



















Preview text:
NỘI DUNG ÔN TẬP
Học phần: ĐẠI CƯƠNG VĂN HỌC DÂN GIAN I. Khái quát
1. Nguồn gốc, quá trình sáng tác văn học dân gian, tác giả văn học dân gian * Nguồn gốc
- Ai sáng tác VHDG không quan trọng, quan trọng là phương pháp,
phương thức sáng tác. VHDG không hẳn do người lao động sáng tác mà
do nhà nho sáng tác nhưng chỉ được truyền miệng. => Văn học truyền miệng, văn học dân gian.
- VHDG hình thành ở cấp độ thể loại bằng thời đại. Mỗi thể loại ra đời
gắn liền với từng thời đại. Thể loại sau kế thừa, tiếp nối, phủ định thể loại trước.
* Quá trình sáng tác VHDG * Tác giả VHDG
- Nhân dân: khái niệm lịch sử luôn biến đổi
- Nông dân: có đúng là chủ nhân sáng tác VHDG hay không?
=> Quy luật: cá nhân => cộng đồng
2. Đặc trưng văn học dân gian * Tính nguyên hợp
- Nguyên là ban đầu, hợp là kết hợp. Tính nguyên hợp là sự hòa lẫn, trộn
lẫn với nhau một cách tự nhiên, vốn có của nhiều yếu tố khác nhau khi
chưa được phân hóa - là tính chất chưa chuyên môn hóa của văn học dân gian.
- VHDG là một loại hình nghệ thuật nguyên hợp cả về nội dung lẫn hình
thức phản ánh khiến cho nó không chỉ là một hiện tượng văn học mà còn
là một hiện tượng văn hoá
+ Văn học dân gian là một thể loại của nghệ thuật ngôn từ.
+ Mặt khác, văn học dân gian còn là một thành tố của văn nghệ dân gian,
là một hiện tượng đặc biệt của văn hoá dân gian được sáng tạo một cách
thẩm mĩ, mang thuộc tính văn hoá, có các biểu hiện giá trị văn hoá.
Ví dụ: Thần thoại Thần trụ trời vừa là một tác phẩm nghệ thuật, bởi nó
phản ánh thế giới bằng hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ và trí tưởng tượng
phóng khoáng. Nó cũng là khoa học tự nhiên bởi nó giải thích các hiện
tượng gió mưa, ngày đêm bằng tất cả vốn tri thức của người nguyên thủy
( giải thích sự hình thành trời đất tự nhiên, có cả biển hồ sông núi,. .). Nó
cũng là triết học thô sơ vì nó bao gồm hệ thống tư tưởng và quan niệm về
tự nhiên và xã hội thời cổ, nó giải thích thế giới qua thế giới quan của
người xưa (là những quan niệm về nguồn gốc của thiên nhiên, vũ trụ,. .)
VD2: Truyện Sơn Tinh Thủy Tinh cũng như truyện Cóc kiện trời và
Truyện Chú cuội cung trăng đều là những sáng tác dân gian mang tính
nguyên hợp (vừa là văn học, vừa là khoa học, đồng thời cũng là tín
ngưỡng sùng bái các lực lượng tự nhiên) của người Việt cổ đại. Chúng
vừa phản ánh, lý giải, vừa thể hiện ước mơ, khát vọng chinh phục, chi
phối tự nhiên theo sự hiểu biết còn ít ỏi nhưng rất tinh nhạy và cách suy
nghĩ còn ngây thơ, ngộ nghĩnh nhưng rất táo bạo của con người thời nguyên thủy, cổ sơ.
- Chức năng chủ yếu của văn học dân gian không phải chức năng thẩm mĩ
mà là chức năng sinh hoạt, thực hành xã hội.
Ví dụ: Xét văn học dân gian trong tính chất phổ quát loại hình, ta có thể
nhận ra rõ đặc trưng nguyên hợp của thể loại thần thoại:
+ Sự ra đời của thần thoại từ nhu cầu sinh tồn của con người trong xã hội
nguyên thuỷ. => Các sáng tạo vô thức từ nhu cầu nảy sinh phát kiến. =>
Mở đầu cơn khát nhận thức muôn thuở có tính nhân loại => Thần thoại ra
đời trở thành kết quả của quá trình nhân hoá tự nhiên để giải thích thế
giới bằng hình tượng, bằng những khát vọng có tính nhân bản. (Hệ thống
quan điểm về thế giới)
+ Tôn giáo sơ khai, văn hoá buổi đầu
+ Nghệ thuật nguyên thuỷ (cái nên thơ nguyên sơ thần thoại)
=> Tính nguyên hợp trong “nhận thức nguyên hợp” của thần thoại
- Trong quá trình vận động, trải qua các thời đại đã có ngôn ngữ viết phát
triển đa phong cách, vẫn không phá vỡ được tính nguyên hợp của văn học
dân gian mà nó có sự lưu chuyển, biến đổi phức tạp và hết sức đa dạng.
+ Trong quá trình tự ngã nhận thức về con người, văn hoá dân gian nảy
sinh thần thoại; trong quá trình tự ngã nhận thức về tộc người và cộng
đồng dân tộc, VHDG nảy sinh sử thi, truyền thuyết anh hùng; trong
QTTNNT về thân phận con người, VHDG nảy sinh cổ tích, ca dao.
Ví dụ: Truyện cổ tích ra đời là chuyện của ước mơ muôn thuở, là tiếng
nói cho khát vọng không có thực của con người. Trong xã hội thực thời
phong kiến không có tiếng nói, họ gửi gắm vào truyện cổ tích những ước
mơ, khát vọng của mình như lời lên tiếng đấu tranh, tố cáo xã hội.
+ Đó là sự đa dạng, gặp gỡ của nhiều yếu tố.
Ví dụ: Thể loại chèo là sự kết hợp của ngôn từ (lời), âm nhạc (trống,
phách), mỹ thuật (trang phục, sân khấu),… VD2: Câu ca dao:
“Chàng buông vạt áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa Chợ trưa rau nó héo đi
Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em”
Nếu chỉ đọc ta không thể biết được cô gái sẽ ra về hay ở lại khi đứng giữa
bổn phận, trách nhiệm của người phụ nữ thời phong kiến bấy giờ và khát
vọng tình yêu. Ta chỉ thực sự cảm nhận trọn vẹn cái hay, cái đẹp trong
con mắt biết đưa tình với ai của người diễn xướng, tức phải đưa câu ca
dao vào ngữ cảnh văn hoá hát.
=> Ca dao cần nhiều yếu tố, chất liệu khác nhau. Đôi khi, chất liệu khác
lấn át, quyết định, định hướng việc tiếp nhận. Kết luận:
Khi phân tích thì phải xem xét tính chỉnh thể của các thành tố, đặt tác
phẩm vào trong hoàn cảnh diễn xướng, nghệ thuật ngôn từ cũng chính là
một dạng diễn xướng thấy được vẻ đẹp, sức mạnh của lời nói => Khiến
cho VHDG gần với ngôn ngữ hơn là văn học.
* Tính truyền miệng:
- Văn học dân gian xuất hiện từ thời kì chưa có chữ viết. Sự truyền miệng
của các sáng tác nghệ thuật ngôn từ của nhân dân đã trở thành tập quán
sinh hoạt, là một nhu cầu văn hoá tự nhiên mà văn học viết không thể thay thế.
- VHDG là sự truyền thừa có tính “chọn lọc tập thể” qua nhiều thế hệ:
+ Những tác phẩm dân gian là kết quả của quá trình dân gian hoá có tính
quy luật và vượt thoát vai trò cá nhân sáng tạo, trở thành những thông
điệp không có người phát và sống đời sống dân gian trong thể sống truyền miệng.
+ Một số tác phẩm có sự phát hiện tác giả cũng không thể thay đổi được
những biểu hiện về bản chất xã hội và đặc trưng nghệ thuật dân gian do
đời sống truyền miệng đem lại.
- Tính biểu diễn của các tác phẩm VHDG tồn tại trong diễn xướng dưới
dạng các phương thức truyền thống: nói, kể, hát, diễn.
+ Đó là cách thức truyền miệng đầy tính sáng tạo dân gian, biểu hiện đặc
trưng mĩ học dân gian và thể sống của VHDG
+ Người ta dùng 4 phương thức này để phân loại văn học dân gian.
+ Phương pháp sáng tác truyền miệng sẽ tạo ra thuật ngữ: Ứng tác- sáng
tác và biểu diễn ngay tại chỗ, không có sự chuẩn bị trước. Có nghĩa là
diễn xướng đồng thời là sáng tác cũng là biểu diễn:
● Truyền miệng là kĩ thuật sáng tác
● Truyền miệng là bản chất thẩm mĩ
● Truyền miệng là phương thức lưu hành
=> Truyền miệng là phương thức tồn tại của VHDG.
* Tính tập thể:
- Tập thể ở đây là “tập thể nhân dân”. Nhân dân là tác giả, là người tiếp
nhận, lưu truyền. Nhân dân cũng là những người tài hoa trong dân gian,
nhiều cá nhân sáng tạo tham gia vào quá trình sáng tạo tập thể, qua nhiều
thế hệ khác nhau . Sáng tác ấy, sau đó trở thành tài sản chung của tập thể
bởi phù hợp với tâm lý tập thể.
- Tính tập thể của văn học dân gian thể hiện trong 2 quá trình: quá trình
sáng tác, sàng lọc và quá trình tiếp nhận
+ Mỗi tác phẩm VHDG đều là kết quả của một hình thức đặc biệt của
sáng tạo. Quy luật thể hiện bản chất sáng tạo của VHDG.
Tác phẩm đầu tiên có thể do một người hoặc một nhóm người sáng tạo ra theo mô thức tập thể. VD: Công thức mở đầu - Thân em như - Rủ nhau - Đôi ta như thể - Chiều chiều
Sau đó qua nhiều địa phương, ở những khoảng thời gian khác nhau,
những người khác cũng tham gia quá trình sửa đổi, điều chỉnh tác phẩm.
Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên và ai đã tham gia vào
quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm. Điều này quy định nên tính vô danh
và tính dị bản của VHDG. Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu
tác phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của
dân gian, mọi người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về
quyền sở hữu tác phẩm. Đó là kết quả sáng tạo của tập thể nhiều đời,
được thế hệ bảo tồn, chọn lọc thẩm mĩ và không ngừng tái sáng tạo, có
đào thải, làm đầy, làm mới.
VD: Truyện kể “Thần trụ trời” có lẽ là một “huyền thoại văn chương”
được sáng tạo lại trên cơ sở tích hợp những mẩu kí ức về người khổng lồ
sáng thế đã trở thành kỉ niệm riêng của toàn dân tộc. Các lớp xã hội- lịch
sử trong truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thuỷ”
không phải được thu hút vào một văn bản cố định của một thời đã qua
trong cùng một toạ độ thời gian lịch sử dân tộc.
+ Tập thể nhân dân tiếp nhận tác phẩm và họ không có ý thức truy tìm
nguồn gốc của tác giả. Điều quan trọng đối với nhân dân khi lưu truyền
thông không phải là ai sáng tác mà là tác phẩm ấy nói gì? Nói như thế
nào? Có phù hợp với tư tưởng, tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của nhân dân
hay không? Tất cả những điều ấy thể hiện trong truyền thống của nhân
dân. Tác phẩm nào đi theo truyền thống, đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu
thì sẽ được lưu giữ. Bằng ngược lại, sẽ bị loại trừ.
- Tính tập thể còn được hiểu ở phương diện thẩm mỹ. Đối tượng của
những sáng tác văn học dân gian là toàn bộ những gì liên quan đến cộng
đồng tập thể. Và vì thế, văn học dân gian rất coi trọng tâm lý tập thể. Cơ
sở của tâm lý tập thể là tính tập thể của những hoạt động sản xuất, hoạt
động xã hội của con người trong những giai đoạn khác nhau của lịch sử nhân loại.
VD: Thánh Gióng được kết tụ từ những truyền thuyết của bộ lạc, thị tộc
và chuyển hoá thành truyền thuyết của dân tộc. Sở dĩ quá trình kết tụ và
chuyển hoá ấy thành công là do tâm lý cộng đồng dân tộc tạo nên một áp
lực mạnh giúp các nghệ sĩ dân gian có điều kiện nhào nặn tái tạo những
hình tượng từ ông Khổng Lỗ đến chàng Mộc Sanh, Lý Tiến… hoà nhập
vào hình tượng Thánh Gióng kỳ vĩ.
=> Tính tập thể biểu hiện trong quá trình sáng tác và lưu truyền tác phẩm,
trong nội dung, hình thức sáng tác và quyết định sự ra đời và tồn tại của tác phẩm.
3. Văn học dân gian trong nhà trường
Trong nhà trường Việt Nam, thuật ngữ VHDG là định danh một môn học
của khoa học ngữ văn. Có thể định nghĩa: Văn học dân gian cổ truyền là
toàn bộ các thể loại sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, được sáng
tạo và không ngừng tái tạo lại theo phương thức tập thể qua nhiều đời
chọn lọc và gọt giũa của nhân dân, có vị trí như một thành tố quan trọng
trong chỉnh thể văn hoá văn nghệ dân gian của cộng đồng dân tộc, có tính nguyên hợp.
- Nhưng văn học dân gian trong nhà trường là những tác phẩm đã được
cố định trên văn bản, nhưng người phân tích những tác phẩm như thế cần
phải hiểu rằng, trong đời sống truyền miệng, văn bản mới chỉ là một
“khuôn hình”, một “lát cắt đồng đại”.
II. Truyện truyền thuyết
1. Khái niệm truyền thuyết, phân biệt truyền thuyết với sử học * Khái niệm
- Theo Đỗ Bình Trị: “Truyền thuyết là những truyện cổ dính líu đến lịch
sử mà lại có sự kì diệu- là lịch sử hoang đường- hoặc là những truyện
tưởng tượng ít nhiều gắn với lịch sử”.
- Theo Kiều Thu Hoạch: “Truyền thuyết là một thể loại truyện kể truyền
miệng, nằm trong loại hình tự sự dân gian, nội dung cốt truyện của nó kể
lại truyện tích của nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong
vật theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là
khoa trương, phóng đại…”
- Theo Lê Chí Quế, “Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự
dân gian phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử, danh nhân văn hoá
hay nhân vật tôn giáo thông qua sự hư cấu nghệ thuật thần kì”.
* Phân biệt truyền thuyết với sử học TIÊU CHÍ TRUYỀN SỬ HỌC PHÂN BIỆT THUYẾT Dạng thức tác Tự sự (văn học dân Tự sự (văn học phẩm gian) thành văn) Đặc điểm sinh tồn – Trong hệ thống tác – Tồn tại biệt lập, phẩm cùng nội trong bộ chính sử dung, sự kiện lịch sử - Không thay đổi - Trôi nổi theo dòng theo thời cuộc lịch sử – Không chấp nhận - Sản sinh nhiều dị dị bản bản Quan điểm chi Quan điểm nhân dân Quan điểm chính phối thống Đặc điểm và cách – Gạt bỏ những sự – Được quyền chọn xử lý sự kiện lịch kiện ngẫu nhiên, thứ lọc nhưng phải tôn sử
yếu để tìm ra cốt lõi, trọng sự thật, khách bản chất của từng quan- Không được biến cố, hành động, làm sai lạc lịch sử cá tính nhân vật lịch - Không được gạt bỏ sử hoặc thêm thắt chi - Sẵn sàng tô vẽ, sửa tiết theo chủ quan đổi sử theo quan người viết điểm nhân dân Thành phần nhân Tất cả những người Chỉ có vua và bề tôi vật có công với đất (các trung thần) nước (nổi tiếng hoặc vô danh) Dấu hiệu hình – Mở đầu là xuất – Mở đầu bằng ngày thức thân nhân vật tháng năm - Tiếp theo là chuỗi - Kể theo trình tự công trạng mốc thời gian - Kết thúc có lời ca - Nhiều hành động, ngợi, chứng tích văn đối thoại hóa Ngôn ngữ kể – Mẫu câu đa dạng – Câu ngắn gọn - Từ ngữ biểu cảm, - Từ ngữ hàm súc, ngôn ngữ toàn dân dùng nhiều biệt ngữ, từ Hán Việt Giọng kể Luôn thành kính, Có cả khen, chê, mỉa trang trọng mai Cách thức xây - Đặc tả ngoại hình, Chọn lọc cao độ dựng hình tượng sử dụng ngôn ngữ, ngôn ngữ, hành hành động để làm động để khắc họa bật tính phi thường nhân cách, tài năng của nhân vật của nhân vật - Đôi khi có miêu tả - Không được hư tâm lý cấu, thêm thắt - Được quyền hư cấu, phóng đại Chức năng tác – Đánh giá lịch sử – Đánh giá lịch sử phẩm theo cách nhìn của theo cách nhìn của nhân dân tầng lớp thống trị - Biết ơn, ngưỡng - Rút ra bài học nhân mộ, tôn thờ, người sinh có công đức - Cảnh tỉnh, răn đe đời sau Thái độ người tiếp – Luôn có niềm tin
– Chọn được thái độ nhận - Tăng thêm lòng đánh giá, ứng xử với ngưỡng mộ, biết ơn người, với đời nhân vật lịch sử - Không có nhu cầu - Có nhu cầu gắn tác gắn tác phẩm với phẩm với chứng tích chứng tích văn hóa văn hóa
2. Đặc trưng của truyền thuyết
* Tính hư cấu lịch sử là đặc điểm nổi bật của thể loại
- Tính hư cấu lịch sử gắn với sự phát triển của thể loại truyền thuyết
+ Truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian được khởi đầu bởi chức
năng kể sử truyền đời, được sáng tạo và kế thừa trong lòng “thần thoại
đời sau”, có sự giao thoa với thể loại khác như cổ tích, sử thi; Truyền
thuyết trở thành “lịch sử hư cấu”.
+ Khi phát triển đến đỉnh cao trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng
và hình thức nghệ thuật, truyền thuyết trở thành một thể loại văn học tự
sự dân gian “hư cấu lịch sử” theo quan điểm tư tưởng- thẩm mĩ của nhân dân.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã quan niệm về tính hư cấu lịch sử trong
bản chất thể loại này như sau: “Những truyền thuyết dân gian thường có
một cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lí tưởng
hoá, gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng,
chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên
những tác phẩm văn hoá mà đời đời con người ưa thích”.
“Sự thật lịch sử” ấy là “cái lõi” để từ đó nhân dân sáng tạo thành
truyện, nghĩa là đã có sự hư cấu, và cùng với “tư duy lịch sử và tư duy
nghệ thuật, chân thực lịch sử và chân thực nghệ thuật xen lẫn nhau, hoà
tan vào nhau hết sức phức tạp”. Sự thật lịch sử trong truyền thuyết là
“cái thực về mặt tâm lí chứ không phải cái thực về lịch sử”. (Kiều Thu Hoạch)
- Tính hư cấu lịch sử tạo nên cái cốt lõi lịch sử là một tiêu chí khu biệt thể
loại, là một biện pháp nghệ thuật quan trọng hàng đầu của thể loại truyền thuyết.
+Tính hư cấu lịch sử nằm ở các biểu hiện: tính lịch sử, yếu tố lịch sử,
chất sử. Tính hư cấu lịch sử (cốt lõi lịch sử) luôn song hành nhuần
nhuyễn với tính hư cấu kì ảo. Cốt lõi lịch sử đóng vai trò trung tâm sự
kiện, tạo nên sườn chính cốt truyện, còn hư cấu kì ảo là những sáng tạo
nhằm thể hiện thái độ của nhân dân đối với nhân vật lịch sử.
+ Tuy nhiên, cần hiểu rõ cái cốt lõi lịch sử không phải lịch sử đích thực.
Cốt lõi lịch sử nó có hai mặt thống nhất là lịch sử hoá cái phi lịch sử và
phi lịch sử hoá cái lịch sử. Đó chính là mối quan hệ giữa cái lịch sử đích
thực với cái gọi là “những ánh hào quang, những tia khúc xạ” của lịch sử
cũng chính là bản chất, cái cốt lõi của lịch sử chỉ có thể được tìm thấy
trong văn hoá- tinh thần của nhân dân.
=> “Truyền thuyết từ lịch sử mà ra nhưng truyền thuyết không phải là
lịch sử”. “Truyền thuyết phi lịch sử nhưng lại phù hợp quy luật hư cấu
nghệ thuật của truyền thuyết: tính hư cấu lịch sử” và “đó chính là lịch sử
trong trí tưởng tượng hư ảo, mĩ lệ của nghệ thuật dân gian”. “Bởi xét cho
cùng, cái lõi lịch sử là do hư cấu nghệ thuật, do lịch sử hoá mà có”. (Kiều Thu Hoạch)
VD: Truyện “Thần Tản Viên” gốc là một thần thoại suy nguyên, chủ yếu
nhằm giải thích nguồn gốc các hiện tượng trên núi Ba Vì cùng với hiện
tượng lũ lụt vùng sông Đà; về sau cốt truyện được lịch sử hoá và hoà
nhập vào chùm truyền thuyết Hùng Vương, thần thoại “Thần Tản Viên”
đã trở thành truyền thuyết “Sơn Tinh Thuỷ Tinh”, mang đậm màu sắc lịch
sử của thời Hùng Vương.
VD2: Trên cơ sở cốt lõi lịch sử là quá trình dựng nước của vua An Dương
Vương và sự suy vong của nhà nước Âu Lạc, nhân dân ta đã sáng tạo nên
nhiều chi tiết hư cấu kì ảo như chiếc nỏ thần, con Rùa Vàng trong truyền
thuyết về An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thuỷ từ đó giải thích
nguyên nhân việc mất nước Âu Lạc.
* Truyền thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo
- Truyền thuyết luôn gắn bó với sự thật, với lịch sử, phản ánh những sự
kiện trọng đại của dân tộc, nhiều nhân vật trong truyền thuyết cũng là
nhân vật trong chính sử, trong sự nghiệp chung được nhiều người thừa
nhận, noi theo. “Sử trong truyện” chính là một dấu hiệu đặc trưng khu
biệt truyền thuyết với thần thoại, cổ tích.
Ở Việt Nam, chỉ có thể căn cứ vào truyền thuyết truyền miệng thì các sử
gia phong kiến mới có thể dựng lại được lịch sử dựng nước và giữ nước
buổi đầu từ Kỉ Hồng Bàng đến thời kì Văn Lang- Âu Lạc.
- Truyền thuyết có thể ghi lại những sự kiện lịch sử của thời khuyết sử,
đó là truyền thuyết anh hùng và sau này, khi nhà nước phong kiến đã biên
soạn chính sử, thì “truyền thuyết về nhân vật và sự kiện lịch sử được coi
là truyền thuyết lịch sử đích thực” và vẫn giữ chức năng là lịch sử truyền
miệng theo quan điểm của nhân dân.
- Sự phản ánh lịch sử độc đáo của truyền thuyết ở chỗ đó là thứ lịch sử đó
được hình thành trong ý muốn của nhân dân và trong ý thức dân gian: là
kể sử truyền đời, là tái hiện chính bản thân lịch sử một cách thẩm mĩ.
Trong lịch sử dựng nước, truyền thuyết là nguồn tài liệu phi lịch sử duy
nhất phản ảnh nguồn gốc giống nòi dân tộc và giáo dục ý thức lịch sử trải
nhiều thế hệ. Trong lịch sử giữ nước, truyền thuyết vẫn phản ánh lịch sử
một cách độc đáo về chủ nghĩa anh hùng tập thể với âm hưởng, tình cảm
chủ đạo là khuynh hướng ngợi ca. Nghệ thuật truyền thuyết đã bổ sung
vào chính sử những nguồn sử liệu về những sự kiện và con người có thực.
- Tính chính xác của lịch sử trong truyền thuyết, như nhà nghiên cứu
Kiều Thu Hoạch khẳng định, không phải hoàn toàn ở sự phản ảnh về thời
gian, không gian, nhân danh, sự biến, trình tự biên niên của sự kiện mà
chủ yếu là ở bản chất, ở cái cốt lõi của lịch sử. Đó là một thứ lịch sử văn
hoá- tinh thần của nhân dân. Nó không giống như chính sử, nhưng lại
luôn được dân gian thừa nhận đó chính là lịch sử đáng tin cậy (tín sử) của mình.
=> Người ta không thể tìm thấy trong truyền thuyết những sự kiện lịch sử
chính xác, xác thực, nhưng có thể tìm thấy những thứ mà không có một
tài liệu chính sử nào có thể ghi lại được. Đó chính là quan điểm đánh giá
lịch sử của nhân dân, là tâm tư, tình cảm, mong ước thầm kín của nhân
dân trong mỗi triều đại lịch sử qua cách nhân dân “kể” lại các sự kiện.
* Truyền thuyết gắn với nghi lễ, lễ hội
- Lễ hội lấy nội dung, cốt lõi từ truyền thuyết, lấy nhân vật anh hùng
trong lịch sử có công đánh giặc cứu nước để thờ phụng, tưởng nhớ. Còn
truyền thuyết nhờ có những lễ hội để giữ gìn và phát triển trong lòng đời
sống sinh hoạt văn hóa cộng đồng của nhân dân.
- Mối quan hệ truyền thuyết và lễ hội là quan hệ có chặt chẽ, tương thích,
hỗ trợ lẫn nhau: Truyền thuyết tạo cho lễ hội một không khí thiêng liêng,
huyền bí và ngược lại lễ hội chính là môi trường diễn xướng khẳng định
sự tồn tại và làm sống dậy một cách sinh động nội dung của truyền
thuyết, truyền tải tốt những mong ước, quan niệm tình cảm của nhân dân.
“Sự gắn bó sống động, sâu sắc và bền vững giữa truyền thuyết, tín
ngưỡng và lễ hội cũng có thể được xem là một đặc điểm đặc trưng thể loại”.
- Đối với nhân dân, lễ hội là hình thức kể chuyện, là sự bảo lưu các cốt
truyện. Truyền thuyết cung cấp cho các nghi lễ tính lí do, là “tấm hộ
chiếu” để tồn tại qua sự băng hoại của thời gian và gìn giữ sự tôn sùng
của tất cả mọi người.
=> Truyền thuyết có giá trị như điểm tựa tâm linh cho sự sáng tạo nghệ
thuật và tín ngưỡng được nghệ thuật hóa để trở thành những biểu tượng
nghệ thuật mang ý nghĩa kép, ý nghĩa tâm linh và ý nghĩa nhân văn, giúp
tạo dựng niềm tin, sự ngưỡng mộ đối với một đối tượng siêu nhiên nào đó
có ảnh hưởng, chi phối đến đời sống sinh hoạt của con người. Truyền
thuyết tạo cho các hành động của lễ hội một cái lý để tồn tại mà nếu thiếu
lời giải thích này, các nghi lễ sẽ thiếu đi linh hồn, câu chuyện, trở nên rời
rạc và sớm bị thời gian xóa bỏ.
VD: Truyền thuyết vua Hùng đã chọn đất đóng đô rất kĩ lưỡng. Chỉ khi
“tới nơi có 3 con sông tụ hội, xa xa một bên có núi Tản Viên, một bên có
núi Tam Đảo chầu về. Núi đồi nhấp nhô trùng điệp, đồng ruộng phì nhiêu
xanh tốt, dân cư đông đúc, vui vẻ thịnh vượng(. .) Đất lại có thế hiểm để
giữ, có thế mở để tiến, quả là nơi có trăm họ hội tụ” thì vua mới quyết
định chọn nơi đây làm đất đóng đô. Nếu như không có truyền thuyết về
vua Hùng đã có công dựng nước và giữ nước thì chúng ta sẽ không thể
hiểu được ý nghĩa của các hoạt động nghi lễ, các hoạt động hội, không
thể hiểu được lí do núi Nghĩa Lĩnh là nơi diễn ra nghi lễ linh thiêng ấy.
VD2: Để tưởng nhớ công đức của Thánh Gióng, tại chân núi Sóc, nơi
Thánh Gióng dừng ngựa trước khi bay về trời, nhân dân trong vùng đã
lập đền thờ và mở hội hàng năm- hội Gióng từ ngày mùng 6 đến ngày
mồng 8 tháng Giêng Âm lịch. Một trong những tục độc đáo của lễ hội
đền Sóc là tục chém tướng của thôn Yên Tàng, gồm có phần rước đồng
thời diễn tả lại việc Thánh Gióng chém 3 tướng giặc Ân cuối cùng ở chân
núi Vệ Linh trước khi bay về trời. Hội Gióng vừa thể hiện tinh thần
chống giặc ngoại xâm của người Việt cổ, thể hiện mong ước “Quốc thái
dân an” của nhân dân đồng thời có ý nghĩa giáo dục lòng yêu nước,
truyền thống võ công, ý chí quật cường và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc.
* Truyền thuyết mang tính dân tộc và tính địa phương sâu sắc.
- Khi định danh và phân loại truyền thuyết, các nhà nghiên cứu đã chia ra
có một bộ phận truyền thuyết như truyền thuyết địa danh, truyền thuyết
phong tục và sản vật, truyền thuyết về danh nhân văn hoá,… gắn bó chặt
chẽ và sâu sắc với một vùng quê, một ngôi làng, một dòng họ.
Tính cụ thể của kí ức con người trải qua bao thế hệ được sinh ra và lớn
lên ở đó đã từng nối đời khẳng định những con người, những sự kiện
trong những truyện kể ấy đều là “sự thật lịch sử” trong niềm tin của riêng cộng đồng.
- Trong quá trình lưu truyền, truyền thuyết đi đến mỗi địa phương luôn
được kết nạp những yếu tố mới sao cho phù hợp với đặc điểm, phong tục
tập quán của từng địa phương. Đó chính là hình thức địa phương hoá các truyền thuyết dân gian.
VD: Truyền thuyết về Xuân Nương công chúa (nữ tướng của Hai Bà
Trưng) trải qua các vùng Hương Nha, Hương Nộn, Nam Cường, Man
Châu,. Mỗi địa phương lưu giữ một sự tích về nàng. Riêng vùng Nam
Cường (Tam Nông, Phú Thọ) là nơi Xuân Nương đã bị đoạ thai trên một
tảng đá bằng nửa chiếc chiếu, tục truyền là đá cấm, vẫn để thờ trong
miếu. Trước miếu có hai mộ am, có sách ghi chép: một am gọi là “hà sa
hào tích” (hà sa là rau bà đẻ).
- Còn có xu hướng khác đó là xu hướng toàn cầu hoá các nhân vật lịch sử
ở một địa phương cụ thể nào đó. Đây là cách để người dân địa phương
gắn bó mình với toàn dân tộc, thể hiện nhu cầu muốn gắn bó làng xã với
quốc gia, với triều đình. Từ đó, cuộc đời anh hùng bao giờ cũng gắn với
các cùng địa danh: đất sinh ra, đất chết đi hay hoá thân, và vùng đất đi
qua để lại dấu vết về hành trang, sự kiện, chiến công…
VD: Gióng, sau khi thắng giặc Ân trở về, trên đường về (từ Bắc Ninh-
những vùng Quế Dương, Võ Giàng, Thuận Thành, Tiên Du, Yên Phong,
…nơi in dấu chân ngựa và gốc tre ngà bị nhổ từ Sóc Sơn) có ngồi lại bên
Hồ Tây, mở gói cơm cà ra ăn. Những hạt cà rơi xuống mọc lên một giống
cà Xuân Đỉnh nhỏ, giòn, ngon. Gióng đến làng Kẻ Khốn ngồi nghỉ uống
nước, thấy nước mát. Từ đó, làng liền đổi tên làng là làng Kẻ Mát.
=> Sự gắn kết nhân vật truyền thuyết với địa phương, với phong vật đã
dần trở thành một tâm thức phổ biến, để dẫn đến hình thành một quy luật
tâm lý phổ biến trong đời sống nhân dân: thấy vật nhớ đến người, nghĩ người nhớ đến vật.
3. Nội dung của truyền thuyết
3.1 Truyền thuyết anh hùng với các vấn đề về nguồn gốc giống nòi
dân tộc và những kì tích văn hoá thời kì dựng nước trong cảm hứng ngợi ca
* Giới hạn toạ độ: Trước thời kì ra đời nhà nước Âu Lạc
* Là truyện về Họ Hồng Bàng- văn học dân gian thời kì dựng nước: - Vua Rồng xứ Lạc - Đất nước Văn Lang * Thể loại:
- Trước 1975, VHDG thời kì dựng nước vẫn giữ được nghiên cứu như
thần thoại và anh hùng ca Việt cổ
- Từ 1986 đến nay: được xếp vào loại truyền thuyết anh hùng
* Nội dung chính:
- Những truyền thuyết đầu tiên về Vua Rồng xứ Lạc thể hiện niềm tự hào
của nhân dân về tổ tiên, thuỷ tổ của giống nòi Lạc Việt, về nguồn gốc các dân tộc người.
- Những truyền thuyết về thời vua Hùng dựng nước, chọn đất đóng đô,
dạy dân trồng lúa, trị nước giúp dân trong những buổi bình minh của lịch sử dân tộc.
3.2 Truyền thuyết lịch sử với vấn đề đấu tranh giữ nước trong
trường kì lịch sử của dân tộc chống xâm lược
* Là bộ phận truyền thuyết có khối lượng lớn nhất * Thời gian:
- Được hình thành từ sau thời kì An Dương Vương để mất nước Âu Lạc
vào tay Triệu vương là vua nước Nam Việt ở phương bắc, trải qua hơn
một ngàn năm Bắc thuộc và gần một ngàn năm phong kiến Việt Nam.
- Được xếp loại những truyền thuyết lịch sử
* Nội dung chính:
- Đề tài chủ yếu là chống quân xâm lược với những nhân vật tiêu biểu: Bà
Trưng, Bà Triệu, Phùng Hưng, Việt Vương…
- Là những truyền thuyết kể về những nhân vật lịch sử có thật, đẹp toàn
diện, kì vĩ và phi thường. Họ có công với dân tộc, đặt lợi ích của cộng
động, quốc gia, tập thể lên hàng đầu
- Ca ngợi các nhân vật giữ yên đất nước trong thời kì độc lập: Ngô
Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn,… và các anh hùng chống giặc ngoại
xâm như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,…
3.3 Truyền thuyết lịch sử với vấn đề đấu tranh giai cấp trong các
phong trào khởi nghĩa nông dân chống phong kiến * Bối cảnh lịch sử
- Dân chúng lầm than, đói khổ, mâu thuẫn ngày một gia tăng với tầng lớp quý tộc phong kiến
- Vua quan triều đình nhung nhiễu, ăn chơi sa đoạ, bỏ bê việc nước, hưởng lạc yên vui
* Nội dung chính: Khắc hoạ chân dung những người anh hùng nông
dân xuất thân từ dưới đáy xã hội đứng lên đảm đương nhiệm vụ lịch sử
của giai cấp và dân tộc
3.4 Một số phương diện nội dung khác của truyền thuyết
- Truyền thuyết về các danh nhân văn hoá
- Truyền thuyết lưu danh các sứ thần quả cảm và thông thái của Đại Việt
- Truyền thuyết những nhân vật tôn giáo ít nhiều có tính truyền thuyết
4. Các tác phẩm trong nhà trường TRUYỆN HỌ HỒNG BÀNG.
Họ Viêm Đế -Thần Nông, cháu ba đời của Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, đi
săn tại phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp con gái Vụ tiên, lấy làm vợ đem
về sanh ra Lộc Tục, mặt mày sáng sủa, vốn thật thông minh, Đế Minh rất
lấy làm lạ, bảo nối ngôi vị. Lộc Tục cố từ, nhường cho anh. Liền lập Đế
Nghi kế vị cai trị đất Bắc. Phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị
đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương thường
về thủy phủ, lấy con gái Động Đình quân long vương, sinh ra Sùng Lãm
hiệu Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất.
Long Quân dạy dân việc cày cấy, bắt đầu có tôn, ti, quân thần, đạo cha
con, vợ chồng. Thường khi trở về thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự,
chẳng hiểu vì sao. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: “Bố
ơi! sao không về sống với chúng con” (Người Việt gọi Cha hoặc là Bô)
thì Long Quân tới ngay. Sự linh hiển đó, người đời không ai lường nổi.
Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai. Nhân khi phương Bắc thiên hạ
thái bình, bèn sai quần thần là bọn Xi Vưu thay mình trông coi việc nước,
rồi đi tuần xuống nước phía nam đến nước Xích Quỷ. Khi đó, Long Quân
đã về thủy phủ, trong nước không có vua. Đế Lai bèn để ái thiếp là Âu
Cơ và các hầu nữ ở lại nơi hành cung rồi đi chu du thiên hạ, ngắm xem
các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, voi, tê,
đồi mồi, ngọc ngà, vàng bạc, quế, tiêu, hương, trầm, đàn cùng các sơn
hào hải vật không thiếu thứ gì, khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng,
Đế Lai thích thú, vui quá quên về.
Dân phương Nam bị phương Bắc phiền nhiễu, không được an bình như
xưa, mới cùng nhau kêu Long Quân “Bố đang ở đâu? Sứ Bắc đang xâm
chiếm, gây khổ dân mình!” Long Quân tức thì trở về. Thấy Âu Cơ mặt
mày xinh đẹp, Long Quân vui vẽ, liền hóa thành trai trẻ, dáng vẻ hào hoa,
trái phải trước sau có người hầu hạ đông đúc. Đánh trống, thổi kèn vừa
múa vừa hát, đi vào trong cung, Âu Cơ vui sướng phải lòng theo Long
Quân về ẩn tại núi Long Đại Nham.
Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ.
Long Quân có phép thần thông, biến hóa thành trăm hình vạn trạng, yêu
tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi… làm cho bọn đi tìm Âu Cơ đều sợ hãi
không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về phương Bắc. Truyền ngôi đến
đời Du Võng, Xi Vưu làm loạn, Hiên Viên dẫn chư hầu tiến đánh mà
không thắng được. Xuy Vưu hình thú mà nói tiếng người, mạnh mẽ lại
thêm vây cánh, có người khuyên Hiên Viên lấy da thú làm trống đánh
làm lệnh tiến quân, Xuy Vưu kinh sợ, bại ở Trác Lộc. Đế Du Võng xâm
lăng chư hầu, cùng Hiên Viên đánh nhau ở Bản Tuyền, ba lần thì thua,
giáng phong ở Lạc Ấp rồi chết. Họ Thần Nông hoàn toàn mất hẳn.
Long Quân và Âu Cơ ở với nhau trong năm đó sinh ra một bọc, cho là
điềm xấu, vứt hết ra đồng; qua sáu, bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm
trứng, mỗi trứng sinh một con trai, mới đem về nhà nuôi, chẳng nhọc
công bú mớm mà các con tự lớn, đẹp đẽ vô cùng, thông minh, mạnh
khỏe, mọi người nể phục, đều cho là những kẻ phi thường. Long Quân ở
lâu dưới thủy phủ, vợ con sống một mình, nghĩ chuyện quay về đất Bắc.
Âu Cơ về tới biên giới, Hoàng Đế nghe nói sợ hãi cho binh ra giữ cửa ải,
mẹ con Âu Cơ không thể về Bắc được, trở lại phương Nam, lớn tiếng gọi
Long Quân rằng: “Bố ơi! Bố đang ở đâu? Sao để mẹ con tôi ngày đêm cô
quạnh sầu khổ thế này!”. Long Quân bỗng trở về, gặp nhau ở chốn hoang
dã mênh mông. Âu Cơ khóc mà nói rằng: “Thiếp vốn là người phương
Bắc, nay ở với chàng nơi xứ này, sinh được trăm trai mà không cùng
nhau nuôi nấng, làm cho thiếp và các con thành người không chồng,
không cha, thật đáng thương thay!”Long Quân nói: “Ta thuộc giống rồng,
đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy âm dương
tương hợp mà sinh ra con cái, nhưng thủy hỏa khắc nhau, giòng giống
không đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia tay. Ta đem năm
mươi trai về thủy phủ chia trị các xứ, nàng đưa năm mươi trai về ở trên
đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng
quên”. Trăm con nghe theo, sau đó từ biệt mà đi.
Âu Cơ cùng 50 con sống ở Phong Châu (Nay là huyện Bạch Hạc) cùng
nhau suy tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước
là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới hồ Động Đình,
nam tới nước Hồ Tôn Tinh (nay là Chiêm Thành). Chia nước ra làm 15
bộ (có khi gọi là Quận): Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh,
Phúc Lộc, Ninh Hải (nay là Nam Ninh), Dương Tuyền, Quế Hải, Hoài
Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm và Tượng Quận.
Chia cho các em cùng nhau chia trị các nơi đó. Lại đặt các thứ tự tướng
văn, tướng võ, tướng Văn gọi Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng. Con
trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, các quan gọi là
Bồ Chính, Người hầu trai gái gọi là Sảo – Nhỏ (còn gọi nô tỳ). Bề tôi của
vua gọi là Côi, đời đời cha truyền cho con, gọi là Phụ Đạo, đều xưng là
Hùng Vương, không hề thay đổi.
Thời ấy, dân sống ở ven rừng núi đánh cá dưới nước thường bị giống giao
long làm hại, bèn thưa với vua. Vua nói rằng: “Giống sơn man và giống
thủy tộc khác nhau, đều có tánh hung dữ nên nên xâm hại lẫn nhau”. Bèn
khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân, giống như
thủy quái. Từ đó, dân không bị họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình
của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đó.
Lúc mới lập nước, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ
tranh làm chiếu, lấy bả cơm làm rượu; lấy cây cau, cây cọ làm đồ ăn; lấy
cầm thú, cá, tôm làm mắm; lấy rễ gừng làm muối, cày bằng dao, trồng
bằng lửa. Đất trồng được nhiều gạo nếp, dùng ống tre để thổi cơm ăn.
Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ vào rừng. Đẻ con ra
lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh để người lân
cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có cau trầu, nam nữ lấy nhau, trước lấy gói
muối làm bằng, sau đó mới giết trâu dê thành lễ, lấy cơm nếp để vào
phòng cùng ăn, rồi mới thành thân. Trăm người con trai chính là tổ tiên
của người Bách Việt vậy.
Bánh chưng, bánh giầy
NGÀY XƯA, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc
Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con.
Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: "Con
nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho".
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha,
với hy vọng mình lấy được ngai vàng.
Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết
Liêu[1] có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì
mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào.
Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: "Này con,
vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống
con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông,
để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh,
để tượng hình Cha Mẹ sinh thành"
Tiết Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn,
chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ
chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng
hình Trời, gọi là Bánh Giầy[2]. Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong
ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi
thôi, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì
chỉ có Bánh Giầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì
Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh
Giầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa,
bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu con trai thứ 18.
Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh
Chưng và bánh Giầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất. Sự tích Hồ Gươm
Vào thời giặc Minh xâm lược nước ta, đi đến đâu chúng cũng tàn sát
người dân vô tội, cướp bóc của cải của nhân dân. Cuộc sống của người
dân vô cùng cực khổ, và lầm than. Thấy cuộc sống của trăm dân như vậy
một số người có lòng yêu nước đã tụ họp lại với nhau cùng bàn bạc làm
một cuộc khởi nghĩa để chống lại sự tàn ác và bạo ngược của quân giặc.
Trong đó có nghĩa quân ở vùng Lam Sơn.
Tuy nhiên, nghĩa quân cũng chỉ toàn là những người nông dân áo vải,
binh khí thì thô sơ mà chưa thu hút được nhiều người nên chưa có đủ sức
mạnh để chiến đấu chống lại quân giặc. Rất nhiều lần nghĩa quân đã đứng
lên khởi nghĩa nhưng lần nào cũng bị binh tướng nhà Minh đánh cho bại
trận. Đức Long Quân nhìn thấy tấm lòng chiến đấu quả cảm và tinh thần
yêu nước của nghĩa quân, liền quyết định cho nghĩa quân mượn thanh
gươm thần để tăng thêm sức mạnh và sĩ khí chiến đấu cho họ.
Hồi ấy ở Thanh Hóa, có một người đi đánh cá dưới sông, khi kéo lên thấy
lưới rất nặng. Anh ta nghĩ thầm trong bụng: “Phen này chắc là được
nhiều cá lắm đây!“. Tuy nhiên khi lưới được kéo lên thì không có một
con cá nào mà chỉ là một lưỡi gươm cũ. Anh ta liền vứt lưỡi gươm trở lại
sông, lần thứ hai chàng kéo lưới, lưỡi gươm ấy lại vướng vào. Lần này
anh quăng lưỡi gươm đi xa hơn nữa.
Đến lần thứ ba kéo lưới vẫn là lưỡi gươm đó mắc vào. Thấy lạ, anh liền
cầm lưỡi gươm cũ lên và mang về để trong góc nhà. Người đó tên là Lê
Thận – một nông dân quê ở Thanh Hóa, có lòng yêu nước nồng nàn, từ
lâu đã có ý muốn gia nhập cùng nghĩa quân Lam Sơn.
Lực lượng của nghĩa quân Lam Sơn lúc bấy giờ đã ngày càng đông,
muốn chiêu binh thêm những người tài giỏi và có lòng yêu nước tham
gia. Lê Thận có sức khỏe cùng với lòng yêu nước mong đánh đuổi giặc
ngoại xâm từ lâu nên đã gia nhập nghĩa quân. Anh tham gia những trận
chiến quan trọng và góp nhiều công sức trong các trận thắng lớn, được Lê Lợi vô cùng tin tưởng.
Một lần Lê Lợi đưa quân qua vùng Thanh Hóa đã vào nhà Lê Thận để
nghỉ ngơi. Vừa vào tới nhà, Lê Lợi và các tướng lĩnh thấy lưỡi gươm cũ
vứt ở xó nhà của Lê Thận phát ra ánh hào quang sáng chói. Mọi người
tiến lại cầm lên xem thì thấy trên lưỡi gươm có khắc hai chữ “thuận
thiên”. Tất cả vô cùng ngạc nhiên nhưng cũng không nghĩ đó là báu vật,
chỉ cho đó là lưỡi gươm bình thường mà thôi.
Thời gian sau, nghĩa quân tổ chức rất nhiều trận đánh trả quân Minh.
Trong một đánh không may nghĩa quân bại trận, Lê Lợi bị quân giặc đuổi
theo vào trong rừng sâu. Khi đang chạy trốn, ông nhìn thấy có một vật
sáng chói trên cành cây. Lấy làm tò mò, Lê Lợi liền trèo lên cành cây thì
thấy một cái chuôi gươm nạm ngọc sáng lấp lánh. Lại nhớ tới hôm ở nhà
Lê Thận có lưỡi gươm phát sáng Lê Lợi liền cầm chuôi gươm về.
Vài hôm sau, gặp Lê Thận, Lê Lợi kể lại chuyện nhặt được chuôi gươm
phát sáng và bảo Lê Thận cho mượn lưỡi gươm cũ. Không ngờ sau khi
cho lưỡi gươm vào trong chuôi gươm thì lại vừa in như một cặp, lưỡi
gươm trở lên sáng chói và sắc nhọn vô cùng.
Lê Thận và mọi người ở đó đều quỳ rạp dưới chân Lê Lợi mà rằng: “Có
lẽ đây là gươm báu trời ban, giúp nghĩa quân đánh giặc xâm lược. Nay
xin chủ tướng cầm gươm báu để lãnh đạo nghĩa quân đánh đuổi giặc
Minh ra khỏi bờ cõi nước ta, để cho muôn dân được hưởng cuộc sống yên bình”.
Lê Lợi nhận thanh gươm từ tay Lê Thận, hứa sẽ dốc hết lòng lãnh đạo
nghĩa quân thuận theo ý trời.
Kể từ đó, nghĩa quân đánh đâu thắng đó, trăm trận trăm thắng. Dần dần
lực lượng quân Minh bị suy yếu, nghĩa quân không còn phải trốn ở trong
rừng nữa, mà chuyển sang đối đầu trực diện. Kho lương thực cũng ngày
càng đầy đủ do chiếm được của quân giặc càng giúp cho quân lính
cóthêm khí thế chiến đấu hơn trước.
Chẳng bao lâu sau, dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi và nhờ gươm thần mà
nghĩa quân đã đánh bại quân Minh. Giặc sợ hãi bỏ tháo chạy về phương
Bắc, muôn dân lại được thái bình.
Sau khi đánh đuổi hết giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi vua để trị vì và thống nhất đất nước.
Một năm sau, khi nhà vua cùng các bề tôi thân tín ngồi thuyền đi dạo trên
hồ Tả Vọng trước kinh thành. Đức Long Quân sai rùa vàng lên để lấy lại thanh gươm thần.
Khi thuyền ra tới giữa hồ thì bất ngờ từ dưới làn nước trong xanh, có một
con rùa vàng ngoi đầu lên, cất tiếng: