



















Preview text:
  lO M oARcPSD| 45467232
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM  lO M oARcPSD| 45 4672 32
Câu 1: Phân tích sự khác nhau giữa hai loại hình văn hóa gốc, lí giải nguyên nhân.  TIÊU CHÍ 
VĂN HÓA NÔNG NGHIỆP  
VĂN HÓA DU MỤC  
(chủ yếu ở Phương Đông) 
(chủ yếu ở phương tây) 
Địa hình, khí hậu Đồng bằng, nóng, ẩm, thấp 
Thảo nguyên, lạnh, khô, cao 
Nghề nghiệp Trồng lúa nước  Chăn nuôi du mục  chính 
Cách sống (nơi ở) Định cư, nhà ở ổn định 
Du cư cắm trại, lều tạm bợ 
Quan hệ với tự  Gắn bó, hòa hợp  Chiếm đoạt, khai thác  nhiên  Ăn uống  Đồ ăn thực vật.  Đồ ăn động vật 
Quan hệ xã hội 
trọng tình, trọng đức, trọng văn, Trọng lý (nguyên tắc), trọng tài, 
trọng nữ, dân chủ, trọng tập thể 
trọng võ, trọng nam giới, trọng cá  nhân 
Giao lưu đối 
Hiếu hào, dung hợp, mềm dẻo 
Hiếu chiến, độc tôn, cứng rắn  ngoại 
Đặc điểm tư duy 
Chủ quan, cảm tính, kinh nghiệm, Khách quan, lí tính, thực nghiệm, 
tổng hợp và biện chứng.  phân tích và siêu hình 
Văn hóa nghệ 
Thiên về thơ, nhạc trữ tình 
Thiên về truyện, kịch, múa sôi  thuật động   
Xu hướng khoa 
Thiên văn, triết học, tâm linh, tôn 
Khoa học tự nhiên, kỹ thuật  học  giáo  Khuynh hướng 
Thiên về văn hóa nông thôn 
Thiên về văn minh thành thị  chung      
Nguyên nhân: do những đặc trưng về điều kiện khí hậu, tự nhiên hình thành nên những 
phương thức sản xuất khác nhau quy định các loại hình văn hóa khác nhau.      lO M oARcPSD| 45467232
Câu 2: Hãy chứng minh rằng văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc  nông nghiệp. 
Văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp được thể hiện trong những nét  đặc trưng sau: 
Người Việt thích sống định cư ổn định nên đã hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng  nội. 
Cư dân nông nghiệp Việt Nam rất sung bái tự nhiên, luôn mong muốn mưa thuận gió hòa 
để có cuộc sống no đủ. 
Cuộc sống định cư tạo cho người Việt tính cố kết cộng đồng cao, lối sống trọng tình nghĩa, 
tôn trọng, đề cao vai trò của người phụ nữ, coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn cơ sở khách 
quan và tri thức khoa học, lối ứng xử mềm dẻo linh hoạt. 
Câu 3: Hãy chỉ ra các cơ sở hình thành và quá trình hình thành văn hóa truyền 
thống Việt Nam. 
Nền văn hóa truyền thống VN là sản phẩm của một quá trình lịch sử lâu dài, từ buổi đầu 
dựng nước cho đến đầu thế kỉ 19, đó là quá trình tương tác giữa tự nhiên và xã hội. Văn 
hóa truyền thống VN được hình thành từ những nền tảng văn hóa bản địa và tiếp thu với 
những nền văn hóa bên ngoài để tạo nên 1 bản sắn văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân  tộc. 
-Nền tảng văn hóa bản địa: 
+Văn hóa Đông Nam Á thời tiền sử: chia làm 2 giai đoạn: thời đại đá cũ và thời đại đá mới 
có niên đại cách chúng ta khoảng 20000 năm đến 7000 năm, là giai đoạn hình thành những 
nền tảng đầu tiên của nền văn hóa Đông Nam Á, các cộng đồng người sinh tụ trên những 
địa bàn nay thuộc lãnh thổ Việt Nam đã có những đóng góp xuất sắc, tiêu biểu cho tiến 
trình này, được ghi nhận bởi sự tồn tại của nền văn hóa tiêu biểu: thời đại đá cũ và thời đại  đá mới. 
+Văn hóa bản địa Việt Nam thời sơ sử: là thời kì hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên của 
Việt Nam, Văn Lang – Âu Lạc kéo dài trong khoảng 2000 năm TCN, trên nền tảng của 
nền văn minh lúa nước và văn minh đồ đồng cùng với sự hình thành và phát triển của nhà 
nước Văn Lang – Âu Lạc, đã định hình và phát triển 1 nền văn hóa bản đại Việt Nam – văn 
hóa Đông Sơn – đỉnh cao của văn hóa dân tộc thời sơ sử.      lO M oARcPSD| 45467232
-Tiếp thu văn hóa ngoại sinh: 
Trong 10 thế kỉ đầu công nguyên, Việt Nam đã có cuộc tiếp xúc và giao lưu văn hóa với 2 
nền văn hóa lớn của phương Đông là Trung Hoa và Ấn Độ đã dẫn đến sự thay đổi cấu trúc 
văn hóa bản địa thời sơ sử để hình thành cấu trúc văn hóa Việt Nam thời phong kiến. 
-Tiếp xúc văn hóa với Trung Hoa – sự du nhập của Nho giáo. 
-Giao lưu văn hóa với Ấn Độ - sự du nhập của Phật giáo. 
-Sự xâm lược của thực dân Pháp gần 100 năm đã tạo nên cuộc giao lưu văn hóa giữa Việt  Nam và phương Tây. 
Văn hóa truyền thống được hình thành trên cở sở văn hóa nông nghiệp.nền văn hóa truyền 
thống Việt Nam là sản phẩm của một quá trình lịch sử lâu dài, từ buổi đầu dựng nước cho 
đến cuối thể kỷ 19. Trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội, các cộng 
đồng cư dân sống trên lãnh thổ Việt Nam đã sáng tạo nên các đặc trưng văn hóa, để rồi qua 
thời gian, các đặc trưng ấy đã kết tụ nên bản sắc riêng của dân tộc, được biểu hiện trong 
lối sống, thói quen, cáh tư duy, ứng xử…,được trao quyền qua nhiều thế hệ, và đến nay 
vẫn còn chi phối sâu sắc đến đời sống của xã hội Việt Nam hiện đại. 
-Tầng văn hóa bản địa hình thành từ thời tiền sử và sơ sử. 
-Tầng văn hóa ngoại sinh gồm những yếu tố văn hóa được tiếp nhận qua quá trình tiếp xúc 
và giao lưu với 2 nền văn hóa lớn của Phương Đông là Trung Hoa và Ấn Độ trong 10 thế  kỉ đầu công nguyên. 
Câu 4: Hãy chỉ ra khả năng của người Việt trong việc tận dụng và ứng phó với 
môi trường tự nhiên thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất. 
Khả năng của người Việt trong việc tận dụng và ứng phó với môi trường tự nhiên thể hiện 
ở lĩnh vực văn hóa vật chất là: 
Văn hóa sản xuất vật chất đó là quá trình cải tạo và chinh phục tự nhiên, chinh phục đầm 
lầy, lấn biển đắp đê chống lũ tạo thành những vùng đồng bằng chân thổ chuyên canh lúa 
nước một cách ổn định. 
Văn hóa ẩm thực thể hiện trong cơ cấu bữa ăn của người Việt thường có 3 thành phần 
chính: cơm, rau, cá, văn hóa ẩm thực của người Việt mang tính tổng hợp, tính cộng đồng 
và tính mực thước ngoài ra còn thể hiện tính linh hoạt trong ăn uống theo mùa, theo vùng      lO M oARcPSD| 45467232
miền biểu hiện của lối ứng xử thích nghi của nền kinh tế tiểu nông tự túc tực cấp. Văn hóa 
trang phục vừa là cách ứng phó với tự nhiên vừa là cách làm đẹp, chú trọng tính bền chắc, 
kín đáo, ưa màu sắn âm tính. 
Văn hóa ở và đi lại thể hiện trong việc ứng phó với tự nhiên biểu hiện ở chỗ: chọn vật liệu 
làm nhà, kiến trúc nhà, không gian ngôi nhà, chọn đất chọn hướng nhà. 
Văn hóa đi lại: chú trọng đường thủy và kém phát triển về đường bộ do sông ngòi chằng 
chịt nền kinh tế tự cung tự cấp và lối sống nông nghiệp định cư. 
Câu 5: Hãy phân tích thái độ ứng xử văn hóa của người Việt với môi trường xã 
hội thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất. 
Đó là việc coi trọng nông nghiệp, chính sách khuyến nông tích cực, khuyến khích khai 
hoang, mở rộng diện tích canh tác, bảo vệ sức kéo trong văn hóa sản xuất vật chất. Trong 
văn hóa ẩm thực thể hiện ở tính cộng đồng và tính mực thước, bữa ăn của người Việt là ăn 
chung nên người Việt rất thích trò chuyện nên qua đó cũng thể hiện thái độ ứng xử ý tứ 
mực thước chừng mực trong ăn uống. Ngoài ra trong văn hóa ẩm thực còn thể hiện tínhb 
linh hoạt theo mùa, theo vùng miền, cách chế biến và lựa chọn món ăn và trong dụng cụ  ăn đó là đôi đũa. 
Trong sự ứng xử với môi trường xã hội, trang phục của người Việt luôn thể hiện vẻ kín  đáo, tế nhị. 
Kiến trúc nhà ở mang tính cộng đồng, giao thông đi lại chủ yếu bằng đường thủy nên văn 
hóa cũng gắn liền với những phương tiện đi lại, coi đó như là nền tảng cho thái độ ứng xử 
văn hóa với môi trường xã hội. 
Câu 6: Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết Âm dương –Ngũ hành với sự hình 
thành các triết lý sống của con người. 
Từ thuyết Âm dương – Ngũ hành, người Việt đã hình thành nên những triết lí sống: 
+Triết lý về sự cân xứng, cặp đôi, người Việt quan niệm âm dương luôn tồn tại trong sự 
cặp đôi tương xứng, cân bằng âm dương thì sự vật mới hoàn thiện, trọn vẹn, vững bền hợp  qui luật. 
+Triết lý sống quân bình, hài hòa âm dương, quan niệm trạng thái tồn tại tối ưu của mọi sự 
vật từ tự nhiên đến xã hội là sự cân bằng, hài hòa âm dương, từ đó người Việt sống theo      lO M oARcPSD| 45467232
triết lý quân bình, cố gắng duy trì trạng thái âm dương bù trừ nhau trong cuộc sống. Ngoài 
ra người Việt thường tự bằng lòng, an phận với những gì mình đang có, không hiếu thắng. 
+Triết lý sống lạc quan: vận dụng qui luật âm dương vào trong cuộc sống, người Việt 
thường có cái nhìn bình tĩnh, lạc quan trước mọi sự biến. Tuy nhiên, nếu lạc quan thái quá 
sẽ dẫn đến thái độ tiêu cực, phó mặc cho số phận, không nỗ lực cố gắng hết mình. 
Câu 7: Ứng xử của người Việt với Phật giáo và vai trò của Phật giáo trong đời 
sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay. 
Phật giáo VN có hơn 2000 năm lịch sử, từ khi du nhập Phật giáo đã được người Việt bản 
địa hóa, khiến nó nhanh chóng cộng sinh để hòa mình trong dòng chảy văn hóa dân tộc tạo 
nên sắc thái riêng của Phật giáo VN. Biểu hiện: 
+Khuynh hướng nhập thế: cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sinh. 
+Tính tổng hợp: là 1 trong những đặc tính của tư duy nông nghiệp thể hiện ở sự dung hợp 
Phật giáo với các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa. Tổng hợp giữa các tong phái 
của Phật giáo, dung hợp Phật giáo với các tôn giáo khác. 
Đối với người dân Việt, Phật giáo có sự ảnh hưởng sâu rộng, ngôi chùa là nơi giáo dục đạo 
đức và lòng hướng thiện, nơi an cư của tâm hồn, là trung tâm sinh hoạt cộng đồng và cũng 
là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã có lịch sử lâu đời. 
Câu 8: Ứng xử của người Việt với Nho giáo và vai trò của Nho giáo đối với đời 
sống tư tưởng và văn hóa tinh thần của người Việt 
Nho giáo được dùng để xây dựng hệ tư tưởng, đạo đức, pháp luật, giáo dục, qua đó xây 
dựng nhân cách của con người. Người Việt coi trọng tư tưởng trung quân phải gắn liền với 
ái quốc, các khái niệm nhân nghĩa cũng bị khúc xạ qua lăng kình người Việt, làm nhẹ tư 
tưởng trọng nam khinh nữ. 
Trong quá trình tồn tại, nho giáo đã trở thành nền tảng tư tưởng chi phối đến mọi hoạt động 
của đời sống xã hội Việt Nam biểu hiện trên các lĩnh vực: cách tổ chức thể chế nhà nước, 
hệ thống giáo dục, thi cử, xây dựng mô hình nhân cách của con người theo chuẩn mực đạo  đức nho giáo. 
Câu 9: Đặc trưng của văn hóa làng và tác động của nó đến sự hình thành lối 
sống và cách tư duy, ứng xử của người Việt truyền thống. + Đặc trưng của văn  hóa làng:      lO M oARcPSD| 45467232
- Tính cộng đồng: là sự liên kết, gắn bó chặc chẽ, giữa các gia đình, gia tộc, giữa các 
thành viên trong làng với nhau, là ứng xử trong mối quan hệ giữa các thành viên  trong làng với nhau. 
- Tính tự trị: là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa làng này với làng khác, do tính cố 
kết cộng đồng cao khiến cho mỗi làng trở thành 1 đơn vị độc lập, khép kín, co cụm 
lại, trong không gian khá biệt lập của mỗi làng tạo nên tính chất tự trị của làng.  + Tác động của nó: 
Tạo nên lối sống khép kín, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn, hoạn nạn, cả làng có 
chung tập tục văn hóa, giữa các thành viên trong làng tạo nên tính cố kết chặc chẽ, bên 
cạnh những mặt tốt thì nó còn để lại nhiều điều tiêu cực như tạo nên tư tưởng bè phái, dựa 
dẫm, ỷ lại, cào bằng, đố kị, thủ tiêu ý thức về người cá nhân. Tư tưởng tiểu nông tư hữu, 
ích kỉ, bề phái, địa phương cục bộ…. 
Câu 10: Mối quan hệ giữa văn hóa làng với sự hình thành ý thức quốc gia dân 
tộc của người. 
+ Lòng yêu nước và ý thức độc lập dân tộc chính là sự mở rộng tính tự trị làng xã ở cấp  quốc gia. 
+ Tinh thần đoàn kết dân Việt. 
Ý thức quốc gia dân tộc của người Việt là sự mở rộng, phát triển từ đặc trưng của văn hóa  làng. 
Dân tộc trong công cuộc chống thiên tai, địch họa chính là sự biểu hiện của tính cộng đồng 
làng xã, bắt nguồn từ sự gắn bó tương trợ giúp đỡ lần nhau về kinh tế, chia sẽ tình cảm  giữa dân cư trong làng 
Trong tâm thức của mỗi người Việt, gia đình- làng- nước đã tồn tại như 1 khối thồng nhất 
trong mối liên hệ máu thịt khó có thể chia tách.        lO M oARcPSD| 45467232 Đề 1 
Câu 1: Anh (chị) hãy nêu những mặt mạnh, đồng thời cũng có thể là điểm yếu 
của bản sắc văn hóa Việt Nam? 
Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc, có thể hiểu vốn văn hóa dân tộc hay bản sắc văn 
hóa dân tộc là hiện tượng kết tinh, là thành quả tổng hợp của một quá trình sáng tạo, tiếp 
xúc văn hóa, nhào trộn cái vốn có, riêng có của dân tộc, với những cái tiếp thu từ bên ngoài. 
Khái niệm bản sắc văn hóa là sự tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó lối sống, quan hiệm 
sống, tính cộng đồng là yếu tố then chốt; mà lối sống, quan niệm sống ấy cũng lại là một 
hệ thống, kết quả sự tổng hòa của muôn vàn yếu tố nhỏ hơn. Người Việt Nam có nền văn 
hóa riêng. Giao tiếp ứng xử hợp tình, hợp lý áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng 
sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa 
phải, chiếc áo dài rất được phụ nữ Việt Nam ưa chuộng có vẻ đẹp nền nã, dịu dàng, thướt 
tha, nhiều câu ca dao, tục ngữ khi nói về kinh nghiệm sống, ứng xử rất đề cao sự hợp lý 
hợp tình: khéo ăn thì no khéo co thì ấm, ở sao cho vừa lòng người ở rộng người cười, ở 
hẹp người chê, lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Tính 
cộng đồng, tính đoàn kết của dân tộc cũng là một điểm tốt tuy nhiên, cũng từ đó dễ sinh ra 
tính ỷ lại, đố kị, hẹp hòi, thà “ xấu đều còn hơn tốt lỏi” trải qua hàng ngàn năm nô lệ giặc 
tàu, hàng trăm năm nô lệ giặc tây nhưng bản chất dân tộc vẫn giữ được một nét riêng không 
bị “ đồng hòa” không tiếp nhận những ảnh hưởng bên ngoài, những ảnh hưởng lan đến từ 
các nền văn minh, văn hóa lớn, vừa đủ khả năng tiếp thu trên cơ sở gạn lọc và thu giữ. Tư 
duy văn hóa Việt Nam thiên về tổng hợp, biện chứng, nặng nề về cảm tính hơn lý tính dẫn 
đến khoa học chậm phát triển, chú ý nhiều hơn đến hình thức, văn hóa Việt Nam xa lạ với 
sự cực đoan, không chấp nhận sự cực đoan, và riêng việc không chấp nhận điều đó đã thể 
hiện một bản lĩnh đáng trân trọng. Tuy nhiên, cũng do bản chất cực đoan ấy đã dẫn đến 
việc, không tiếp nhận các luồng văn minh từ bên ngoài, dẫn đến khoa học chậm phát triển, 
đây cũng chính là mặt mạnh và điểm yếu của bản sắc văn hóa Việt Nam. 
Tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc, hiểu rõ mặt mạnh, mặt yếu của nó rất có ý nghĩa đối với 
việc xây dựng một chiến lược phát triển mới cho đất nước, trên tinh thần làm sao phát huy 
được tối đa mặt mạnh vốn có, khắc phục được những được nhược điểm dần dần thành cố      lO M oARcPSD| 45467232
hữu để tự đi lên. Tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc dĩ nhiên cũng gắn liền với việc quảng 
bá cái hay. Cái đẹp của dân tộc để “góp mặt” cùng năm châu, thúc đẩy sự giao lưu lành 
mạnh, có lợi chung cho công việc xây dung một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển, 
nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta cảm nhận được những điều gợi mở quý 
báo đó với tiền đồ phát triển của dân tộc. 
Câu 2: Theo các anh chị các khái niệm đạo đức Nho giáo của Việt Nam khác gì 
so với khái niệm nho giáo Trung Hoa. 
Ở Trung Hoa, nho giáo có cà một lịch sử vận động lâu đời qua các thời đại, từ nẩy sinh đến 
tiếp biến, phái sinh với những nội dung mang tính lịch sử cụ thể hóa ở từng thời đại. Ở Việt 
Nam nho giáo cũng có quá trình vận động, tiếp biến, phái sinh, nhưng điều cần nói là khái 
niệm nho giáo lạ có phần khác với Trunh Hoa. Ở Trung Hoa, nho giáo khác với lão giáo, 
khác Mặc gia, khác Pháp gia. Nhưng ở Việt Nam nho giáo lại là khái niệm mở. Dường như 
nó ôm mọi thứ được viết bằng tiếng Hán, cũng gọi là chữ nho. Ngày trước nói học chữ nho 
là học đủ thứ của văn hóa Trung Hoa bao gồm nho giáo. Nhà nho đồng nghĩa với nhà Hán 
học. Nho giáo đã được du nhập vài Việt Nam cùng cuộc xâm lăng của nhà Hán. Nhưng 
còn quy luật thứ hai là quy luật của tự thân văn hóa nằm ngoài chính trị. Ở đây chỉ muốn 
nói một vấn đề thuộc khái niệm đạo đức của Nho giáo Trung Hoa khác gì với nho giáo  Việt. 
Trong văn chương quan niệm “Văn dĩ tải đạo” chính là sản phẩm truyền thống của văn hóa 
phương Đông, trong đó có vai trò rất lớn của nho giáo, với đặc trưng lấy đức làm đầu. Có 
thể nói trong học thuyết đã có của nhân loại từ xưa nay, không một học thuyết nào coi trọng 
vấn đề đạo đức, trước hết là đạo đức cá nhân, coi trọn vần đề tu thân bằng nho giáo, chức 
năng giáo huấn vốn lấy đạo lý làm nền tảng, có ý nghĩa nhân văn cao cả vẫn không ít 
nguyên lý đạo đức cứng nhắc, đen trắng lẫn lộn như trong đạo tao cương thậm chí phản 
nhân văn như trong đạo tam tùng, các aun điểm coi rẻ phụ nữ. 
Xét về khía cạnh đạo đức giữa nho giáo Trung Hoa và Việt Nam, Nho giáo gốc Trung Hoa 
là trung quân, trung với họ, với một triều đại có câu” quân xử thần tử thần bất tử bất trung” 
hay câu “ phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu”. tư duy nho giáo Trung Hoa nói chung nặng 
về tính phục tùng về lý tính, về tính chừng mực. Trong khi nho giáo Việt Nam vốn mang      lO M oARcPSD| 45467232
tính hỗn hợp giữa tư tưởng và tình cảm giữa lý tính và cảm tính, giữa nhận thức và cảm 
thức, luôn có lòng yêu nước, thuông dân, trung với nước, hiếu với dân. Lời mở đầu “ Bình 
ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi” Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ 
bạo” ( học thuyết nhân nghĩa), hoặc hai câu thơ mở đầu Truyện Kiều của Nguyễn Du “ 
Trăm năm trong cõi người ta/ chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” ( thuyết tải mệnh tương 
đồ), và hai câu thơ mở đầu truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu: “ Trai thì trung 
hiếu làm đầu/ Gái thì tiết hạnh làm câu sửa mình” ( đạo đức trung hiếu, tiết hạnh) là những 
dẫn chứng. Tất nhiên ở đây là sự ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa là không thể phủ nhận 
tuy nhiên về đạo đức nó vẫn giữ nét riêng của dân tộc. 
Nói cách khác nho giáo góp phần tạo nên giá trị đạo đức của bản sắc văn hóa Việt Nam 
trong các học thuyết của loài người, cố kim đông tây, không một học thuyết nào coi trọng 
vấn đề đạo đức con người vấn đề tu thân bằng nho giáo. Đặc biệt Nho giáo Việt Nam chủ 
trương lý tưởng trung với nước, hiếu với dân nêu cao tinh thần đoàn kết dân tộc và giáo 
dục con cháu theo truyền thống dân tộc. 
Câu 3: Thành ngữ “xấu đều hơn tốt lỏi” 
Câu này có lẽ do nhà tướng số dùng đầu tiên để nói rằng: các bộ phận trên mặt, trong người, 
hay các cung số tử vi đều xấu, nhưng đều đều với nhau, tức là tương đương, cân đối với 
nhau thì còn tốt hơn là có một chỗ khác xấu quá ( tốt lỏi, tốt không đều). Hay nói cách khác 
dùng để chỉ vợ chống con cái trong nhà ăn mặc xoàng xoàng như nhau, còn hơn là một vài 
người ăn mặc thật sang trọng, còn thì tất cả người khác trong nhà ăn mặc đói rách dù sao 
xấu cả nhà còn hơn là một người ăn mặc đẹp, điều này vừa mang tính cộng đồng vừa mang 
tính đố kị của người Việt ta. 
Người Việt có tính cần cù, mặt khác còn có thói xấu là tính tư hữu, ích kỉ( hơn ghen, bằng 
ghét, kém khinh) làm việc gì cũng muốn vun vén cho bản thân, thấy người khác hơn thì 
tức tối, đố kỵ kém thì cooi thường, neu1 không cũng thuộc diện “ an phận thủ thường” làm 
gì cũng sợ “ rút dây động rừng” 
Một nhược điểm khác của người Việt là thói cào bằng ỷ lại. muốn tất cả đều đồng nhất, 
giống nhau. Ví dụ thời bao cấp người nông dân làm cho hợp tác xã, 8 giờ sáng xã viên 
đủng đỉnh gọi nhau ra đồng, 10 giờ đã lũ lượt dắt trâu về. Cuối vụ, tính công điểm, người      lO M oARcPSD| 45467232
làm cũng như người không làm, từ suy nghĩ đó nó kích cầu cho cái quan điểm xấu đều hơn 
tốt lỏi, một quan niệm được sinh ra từ môi trường văn hóa tiểu nông có điều kiện hiện diện 
bùng phát, chi phối đời sống. Cái sự xấu đều ấy là tính tự phụ nó có sẵn cầm chân những 
ai cao hơn nó kéo tuột xuống cho bằng hoặc thấp hơn nó. Nó đắc ý, hả hê khi thấy người 
khác kém cỏi hơn nó. Vì thế khi cái sự xấu đều lấn sân thì đương nhiên cái tốt lỏi khó sống,  bị rẻ rung. 
Ở Việt Nam (80% dân số làm nông nghiệp) người dân sống phụ thuộc vào thiên nhiên. Họ 
sống cố định ở một chỗ, dưới một mái nhà với mảnh vườn của mình được bao bọc dưới 
lũy tre làng bảo vệ. Trong sản xuất, người nông dân phụ thuộc nhiều vào hiện tượng của 
tự nhiên như trời đất, nắng mưa… Sống phụ thuộc vào tự nhiên làm người nông dân rụt rè 
, thụ động. Trong quan hệ ứng xử giữa con người với nhau từ gia đình đến làng xóm đều 
theo nguyên tắc trọng tình( duy tinh) Hàng xóm sống cố định, lâu dài với nhau là một môi 
trường thuận lợi để người nông dân tạo ra cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tính nghĩa 
làm đầu:” một bồ cái lý không bằng một tý cái tình”. Do vậy người nông dân hết sức coi 
trọng tập thể, cộng đồng, lảm việc gì cũng phải tính đến tập thể. Lối sống sinh hoạt trọng 
tình, dân chủ là những đặc điểm tích cực, nhưng mặt trái của nó là đặc điểm tâm lý áp đặt, 
tùy tiện, tâm lý “hòa cả làng”. Làng xã Việt Nam như một vương quốc thu nhỏ với luật 
pháp riêng (hương ước) tạo nên một sự cố kết, bền vững của làng xã và cũng tạo nên tâm 
lý bè phái, địa phương, ích kỉ, tạo nên sự đồng nhất mà trước hết là trong dòng họ. Sự đồng 
nhất mà cơ sở là tính cộng đồng có mặt tích cực là làm cho mọi người luôn đoàn kết, tương 
trợ, giúp đỡ lẫn nhau (trong dòng họ trước hết) như” chị ngã em nâng”. Nhưng mặt trái của 
tính đồng nhất là ý thức về cá nhân bại thủ tiêu. 
Sự đồng nhất (going nhau) cũng như tính cộng đồng đã ăn sâu vào cách nghĩ của người 
dân, dẫn đến chỗ người Việt hiện nay nhiều khi có thói quen dựa dẫn, ỷ lại vào tập thể, vào 
số đông. Cũng từ đó một nhược điểm của họ là tâm lý cào bằng, đố kị, không muốn cho ai 
hơn mình, để cho tất cả mọi người đồng nhất như nhau “xấu đều hơn tốt lỏi”.  Đề 2 
Câu 1: Lịch sử văn hóa Việt Nam từ nguyên thủy đến hiện đại      lO M oARcPSD| 45467232 Gợi ý 
Lịch sử văn hóa Việt Nam từ nguyên thủy đến hiện đại 
Văn hóa Việt Nam thời nguyên thủy: Văn minh Văn Lang, văn minh dựng nước 
Văn minh Việt Nam thiên niên kỉ đầu công nguyên 
Lịch sử: -179 đến 938: Thời kì bị đô hộ bởi các triều đại phong kiến phương bắc và ngoan 
cường chống lại: Hán hóa 
Văn hóa: Việt Nam chỉ mất nước chứ không mất nhà: Lớp văn hóa bản địa được giữ vững  và phát triển. 
Văn hóa Việt Nam thời kì quốc gia tự chủ: 
Lịch sử: 938 đến 1858: Nước Đại Việt được thành lập 1054 và quốc gia Đại Việt phát triển 
mạnh mẽ chiến thắng kẻ thù phương Bắc 
Văn hóa bác học hình thành và phát triển 
Văn hóa Việt Nam từ 1858 đến 1945 
Lịch sử: nội chiến và Pháp xâm lược  Văn hóa 
Văn hóa hán dần suy yếu 
Giao lưu văn hóa Việt Pháp 
Văn hóa Việt Nam từ 1945 đến nay 
Lịch sử chiến đấu và chiến thắng Pháp Mĩ  Văn hóa 
Hội nhập sâu vào văn hóa thế giới 
Bản sắc văn hóa Việt Nam vẫn được giữ vững và phát huy 
Câu 2: Có người cho rằng” chức năng nhận thức là chức năng nền tảng trong 
các chức năng của văn hóa” Ý kiến của anh chị về vấn đề này như thế nào?  Bài soạn 
Văn hóa là một lĩnh vực kiến thức tích hợp, thu thập kết quả nghiên cứu của một loạt khoa 
học chuyên ngành ( nhân học văn hóa, nhân học xã hội, dân tộc học, xã hội học, tâm lí học, 
ngôn ngữ học, sử học…), cho nên việc muốn phân tích một sự việc ta phải thực hiện thông 
qua sự tổng hợp các phương pháp và mục đích nhận thức, tập hợp xung quanh một trung      lO M oARcPSD| 45467232
tâm: văn hóa và các bình diên của nó.Điều này đã cho phép tư duy lại nhiều quan niệm và 
khái niệm đang tồn tại trong khuôn khổ mỗi chuyên ngành hợp thành văn hóa. 
Sự nhận biết như vậy không có nghĩa là dẫn đến sự loại bỏ sự cần thiết thành những nhóm 
đặc biệt và nghiên cứu chuyên sâu các phương pháp phân tích của văn hóa. Trong hệ 
phương pháp của văn hóa học cũng áp dụng sự chia tách, phổ biến đối với các khoa học xã 
hội và nhân văn khác, là chia thành các phương pháp phục vụ cho việc nghiên cứu tri thức 
cơ bản và các phương pháp gắn liền với việc thu nhận tri thức kinh nghiệm. Bằng chức 
năng nhận thức, văn hóa thâm nhập vào bên trong của các hiện tượng và giá trị của nó, 
bằng cách này hay cách khác hướng đến quan điểm giá trị của khuynh hướng thực chứng. 
Nhiệm vụ chủ yếu là tìm ra các quy luật và nguyên tắc cho phép đi từ những qiu luật chung 
đến thấu hiểu các hiện tượng riêng. Chủ yếu là hướng tới việc làm rõ về mặt nhận thức các 
chức năng của văn hóa. Nổi bật những mối liên hệ nhân quả, khách quan bên trong nó, thấu 
hiểu một cách có phê phán các hiện tượng tinh thần của đời sống văn hóa. Ngoài ra tính 
nhân văn hết sức quan trọng trong văn hóa. 
Văn hóa có nhiều chức năng nhận thức được xem là quan trọng nhất, bởi vì qua nhận thức 
ta mới thấu hiểu được biểu hiện của cuộc sống từ đó mới thấy được cái đúng cái sai, cái 
đẹp xấu cái nên và không nên để từ đó nâng cao đời sống văn hóa, nâng cao ý thức giáo 
dục, thẩm mỹ của con người. 
Câu 3: Theo anh chị câu thành ngữ: “ở bầu thì tròn ở ống thì dài” có phải là sự 
thể hiện tính linh hoạt trong bản sắc văn hóa Việt Nam  
Là câu tục ngữ của cha ông ta để lại nói lên sự tự nhiên, bầu thì phải tròn, ống thì phải dài 
không thể nào thay đổi được. Là sự phù hợp và thích nghi của mọi vật trong tự nhiên và 
nói lên sự sống mãnh liệt của cây cỏ hay chính là sự sống của con người chúng ta vẫn có 
thể sống và tồn tại trong môi trường khắc nghiệt nhất, trong những hoàn cảnh đen tối,đau 
khổ. Chúng ta vẫn có thể sinh tồn mãnh liệt để thích nghi với cuộc sống với thiên nhiên. 
Để nêu lên một bài học, một kinh nghiệm trong cuộc sống, ông cha ta thường mượn hình 
ảnh một sự vật có liên quan đến con người để thể hiện ý chí của mình. Đó là quy luật của 
sự vật. Dựa vào thực tế cuộc sống của con người, ta thấy câu tục ngữ trên hoàn toàn đúng 
khi xét mối quan hệ giữa môi trường xã hội việc hình thành nhân cách của mỗi người.      lO M oARcPSD| 45467232
Nhưng trong vài trường hợp đặc biệt, có thể ở bầu mà không tròn ở ống mà không dài. Vì 
con người có khả năng vượt khỏi hoàn cảnh, chế ngự môi trường xung quanh và đó chính 
là sự linh hoạt của cha ông ta trong việc dùng ca dao tục ngữ để dạy con cháu. 
Ở bầu thì tròn, câu này ý muốn nói rằng tính cách, lối sống người ta một phần do thiên 
nhiên tạo ra. Đó là giáo dục, là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, là môi trường văn 
hóa, là cái nhà ta đang ở…nhưng nếu ta thích nghi và vươn lên thì trong mọi hoàn cảnh 
vẫn vượt qua được “ ở ống thì dài” có ý nghĩa rằng người ta luôn có khả năng thích ứng 
với môi trường của mình bằng cách” tự biến” dạng đi ở đâu thì phải teo phong tục, nếp 
sống ở đó, tùy theo hoàn cảnh mà lựa chiều ứng xử, ứng phó sao cho phù hợp. 
Ví dụ: đi đám tang thì không thể cười nói vui vẻ hay ăn mặc lòe lẹt như đi đám cưới được, 
khi chiến tranh ở trong vùng địch thì phải biết chiến thuật đánh du kích chứ không thể đánh 
chính quy như ở ngoài được. 
Ví dụ: những đứa trẻ mặc dù sinh ra ở những nơi có hoàn cảnh nghèo khổ, nhưng với sự 
phấn đấu hết mình, không đầu hàng số phận, thích nghi với mọi hoàn cảnh sống thì ta thấy 
sau này những đứa trẻ đó chắc chắn sẽ thành công trong cuộc sống. 
Từ xa xưa, trong cuộc sống lao động và chiến đấu của mình, nhân dân ta đã rút được biết 
bao bài học quý giá. Đó là những kinh nghiệm trong sản xuất, chiến đấu và cách ứng xử 
trong xã hội. Trong chiến tranh qua đó nhân dân càng đoàn kết hơn để đấu tranh chống 
giặc cũng như nền văn minh lúa nước qua việc làm thủy lợi, đắp đê thủy lợi khiến cho con 
người gần nhau hơn. Đó là cách nhìn nhận mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc 
hình thành nhân cách của mỗi người. 
“Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” có nghĩa là khi ở trong một xã hội nào đó thì ta sẽ bị ảnh 
hưởng bởi nó. Nó giống như câu tục ngữ “gần mực thì đen gần đèn thì sáng”. Ví như ta 
sống trong môi trường chỉ toàn người tót, thành đạt và làm được nhiều việc tốt cho xã hội, 
và ngược lại nếu ta chỉ sống trong môi trường chỉ toàn việc xấu, người xấu thì ta sẽ bị ảnh 
hưởng rất nặng. Vì qia câu tục ngữ này ông bà ta coi trong viêc chọn môi trường sống để 
sinh sống. Ngoài ra nó còn có nghĩa đen là ở nơi “bầu” có nghĩa là trái bầu thì tròn thì ta 
cũng ảnh hưởng của nó và ở “ống” thì dài do vậy ta cũng sẽ chịu tác động của môi trường.        lO M oARcPSD| 45467232 Đề 3 
Câu 1: Anh chị hãy giải thích vì sao người ta cho rằng văn hóa góp phần hoàn 
thiện con người trên ba phương diện “chân-thiện-mĩ”. 
Văn hóa tồn tại và vận độngtrong không gian dân tộc. Không có văn hóa chung thì các 
cộng đồng thiếu điểm tựa tinh thần để liên kết thành dân tộc, nhưng không có dân tộc thì 
không có văn hóa vì thiếu đi cái chủ thể để liên kết những giá trị sáng tạo chung. Thiếu đi 
không gian tồn tại của văn hóa. Trong phạm vi ảnh hưởng của mỗi con người, văn hóa là 
những yếu tố đã định hình, ổn định “ neo giữ” những giá trị chung, những giá trị chân – 
thiện- mĩ.Trên bình diện xã hội, văn hóa là kết quả của sự tương tác giữa các giá trị trong 
những quan hệ sống, là kết quả của sự tích lũy và kế thừa vừa là kết quả của sự sáng tạo và 
giao lưu, vừa là truyền thống vừa là cái hiện đại, vừa là cái bảo tồn vừa là cái phát triển. 
Ai đó đã nói” văn hóa là cái còn lại sau khi tất cả đã quên đi, là cái còn thiếu sau khi đã 
biết tất cả” đó cũng chính là nét chân thực của văn hóa. 
Văn hóa là tổng thê những giá trị mà con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt 
động thực tiễn nhằm cải biến tự nhiên, xã hội và bản than, tuy nhiên trong xã hôi hiện nay, 
sự xung đột giữa kinh tế và văn hóa đang hiện dần ra: Tham nhũng tràn lan, ô nhiễm môi 
sinh đến mức báo động, phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, ma túy và mại dâm 
phát triển vv. Ở bình diện vi mô, trong từng lĩnh vực xã hội, cái xấu đang bùng nổ. Chưa 
bao giờ chúng ta cần nói nhiều và nói đúng về vai trò của văn hóa như hiện nay nhưng 
cũng chưa bao giờ văn hóa cộng đồng lại bộc lộ những điểm yếu, sa sút như hiện nay. Đạo 
đức học đường, y tế xuống cấp. Con đánh mẹ, người giữ trẻ đánh đập trẻ, sinh viên tạt axit 
thầy giáo, cán bộ nhũng nhiễu người dân, người tham quan lễ hội thì cướp hoa, vv. Có điều 
gì đó bất ổn trong trạng thái đạo đức, lồi sống của xã hội, do đó hiện nay vai trò của văn 
hóa về việc giáo dục con người hoàn thiện chân thiện mỹ càng lớn hơn bao giờ hết. 
Văn hóa như một cơ thể sống, văn hóa là sản phẩm của con người, văn hóa giáo dục con 
người hường thượng, hường thiện, hướng mĩ, sống có nhân cách tử tế, văn hóa giúp cho 
con người biết sự sống đẹp, có thị hiếu thẫm mĩ lành mạnh, có khát vọng chân-thiện-mĩ 
của con người được cố định hóa trong các sản phẩm văn hóa sẽ thực hiện hóa các giá trị 
văn hóa, đặt chúng vào vận hành của đời sống, đảm bảo lưu thông , đảm bảo quá trình phát      lO M oARcPSD| 45467232
triển văn hóa là nơi chân-thiện-mĩ vận động và phát huy tác dụng. Văn hóa, theo cách hiểu 
của người trung hoa (biến đổi để đẹp) hay của người phương Tây (cultus: chăm sóc, vun 
trồng) đều hàm nghĩa tác động. 
Văn hóa có tính lan tỏa, do đó nó góp phần làm con người hoàn thiện thông qua cảm nhận 
về chân thiện mĩ, qua văn hóa, nó cung cấp cho con người chúng ta cái vô hạn của không 
gian, thời gian so với cái hữu hạn của cuộc sống con người, từ đó ta thấy con người thật là 
bé nhỏ, so với thế giới xung quanh, nếu không có văn hóa, con người chúng ta không được 
giáo dục, đạo đức sẽ bị suy đồi, qua văn hóa ta tiềm hiểu, được nhận thức những sự vật, 
hiện tượng quanh ta từ đó rút ra những kinh nghiệm để sống hướng thiện, sống chân thật 
và luôn hướng đến cái đẹp, tạo dựng một phong cách sống tốt, làm một người tốt và là một 
công dân tốt cho xã hội.   
Câu 2: Theo anh (chị) cấu trúc của văn hóa bao gồm những yếu tố nào? Trong 
đó yếu tố nào là yếu tố quan trọng nhất? Vì sao? 
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua 
lại giữa con người với xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, 
và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ 
khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình 
hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người 
và của xã hội được biểu hiện trong các kiển và hình thức tổ chức đời sống và hành động 
của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. 
Cấu trúc của văn hóa bao gồm:  +Văn hóa sản xuất +Văn  hóa vũ trang  +Văn hóa sinh hoạt 
Trong đó văn hóa sinh hoạt là quan trọng nhất, vì nó đề cập đến cuộc sống thường ngày 
của con người, trong khi đó các yếu tố kia thì không như thế. 
-Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra 
trong quá trình lịch sử, là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn đời sống tinh 
thần. Văn hóa sinh hoạt là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh. Điều      lO M oARcPSD| 45467232
này cho thấy tất cả những sáng tạo của con người trên nền của tự nhiên là văn hóa; nơi nào 
có con người nơi đó có văn hóa. 
+Như vậy những yếu tố cấu trúc văn hóa là một hệ thống hữu cơ bao gồm nhiều giá trị văn 
hóa cộng lại bao gồm các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua 
quá trình hoạt động thực tiễn, sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã 
hội của mình qua quá trình lao động sản xuất, đấu tranh chống lại thiên nhiên cũng như 
chống lại giặc ngoại xâm, cấu trúc văn hóa là bao gồm tất cả những giá trị vật thể do con 
người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. 
Tại nước ta mỗi vùng miền đề có nét văn hóa sinh hoạt riêng, ví dụ tại miền Nam: Ngày 
xưa, trên các cánh đồng vào mùa cấy, những nam thanh nữ tú của miền thôn dã đã lao vào 
công việc mệt nhọc, để giải khuây họ cất lên những câu hò đối đáp, hò đối đáp ở Nam bộ 
là một nét sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của người dân nơi đây. Hình thức 
điễn xướng dân gian này không những chỉ nhằm bộc lộ nỗi lòng mình với quê hương đất 
nước mà còn nhằm làm giảm bớt gánh nặng nhọc nhằn trong cuộc sống lao động để mưu 
sinh, đồng thời nó cũng là câu nói cho những đôi lứa yêu nhau, cùng nhau tạc dạ ghi lòng, 
mong có một ngày được gá danh nghĩa trăm năm. Tại miền trung thì Nhã nhạc cung đình 
Huế là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được thế giới công nhận, được 
trình diễn tại các lễ thường niên bao gồm các lễ kỉ niệm và những ngày lễ tôn giáo cũng 
như các sự kiện đặc biệt, tại Tây Nguyên thì có Không gian văn hóa cồng chiêng Tây 
Nguyên trải dài trên năm tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và 
Lâm Đồng. Tại miền Bắc thì có Quan họ Bắc Ninh là một trong những làn điệu dân ca của 
vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam; Hát ca trù (hay hát “ả đào”, hát “cô đầu”) là bộ môn 
nghệ thuật truyền thống của miền Bắc Việt Nam, rất phổ biến trong đời sống văn hóa sinh 
hoạt ở khu vực này từ thế kỉ 15. 
Câu 3: Câu thành ngữ sau đây nói gì về bản sắc văn hóa Việt Nam: “Đông tay 
hơn hay làm”.  BÀI SOẠN 
Ở Việt Nam, người nông dân sống phụ thuộc vào thiên nhiên rất nhiều. Họ sống cố định 
một chỗ, ở dưới một mái nhà với mảnh vườn của mình được bao bọc bởi lũy tre làng bảo 
vệ. Trong sản xuất, người nông dân phụ thuộc nhiều vào hiện tượng của tự nhiên như trời,      lO M oARcPSD| 45467232
đất, nắng, mưa… Bởi vậy mà họ rất tôn trọng, hòa thuận với tự nhiên và phụ thuộc vào nó. 
Sống phụ thuộc vào tự nhiên làm người nông dân dễ trở nên rụt rè, thụ động. Người Việt 
đã tích lũy được kinh nghiệm hết sức phong phú trong sản xuất. Đó là hệ thống tri thức thu 
được bằng con đường kinh nghiệm chủ quan, cảm tính. Trong quan hệ ứng xử giữa con 
người với nhau từ gia đình đến làng xóm đều theo nguyên tắc trọng tình (duy tình). Hàng 
xóm sống cố định lâu dài với nhau là một môi trường thuận lợi để người nông dân tạo ra 
một cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: Một bồ cái lí không bằng một 
tí cái tình, tính đoàn kết, tính cộng đồng được thể hiện rõ qua cách sống trọng tình, trọng 
nghĩa đã dẫn đến cách ứng xử hết sức linh hoạt và thích ứng nhanh với điều kiện hoàn cảnh 
cụ thể, đấu tranh với thiên nhiên “một cây làm chẳng nên non, ba cây chịm lại nên hòn núi 
cao”. Với nhu cầu sống hòa thuận trên cơ sở cái gốc là tình cảm giữa con người với nhau 
trong làng xóm càng làm cho lối sống linh hoạt trở nên đậm nét và chính là cơ sở tâm lý 
hiếu hào trong các mối quan hệ xã hội dựa trên sự tôn trọng và cư xử bình đẳng với nhau. 
Do vậy, người nông dân hết sức coi trọng tập thể, cộng đồng, làm việc gì cũng tính đến tập  thể. 
Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên. Do vậy, người nông dân phải dựa vào 
nhau để chống chọi lại với thiên tai. Hơn nữa, nền nông nghiệp lúa nước lại mang tính thời 
vụ rất cao, điều đó có nghĩa là mọi người phải liên kết lại với nhau, hỗ trợ nhau cho kịp 
thời vụ “đông tay hơn hay làm”. Do đó, tính cộng đồng là một đặc điềm tâm lý đặc trưng 
của bản sắc Việt Nam. Ở Việt Nam, làng xã và gia tộc (họ) nhiều khi đồng nhất với nhau. 
Bởi vậy, gia tộc trở thành một cộng đồng gắn bó và có vai trò quan trọng đối với người 
Việt. Sức mạnh của gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương yêu nhau. Người trong 
họ có trách nhiệm cưu mang, hỗ trợ nhau về vật chất, tinh thần và dìu dắt, làm chỗ dựa cho  nhau. 
Qua câu thành ngữ trên ta thấy bản sắc văn hóa có tính cộng đồng rất cao, dù sao nhiều bàn 
tay, nhiều cái đầu, nhiều khối óc hợp lại sẽ hơn một người dù có siêng làm cách mấy cũng  không sánh bằng.        lO M oARcPSD| 45467232 ĐỀ 4 
Câu 1: Trong các yếu tố của cấu trúc văn hóa, theo anh (chị) yếu tố nào gắn bó 
nhiều nhất với đời sống con người? Vì sao? BÀI SOẠN: 
-Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra 
trong quá trình lịch sử, là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn đời sống tinh 
thần. Văn hóa sinh hoạt là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh. Điều 
này cho thấy tất cả những sáng tạo của con người trên nền của tự nhiên là văn hóa; nơi nào 
có con người nơi đó có văn hóa. 
Trong cấu trúc văn hóa thì yếu tố văn hóa sinh hoạt gắn bó nhiều nhất với đời sống con 
người, vì đó là những nét văn hóa về: 
-Ăn mặc: đó là những nét riêng của văn hóa như đi đâu mặc gì, vào khung cảnh nào đó 
cũng là văn hóa, ví dụ vào lớp học thì không thề mặc áo hai dây và quần lững, cũng như 
khi đi dự đám tanh không thể mặc quần áo lòe loẹt. 
-Giao thông đi lại: khi ra đường đi xe dừng ngày đèn đỏ cũng là văn hóa, hoặc chạy xe 
đúng tốc độ không lấn đường cũng là văn hóa. 
Ngoài ra văn hóa còn các yếu tố của đời sống tinh thần như:  -Tín ngưỡng tôn giáo.  -Văn học nghệ thuật.  -Phong tục tập quán. 
Tóm lại văn hóa là những việc rất tầm thường như việc ta ăn mặc, đi lại và các phong tục 
tập quán xã hội, nhưng quan trọng là người có văn hóa chính là người biết ứng xử, vậy  thôi. 
Câu 2: Anh (chị) mối quan hệ giữa các chức năng của văn hóa?  BÀI SOẠN: 
Mối quan hệ giữa các chức năng văn hóa luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau, chức năng 
này sẽ bổ sung cho chức năng kia và hỗ trợ cho nhau. Bằng chức năng giáo dục, văn hóa 
bắt đầu dạy một đứa trẻ biết nhận thức, bằng nhận thực văn hóa thâm nhập vào bên trong 
của các hiện tượng và giá trị của con người, bằng cách này hay cách khác hướng đến quan 
điềm giá trị của khuynh hướng thực chứng. Nhiệm vụ chủ yếu là hướng tới việc làm rõ về 
nhận thức các chức năng của văn hóa, nêu bật những mối liên hệ nhân – quả, khách quan,      lO M oARcPSD| 45467232
bên trong của nó, thấu hiểu một cách có phê phán các hiện tượng tinh thần của đời sống 
văn hóa, từ đó hướng đến việc hoàn thiện con người trên phương diện chân thiện mỹ. 
Đúng – Sai thuộc về Chân. Xấu – Tốt thuộc về Thiện. Dở - Hay thuộc về Mỹ. Để giải thích 
cái Chân – Thiện – Mỹ như vậy cũng là một điều có thể tạm chấp nhận. Những cặp phạm 
trù ấy đã cơ bản nói lên được bản chất của vấn đề. Trong văn hóa các chức năng về chân 
thiện mỹ luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Bởi cái đẹp tuy đôi lúc khác nhau trong 
mỗi người, hoặc thay đổi theo từng thế hệ, nhưng cái đẹp đi cùng không gian, trường tồn  theo thời gian. 
“Mỗi chúng at đều có nhu cầu và ước muốn, vì vậy khi thương yêu ai ta có khuynh hướng 
nhìn vào người đó và hi vọng thấy được nơi người ấy những gì là chân, thiện, mỹ mà ta 
hằng tìm kiếm. Văn hóa cũng vậy nó luôn khao khát những gì chân thật, những gì thánh 
thiện, đẹp đẽ và tốt lành”. 
Một con người được xem là hoàn thiện thì nhất định người đó phải có giáo dục tốt, khi có 
giáo dục tốt thì chức năng nhận thức của người đó mới tốt, sau đó chức năng thẩm mỹ của 
người đó mới được xem là chân thiện mỹ là hoàn thiện. 
Câu 3: Theo anh (chị) câu thành ngữ sau đây “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” thể 
hiện điều gì trong bản sắc văn hóa Việt Nam? BÀI SOẠN: 
“Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” ở đâu thì phải theo phong tục, nếp sống ở đó, tùy từng hoàn 
cảnh mà lựa chiều cư xử, ứng phó sao cho phù hợp. Câu 1 là câu tục ngữ của cha ông ta để 
lại nói lên sự tự nhiên của cuộc sống bầu thì phải tròn, ống thì phải dài không thể nào thay 
đổi được. Là sự phù hợp của mọi vật trong tự nhiên. 
Câu 2 là nói lên sự sống mãnh liệt của cây cỏ hay chính là con người chúng ta vẫn có thể 
sống và tồn tại trong môi trường khắc nghiệt nhất, rong những hoàn cảnh đen tối, đau khổ. 
Chúng ta có thể sinh tồn mãn liệt để rồi hạnh phúc là những chùm hoa. Đừng đầu hàng  nghịch cảnh! 
-Ở bầu thì tròn! Câu này có ý muốn nói rằng tính cách, lối sống của người ta một phần do 
môi trường tạo nên. Đó là giáo dục, là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường 
văn hóa, là cái nhà ta ở…      lO M oARcPSD| 45467232
Thông thường mình đổ nước vào cái bầu (tròn) thì hình dạng nước sẽ tròn theo hình dạng 
thành bầu, trái lại nước có hình dạng dài nếu mình đựng trong ống hay tóm lại hình dạng 
của nước tùy thuộc vào vật chức nó. 
Những đứa trẻ sinh ra ở bất cứ nơi nào không phải là trời cho sự “ngu dốt” mà là do môi 
trường xung quanh của nó sống. Phần lớn các em trẻ ở vùng quê ngoài giúp đỡ cha mẹ 
nghèo còn thiếu thốn đủ mọi phương diện do đó mà làm sao phát triền và tiến thân được. 
Muốn phát triển sự phồn thịnh thì đừng phí phạm nhân tài và nhân tài thì ở chỗ nào cũng 
có, chỉ vì họ không có môi trương phát triển để đóng góp. 
Cũng lại có ý rằng người ta luôn có khả năng thích ứng với mọi trường của mình bằng cách 
tự “biến dạng” đi. Ở đâu thì phải theo phong tục, nếp sống ở đó, tùy theo hoàn cảnh mà lựa 
chiêu cư xử, ứng phó sao cho phù hợp, vd đi đám tang thì không thể cười nói vui vẻ hay 
ăn mặc lòe loẹt như đi đám cưới được, khi chiến tranh ở trong vùng địch thì phải biết chiến 
thuật đánh du kích chứ không thể đánh chính qui như ở ngoài được. 
Ở bầu thì tròn! Câu này có ý nói rằng tính cách, lối sống của người ta một phần do môi 
trường tạo nên. Đó là giáo dục, là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường văn  hóa, là cái nhà ta ở… 
Câu tục ngữ này của cha ông để lại nhằm dạy dỗ cách sống ở lành lánh dữ, và tránh xa môi 
trường hay người xấu dễ khiến ta bị nhiễm phải những thói xấu đó. Chứ không phải giống 
như câu ngưu tầm ngưu, mã tầm mã mà mọi người nói. Bạn chú ý và nên có bản lĩnh để 
sống sao cho “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. 
Từ xưa, trong cuộc sống lao động và chiến đấu của mình, nhân dân ta đã rút ra biết bao bài 
học qúy giá. Đó là những kinh nghiệm trong sản xuất, chiến đấu và cách ứng xử trong xã 
hội. Đó là cách nhìn nhận mối uan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành nhân cách 
của mỗi người. Để nêu lên một kinh nghiệm, một bài học trong cuộc sống, ông cha ta 
thường mượn hình ảnh một sự vật có liên quan đến con người để thể hiện ý chí của mình. 
Đó là quy luật của sự vật. Dựa vào thực tế cuộc sống của con người, ta thấy câu tục ngữ 
trên hoàn toàn đúng khi xét trong mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành 
nhân cach của mỗi người. Nhưng trong vài trường hợp đặc biệt, có thể ở bầu mà không