tại. Sản phẩm của quá trình sáng tạo đó là những hình tượng nghệ
thuật chứa đựng trong bản thân nó sự thống nhất biện chứng giữa các mặt đối lập:
hiện thực khách quan hòa nhập với thế giới chủ quan; tình cảm được soi sáng trong
lý trí; sự thật cuộc sống được phản ánh trong cái ước lệ, tượng trưng,... Sự thống nhất
giữa các mặt đối lập đã làm cho hình tượng nghệ thuật trở thành một tín hiệu đặc biệt
chứa đựng những thông điệp về cuộc sống, lưu giữ những tín hiệu chồng chéo về cuộc đời. TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490 lOMoAR cPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Bởi vậy, một hình tượng nghệ thuật có thể đem đến cho người thưởng thức
những cách nhìn nhiều chiều, những cách lý giải ở nhiều góc độ khác nhau. Đó chính
là tính đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật. Tính đa nghĩa cũng là một trong những
đặc điểm nổi bật làm nên tính khác biệt giữa hình tượng nghệ thuật với các khái
niệm khoa học. Nếu như khái niệm khoa học chỉ có một nghĩa và phải rõ ràng thì
trong nghệ thuật, một hình tượng được coi là điển hình và xây dựng thành công là
khi nó có khả năng chứa đựng, bao hàm nhiều tầng nghĩa mà khi càng tìm hiểu người
ta càng phát hiện ra những lớp ý nghĩa sâu xa hơn. Đôi khí có những ý nghĩa còn
nằm ngoài ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ. Nguyên lí “Tảng băng trôi” của
Hemingway là một khẳng định vững vàng cho tính đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật. * Vai trò:
Chính nhờ hình tượng nghệ thuật mà ý thức nghệ thuật hàm chứa nhiều tư
tưởng. cảm xúc, tình cảm của cuộc sống thật.
Hình tượng nghệ thuật là mối liên hệ nhận thức cảm tính và chiều sâu trong
nhận thức. Truyền tải thông điệp, nghệ thuật tới ng xem, tái hiện thực tại trong cuộc sống TIN HỌC MINH LONG
tinhocfighterminhlong@gmail.com
(+84) 39 940 0000; (+84) 32 899 3490