Đề cương ôn tập Nhà nước và pháp luật | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Phân tích nội dung và giải pháp đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng nhà Nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nêu khái niệm hệ thống pháp luật và phân tích các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật ? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
68 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề cương ôn tập Nhà nước và pháp luật | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Phân tích nội dung và giải pháp đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng nhà Nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nêu khái niệm hệ thống pháp luật và phân tích các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật ? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

18 9 lượt tải Tải xuống
MÔN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
__________
Câu 1: Phân tích nội dung giải pháp đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện xây dựng nhà Nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của Đảng v y dựng n ớc pháp quyền XHCN được hình thành trên cơ sở nhận
thức tiếp thu chọn lọc những quan điểm, tư tưởng tích cực, tiến bộ về nhà nước pháp quyền trong
lịch sử tư tưởng nhân loại, kết hợp với s vận dụng ng tạo quan điểm của chủ nga c-nin, tư
ởng Hồ C Minh về n ớc, pháp luật kiểu mới vào thực tiễn xây dựng nhà nước của dân, do dân,
dân Việt Nam ng n tổng kết bài học kinh nghiệm từ thực tiễn t chức, hoạt động của b máy
nhà nước ta từ 1945 đến nay, nhất trong những năm đổi mới. Đảng ta đã lựa chọn xây dựng n nước
pháp quyền hội chnghĩa
Trong giai đoạn hiện nay cần phải nhận thức đúng đắn tính tất yếu khách quan của việc giữ vững và tăng
cường sự nh đạo của Đảng đối với Nhà ớc xuất phát từ bản chất cách mạng khoa học, vai trò sứ mệnh lịch
sử của Đảng mục đích, tưởng đấu tranh của Đảng Cộng sản; xuất phát từ thực tiễn lịch sử đấu tranh
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; xuất pt ttrọng tch lãnh đạo xây dựng xã hội mới - xã hội chủ
nga của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, dân phải
bao quát toàn bộ tổ chức, hoạt động của Nhà nước và được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau đây:
Một là: đường lối, chính sách của Đảng định hướng chính trị nội dung hoạt động của Nhà
nước;
Hai là, Đảng xác định những quan điểm, phương hướng, nội dung cơ bản nhằm xây dựng, hoàn thiện
tổ chức hoạt động của Nhà nước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn;
Ba là, Đảng lãnh đạo hoạt động bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp bảo đảm thật sự phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc lựa chọn các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan này;
Bốn là, Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các quan nhà nước,
cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng pháp luật của Nhà
nước;
Năm là, Đảng lãnh đạo hoạt động xây dựng pháp luật, tăng cường pháp chế trong đới sống xã hội và
hoạt động của Nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước;
Sáu là, Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Như vậy, nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân rất toàn diện
bao quát toàn bộ những vấn đề quan trọng về tổ chức, hoạt động của Nhà nước. Đúng như V.I.Lênin đã
nhấn mạnh: “Trong nước cộng hoà chúng ta, không một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do
một cơ quan nhà nước giải quyết mà lại không có Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng”.
Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng cần phải nhận thức là: mặc Đảng trọng trách lãnh đạo xây
dựng nhà nước song bất cứ nội dung lãnh đạo nào của Đảng đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền nêu trên đều phải dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tuân thủ Hiến pháp pháp
luật.
Mặt khác, bên cạnh những mặt thuận lợi của một Đảng duy nhất cầm quyền cần phải nhận thức hết
những nguy cơ tiềm ẩn do thực hiện không đầy đủ hoặc vi phạm dân chủ trong chế độ một đảng cầm quyền.
dụ: Nguy chủ quan, duy ý chíquan liêu trong xây dựng chủ trương chính sách; Nguy các
quan, tổ chức đảng dễ áp đặt ý kiến của mình đối với các quan nhà nước; Nguy Đảng tự đặt mình
lên trên nhà nước pháp luật; Nguy Đảng bao biện, làm thay công việc của nhà nước không chịu
trách nhiệm pháp lý về các quyết định của mình…
vậy, để ngăn chặn loại trừ những nguy ấy thực hiện tốt vai trò xây dựng Nhà nước pháp
quyền, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, đổi mới, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê
bình, nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện dân chủ thực sự trong Đảng và trong xã hội.
Mặt khác, phải xây dựng quy chế phối hợp làm việc giữa các cơ quan, tổ chức đảng với các cơ quan, tổ
chức nhà nước trong đó xác định rõ những loại việc mà Đảng phải chủ động ra quyết định lãnh đạo, chỉ đạo;
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; trong hoạt động của mình, các cơ quan, tổ chức
đảng và mọi cán bộ đảng viên phải tuân thủ pháp luật, tôn trọng thể chế của cơ quan nhà nước…
Thực hiện được những yêu cầu cơ bản nêu trên, Đảng mới thực hiện được trọng trách và sứ mệnh lịch
sử của mình lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, dân để tiến hành xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước ta.
Từ đó, muốn đổi mới tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân nước ta hiện nay cần phải thực
hiện hai nhóm giải pháp lớn, đó là nhóm giải pháp về chỉnh đốn, đổi mới Đảng và nhóm giải pháp về đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Thứ nhất, các giải pháp chỉnh đốn, đổi mới Đảng, xây dựng Đảng xứng đáng là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, thực sự trong sạch, vững mạnh; đủ năng lực trí tuệ, uy tín làm tròn trọng trách của lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục tưởng chính trị, rèn luyện đạo
đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; kiên quyết khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống trong cán bộ, đảng viên;
- Tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ: quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; đánh
giá, tuyển dụng; luân chuyển, bố trí sử dụng cán bộ; tăng cường quản lý, kiển tra, giám sát cán bộ. Tiếp tục
đổi mới công tác cán bộ cả về quan điểm, nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý, chế độ trách nhiệm, bộ
máy và con người làm công tác cán bộ;
- Đẩy mạnh công tác xây dựng, cũng cố nâng cao năng lực sức chiến đấu của các tổ chức
sở đảng gắn với xây dựng chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể sở phong trào cách mạng của quần
chúng;
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục kiện toàn tổ chức và đổi mới
phương hướng lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, một số giải pháp đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải tránh khuynh hướng
buông trôi, khoán trắng hoặc bao biện, làm thay. Mặt khác phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện chuyển sang kinh tế thị trường xây dựng nhà nước pháp quyền. Theo những yêu cầu nêu trên, cần
thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
- Tiếp tục nghiên cứu luận tổng kết thực tiễn về phân định vai trò lãnh đạo của Đảng
chức năng quản lý của Nhà nước;
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp làm việc giữa quan, tổ chức đảng với
quan, tổ chức nhà nước ở tất cả các cấp nhà nước theo phương châm tôn trọng tôn trọng HiếnĐiều lệ Đảng;
pháp, pháp luật, thể chế của cơ quan nhà nước, tính đến đặc thù của từng nội dung lãnh đạo;
- Tiếp tục tổng kết đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong các lĩnh vực xây
dựng nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, nhất là cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây
dựng Đảng và chính quyền cơ sở là những vấn đề bức xúc cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng hiện nay;
- Tăng cường hoạt động kiểm tra, bảo vệ nội bộ của Đảng, chỉ đạo sát sao hơn đối với hoạt động
thanh tra và hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật khác.
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác cán bộ trong bộ máy nhà nước,
bảo đảm Đảng thống nhất lãnh đạo hoạt động công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.
Trong công cuộc đổi mới ca đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là yêu cầu
khách quan của sự nghiệp xây dựng CNXH. Vì vậy, trong đưng lối lãnh đạo của mình, Đảng ta đặc biệt coi trọng
việc đra đường lối xây dng và hoàn thiện bộ máy nhà nước - yếu tố trung tâm của hệ thống chính trị. Để thực hiện
mục tu đó, phải tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước, mở rộng n chủ XHCN, phát huy quyn làm chủ của
nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước, đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng tn mọi lĩnh vực. Ngày
nay, khi thời đại Khoa học Công nghpt triển như bão, bùng nổ tng tin, snghiệp đổi mới, xây dựng và bảo
vệ đt nước diễn ra trong tình hình thế giới diễn biến nhanh cng, phức tạp. Trong điều kiện đó, việc tiếp tụcy
dựng hn thiện n nước pháp quyền đòi hỏi khách quan và p hợp với xu hướng chung của thời đại.
Câu 2: Nêu khái niệm hệ thống pháp luật và phân tích các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện
hệ thống pháp luật ?
Các nhà nước trong quá trình thức hiện quyền lực quản hội đều ban hành một số lượng lớn các
văn bản, quy định các chuẩn mực chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Những quy định đó không tồn
tại một cách rời rạc quan hệ gắn hữu với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành một chỉnh
thể thống nhất gọi là hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, không phải hệ thống pháp luật nào cũng giống nhau
2
tiếp cận với hệ thống pháp luật từ những góc độ, khía cạnh khác nhau nên quan điểm về hệ thống pháp luật
có nhiều ý kiến còn chưa thống nhất.
Tuy nhiên, về bảnthể hiểu hệ thống pháp luật tổng thể các quy phạm pháp luật mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, được phân định thành chế định pháp luật, các ngành luật được thể hiện trong các
văn bản quy phạm pháp luật do các quan nhà nước thẩm quyền ban hành theo những trình tự, thủ tục
luật định.
Như vậy, hệ thống pháp luật bao gồm hai mặt trong một chỉnh thể thống nhất hệ thống cấu trúc
của pháp luật và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Trong đó, hệ thống cấu trúc của pháp luật gồm 3 thành tố cơ bản là:
- Quy phạm pháp luật: là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đặt ra hoặc thừa nhận thể hiện ý chí bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, để điều chỉnh các
quan hệ xã hội với mục đích xây dựng xã hội ổn định và trật tự.
- Chế định pháp luật: một nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hội những đặc
điểm chung quan hệ mật thiết với nhau thuộc cùng một loại quan hệ hội do ngành luật điều chỉnh.
Chế định pháp luật là cơ sở để tạo ra cơ cấu nội tại hợp lý của một ngành luật.
Mỗi ngành luật bao gm nhiu chế định pp luật mà giữa chúng va có mối quan hhữu như
một chỉnh ththống nhất, vừa nh độc lập tương đối.
- Ngành luật: Ngành luật tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một loại quan hệ hội
cùng tính chất thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.
Để phân định các ngành luật phải dựa trên hai căn cứ: đối tượng điều chỉnh phương pháp điều
chỉnh.
-Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được xét theo hai chiều sau:
Văn bản quy phạm pháp luật văn bản do quan nhà nước thẩm quyền ban hành theo thủ tục,
trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các
quan hệ xã hội.
Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm sau đây:
Một là, văn bản quy phạm pháp luật do quan nhà nước thẩm quyền ban hành khác nhau theo
trình tự, thủ tục, hình thức nhất định. vậy, tên gọi khác nhau hiệu lực pháp cao thấp khác
nhau.
Hai là, nội dung của văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp luật. Đặc điểm này
phân biệt giữa văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật và các văn bản quảnnhà nước
khác.
Ba là, văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực về thời gian, không gian và đối tượng áp dụng.
Bốn là, do tính chất hệ thống của pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật dù rất phong phú, đa dạng
và được ban hành vào các thời điểm khác nhau nhưng đều hợp thành một hệ thống.
Về phương diện luận, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thường được xem xét dưới hai góc độ
là theo chiều dọc và theo chiều ngang. Theo chiều dọc, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mang tính thứ
bậc chặt chẽ. Theo chiều ngang, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với hệ thống cấu trúc của
pháp luật.
Phân tích các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật
Một là, tính thống nhất đồng bộ của hệ thống pháp luật. Đây là tiêu chí quan trọng để xác định mức độ
hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Tính thống nhất của pháp luật bao hàm cả tính thống nhất về cả hình thức
nội dung trong nội tại của một văn bản pháp luật. Tuy nhiên, về cơ bản, tính thống nhất về mặt nội dung
luôn có vai trò quyết định. Trong khi đó, tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất không mâu thuẫn, không trùng
lặp, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật với nhau về cả nội dung và hình thức.
Các yêu cầu cơ bản để đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay
là: Thứ nhất, về mặt nội dung, các văn bản pháp luật được ban hành phải thống nhất đồng bộ với nhau.
Thứ hai, các văn bản pháp luật phải tuân thủ các tiêu chuẩn tính thống nhất và đồng bộ về mặt hình thức của
văn bản. Thứ ba, văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành phải đảm bảo yêu cầu thống
nhất thứ bậc sự phù hợp giữa các văn bản pháp luật của cấp dưới so với các văn bản của cơ quan cấp trên.
Hai là, tính toàn diện của hệ thống pháp luật. Đây là tiêu chí để định lượng hệ thống pháp luật, tiêu chí
này được thể hiện: Một mặt, hệ thống pháp luật phải có đủ các ngành, không còn khoảng trống, theo cơ cấu nội
dung và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương ứng. Mặt kc, trong mỗi ngành luật có đủ chế địnhc
quy phạm điều chỉnh đầy đủ các quan hệ phát sinh trong ngành luật đó. Bất kỳ một quy phạm hay văn bản quy
3
phạm pháp luật nào cũng được tạo ra tác động không phải trong sự độc lập, riêng rẽ trong một tổng
thể những mối liên hệ những sự ràng buộc nhất định. Do vậy, tính toàn diện của hệ thống pháp luật
ảnh hưởng rất lớn tới tính khả thi hiệu quả của việc thực hiện pháp luật. Bởi tất cả những mối liên hệ,
những sự ràng buộc đó của các quy định, các văn bản pháp luật với những yếu tố hiện tượng khác nhau
trong đời sống xã hội xét đến cùng đều có ảnh hưởng tới sự tác động, điều chỉnh của pháp luật.
Ba là, tính phù hợp của hệ thống. Yêu cầu của tính ổn định của pháp luật thể hiện chỗ: hệ thống
pháp luật được hình thành do nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng chúng phát triển theo một trật tự
Nhà nước mong muốn thiết lập. Chức năng điều chỉnh của pháp luật chỉ thể được thực hiện khi luật
pháp được xây dựng phù hợp với những điều kiện cụ thể của hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Tiêu chí này được thể hiện: Một mặt, hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế
hội, không thể cao hơn, hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Mặt khác, sự phù hợp của hệ thống pháp luật
thể hiện trên nhiều mặt và cùng với việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo
đức, hệ thống chính trị, các quy phạm xã hội khác…
Bốn là, tính ổn định tương đối của hệ thống. rằng các quan hệ hội thường xuyên thay đổi
luật để điều chỉnh các quan hệhội nên cũng sẽ sự thay đổi tương ứng với sự thay đổi của các quan
hệ xã hội. Mặc dù vậy, các quan hệ xã hội cũng có tính ổn định tương đối, vì thế pháp luật cũng cần phải
sự ổn định thống nhất, bởi nếu pháp luật thay đổi quá nhanh, thiếu tính ổn định, thống nhất thì hệ thống
pháp luật đó không đảm bảo được vai trò ổn định hội của mình. Tính ổn định tương đối đặc trưng
nhằm bảo đảm duy trì được kỷ cương, trật tự và nề nếp trong từng lĩnh vực pháp luật cụ thể nói riêng và cả
hệ thống pháp luật nói chung. Đồng thời góp phần tạo sở pháp ổn định cho việc điều chỉnh pháp luật
các quan hệ xã hội có hiệu quả cao…
Năm là, tính minh bạch, cụ thể tính khả thi. Đây tiêu chí quan trọng một mặt vừa bảo đảm tính
thống nhất của hệ thống. Tính minh bạch của pháp luật một đòi hỏi rất quan trọng. Tính minh bạch của
pháp luật thể hiện ở sự minh xác, sự minh định, tính hệ thống và nhất quán. Cùng với đó, một hệ thống pháp
luật chất lượng thì phải bảo đảm tính cụ thể khả thi, nghĩa các quy định pháp luật không thể chung
chung mà cần đi vào chi tiết, cụ thể cũng như có khả năng thực hiện được trong điều kiện kinh tế, chính trị -
hội hiện tại. Điều này đòi hỏi các quy định pháp luật phải được ban hành phù hợp với trình độ phát triển
của đất nước mỗi thời kỳ phát triển nhất định. Nếu các quy định pháp luật được ban hành quá cao hoặc
quá thấp so với các điều kiện phát triển của đất nước thì đều ảnh hưởng đến chất lượng của pháp luật.
Trong những trường hợp đó hoặc pháp luật không khả năng thực hiện được hoặc được thực hiện
không triệt để, không nghiêm, không phát huy hết vai trò tác dụng của nó trong đời sống xã hội.
Sáu là, bảo đảm tính hiện đại kỹ thuật pháp cao trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật. Kỹ thuật pháp một vấn đề rộng lớn, phức tạp trong đó ba điểm quan trọng, cần thiết phải
chú ý khi xây dựng hoàn thiện pháp luật là: Một là, kỹ thuật pháp thể hiện những nguyên tắc tối ưu
được vạch ra để áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Hai là, trình độ kỹ thuật pháp lý
thể hiện việc xác định chính xác cấu của pháp luật. Ba là, cách biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp phải
chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải ràng, dễ hiểu, đảm bảo tính đọng, lôgíc, chính xác một
nghĩa.
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải một hệ thống pháp luật khoa học,
đồng bộ và thống nhất. Để có hệ thống pháp luật đáp ứng các yêu cầu trên cần phải chú trọng hoạt động xây
dựng pháp luật. Ngay từ giai đoạn soạn thảo, ban hành VBQPPL, trước hết các đạo luật, pháp lệnh,
tính hợp hiến, hợp pháptính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án, dự thảo VBQPPL phải
được bảo đảm. Đây phải được coi một nguyên tắc, một yêu cầu quan trọng trong quy trình lập pháp, lập
quy. Bởi lẽ, việc chỉnh những sai sót, những mâu thuẫn của các dự án, dự thảo đang trong giai đoạn soạn
thảo sẽ dễ dàng hơn. Hơn nữa, việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp tính thống nhất của hệ thống pháp
luật sẽ hạn chế tối đa khả năng gây thiệt hại cho Nhà nước và xã hội, xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân do việc cho ra đời những VBQPPL mâu thuẫn, trái hiến pháp, pháp luật.
Câu 3. Phân tích các đặc trưng của nền hành chính nhà nước hiện đại?
ng với sphát triển nhanh chóng của kinh tế thtrường, của khoa học ng nghệ, sphát triển
n trí dân ch hóa đời sống hội, với xu ớng toàn cầu a ngày ng mạnh mẽ, các ớc đều
phải đối mặt với những hiểm họa to lớn n khủng hoảng kinh tế, bất bình đẳng hội, biến đổi k
hậu… Vai trò của Nhà nước ngày càng kng thể thiếu trong mối tương tác với th tờng nhằm khắc
phục các khiếm khuyết của thị trường.
4
Mục tiêu cao nhất của hành chính nhà nước hiện đại nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người
dân. Công dân được coi như khách hàng của nền hành chính. Nhà nước có trách nhiệm phục vụ tốt nhất nhu
cầu của công dân. Việc thỏa mãn nhu cầu của công dân đòi hỏi hành chính nhà nước phải chuyển từ “cai trị”
sang “phục vụ”, phải trở nên năng động, hiệu lực, hiệu quả, cung cấp đầy đủ các dịch vụ với chất lượng
cao, nhanh chóng, công chức có thái độ phục vụ tận tâm và công bằng…
Nhiều nước trên thế giới đã xây dựng các Hiến chương khách hàng, ban hành các bộ tiêu chuẩn về
dịch vụ, thiết lập chế tiếp nhận xử phản hồi của các công dân, tổ chức, đánh giá mức độ hài lòng
của người dân… để từ đó đề xuất các giải pháp cải cách hành chính nhà nước.
Để đạt được mục tiêu thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của công dân, mô hình hành chính công hiện đại có
các đặc trưng mới như sau:
Một là, bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các hoạt động của chính phủ
Hoạt động của các cấp chính quyền, các quan hành chính nhà nước cán bộ, công chức phải
được thông tin tới quan lập pháp, các quan liên quan khác trong bộ máy nhà nước các tổ chức,
cá nhân trong xã hội. Việc bảo đảm cung cấp các thông tin này tới xã hội không chỉ làm tăng khả năng kiểm
soát của công dân và xã hội đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, mà còn giúp làm giảm khả
năng lạm quyền, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy, giảm quan liêu, phiền hà.
Trách nhiêm giải trình phải được thực hiện không chỉ đối với quan cấp trên trong bộ máy nhà
nước, mà còn phải giải trình với bên ngoài – các tổ chức và công dân – thông qua ý kiến phản hồi của các tổ
chức và công dân sử dụng các dịch vụ công.
Hai là, có sự tham gia của các chủ thể trong xã hội vào hoạt động hành chính nhà nước
Sự tham gia của công dân dưới nhiều hình thức khác nhau vào hoạt động thực thi quyền lực nhà
nước yếu tố bản bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo khả năng kiểm soát thực tế các
hoạt động của chính phủ.
Sự tham gia của các tổ chức và cá nhân vào hoạt động của hành chính nhà nước phải được mở rộng
đối với tất cả các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương. Các tổ chức và công dânthể tham gia
vào hoạt động của chính phủ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự tham gia của các chủ thể bên ngoài nhà
nước tập trung vào việc theo dõi hiệu quả hoạt động của các cấp chính quyền. Ý kiến của người sử dụng
các dịch vụ công được coi trọng nhằm kiểm soát việc tiếp cận của họ đến dịch vụ công ng như chất
lượng của dịch vụ công.
Ba là, tính dự đoán được của hành chính nhà nước
Tính dự đoán được sản phẩm của một hệ thống luật pháp các quy định ràng, cụ thể được
công khai hóa, đồng thời được tuân thủ một cách thống nhất và có hiệu quả.
Tính dự đoán được đòi hỏi chính phủ phải xây dựng các quy định pháp luật ràng đối với các dịch
vụ công do chính phủ cung cấp, cũng như đối với hoạt động của khu vực nhằm hướng dẫn họ trong sản
xuất, tiếp thị và chọn lựa các quyết định đầu tư.
Bốn là, tính công bằng
Hành chính nhà nước phải bảo đảm sự phục vụ công bằng, bình đẳng cho mọi đối tượng khác nhau
trong xã hội, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo. Hành chính nhà nước cần phải tính đến nhu cầu của
các nhóm thiểu số và người nghèo. Nếu không tính đến hoàn cảnh và nhu cầu của những người nghèo và các
nhóm bị thiệt thòi trong hội thì chính quyền không thể duy trì sự phát triển một cách bền vững, bởi
những căng thẳng nội bộ tích tụ lại sẽ làm mất đi sự tự nguyện hợp tác.
Năm là, tính thích ứng linh hoạt với sự thay đổi
Chính phủ cần có năng lực quản lý sự thay đổi. Sự thay đổi có thể diễn ra bên trong hệ thống chính trị
mỗi quốc gia, hoặc do sự tác động của môi trường bên ngoài. Sự thích ứng linh hoạt của chính phủ trong bối
cảnh hiện tại đòi hỏi việc áp dụng cơ chế thị trường và các phương pháp quản lý hiện đại của khu vực tư như
cạnh tranh, đấu thầu, so sánh chi phí lợi ích, coi công dân khách hàng, quản theo kết quả …để làm
cho nền hành chính trở nên năng động, đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của công dân. Tính thích ứng
linh hoạt cũng đòi hỏi chế hoạt động của hành chính nhà nước mềm dẻo hơn để thích nghi nhanh chóng
với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội luôn thay đổi. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động hành
chính nhà nước, xây dựng chính phủ điện tử những yêu cầu quan trọng để bảo đảm sự vận hành nhanh
chóng của hành chính nhà nước trong cung cấp các dịch vụ công cho xã hội.
Sáu là, tính hiệu lực và hiệu quả
5
Hiệu lực của hành chính nhà nước sthực hiện đúng, kết quả chức năng quản của bộ máy
hành chính để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Hiệu quả hành chính nhà nước kết quả quản đạt
được của bộ máy hành chính trong sự tương quan với mức độ chi phí các nguồn lực.
Trong điều kiện hiện nay, khi công dân quan tâm ngày càng nhiều đến việc chính phủ sử dụng các
khoản thuế họ đóng góp n thế nào, các chính phủ đều phải kiểm soát chi tiêu, phân bổ sdụng
hợp các nguồn lực tài chính để tạo ra những đầu ra mong muốn. Hành chính nhà nước hiện đại hướng
tới không chỉ đảm bảo hiệu lực, tức đảm bảo các kết quả đạt được thỏa mãn mục tiêu mà nhà nước
mong muốn, n phải hướng tới đạt hiệu quả cao nhất tức giảm chi phí tới mức tối đa. Đểm điều
này, cần giảm bớt các nhiệm vụn nước trực tiếp đảm nhận tăng cường sự tham gia của khu vực phi
nhà nước, trước hết là các doanh nghiệp tư nhân trong cung cấp sản phẩm và dịch vụ.
Câu 4. Phân tích nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đao của Đảng đối với Nhà nước trong tổ chức, hoạt
động của bộy Nhà nước cộnga XHCN Việt Nam?
Cần phải nhận thức đúng đắn tính tất yếu khách quan của việc giữ vững tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước xuất phát từ bản chất cách mạng khoa học, vai trò sứ mệnh lịch sử của Đảng và mục
đích, tưởng đấu tranh của Đảng Cộng sản; xuất phát từ thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam; xut phát ttrọng trách nh đạo xây dựng hội ch nghĩa của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, dân phải
bao quát toàn bộ tổ chức, hoạt động của Nhà nước và được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, đường lối, chính sách của Đảng là định hướng chính trị và nội dung hoạt động của Nhà nước.
Hai , Đảng xác định những quan điểm, phương hướng, nội dung bản nhằm xây dựng, hoàn thiện
tổ chức hoạt động của Nhà nước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn.
Ba là, Đảng lãnh đạo hoạt động bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấpbảo đảm thật sự phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong việc lựa chọn các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan này.
Bốn là, Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cán
bộ công chức Nhà nước trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Năm là, Đảng lãnh đạo hoạt động xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật, tăng cường pháp
chế trong đời sống xã hội và hoạt động của Nhà nước, cán bộ công chức nhà nước:
Sáu , Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, dân rất toàn diện và bao
quát toàn bộ những vấn đề quan trọng về tổ chức, hoạt động của Nhà nước. Nhưng một vấn đề quan trọng
cần phải nhận thức mặc Đảng trọng trách lãnh đạo xây dựng nhà nước song bất cứ nội dung lãnh
đạo nào của Đảng đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền nêu trên đều phải dựa vào dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Mặt khác, bên cạnh những mặt thuận lợi của một Đảng duy nhất cầm quyền cần phải nhận thức hết
những nguy tiềm ẩn do thực hiện không đầy đủ hoặc vi phạm dân chủ trong chế độ một đảng cầm quyền.
Đó các nguy cơchủ quan, duy ý chí quan liêu trong xây dựng ch trương chính sách; quan, tổ chức
Đảng dễ áp đặt ý kiến của mình đối với cơ quan nhà nước; tự đặt Đảng lên trên nhà nước và pháp luật; Đảng
bao biện, làm thay công việc của Nhà nước mà không chịu trách nhiệm pháp lý về các quyết định của mình
v.v...
Để ngăn chặn loại trừ những nguy ấy thực hiện tốt vai trò xây dựng Nhà nước pháp quyền,
Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, đổi mới, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình phê bình,
nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện dân chủ thực s trong Đảng trong hội. Mặt khác, phải xây
dựng quy chế phối hợp làm việc giữa cơ quan, tổ chức Đảng và cơ quan, tổ chức nhà nước trong đó xác định
những loại việc Đảng phải chủ động ra Nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo; đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước; trong hoạt động của mình, các cơ quan, tổ chức Đảng và mọi cán bộ đảng viên
phải tuân thủ pháp luật, tôn trọng thể chế của cơ quan nhà nước v.v...Thực hiện được những yêu cầu cơ bản
nêu trên, Đảng mới thực hiện được trọng trách sứ mệnh lịch sử của mình lãnh đạo xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, dân để tiến hành xây dựng thành công chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng
sản trên đất nước ta.
Muốn đổi mới tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền hội chủ nghĩa của dân, do dân, dân nước ta hiện nay cần thực hiện đồng bộ hai
nhóm giải pháp như sau:
6
Thứ nhất, các giải pháp chỉnh đốn, đổi mới Đảng, xây dựng Đảng xứng đáng đội tiên phong của
giai cấp công nhân, thực sự trong sạch, vững mạnh; đủ năng lực trí tuệ uy tín làm tròn trọng trách của
lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội
Một , tiếp tục nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục tưởng chính trị, rèn luyện đạo
đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; kiên quyết khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống trong cán bộ, đảng viên.
Hai , tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ: quy hoạch; đào tạo, bồi dưỡng; đánh giá,
tuyển dụng; luân chuyển, bố tsử dụng n bộ;y dựng chế độ, chính ch n bộ; ng ờng quản lý kiểm tra
giám sát cán bộ. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ cả về quan điểm, nội dung, pơng pháp, tổ chức quản lý, chế
độ trách nhiệm, bộ y và con người làm ng c cán bộ.
Ba là, đẩy mạnh công tác xây dựng, củng cố nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
Đảng gắn với xây dựng chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể cơ sở và phong trào cách mạng của quần chúng.
Bốn là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục kiện toàn tổ chức và đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, một số giải pháp đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải tránh khuynh hướng
buông trôi, khoán trắng hoặc bao biện làm thay. Mặt khác phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện chuyển sang kinh tế thị trường xây dựng nhà nước pháp quyền. Theo những yêu cầu nêu trên cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
Một , tiếp tục nghiên cứu luận tổng kết thực tiễn về phân định vai trò lãnh đạo của Đảng
chức năng quản lý của Nhà nước.
Hai , tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp làm việc giữa quan, tổ chức Đảng với
quan, tổ chức nhà nước tất cả các cấp theo phương châm tôn trọng Điều lệ Đảng; tôn trọng Hiến pháp,
pháp luật, thể chế của cơ quan nhà nước, tính đến đặc thù của từng lĩnh vực nội dung lãnh đạo.
Ba , tiếp tục tổng kết đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong các lĩnh vực xây
dựng nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, nhấtcải cách hành chính, cải cách pháp, xây dựng
Đảng và chính quyền cơ sở là những vấn đề bức c cần ng cường sự lãnh đạo của Đảng hiện nay.
Bốn là, tăng cường hoạt động kiểm tra, bảo vệ nội bộ của Đảng, chỉ đạo sát sao hơn đối với hoạt động
thanh tra và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác.
Năm , tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ trong bộ máy nhà nước,
bảo đảm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, dân quá trình lâu
dài, đòi hỏi phải thực hiện đổi mới đồng bộ trên các mặt hoạt động lập pháp, hành pháp, pháp; đổi mới
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục, khoa học - công nghệ v.v... đổi mới tổ chức bộ
máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ v.v... Chính vậy, ngoài việc xây dựng chiến lược, xác định chủ
trương, giải pháp đúng đắn phải có kế hoạch và bước đi thích hợp.
Câu 5: Nêu khái niệm và phân tích vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị.
Pháp luật hệ thống các quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật) do nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà nước bảo đảm thực hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng
chế, để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm duy trì xã hội.
Pháp luật XHCN là hệ thống quy phạm pháp luật thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện
ý chí của nhân dân, được nhà nước ban hành bảo đảm thực hiện trên sở giáo dục, thuyết phục, nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN.
Với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm
sự ổn định và phát triển xã hội. Khoản 1, Điều 8, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước được tổ chức
và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật...”. Vai trò to lớn của
pháp luật được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
1. Vai trò của pháp luật đối với kinh tế.
2. Vai trò của pháp luật đối với xã hội.
3. Vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị.
4. Vai trò của pháp luật đối với phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
5. Vai trò của pháp luật đối với đạo đức và tư tưởng.
6. Vai trò của pháp luật đối với hội nhập quốc tế.
7
Trong đó vai trò của pháp luật đối hệ thống chính trị rất quan trọng, thể hiện các nội dung
sau:
1. Vai trò của pháp luật đối với sự lãnh đạo của Đảng:
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, làm cho
đường lối đó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội.
Thứ hai, pháp luật là phương tiện để Đảng kiểm nghiệm đường lối của mình trong thực tiễn.
Thứ ba, pháp luật là phương tiện phân định rõ phương thức lãnh đạo của Đảng bằng đường lối chính
trị với chức năng tổ chức, quản lý, điều hành mọi hoạt động xã hội của Nhà nước.
vai trò quan trọng như vậy, cho nên, một mặt đòi hỏi chất lượng cao của đường lối mặt khác
đòi hỏi chất lượng cao của việc thể chế hóa đường lối. Do vậy, mọi sai lầm về đường lối sai lầm trong
việc thể chế hóa đường lối đều dẫn đến hậu quả xấu cả hội phải gánh chịu. Đồng thời, khắc phục
được những khiếm khuyết trong thực tiễn như báo hiệu, làm thay, lấn sân giữa sự lãnh đạo của Đảng sự
quản lý, điều hành của Nhà nước.
2. Vai trò của pháp luật đối với Nhà nước:
Thứ nhất, pháp luật phương tiện ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước đối với hội công dân.
Để quản toàn bộ hội, Nhà nước dùng nhiều phương tiện, biện pháp, nhưng pháp luật phương tiện
quan trọng nhất. Với những đặc điểm riêng có của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương,
chính sách của Nhà nước nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất.
Thứ hai, pháp luật phương tiện tạo sở pháp để cho các quan nhà nước, nhân viên nhà
nước kiểm tra, giám sát đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm pháp luật của chính các tổ chức, các
quan nhà nước, nhân viên nhà nước khác và mọi công dân.
Thứ ba pháp luật phương tiện để Nhà nước thể tự hoàn thiện chính mình thông qua việc quy
định bằng pháp luật các nguyên tắc tổ chức và hoạt động, quyền hạn và nghĩa vụ, các chế độ, thể lệ, quy chế
của các cơ quan quản lý nhà nước, quy chế viên chức nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước...
3. Vai trò của pháp luật đối với các tổ chức chính trị-xã hội:
Thứ nhất,pháp luậtphương tiện bảo đảm cho quần chúng nhân dân lao động tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị-xã hội của mình.
Thứ hai, pháp luật phương tiện ghi nhận, bảo vệ, củng cố nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân dựa vào pháp luật để chống lại các hành vi lộng quyền,
bạo lực trực tiếp không có tổ chức.
Thứ ba, pháp luật phương tiện tạo sở pháp để cho nhân dân kiểm tra, giám sát, đấu tranh
chống lại các hành vi vi phạm pháp luật của các quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức chính
trị-xã hội và mọi công dân.
Như vậy, đối với toàn bộ hệ thống chính trị, pháp luật được xem như phương tiện quan trọng ghi
nhận các nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức hoạt động của toàn bộ hệ thống, bảo đảm cho hệ thống
hoạt động đồng bộ và có hiệu quả. Đồng thời, pháp luật là thước đo về tính hợp pháp, hợp chính trị, hợp đạo
lý của các yếu tố tạo nên hệ thống và của cả các thành viên hoạt động trong hệ thống đó.
Câu 6. Phân tích đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Quan điểm của Đảng vy dựng nhà ớc pháp quyền XHCN được hình thành trên sở nhận
thức tiếp thu chọn lọc những quan điểm, tư tưởng tích cực, tiến bộ về nhà nước pháp quyền trong
lịch sử tư tưởng nhân loại, kết hợp với s vận dụng ng tạo quan điểm của chủ nga c-nin, tư
ởng Hồ C Minh về n ớc, pháp luật kiểu mới vào thực tiễn xây dựng nhà nước của dân, do dân,
dân Việt Nam ng n tổng kết bài học kinh nghiệm từ thực tiễn t chức, hoạt động của b máy
nhà nước ta từ 1945 đến nay, nhất là trong những m đổi mới.
Những đặc trưng bản của Nhà nước pháp quyền theo quan điểm, tưởng về Nhà nước pháp
quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại:
Nhìn chung, lý luận về Nhà nước pháp quyền hệ thống các quan điểm tưởng rất phức tạp, phong
phú và có cách tiếp cận khác nhau. Tuy vậy, nghiên cứu tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử,
thể khái quát :những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền như sau
- Nhà nước pháp quyền nhà nước bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp pháp luật trong đời sống
hội, trong đó Hiến pháp pháp luật phải phản ánh chí chung của nhân dân", "lợi ích chung của
hội".
- Nhà nước pháp quyền :là nhà nước thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do, dân chủ của công dân
Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên bố các quyền tự do, dân chủ của công dân, mà còn phải
8
bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì
pháp luật không cấm trong khuôn khổ không xâm phạm đến tự do của người khác. Pháp luật chỉ cấm những
gì có hại cho xã hội.
- N nước pháp quyền n nước chịu trách nhiệm tớc công n về những hoạt động của
nh, n công n phải thực hiện c nghĩa vđối với n ớc và chịu trách nhiệm pháp vnhững
nh vi vi phạm pháp luật của mình.
- Để đảm bảo những yêu cầu, đặc trưng nêu trên, trong nhà nước pháp quyền phải hình thức tổ
chức quyền lực nhà nước thích hợp chế giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử các vi phạm pháp
luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Theo các nhà tưởng của học thuyết nhà nước pháp quyền,
hình thức tổ chức quyền lực nhà nước thích hợp trong nhà nước pháp quyền phân chia kiểm soát lẫn
nhau giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ("tam quyền phân lập"). Nói cách khác, trong nhà nước
pháp quyền phải bảo đảm tính pháp quyền của các thiết chế quyền lực nhà nước người chủ của
nhân dân và xác lập sự tôn trọng Hiến pháp (xây dựng Hiến pháp và chế độ bảo hiến). Để bảo đảm sự tuân
thủ pháp luật, xử nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật phải bảo đảm sự độc lập của Tòa án tính chất
dân chủ, minh bạch của pháp luật.
Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền với tính cách học thuyết về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, là một
giá trị,tinh hoa của nhân loại có nguồn gốc xa xưa, từ thời cổ đại có thể được áp dụng ở các nước trên cơ
sở những nét đặc trưng về văn hóa, chính trị, tư tưởng - pháp lý, truyền thống dân tộc. Chínhvậy việc áp
dụng học thuyết nhà nước pháp quyền vào nước ta hiện nay với những đặc trưng của chủ nghĩa hội
điều hoàn toàn thể được. Điều quan trọng chúng ta phải tìm ra được những đặc trưng bản của Nhà
nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam với bản sắc dân tộc, truyền thống, văn hóanhững điều kiện
riêng của Việt Nam.
Từ thực tiễn xây dựng từng bước hoàn thiện Nhà nước cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, những đặc trưngbản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân
vì dân ngày càng được định hình, có thể nêu lên cơ bản sau đây:một số đặc trưng
Một là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân;
mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta một nước dân chủ, địa vị cao nhất dân dân chủ”;
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dânchủ”. Với Hồ Chí Minh nhân dân là chủ thể tối cao và duy
nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ
quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết
lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là
các ông quan cách mạng công bộc của nhân dân. nhà nước của dân, do chính nhân dân lập qua
thông qua chế độ bầu cử dân chủ. Bầu cử dân chủ phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác
lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền
lực từ nhân dân.
tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được thể chế hoá thành một mục tiêu hiến định
ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể dân chủ cộng hoà nước ta - Hiến pháp 1946: “Xây dựng
một chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu - Hiến pháp 1946). Đặc điểm này của
Nhà nước ta tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992.
Hai: Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam nhà nước tôn trọng, thực hiện bảo vệ
quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người.
Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các Nhà nước cách mạng chân chính, nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh trên bảy mươi năm đầy gian khổ hy sinh của dân tộc Việt Nam vì độc
lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân, từng con người. Do vậy, vấn đề
bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng quyền dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà
nước và công dân, giữa công dân với Nhà nước, … luôn được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt. Nhiều Hội
nghị của Trung ương Đảng đề cập đến vấn đề này như văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X nhiều
Nghị quyết trung ương khác. Văn kiện Đại hội Đảng VI xác định: Xây dựng một chính quyền khôngđặc
quyền, đặc lợi, hoạt động cuộc sống của nhân dân. Nghị quyết trung ương 8 khoá VII xác định trên
nguyên tắc: dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề thuộc bản chất của Nhà nước ta. Phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trên mọi lĩnh vực. Quyền làm chủ đó được thể chế hoá báng pháp luật… Dân chủ đi đôi với kỷ
9
cương, kỷ luật… Văn kiện Đại hội Đảng IX xác định rõ những phương châm cơ bản: xây dựng cơ chế cụ thể
để thực hiện phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách
lớn của Đảng Nhà nước. Thực hiện tốt các chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện (là
cơ quan dân cử và các đoàn thể), làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng việc xây dựng
và thực hiện các quy ước, hương ước tại cơ sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm dân
chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết định.
Ba : Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa được tổ chức hoạt động theo pháp luật, quản
hội bằng pháp luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật trong đời sống Nhà nước và xã hội.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta kết quả của sự thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại.
Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã
hội. Vì vậy, nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp luật khách quan của các quy
định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một
cách chung chung với mục đích tự thân của nó.
Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân. Vì vậy,
pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tính chất và hoạt động của Nhà nước và là thước đo
giá trị phổ biến của hội ta: công bằng, dân chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát triển tiến
bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội ta.
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải một hệ thống pháp luật cần đủ để điều chỉnh các
quan hệ hội, làm sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật kỷ luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu
quảnhội, hình thức tồn tại của các cấu tổ chức hội của các thiết chế Nhà nước.vậy,
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất cả các
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức hội mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp và pháp luật.
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được xác lập một cách tập
trung nhất, đầy đủ nhất cao nhất bằng Hiến pháp. Chính lẽ đó Hiến pháp được coi Đạo luật
bản của Nhà nước, hiệu lực pháp cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, hội, quốc
phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụbản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an
toàn của người dân.
Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự duy
trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem
xét, đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của Nhà nước
và của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội.
Hiến pháp một vai trò quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của nhân dân, cho nên,
việc xây dựng thực hiện một chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh giá phán quyết về những quy
định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta
hiện nay.
Bốn là: Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), với “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội”, quan điểm về sự tồn tại của ba quyền và sự phân công, phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực
đó của Nhà nước mới được chính thức khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng vào hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam các tri thức của nhân loại và trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Và đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám (khoá VII),
(1995) quan niệm của Đảng về ba quyền đã được sự bổ sung quan trọng: quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Nghị quyết đại hội XI và Cương lĩnh xây dựng đất nước thấp kém quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(sửa đổi, bổ sung năm 2011) đều có bổ sung quan tâm vấn đề kiểm soát quyền lực trong cơ chế tổ chức quyền
lực nhà nước ở nước ta. Theo đó nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân công, phối hợp
kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được hoàn thiện một bước quan
trọng. Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa ba
10
quyền và quyền lực nhà nước là một quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ chức Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Năm : Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam nhà nước chịu trách nhiệm trước công
dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công dân thực hiện các nghĩa vụ trước nhà nước và xã hội.
Mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước với công dân, giữa dân chủ với kỷ cương trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do pháp luật quy định và điều chỉnh.
Sáu : Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo.
Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với s nghiệp xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan.
+ Đối với dân tộc Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước, đối với
hội không chỉ tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan mà còn chỗ sự lãnh đạo đó còn sở đạosâu
sắc và cơ sở pháp lý vững vàng.
+ Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội và đời sống nhà
nước không những không trái (mâu thuẫn) với bản chất nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện
ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân nước ta. Trong ý nghĩa ấy, nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam hành động
một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng lãnh đạo chính trị, quyết định phương hướng chính trị
của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của
dân, do dân dân, để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng hội chủ
nghĩa. Nhà nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng bằng các hoạt động quản
lý nhà nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên tất
cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
Bảy là: Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại
hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và phát triển với nhân dân các dân tộc và các nước trên toàn thế giới,
đồng thời tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn.
Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương: Mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhậpquốc tế.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoáquan hệ, giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủquyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấutranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
tiến bộ xã hội trên thế giới.
Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền XHCN VN thể hiện những tưởng quan điểm
tích cực, tiến bộ, phản ánh được ước khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong
một xã hội còn giai cấp.
Câu 7: Phân tích vai trò của Nhà nước đối với đảm bảo cung ứng dịch vụ công cho xã hội.
Khái niệm dịch vụ công:
Dịch vụ công những hoạt động phục vụ các nhu cầu bản, thiết yếu của người dân lợi ích
chung của chung của hội, do Nhà nước chịu trách nhiệm trước hội (trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền
và tạo điều kiện cho khu vực tư thực hiện) nhằm bảo đảm hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội
Phạm vi của dịch vụ công cũng được xác định rất khác nhau, tuỳ thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi
quốc gia.
Theo nghĩa rộng nhất, dịch v công là những ng h, dịch vụ N nước can thiệp o việc
cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quvà công bằng. Theo đó, dịch vụ công tất cả những hoạt động nhằm
thực hiện c chức năng vốn có của Chính phủ, bao gồm từ các hoạt động ban nh chính sách, pp
luật, an ninh, quốc phòng, cho đến những hoạt động y tế, go dục, giao thông công cộng.
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hoá, dịch vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của các
tổ chức và công dân mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng.
Vai trò của Nhà nước đối với việc bảo đảm cung ứng dịch vụ công cho xã hội
Mọi nhà nước, không phụ thuộc vào chế độ chính trị-xã hội đều trách nhiệm bảo đảm cung ứng
dịch vụ công cho nhân dân. Trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung ứng Dịch vụ công xuất phát từ
những nguyên nhân sau
11
Thị trường bị thất bại trong việc cung ứng các dịch vụ công cho xã hội, thể hiện dưới 4 dạng cơ bản
các hàng hóa công cộng thuần túy, các dịch vụ có tác động ngoại ứng, tình trạng độc quyền thị trường trong
cung ứng hàng hóa, dịch vụ và tình trạng thông tin không đối xứng trong cung ứng dịch vụ.
Tình trạng bất công bằng trong thụ hưởng các hàng hóa, dịch vụ bản đối với đời sống hội.
những loại dịch vụ mag tư nhân thể cung cấp, nhưng việc tư nhân cung cấp sẽ dẫn đến chỗ những người
thu nhập thấp (nhất người nghèo) sẽ ít hoặc không hội sử dụng các dịch vụ này, chẳng hạn
như dịch vụ y tế, giáo dục, cung cấp điện, nước sinh hoạt….
Những nguyên nhân nói trên đòi hỏi Nhà nước-đại diện cho quyền lực công do nhân dân bỏ phiếu bầu
ra-phải trách nhiệm khắc phục các thất bại của thị trường bằng cách trực tiếp cung ứng hoặc điều tiết,
kiểm soát thị trường nhân nhằm đảm bảo cho việc cung ứng dịch vụ đó được bình thường, công bằng,
phục vụ các nhu cầu cơ bản của con người.
Trách nhiệm cụ thể của Nhà nước về dịch vụ công bao gồm:
Một là: Trực tiếp tổ chức thực hiện một số dịch vụ công: Đối với một số hàng hoá, dịch vụ, Nhà
nước thấy cần thiết phải duy trì vị trí sở hữu, người trực tiếp cung ứng để bảo đảm việc cung cấp đầy đủ
các dịch vụ này. Nhà nước trực tiếp thực hiện cung ứng một số dịch vụ công thông qua các cơ quan, tổ chức
của mình lập ra. Điều quan trọng Nhà nước cần phải nghiên cứu xác định các dịch vụ nào thực sự cần
thiết mà Nhà nước phải trực tiếp làm, phạm vi đến đâu, để tránh ôm đồm quá với khả năng cho phép.
Về nguyên tắc, Nhà nước chỉ trực tiếp cung ứng các dịch vụ công thiết yếu cho đa số trong các
trường hợp thị trường thất bại không bảo đảm công bằng trong cung ứng các dịch vụ này đối với
người nghèo. Song ngay cả khi đó, Nhà nước cũng chỉ nên cung ứng các dịch vụ công sau đây:
- Dịch vụ không thể xác định được các đặc tính đầu ra: một số dịch vụ khó có thể xác định được các
đặc tính đầu ra (chẳng hạn như vấn đề giữ gìn an ninh trật tự trên một địa bàn), hoặc rất khó có thể giám sát
việc cung ứng các dịch vụ này, từ đó thể dẫn đến các hậu quả xấu (chẳng hạn như việc sản xuất khí).
Trong các trường hợp đó Nhà nước nên trực tiếp cung ứng để thể điều phối giám sát tốt hơn viêc sản
xuất và cung ứng các dịch vụ này, tránh các ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội.
- Dịch vụ khó cạnh tranh: các dịch vụ công mà tư nhân không muốn tham gia, không đủ khả năng để
tham gia. Nhà nước cần trực tiếp cung ứng một số loại dịch vụ xã hội bởi vì, có những loại dịch vụ rất quan
trọng phục vụ nhu cầu chung của cả cộng đồng nhưng tư nhân không muốn cung ứng do nó không mang lại
lợi nhuận, hoặc nhân chưa đủ điều kiện tiềm lực để tham gia cung ứng, nhưng trách nhiệm cung ứng
thuộc về Nhà nước nên Nhà nước phải trực tiếp cung ứng. Chẳng hạn, đối với một số dịch vụ như tiêm
chủng, y tế dự phòng, nghiên cứu bản (khoa học), văn hoá quần chúng, bảo tồn - bảo tàng,... Bên cạnh
đó, cũng có những loại dịch vụ mà thị trường có thể cung cấp nhưng cung cấp không đầy đủ, hoặc dễ tạo ra
sự bất bình đẳng trong xã hội về mặt hưởng thụ dịch vụ, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng nói
riêng và toàn thể xã hội nói chung. Chẳng hạn như đối với một số loại dịch vụ xã hội tối cần thiết cho người
dân như dịch vụ y tế, giáo dục, điện, nước sinh hoạt,… thì Nhà nước trách nhiệm trực tiếp cung ứng
(không để nhân độc quyền cung ứng) hoặc các biện pháp kiểm soát thị trường nhân để đáp ứng
những quyền lợi cơ bản của người dân.
- Dịch vụ có sự nhạy cảm về chính trị: một số loại dịch vụ có tính chính trị, Nhà nước phải trực tiếp
đứng ra cung ứng để tránh những hậu quả xấu về mặt chính trị, chẳng hạn như tạo ra sự bất ổn về chính trị,
tư tưởng, an ninh, quốc phòng… Đương nhiên, tuỳ theo bối cảnh chính trị của mỗi nước mà Nhà nước quyết
định phạm vi các dịch vụ cần được cung ứng trực tiếp.
Hai là: Thực hiện quản lý nhà nước về cung ứng dịch vụ công:
Nhà nước không trực tiếp cung ứng các dịch vụ hội, cho phép nhân cung ứng một số loại dịch vụ
nhất định, nhưng Nhà nước thực hiện sự can thiệp gián tiếp đến việc cung ứng các dịch vụ đó bằng các công
cụ quản lý nhằm bảo đảm các mục tiêu xã hội đã đề ra. Do đó, đây chính là vai trò của quản lý Nhà nước đối
với các dịch vụ xã hội. Thực hiện vai trò này ở nước ta trong thời gian qua được thể hiện ở một số nội dung
như sau:
Thứ nhất: Xây dựng chiến lược và các chính sách, cơ chế về cung ứng dịch vụ công.Nhà nước xây
dựng chiến lược cung ứng dịch vụ công nhằm đề ra định hướng các giải pháp bảo đảm về số lượng
chất lượng dịch vụ công cho xã hội gắn với tầm nhìn dài hạn. Trên cơ sở đó, Nhà nước tiến hành hoạch định
chính sách và cơ chế cung ứng các loại dịch vụ công cơ bản. Hệ thống cơ chế chính sách này là căn cứ pháp
lý để tổ chức, chỉ đạo thống nhất hoạt động cung ứng dịch vụ công.
Thứ hai:Phân cấp quản lý trong cung ứng dịch vụ công:Thực hiện phân cấp ngày càng nhiều cho các
bộ ngành đặc biệt các cấp chính quyền địa phương về quản cung ứng các dịch vụ công. Về
12
nguyên tắc, các đơn vị cấp sở gắn trực tiếp với người hưởng lợi sẽ người cung ứng dịch vụ công
thích hợp hiệu quả nhất, họ hiểu nhất nhu cầu của người dân thể tạo ra sự thuận lợi nhất
cho người dân trong việc tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ công.
Thứ ba: Thực hiện chỉ đạo, điều hành kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ công
nhằm bảo đảm các mục tiêu của Nhà nước: Sự chỉ đạo, điều hành và kiểm tra, giám sát của Nhà nước nhằm
bảo đảm duy trì việc cung ứng các dịch vụ công thiết yếu cho hội một cách liên tục, ổn định; thiết lập
được môi trường chung, thống nhất cho các chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ công để họ tự nguyện cùng
tham gia giải quyết các vấn đề của cộng đồng; thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức cung ứng
dịch vụ; tạo điều kiện và bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng.
Thứ tư: Tạo lập môi trường để tăng cường tiếng nói của người dân đối với các chính sách của Nhà
nước: Nhà nước cần quán triệt quan điểmcung ứng dịch vụ công định hướng khách hàng. Việc Nhà nước
lắng nghe tiếng nói của người dân sẽ giúp Nhà nước cải tiến các chính sách đề ra phù hợp với thực tế, và đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân.
Thứ năm: Ban hành các chế khuyến khích các nhà cung ứng cải thiện dịch vụ công: Chính phủ
đang từng bước đổi mới chế hoạt động thích ứng đối với từng loại đơn vị cung ứng dịch vụ công để
khuyến khích các đơn vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, đa dạng hoá các dịch vụ, mở
rộng cung ứng dịch vụ cả về số lượng dịch vụ, địa bàn, số sở cung ứng nâng cao chất lượng dịch vụ
đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của các tổ chức và công dân.
Thứ sáu:Khuyến khíchthực hiệnhội hoá các dịch vụ công: hội hóa là một chủ trương đúng
đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm huy động, tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động của nhân dân và các tổ
chức vào hoạt động cung ứng dịch vụ công trên cơ sở phát huy tính sáng tạo và khả năng đóng góp của mỗi
người để cải thiện hiệu quả cung ứng dịch vụ công.
Thứ bảy: Hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo để tăng khả năng tiếp cận của họ đến các dịch vụ công:
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đi liền với sự gia tăng bất bình đẳng, sự phân hóa giàu nghèo trong
hội sự chênh lệch trong hưởng thụ các dịch vụ công. Để tránh tình trạng giá cả của dịch vụ thể trở
thành hàng rào ngăn cản người nghèo sử dụng dịch vụ công và nhằm thực hiện công bằng xã hội, Nhà nước
có trách nhiệm hỗ trợ người nghèo trong việc tiếp cận đến các dịch vụ công.
Kết luận: Như vậy, Nhà nước vai trò đặc biệt quan trọng đối với dịch vụ công đảm bảo về chất
lượng, hiệu quả sự công bằng trong cung ứng cũng như hưởng thụ các dịch vụ công của người dân. Vai
trò này được thể hiện thông qua sự can thiệp của N nước đối với các dịch vụ công bằng các hình thức
khác nhau như trực tiếp cung ứng một số loại dịch vụ hội thiết yếu cho hội nhân không muốn
hoặc không đủ khả năng để cung ứng, gián tiếp can thiệp vào các dịch vụ công thông qua hoạt động
quản Nhà nước đối với dịch vụ công. vậy, để phát triển các dịch vụ công cả về mặt số lượng chất
lượng, cần phải phát huy được sức mạnh của toàn thể hội, trong đó trước hết phải phát huy vai trò của
Nhà nước đối với các dịch vụ này.
Câu 8: Nêu khái niệm, phân tích các nội dung quản lý đối với ngành, lĩnh vực xã hội.
Khái niệm
Quản nhà nước đối với lĩnh vực hội được quan niệm là: Quá trình tác động, điều chỉnh của
Nhà nước trên sở của luật pháp đối với các hoạt động của ngành, lĩnh vực trong hội để các hoạt
động đó diễn ra theo quy định của pháp luật.
Nội dung quản lý đối với ngành, lĩnh vực xã hội
1. Đối tượng quản lý rộng
- Đối tượng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực liên quan đến toàn bộ dân cư, không phân biệt
tôn giáo, dân tộc, địa bàn trú trên lãnh thổ cả nước còn liên quan đến cộng đồng người Việt làm ăn,
sinh sống ở nước ngoài. Ví dụ: bản sắc văn hóa của người Việt không chỉcộng đồng người Việt sinh sống
trên lãnh thổ Việt Nam, còn liên quan đến cộng đồng người Việt sinh sống nước ngoài. Bảo về tài
nguyên, môi trường không chỉ trên lãnh thổ Việt Nam mà còn liên quan đến nhiều quốc gia,v.v..
- Quá trình hội nhập toàn cầu hoá trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nhân loại (thông tin, công
nghệ, môi trường, hiểm họa thiên nhiên, ràng buộc tài chính, tác động văn hoá, các chi phối quân sự, chính
trị v.v.), cho nên, các hoạt động quản hội của mỗi quốc gia đều bị chi phối ràng buộc chặt chẽ vào
nhau. Bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia; quản văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường của mỗi quốc gia
phải tính đến sự tác động, chi phối của các quốc gia khác, như sự giao lưu của của những giá trị văn hóa; sự
ứng dụng khoa học công nghệ trong phòng chống dịch bệnh; sự kế thừa các giá trị trong giáo dục đào tạo; sự
hợp tác trong phòng chống biến đổi khí hậu, bảo đảm tính đa dạng sinh học, chống ô nhiễm môi trường.v.v.
13
- Khách thể quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực xã hội đa dạng, phức tạp do tính đa dạng, phức
tạp của ngành, lĩnh vực nhà nước phải quản lý. Nhà nước phải tổ chức quảnnhằm tạo sự hợp lý giữa chủ
thể và khách thể quản lý, tạo sự cân bằng, cân đối giữa các mặt hoạt động của quá trình văn hóa, giáo dục, y
tế, môi trường và hành vi hoạt động của con người.
- Quản nhà nước đối với lĩnh vực hội ý nghĩa quyết định đến phát triển bền vững của quốc
gia. Quản ngành, lĩnh vực liên quan đến các giá trị tinh thần, vật chất; nền tảng, động lực của sự phát
triển, liên quan trực tiếp đến cuộc sống và chất lượng sống của mọi người.
Bởi vậy, quản nhà nước đối với ngành, lĩnh vực hội có ảnh trực tiếp đến mọi công dân ý
nghĩa quyết định đến phát triển bền vững của quốc gia
2. Nội dung quản lý đa dạng
Nội dung quản lý nhà nước đối với lĩnh vực xã hội về lý luận bao gồm:
- Xây dựng chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực trên cơ sở những quan điểm, mục tiêu lãnh đạo của
Đảng cho từng thời kỳ.
- Hoạch định, xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật làm nền tảng, sở cho quản lý. Bảo
đảm quyền lợi và nghĩa vụ công dân; thiết lập trật tự an toànhội; bảo đảm sự bình đẳng của công dân và
các quan hệ xã hội trên cơ sở của luật pháp.
- Hoạch định kế hoch, chương trình, dự án về xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội nhằm mục tiêu dân
giầu, nước mạnh, xã hi dân chủ, công bằng n minh.
- Hoạch định, xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội nhằm thực hiện công bằng xã hội.
- Tổ chức sử dụng, thu hút các nguồn lực hiệu quả để giải quyết các vấn đề hội bảo đảm sự
phát triển kinh tế-xã hội phát triển bền vững.
- Tổ chức bộ máy để quản lý xã hội cho phù hợp với sự phát triển chung.
- Đào tạo nguồn nhân lực đủ năng lực để vận hành bộ máy quản lýthực hiện những hoạt động
hội.
- Mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút các nguồn lực từ bên ngoài bảo đảm cho sự phát triển.
- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát để các hoạt động trong quản của nhà nước
được bảo đảm theo quy định của pháp luật và quyền, trách nhiệm của công dân.
- Mrộng hợp tác quốc tế trên sở bảo đảm đường lối đối ngoại của Đảng; chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Quản nhà nước đối với ngành, lĩnh vực do đối tượng quản lý, khách thể quản thuộc nhiều
ngành, lĩnh vực nên rất đa dạng. Bởi vậy, nội dung quản lý cũng rất đa dạng, phong phú và phức tạp.
3. Phương thức quản lý linh hoạt
Phương thức quảnlà phương pháp và cách thức quản lý. Phương thức quản lý phụ thuộc vào mục
đích đối tượng quản lý. Mục đích đối tượng quảnnhững yếu tố quan trọng chi phối đến việc lựa
chọn phương thức quản lý. Trên cơ sở mục đích, đối tượng quản lý, nhà quản lý lựa chọn phương thức quản
lý cho phù hợp với đối tượng để đạt tới mục đích của quản lý.
Trong quản nhà nước đối với ngành, lĩnh vực hội việc lựa chọn phương thức quản phải căn
cứ vào những yếu tố sau:
- Mục tiêu quản lý: Quản nhà nước đối với ngành, lĩnh vực nào đó phải đạt được tính hiệu lực
hiệu quả của quản lý.
- Đối tượng quản lý: Câu hỏi quản lý ai ? quản lý cái ? ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn
phương thức quản lý. Phương thức quản lý phù hợp mới phát huy được tính tích cực và năng động xã hội.
- Thể chế của nền hành chính nhà nước: Đây yếu tố bảo đảm cho một nhà nước dân chủ, quản
bằng pháp luật. Bởi vậy, phương thức quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực không thể không căn cứ vào
hệ thống pháp luật, chính sách hội để chọn những phương thức quản phù hợp với đối tượng quản
nhằm đạt được mục tiêu quản lý xã hội.
- Trình độ phát triển của nền kinh tế: Đây là yếu tố vật chất, kỹ thuật bảo đảm cho các phương thức
quản lý có hiệu quả.
- Văn hóa truyền thống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo.v.v: Đây cũng những yếu tố
ảnh hưởng đến lựa chọn phương thức quản đối với ngành, lĩnh vực. Phương thức quản phải phù hợp
với những đặc trưng về văn hóa, tập quán, tôn giáo, ... thì mới đạt được hiệu lực, hiệu quả của quản lý.
Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực do mục đích quản lý mỗi ngành, lĩnh vực khác nhau, đồng
thời do đối tượng quản lý cũng rất khác nhau nên việc lựa chọn phương thức quản lý đối với mỗi ngành, lĩnh
vực cũng không giống nhau.
14
Việc lựa chọn phương thức quản nhà nước đối với ngành, lĩnh vực rất đa dạng, linh hoạt không
máy móc, giáo điều, cứng nhắc, mà phải linh hoạt, phù hợp với mục đích và đối tượng quản lý.
15
Câu 9. Phân tích quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật VN và định hướng xây dựng và hoàn
thiện phap luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân nhân
dân đến năm 2020?
Khái niệm hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật tổng thể các quy phạm pháp luật mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được phân
định thành chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những trình tự và hình thức và thủ tục nhất định
Quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật
Một là, thể chế hóa kịp thời đầy đủ đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của pháp
luật về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, nhân dân, bảo đảm quyền
con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát
triển văn hóa – xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng.
Hai là, phát huy cao độ nội lực, tích cực chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc
tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc phòng và định hướng XHCN.
Ba , xuất phát t thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây
dựng tchức thực nh pháp luật; kết hợp hài hòa bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của n tộc
nh hiện đại của hệ thống pháp luật.
Bốn là, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện tổ chức thực
thi pháp luật.
Năm là, tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách pháp, với những bước đi vững chắc, coi
trọng số lượng và chất lượng có trọng tâm, trọng điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả
thinh pháp luật.
Những định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020.
Mt là, xây dng và hoàn thiện pháp lut v t chc và hot động ca các thiết chế trong h
thng chính tr phù hp vi yêu cu xây dng Nhà nưc pháp quyn XHCN Việt Nam ca nhân
dân, do nhân dân và nhân dân.
Hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm hoạt động của Đảng phù hợp với Hiến pháp và
pháp luật, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý, điều hành của Nhà nước, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc các
đoàn thể nhân dân.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chnghĩa Việt Nam; cụ thể hóa đầy đủ nguyên tắc
hiến định “Quyền lực nnước là thống nhất, sự phân công phối hợp giữac cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp,nh pháp, tư pp”;ng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pp luật.
Xây dựng hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động của Quốc hội, đẩy nhanh tiến độ nâng
cao chất lượng hoạt động lập pháp, bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ
thống pháp luật; trong đó, các đạo luật ngày càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ
hội. Hoàn thiện pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành công bố văn bản quy phạm pháp luật thống
nhất cho cả Trung ương địa phương, theo hướng Quốc hội ban hành luật, giảm dần việc Ủy ban thường
vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh; Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thi hành luật; hạn chế dần
thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Xác lập cơ chế bảo đảm luật
được thi hành ngay khi có hiệu lực.
Hoàn thiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội, cơ chế bảo vệ luật và Hiến pháp.
Xây dựng hoàn thiện pháp luật về tổ chức, cán bộ hoạt động của các quan hành chính nhà
nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà nước.
Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra
Hoàn thiện pháp luật về công chức, công vụ
Hoàn thiện Luật chống tham nhũng
Đến năm 2020, pháp luật về tổ chức hoạt động của hệ thống các quan hành pháp được hoàn
thiện theo hướng Chính phủ tập trung vào chức năng quản lý, điều hành thực hiện đúng vai trò
cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
Xây dựng các luật về tổ chức và hoạt động của các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp.
16
Xây dựng hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động của các quan pháp phù hợp với mục
tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho
từng cơ quan, chức danh tư pháp. Cụ thể:
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân;
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân;
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra;
Hoàn thiện pháp luật Luật thi hành án;
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp
Hai là, xây dựng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của
công dân.
Củng cố sở pháp về trách nhiệm của các quan nhà nước trong xây dựng, ban hành kịp thời,
đồng bộ tổ chức thực thi các pháp luật, các điều ước quốc tế Việt Nam thành viên về quyền con
người, quyền công dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ
trách nhiệm của quan nhà nước, nhất tòa án trong việc bảo vệ các quyền đó; xử nghiêm minh mọi
hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; khắc phục việc xử lý oan, sai; khẩn trương hoàn
thiện Luật về bồi thường nhà nước. Xây dựng các đạo luật về lập hội, biểu tình nhằm xác định quyền,
trách nhiệm của công dân trong việc thực thi quyền dân chủ và trách nhiệm của Nhà nước trong việc dân trí,
bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng.
Hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của
công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để
người dân tham gia vào công việc của Nhà nước; ban hành Luật về trưng cầu ý dân.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Cụ thể:
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh;
Xây dựng pháp luật cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường;
Hoàn thiện môi trường pháp lý cho sự hình thành, phát triển lành mạnh thị trường lao động;
Hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hình thành và phát triển thị trường khoa học - công
nghệ;
Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng các thiết chế chuẩn mực quốc tế về an toàn trong
kinh doanh tiền tệ - tín dụng;
Hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán;
Hoàn thiện pháp luật về tài chính công;
Tiếp tục cải cách pháp luật về thuế;
Hình thành đồng bộ pháp luật về các chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật;
Hoàn thiện pháp luật về tài nguyên và môi trường.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa
- thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội. Cụ thể:
Thể chế hóa chủ trương xã hội hóa trong các lĩnh vực văn hóa - xã hội (giáo dục - đào tạo, nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghề, y tế, văn hóa, nghệ thuật, thể thao…);
Thể chế hóa quan điểm coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu;
Hoàn thiện pháp luật về khoa học và công nghệ;
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân tộc, tôn giáo;
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc;
Hoàn thiện pháp luật về báo chí và xuất bản;
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân;
Thể chế hóa các chính sách về công bằng xã hội.
Năm là, xây dựng hoàn thiện pháp luật về quốc phòng an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
hội
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh;
Hoàn thiện pháp luật về biên giới quốc gia, vùng biển, vùng trời; về tổ chức, hoạt động lực lượng
trang nhân dân;
Hoàn thiện pháp luật về đấu tranh phòng chống tội phạm;
17
Xây dựng mới các đạo luật về phòng thủ dân sự, giáo dục quốc phòng, bảo vệ các mục tiêu quan trọng
về an nhinh quốc gia, chống khủng bố
Sáu là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế.
Tiếp tục ký kết, gia nhập c điều ước quốc tế trong c nh vực kinh tế, tơng mại, đầu tư, tín
dụng quốc tế, sở hữu ttuệ, thuế quan, bảo vệ môi trường
Hoàn thiện pháp luật theo yêu cầu gia nhập WTO; thực hiện các cam kết với ASEAN, tham gia đầy
đủ vào AFTA năm 2006, tiến tới cộng đồng kinh tế châu Á vào năm 2020;
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế;
Nội luật hóa những điều ước quốc tế Nhà nước ta thành viên liên quan đến an ninh, trật tự, an
toàn xã hội. Hoàn thiện Luật dẫn độ tội phạm và chuyển giao người bị kết án phạt tù.
Câu 10. Phân tích các nguyên tắc xây dựng pháp luật?
Xây dựng pháp luậtgồm nhiều hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cá nhân
được Nhà nước trao quyền, mối quan hệ chặt chẽ với nhau, theo những trình tự thủ tục luật định nhằm
chuyển hóa ý chí của giai cấp cầm quyền và ý chí chung của toàn xã hội thành các quy định pháp luật.
Nguyên tắc xây dựng pháp luật những quan điểm tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình tổ
chức hoạt động xây dựng pháp luật. Hay nói cách khác nguyên tắc xây dựng pháp luật "kim chỉ nam"
định hướng cho hoạt động xây dựng pháp luật.
Hoạt động xây dựng pháp luật có những nguyên tắc cơ bản sau:
Một , Đảm bảo sựnh đạo của Đảng đối với hoạt động xây dựng pp luật
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước lãnh đạo toàn diện mọi mặt đời sống
kinh tế chính trị hội thì Đảng phải lãnh đạo công tác xây dựng pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động xây dựng pháp luật thể hiện ở các khía cạnh:
- Đảng phải đề ra chủ trương đường lối chiến lược về xây dựng pháp luật, phải nghiên cứu tình hình
thực tiễn về kinh tế; hội cũng như các quan hệ hội phát sinh tồn tại phát triển trong hội để ban
hành các chủ trương đường lối cho phù hợp.
Các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải nhất quán trong chủ trương đường lối xây dựng pháp luật. Một
sự không ăn khớp, hoặc mâu thuẫn về chủ trương đường lối đều ảnh hưởng tới công tác xây dựng pháp luật.
Đảng lãnh đạo, nhưng Đảng phải tôn trọng các cơ quan tổ chức cá nhân có chức năng xây dựng pháp
luật, tránh bao biện làm thay các quan nhà nước, tổ nhân trong xây dựng pháp luật. Đảng tập trung
lãnh đạo cácquan nhà nước có thẩm quyền xây dựng pháp luật, như Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội Chính phủ... để thể chế hóa kịp thời đường lối, chủ trương chính sách của Đảng.
Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động xây dựng pháp luật, Đảng phải củng cố và nâng
cao chất lượng các tchức Đảng thuộc các quan nhà nước thẩm quyền xây dựng ban hành pháp
luật. Đặc biệt phải phát huy vai trò tích cực của đội ngũ đảng viên là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân và các cán bộ công chức tham gia vào việc xây dựng pháp luật.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong y dựng pháp luật cần tránh hai khuynh hướng Đảng can
thiệp quá sâu hoạt động xây dựng pháp luật hoặc buông lỏng khoán trắng cho Nhà ớc không quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động này.
Hai là, Nguyên tắc khách quan, công khai, minh bạch
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi trong xây dựng pháp luật phải đáp ứng được những yêu cầu khách
quan của các quan hệ hội, phải tôn trọng các quy luật khách quan về tự nhiên, kinh tế, hội, tránh tình
trạng áp đặt chủ quan, duy ý chí trong hoạt động xây dựng pháp luật.
Trong xây dựng pháp luật phải vừa bám sát các đường lối chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế
- hội, vừa phải khảo sát nghiên cứu thực tế để nghiên cứu các quan hệ hội, tồn tại một cách khách
quan trong đời sống xã hội, phải nắm chắc tình hình kinh tếxã hội để xây dựng các quy phạm pháp luật phù
hợp, tính khả thi. Đặc biệt trong xây dựng pháp luật phải đảm bảo công khai minh bạch, tránh lợi ích
nhóm, tránh cục bộ ngành, cục bộ địa phương trong xây dựng pháp luật.
Ba là, Nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật
Thực hiện nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật đòi hỏi Nhà nước phải tạo điều kiện thực sự
để nhân dân và các tổ chức xã hội, các đoàn thể tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật như góp ý kiến
vào dự thảo Hiến pháp, Luật, Bộ luật, Pháp lệnh v.v..
Các quan soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải lắng nghe tôn trọng ý kiến góp ý của dân,
những ý kiến có cơ sở lý luận và thực tiễn phải tiếp thu để chỉnh sửa trong các văn bản dự thảo.
18
Ngược lại các công dân phảinăng lực để thực hiện làm chủ trong xây dựng pháp luật. Người dân
phải hiểu biết sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa,hội, về kiến thức pháp luật và ý thức trách nhiệm
để thực hiện quyền làm chủ của mình trong xây dựng pháp luật.
Bên cạnh đó, các cơ quan xây dựng pháp luật cũng phải tạo điều kiện để nhân dân được làm chủ trong
xây dựng pháp luật, như thông qua các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các đoàn thể hoặc
trực tiếp thực hiện các quyềnn chủ của mình trong xây dựng pháp luật, như người dân trực tiếp góp ýo các
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, hoặc trực tiếp tham gia các hội thảo về góp ý sửa đổi bổ sung các văn bản
quy phạm pháp luật.
Thực hiện nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật đòi hỏi phải triển khai cả hai hình thức dân ch
trực tiếp hoặc gn tiếp trong xây dựng pháp luật.
Bốn là, Nguyên tắc pháp chế trong xây dựng pháp luật
Pháp chế hội chủ nghĩa trong xây dựng pháp luật chế độ trong đó các quan nhà nước,
các tổ chức nhân phải dân chủ triệt để các quy định pháp luật. Thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi trong
quá trình xây dựng pháp luật các cơ quan thẩm quyền phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật
về trình tự thủ tục xây dựng ban hành các văn bản pháp luật (Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật).
Các quan nhà nước thẩm quyền phải thường xuyên hệ thống hóa văn bản pháp luật xử
nghiêm đối với những văn bản ban hành trái thẩm quyền vi phạm luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, những quy định vi Hiến, những văn bản, quy phạm pháp luật không có tính khả thi v.v..
Đặc biệt phải tăng cường trách nhiệm của các tổ chức nhân trong việc tham gia soạn thảo ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, các cán bộ, công chức phải tuân thủ nghiêm ngặt các trình tự thủ tục nội
quy, quy chế trong hoạt động xây dựng pháp luật.
Năm là, Nguyên tắc lôgic và khoa học
Hoạt động xây dựng pp luật bao gồm nhiều ớc, nhiều giai đoạn, nhiều thủ tục có mối quan
hệ chặt chvới nhau. vậy trong xây dựng pháp luật phải đảm bảo nh gic, tính khoa học. Đặc biệt
trong xây dựng vcăn bản quy phạm pháp luật bao gồm nhiều quy phạm, nhiều chế định pháp luật
khác nhau, giữa c quy phạm, chế định pp luật có mối liên h chặt ch với nhau, tạo thành một thể
thống nhất, do đó cần phải thực hiện nguyên tắc lôgic trong xây dựng pp luật. Phải xem đây là một
trong những nguyên tắc quan trọng của hoạt động xây dựng pp luật.
n cạnh đó phải tchức khoa học q trình y dựng pháp luật, nghĩa là phải quản lý một cách
khoa học trong hoạt động xây dựng pháp luật, n quản v con người, chương trình, kế hoạch i
chính trong q trình xây dựng pháp luật, để tránh lãng p c nguồn lực, n nguồn lực con người,
nguồn lực tài chính, nguồn lực thời gian...
Phải tổ chức khoa học việc biên soạn văn bản pháp luật, cắt giảm các thủ tục hành chính rườm
trong hoạt động xây dựng pháp luật, vừa coi trọng số lượng, vừa coi trọng chất lượng trong hoạt động xây
dựng pháp luật. Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi phải biết thiết kế một cách lôgic, khoa học, hợp lý, các
chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật trong một văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt phải nghiên
cứu để kết cấu một cách lôgic, khoa học các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Các
quan soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để tránh việc
trùng lắp chồng chéo, hoặc lỗ hổng các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Văn phong
trong các văn bản quy phạm pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu, từ ngữ phải có độ chính xác cao.
Câu 11. Nêu định hướng phát triển hành chính nhà nước Việt Nam theo đặc trưng hình
hành chính nhà nước?
Hành chính nhà nước (hành chính công) là hoạt động của các cơ quan nhà nước sử dụng quyền lực
nhà nước để quản các công việc nhằm phục vụ lợi ích chung của hội hay lợi ích riêng hợp pháp của
các công dân.
Mục tiêu cao nhất của hành chính nhà nước hiện đại nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người
dân. Công dân được coi như khách hàng của nền hành chính. Nhà nước có trách nhiệm phục vụ tốt nhất nhu
cầu của công dân. Việc thỏa mãn nhu cầu của công dân đòi hỏi hành chính nhà nước phải chuyển từ “cai trị”
sang “phục vụ”, phải trở nên năng động, hiệu lực, hiệu quả, cung cấp đầy đủ các dịch vụ với chất lượng
cao, nhanh chóng, công chức có thái độ phục vụ tận tâm và công bằng…
Xuất pt điểm từ một nền hành chính của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp,
nh chính nhà nước Việt Nam vẫn cònkhoảngch k xa so với hành chính của cácớc pt triển.
vậy, q trình cải ch nh cnh n ớc Việt Nam sphải đối mặt và ợt qua các thách thức
19
của riêng mình như: thách thức về đổi mới tư duy từ nền hành chính “bao cấp” sang hành chính “phục vụ”;
thách thức từ mâu thuẫn giữa năng lực quản lý của Nhà nước với sự phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh
toàn cầu hóa; thách thức từ đòi hỏi đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội; thách thức trước yêu cầu hiện đại
hóa nền hành chính dưới tác động của tiến bộ khoa học công nghệ; thách thức về nguồn lực tài chính
công cho hoạt động của bộ máy nhà nước...
Trước những thách thức to lớn đặt ra, hành chính nhà nước Việt Nam cần các định hướng phát
triển đúng đắn để thể vượt qua các trở ngại từng bước hình thành các đặc trưng của hành chính công
hiện đại trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Các định hướng đó là:
Thứ nhất, đổi mới căn bản duy về một nền hành chính phục vụ. Chuyển từ hành chính tập trung,
quan liêu với chế “xin cho” phổ biến sang nền hành chính phục vụ cả một cuộc cách mạng nhằm xóa
bỏ thói cửa quyền, phiền hà, sách nhiễu, đặc biệt tình trạng hối lộ tham nhũng, hình thành nền hành
chính nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.
Thứ hai, tiếp tục mở rộng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa, huy động sự tham gia của nhân dân
vào quản lý nhà nước.
Tăng cường dân chủ gián tiếp của nhân dân thông qua các cơ quan đại diện của người dân như Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Mở rộng dân chủ trực tiếp thông qua việc xây dựng cơ chế huy động nhân dân tham gia vào quản
nhà nước, mở rộng sự hình thành tham gia của các tổ chức hội, các hội, tổ chức phi chính phủ trong
việc giải quyết nhu cầu của nhân dân tích cực tham gia vào công tác quản nhà nước. Sự tham gia của
nhân dân vào hoạt động hành chính nhà nước đem lại nhiều lợi ích, thể hiện chỗ: Sự tham gia kiến của
người dân giúp cho Nhà nước ban hánh các quyết định chính sách của nhà nước sát với thực tế hơn, nhờ
đó hiệu quả hiệu lực hơn; thông qua sự tham gia vào hoạt động quản của nhà nước, lòng tin của
nhân dân đối với nhà nước được tăng lên, tạo điều kiện để công dân và tổ chức tiếp cận các thông tin về hoạt
động của bộ máy hành chính nhà nước một cách dễ dàng, chính xác và kịp thời hơn.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, đặc biệt là các thể chế của nền
kinh tế thị trường các thể chế về nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa. Thể chế hành chính nhà nước
bao gồm các văn bản luật, thủ tục hành chính và thiết chế tổ chức, làm cơ sở để điều chỉnh hành vi của công
chức nói riêng công dân nói chung. Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường, cần tập trung xây
dựng hệ thống thể chế kinh tế tương thích với các quy luật của thị trường nhằm điều tiết và tạo điều kiện cho
các chủ thể kinh tế thuộc mọi thành phần phát triển.
Thứ , đổi mới tổ chức phương thức hoạt động của hành chính nhà nước, xây dựng cấu tổ
chức bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hợp lý. Chính phủ tập trung làm tốt hơn việc hoạch định các chính sách, xây
dựng thể chế và nâng cao năng lực chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, bảo đảm ổn định kinh tế
vĩ mô, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - xã hội.
Thứ năm, đổi mới cách thức quản lý nguồn nhân lực hành chính nhà nước. Từng bước chuyển dần từ
chế độ chức nghiệp sang kết hợp quản công chức theo chế độ việc làm theo chức nghiệp nhằm đảm
bảo một nền công vụ mở, cạnh tranh chú trọng năng lực thực thi công vụ. Xây dựng chế, chính sách
khuyến khích thu hút người tài vào làm việc trong khu vực công, tăng cường sự tự chủ cho các quan
hành chính trong việc tuyển dụng, sa thải, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, thăng tiến thuyên chuyển công
chức, thay đổi văn hoá tổ chức theo hướng quan tâm đến hiệu quả công việc.
Thứ sáu, tăng cường trách nhiệm giải trình, đẩy mạnh kiểm soát đối với hành chính nhà nước. Trách
nhiệm giải trình của tổ chức hành chính được thực hiện trước hết dựa trên các quy định của pháp luật
của tổ chức.
Thứ bảy, hiện đại hóa hành chính nhà nước. Áp dụng công nghệ thông tin trong hành chính nhà nước
làm thay đổi cách thức hoạt động của chính phủ, vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hội, vừa giúp
giảm chi phí hoạt động; góp phần cải thiện hiệu quả hoạt động của các quan trong nền hành chính. Ứng
dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại vào hành chính nhà nước nhằm thúc đẩy sự hợp tác cung cấp dịch vụ
theo yêu cầu của hội. Công nghệ thông tin cũng được xem một công cụ chính nhằm tăng cường tính
minh bạch và trách nhiệm trong hoạt động của hệ thống hành chính.
Thứ tám, tăng cường năng lực quản lý tài chính công và tài sản công. Nhà nước có trách nhiệm quản
lý và sử dụng tốt nhất các nguồn lực vật chất do nhà nước trực tiếp quản lý và sử dụng, đặc biệt là nguồn lực
tài chính công. Đổi mới quản lý tài chính công theo hướng nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng ngân sách
nhà nước, tăng cường phân cấp quản lý ngân sách và mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn
vị sử dụng ngân sách trên cơ sở bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động công vụ, đáp ứng đầy đủ và có chất
20
| 1/68

Preview text:

MÔN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT __________
Câu 1: Phân tích nội dung và giải pháp đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện xây dựng nhà Nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được hình thành trên cơ sở nhận
thức và tiếp thu có chọn lọc những quan điểm, tư tưởng tích cực, tiến bộ về nhà nước pháp quyền trong
lịch sử tư tưởng nhân loại, kết hợp với sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước, pháp luật kiểu mới vào thực tiễn xây dựng nhà nước của dân, do dân,
vì dân ở Việt Nam cũng như tổng kết bài học kinh nghiệm từ thực tiễn tổ chức, hoạt động của bộ máy
nhà nước ta từ 1945 đến nay, nhất là trong những năm đổi mới. Đảng ta đã lựa chọn xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trong giai đoạn hiện nay cần phải nhận thức đúng đắn tính tất yếu khách quan của việc giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước xuất phát từ bản chất cách mạng khoa học, vai trò sứ mệnh lịch
sử của Đảng và mục đích, lý tưởng đấu tranh của Đảng Cộng sản; xuất phát từ thực tiễn lịch sử đấu tranh
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; xuất phát từ trọng trách lãnh đạo xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân phải
bao quát toàn bộ tổ chức, hoạt động của Nhà nước và được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau đây:
Một là: đường lối, chính sách của Đảng là định hướng chính trị và nội dung hoạt động của Nhà nước;
Hai là, Đảng xác định những quan điểm, phương hướng, nội dung cơ bản nhằm xây dựng, hoàn thiện
tổ chức hoạt động của Nhà nước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn;
Ba là, Đảng lãnh đạo hoạt động bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp bảo đảm thật sự phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc lựa chọn các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan này;
Bốn là, Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
Năm là, Đảng lãnh đạo hoạt động xây dựng pháp luật, tăng cường pháp chế trong đới sống xã hội và
hoạt động của Nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước;
Sáu là, Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Như vậy, nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân rất toàn diện
và bao quát toàn bộ những vấn đề quan trọng về tổ chức, hoạt động của Nhà nước. Đúng như V.I.Lênin đã
nhấn mạnh: “Trong nước cộng hoà chúng ta, không có một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do
một cơ quan nhà nước giải quyết mà lại không có Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng”.
Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng cần phải nhận thức là: mặc dù Đảng có trọng trách lãnh đạo xây
dựng nhà nước song bất cứ nội dung lãnh đạo nào của Đảng đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền nêu trên đều phải dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật. Mặt khác, bên cạnh những mặt thuận lợi của một Đảng duy nhất cầm quyền cần phải nhận thức hết
những nguy cơ tiềm ẩn do thực hiện không đầy đủ hoặc vi phạm dân chủ trong chế độ một đảng cầm quyền.
Ví dụ: Nguy cơ chủ quan, duy ý chí và quan liêu trong xây dựng chủ trương chính sách; Nguy cơ các
cơ quan, tổ chức đảng dễ áp đặt ý kiến của mình đối với các cơ quan nhà nước; Nguy cơ Đảng tự đặt mình
lên trên nhà nước và pháp luật; Nguy cơ Đảng bao biện, làm thay công việc của nhà nước mà không chịu
trách nhiệm pháp lý về các quyết định của mình…
Vì vậy, để ngăn chặn và loại trừ những nguy cơ ấy và thực hiện tốt vai trò xây dựng Nhà nước pháp
quyền, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, đổi mới, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê
bình, nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện dân chủ thực sự trong Đảng và trong xã hội.
Mặt khác, phải xây dựng quy chế phối hợp làm việc giữa các cơ quan, tổ chức đảng với các cơ quan, tổ
chức nhà nước trong đó xác định rõ những loại việc mà Đảng phải chủ động ra quyết định lãnh đạo, chỉ đạo;
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; trong hoạt động của mình, các cơ quan, tổ chức
đảng và mọi cán bộ đảng viên phải tuân thủ pháp luật, tôn trọng thể chế của cơ quan nhà nước…
Thực hiện được những yêu cầu cơ bản nêu trên, Đảng mới thực hiện được trọng trách và sứ mệnh lịch
sử của mình là lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân để tiến hành xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước ta.
Từ đó, muốn đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay cần phải thực
hiện hai nhóm giải pháp lớn, đó là nhóm giải pháp về chỉnh đốn, đổi mới Đảng và nhóm giải pháp về đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
.
Thứ nhất, các giải pháp chỉnh đốn, đổi mới Đảng, xây dựng Đảng xứng đáng là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, thực sự trong sạch, vững mạnh; đủ năng lực trí tuệ, uy tín làm tròn trọng trách của lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội. -
Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo
đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; kiên quyết khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống trong cán bộ, đảng viên; -
Tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ: quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; đánh
giá, tuyển dụng; luân chuyển, bố trí sử dụng cán bộ; tăng cường quản lý, kiển tra, giám sát cán bộ. Tiếp tục
đổi mới công tác cán bộ cả về quan điểm, nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý, chế độ trách nhiệm, bộ
máy và con người làm công tác cán bộ; -
Đẩy mạnh công tác xây dựng, cũng cố nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các tổ chức cơ
sở đảng gắn với xây dựng chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể cơ sở và phong trào cách mạng của quần chúng;-
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục kiện toàn tổ chức và đổi mới
phương hướng lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, một số giải pháp đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải tránh khuynh hướng
buông trôi, khoán trắng hoặc bao biện, làm thay. Mặt khác phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện chuyển sang kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền. Theo những yêu cầu nêu trên, cần
thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: -
Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về phân định vai trò lãnh đạo của Đảng và
chức năng quản lý của Nhà nước; -
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp làm việc giữa cơ quan, tổ chức đảng với cơ
quan, tổ chức nhà nước ở tất cả các cấp nhà nước theo phương châm tôn trọng Điều lệ Đảng; tôn trọng Hiến
pháp, pháp luật, thể chế của cơ quan nhà nước, tính đến đặc thù của từng nội dung lãnh đạo; -
Tiếp tục tổng kết và đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong các lĩnh vực xây
dựng nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, nhất là cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây
dựng Đảng và chính quyền cơ sở là những vấn đề bức xúc cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng hiện nay; -
Tăng cường hoạt động kiểm tra, bảo vệ nội bộ của Đảng, chỉ đạo sát sao hơn đối với hoạt động
thanh tra và hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật khác. -
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác cán bộ trong bộ máy nhà nước,
bảo đảm Đảng thống nhất lãnh đạo hoạt động công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là yêu cầu
khách quan của sự nghiệp xây dựng CNXH. Vì vậy, trong đường lối lãnh đạo của mình, Đảng ta đặc biệt coi trọng
việc đề ra đường lối xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước - yếu tố trung tâm của hệ thống chính trị. Để thực hiện
mục tiêu đó, phải tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước, mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước, đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Ngày
nay, khi thời đại Khoa học – Công nghệ phát triển như vũ bão, bùng nổ thông tin, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo
vệ đất nước diễn ra trong tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Trong điều kiện đó, việc tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền là đòi hỏi khách quan và phù hợp với xu hướng chung của thời đại.
Câu 2: Nêu khái niệm hệ thống pháp luật và phân tích các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện
hệ thống pháp luật ?
Các nhà nước trong quá trình thức hiện quyền lực quản lý xã hội đều ban hành một số lượng lớn các
văn bản, quy định các chuẩn mực chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Những quy định đó không tồn
tại một cách rời rạc mà có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành một chỉnh
thể thống nhất gọi là hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, không phải hệ thống pháp luật nào cũng giống nhau và 2
tiếp cận với hệ thống pháp luật từ những góc độ, khía cạnh khác nhau nên quan điểm về hệ thống pháp luật
có nhiều ý kiến còn chưa thống nhất.
Tuy nhiên, về cơ bản có thể hiểu hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, được phân định thành chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các
văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những trình tự, thủ tục luật định.
Như vậy, hệ thống pháp luật bao gồm hai mặt trong một chỉnh thể thống nhất là hệ thống cấu trúc
của pháp luật và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Trong đó, hệ thống cấu trúc của pháp luật gồm 3 thành tố cơ bản là:
- Quy phạm pháp luật: là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đặt ra hoặc thừa nhận thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, để điều chỉnh các
quan hệ xã hội với mục đích xây dựng xã hội ổn định và trật tự.
- Chế định pháp luật: là một nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội có những đặc
điểm chung và có quan hệ mật thiết với nhau thuộc cùng một loại quan hệ xã hội do ngành luật điều chỉnh.
Chế định pháp luật là cơ sở để tạo ra cơ cấu nội tại hợp lý của một ngành luật.
Mỗi ngành luật bao gồm nhiều chế định pháp luật mà giữa chúng vừa có mối quan hệ hữu cơ như
một chỉnh thể thống nhất, vừa có tính độc lập tương đối.
- Ngành luật: Ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một loại quan hệ xã hội có
cùng tính chất thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.
Để phân định các ngành luật phải dựa trên hai căn cứ: đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh.
-Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được xét theo hai chiều sau:
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục,
trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm sau đây:
Một là, văn bản quy phạm pháp luật là do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành khác nhau theo
trình tự, thủ tục, hình thức nhất định. Vì vậy, nó có tên gọi khác nhau và có hiệu lực pháp lý cao thấp khác nhau.
Hai là, nội dung của văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp luật. Đặc điểm này
phân biệt giữa văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật và các văn bản quản lý nhà nước khác.
Ba là, văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực về thời gian, không gian và đối tượng áp dụng.
Bốn là, do tính chất hệ thống của pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật dù rất phong phú, đa dạng
và được ban hành vào các thời điểm khác nhau nhưng đều hợp thành một hệ thống.
Về phương diện lý luận, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thường được xem xét dưới hai góc độ
là theo chiều dọc và theo chiều ngang. Theo chiều dọc, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mang tính thứ
bậc chặt chẽ. Theo chiều ngang, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với hệ thống cấu trúc của pháp luật.
Phân tích các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật
Một là, tính thống nhất đồng bộ của hệ thống pháp luật. Đây là tiêu chí quan trọng để xác định mức độ
hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Tính thống nhất của pháp luật bao hàm cả tính thống nhất về cả hình thức
và nội dung trong nội tại của một văn bản pháp luật. Tuy nhiên, về cơ bản, tính thống nhất về mặt nội dung
luôn có vai trò quyết định. Trong khi đó, tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất không mâu thuẫn, không trùng
lặp, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật với nhau về cả nội dung và hình thức.
Các yêu cầu cơ bản để đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay
là: Thứ nhất, về mặt nội dung, các văn bản pháp luật được ban hành phải thống nhất và đồng bộ với nhau.
Thứ hai, các văn bản pháp luật phải tuân thủ các tiêu chuẩn tính thống nhất và đồng bộ về mặt hình thức của
văn bản. Thứ ba, văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành phải đảm bảo yêu cầu thống
nhất thứ bậc sự phù hợp giữa các văn bản pháp luật của cấp dưới so với các văn bản của cơ quan cấp trên.
Hai là, tính toàn diện của hệ thống pháp luật. Đây là tiêu chí để định lượng hệ thống pháp luật, tiêu chí
này được thể hiện: Một mặt, hệ thống pháp luật phải có đủ các ngành, không còn khoảng trống, theo cơ cấu nội
dung và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương ứng. Mặt khác, trong mỗi ngành luật có đủ chế định và các
quy phạm điều chỉnh đầy đủ các quan hệ phát sinh trong ngành luật đó. Bất kỳ một quy phạm hay văn bản quy 3
phạm pháp luật nào cũng được tạo ra và tác động không phải trong sự độc lập, riêng rẽ mà trong một tổng
thể những mối liên hệ và những sự ràng buộc nhất định. Do vậy, tính toàn diện của hệ thống pháp luật có
ảnh hưởng rất lớn tới tính khả thi và hiệu quả của việc thực hiện pháp luật. Bởi tất cả những mối liên hệ,
những sự ràng buộc đó của các quy định, các văn bản pháp luật với những yếu tố và hiện tượng khác nhau
trong đời sống xã hội xét đến cùng đều có ảnh hưởng tới sự tác động, điều chỉnh của pháp luật.
Ba là, tính phù hợp của hệ thống. Yêu cầu của tính ổn định của pháp luật thể hiện ở chỗ: hệ thống
pháp luật được hình thành do nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng chúng phát triển theo một trật tự
mà Nhà nước mong muốn thiết lập. Chức năng điều chỉnh của pháp luật chỉ có thể được thực hiện khi luật
pháp được xây dựng phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Tiêu chí này được thể hiện: Một mặt, hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế xã
hội, không thể cao hơn, hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Mặt khác, sự phù hợp của hệ thống pháp luật
thể hiện trên nhiều mặt và cùng với việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo
đức, hệ thống chính trị, các quy phạm xã hội khác…
Bốn là, tính ổn định tương đối của hệ thống. Dù rằng các quan hệ xã hội thường xuyên thay đổi và
luật là để điều chỉnh các quan hệ xã hội nên cũng sẽ có sự thay đổi tương ứng với sự thay đổi của các quan
hệ xã hội. Mặc dù vậy, các quan hệ xã hội cũng có tính ổn định tương đối, vì thế pháp luật cũng cần phải có
sự ổn định và thống nhất, bởi nếu pháp luật thay đổi quá nhanh, thiếu tính ổn định, thống nhất thì hệ thống
pháp luật đó không đảm bảo được vai trò ổn định xã hội của mình. Tính ổn định tương đối là đặc trưng
nhằm bảo đảm duy trì được kỷ cương, trật tự và nề nếp trong từng lĩnh vực pháp luật cụ thể nói riêng và cả
hệ thống pháp luật nói chung. Đồng thời góp phần tạo cơ sở pháp lý ổn định cho việc điều chỉnh pháp luật
các quan hệ xã hội có hiệu quả cao…
Năm là, tính minh bạch, cụ thể và tính khả thi. Đây là tiêu chí quan trọng một mặt vừa bảo đảm tính
thống nhất của hệ thống. Tính minh bạch của pháp luật là một đòi hỏi rất quan trọng. Tính minh bạch của
pháp luật thể hiện ở sự minh xác, sự minh định, tính hệ thống và nhất quán. Cùng với đó, một hệ thống pháp
luật có chất lượng thì phải bảo đảm tính cụ thể và khả thi, nghĩa là các quy định pháp luật không thể chung
chung mà cần đi vào chi tiết, cụ thể cũng như có khả năng thực hiện được trong điều kiện kinh tế, chính trị -
xã hội hiện tại. Điều này đòi hỏi các quy định pháp luật phải được ban hành phù hợp với trình độ phát triển
của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định. Nếu các quy định pháp luật được ban hành quá cao hoặc
quá thấp so với các điều kiện phát triển của đất nước thì đều có ảnh hưởng đến chất lượng của pháp luật.
Trong những trường hợp đó hoặc là pháp luật không có khả năng thực hiện được hoặc là được thực hiện
không triệt để, không nghiêm, không phát huy hết vai trò tác dụng của nó trong đời sống xã hội.
Sáu là, bảo đảm tính hiện đại và kỹ thuật pháp lý cao trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật. Kỹ thuật pháp lý là một vấn đề rộng lớn, phức tạp trong đó có ba điểm quan trọng, cần thiết phải
chú ý khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật là: Một là, kỹ thuật pháp lý thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu
được vạch ra để áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Hai là, trình độ kỹ thuật pháp lý
thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu của pháp luật. Ba là, cách biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý phải
chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu, đảm bảo tính cô đọng, lôgíc, chính xác và một nghĩa.
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật khoa học,
đồng bộ và thống nhất. Để có hệ thống pháp luật đáp ứng các yêu cầu trên cần phải chú trọng hoạt động xây
dựng pháp luật. Ngay từ giai đoạn soạn thảo, ban hành VBQPPL, mà trước hết là các đạo luật, pháp lệnh,
tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án, dự thảo VBQPPL phải
được bảo đảm. Đây phải được coi là một nguyên tắc, một yêu cầu quan trọng trong quy trình lập pháp, lập
quy. Bởi lẽ, việc chỉnh lý những sai sót, những mâu thuẫn của các dự án, dự thảo đang trong giai đoạn soạn
thảo sẽ dễ dàng hơn. Hơn nữa, việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp
luật sẽ hạn chế tối đa khả năng gây thiệt hại cho Nhà nước và xã hội, xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân do việc cho ra đời những VBQPPL mâu thuẫn, trái hiến pháp, pháp luật.
Câu 3. Phân tích các đặc trưng của nền hành chính nhà nước hiện đại?
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế thị trường, của khoa học công nghệ, sự phát triển
dân trí và dân chủ hóa đời sống xã hội, với xu hướng toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, các nước đều
phải đối mặt với những hiểm họa to lớn như khủng hoảng kinh tế, bất bình đẳng xã hội, biến đổi khí
hậu… Vai trò của Nhà nước ngày càng không thể thiếu trong mối tương tác với thị trường nhằm khắc
phục các khiếm khuyết của thị trường. 4
Mục tiêu cao nhất của hành chính nhà nước hiện đại là nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người
dân. Công dân được coi như khách hàng của nền hành chính. Nhà nước có trách nhiệm phục vụ tốt nhất nhu
cầu của công dân. Việc thỏa mãn nhu cầu của công dân đòi hỏi hành chính nhà nước phải chuyển từ “cai trị”
sang “phục vụ”, phải trở nên năng động, có hiệu lực, hiệu quả, cung cấp đầy đủ các dịch vụ với chất lượng
cao, nhanh chóng, công chức có thái độ phục vụ tận tâm và công bằng…
Nhiều nước trên thế giới đã xây dựng các Hiến chương khách hàng, ban hành các bộ tiêu chuẩn về
dịch vụ, thiết lập cơ chế tiếp nhận và xử lý phản hồi của các công dân, tổ chức, đánh giá mức độ hài lòng
của người dân… để từ đó đề xuất các giải pháp cải cách hành chính nhà nước.
Để đạt được mục tiêu thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của công dân, mô hình hành chính công hiện đại có
các đặc trưng mới như sau:
Một là, bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các hoạt động của chính phủ
Hoạt động của các cấp chính quyền, các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức phải
được thông tin tới cơ quan lập pháp, các cơ quan có liên quan khác trong bộ máy nhà nước và các tổ chức,
cá nhân trong xã hội. Việc bảo đảm cung cấp các thông tin này tới xã hội không chỉ làm tăng khả năng kiểm
soát của công dân và xã hội đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, mà còn giúp làm giảm khả
năng lạm quyền, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy, giảm quan liêu, phiền hà.
Trách nhiêm giải trình phải được thực hiện không chỉ đối với cơ quan cấp trên trong bộ máy nhà
nước, mà còn phải giải trình với bên ngoài – các tổ chức và công dân – thông qua ý kiến phản hồi của các tổ
chức và công dân sử dụng các dịch vụ công.
Hai là, có sự tham gia của các chủ thể trong xã hội vào hoạt động hành chính nhà nước
Sự tham gia của công dân dưới nhiều hình thức khác nhau vào hoạt động thực thi quyền lực nhà
nước là yếu tố cơ bản bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo khả năng kiểm soát thực tế các
hoạt động của chính phủ.
Sự tham gia của các tổ chức và cá nhân vào hoạt động của hành chính nhà nước phải được mở rộng
đối với tất cả các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương. Các tổ chức và công dân có thể tham gia
vào hoạt động của chính phủ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự tham gia của các chủ thể bên ngoài nhà
nước tập trung vào việc theo dõi hiệu quả hoạt động của các cấp chính quyền. Ý kiến của người sử dụng
các dịch vụ công được coi trọng nhằm kiểm soát việc tiếp cận của họ đến dịch vụ công cũng như chất
lượng của dịch vụ công.
Ba là, tính dự đoán được của hành chính nhà nước
Tính dự đoán được là sản phẩm của một hệ thống luật pháp và các quy định rõ ràng, cụ thể và được
công khai hóa, đồng thời được tuân thủ một cách thống nhất và có hiệu quả.
Tính dự đoán được đòi hỏi chính phủ phải xây dựng các quy định pháp luật rõ ràng đối với các dịch
vụ công do chính phủ cung cấp, cũng như đối với hoạt động của khu vực tư nhằm hướng dẫn họ trong sản
xuất, tiếp thị và chọn lựa các quyết định đầu tư.
Bốn là, tính công bằng
Hành chính nhà nước phải bảo đảm sự phục vụ công bằng, bình đẳng cho mọi đối tượng khác nhau
trong xã hội, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo. Hành chính nhà nước cần phải tính đến nhu cầu của
các nhóm thiểu số và người nghèo. Nếu không tính đến hoàn cảnh và nhu cầu của những người nghèo và các
nhóm bị thiệt thòi trong xã hội thì chính quyền không thể duy trì sự phát triển một cách bền vững, bởi vì
những căng thẳng nội bộ tích tụ lại sẽ làm mất đi sự tự nguyện hợp tác.
Năm là, tính thích ứng linh hoạt với sự thay đổi
Chính phủ cần có năng lực quản lý sự thay đổi. Sự thay đổi có thể diễn ra bên trong hệ thống chính trị
mỗi quốc gia, hoặc do sự tác động của môi trường bên ngoài. Sự thích ứng linh hoạt của chính phủ trong bối
cảnh hiện tại đòi hỏi việc áp dụng cơ chế thị trường và các phương pháp quản lý hiện đại của khu vực tư như
cạnh tranh, đấu thầu, so sánh chi phí và lợi ích, coi công dân là khách hàng, quản lý theo kết quả …để làm
cho nền hành chính trở nên năng động, đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của công dân. Tính thích ứng
linh hoạt cũng đòi hỏi cơ chế hoạt động của hành chính nhà nước mềm dẻo hơn để thích nghi nhanh chóng
với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội luôn thay đổi. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động hành
chính nhà nước, xây dựng chính phủ điện tử là những yêu cầu quan trọng để bảo đảm sự vận hành nhanh
chóng của hành chính nhà nước trong cung cấp các dịch vụ công cho xã hội.
Sáu là, tính hiệu lực và hiệu quả 5
Hiệu lực của hành chính nhà nước là sự thực hiện đúng, có kết quả chức năng quản lý của bộ máy
hành chính để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Hiệu quả hành chính nhà nước là kết quả quản lý đạt
được của bộ máy hành chính trong sự tương quan với mức độ chi phí các nguồn lực.
Trong điều kiện hiện nay, khi công dân quan tâm ngày càng nhiều đến việc chính phủ sử dụng các
khoản thuế mà họ đóng góp như thế nào, các chính phủ đều phải kiểm soát chi tiêu, phân bổ và sử dụng
hợp lý các nguồn lực tài chính để tạo ra những đầu ra mong muốn. Hành chính nhà nước hiện đại hướng
tới không chỉ đảm bảo hiệu lực, tức là đảm bảo các kết quả đạt được thỏa mãn mục tiêu mà nhà nước
mong muốn, mà còn phải hướng tới đạt hiệu quả cao nhất tức là giảm chi phí tới mức tối đa. Để làm điều
này, cần giảm bớt các nhiệm vụnhà nước trực tiếp đảm nhận và tăng cường sự tham gia của khu vực phi
nhà nước, trước hết là các doanh nghiệp tư nhân trong cung cấp sản phẩm và dịch vụ.
Câu 4. Phân tích nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đao của Đảng đối với Nhà nước trong tổ chức, hoạt
động của bộ máy Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam?
Cần phải nhận thức đúng đắn tính tất yếu khách quan của việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước xuất phát từ bản chất cách mạng khoa học, vai trò sứ mệnh lịch sử của Đảng và mục
đích, lý tưởng đấu tranh của Đảng Cộng sản; xuất phát từ thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam; xuất phát từ trọng trách lãnh đạo xây dựng xã hội chủ nghĩa của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân phải
bao quát toàn bộ tổ chức, hoạt động của Nhà nước và được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, đường lối, chính sách của Đảng là định hướng chính trị và nội dung hoạt động của Nhà nước.
Hai là, Đảng xác định những quan điểm, phương hướng, nội dung cơ bản nhằm xây dựng, hoàn thiện
tổ chức hoạt động của Nhà nước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn.
Ba là, Đảng lãnh đạo hoạt động bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấpbảo đảm thật sự phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong việc lựa chọn các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan này.
Bốn là, Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cán
bộ công chức Nhà nước trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Năm là, Đảng lãnh đạo hoạt động xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật, tăng cường pháp
chế trong đời sống xã hội và hoạt động của Nhà nước, cán bộ công chức nhà nước:
Sáu là, Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân rất toàn diện và bao
quát toàn bộ những vấn đề quan trọng về tổ chức, hoạt động của Nhà nước. Nhưng một vấn đề quan trọng
cần phải nhận thức là mặc dù Đảng có trọng trách lãnh đạo xây dựng nhà nước song bất cứ nội dung lãnh
đạo nào của Đảng đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền nêu trên đều phải dựa vào dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Mặt khác, bên cạnh những mặt thuận lợi của một Đảng duy nhất cầm quyền cần phải nhận thức hết
những nguy cơ tiềm ẩn do thực hiện không đầy đủ hoặc vi phạm dân chủ trong chế độ một đảng cầm quyền.
Đó là các nguy cơchủ quan, duy ý chí và quan liêu trong xây dựng chủ trương chính sách; cơ quan, tổ chức
Đảng dễ áp đặt ý kiến của mình đối với cơ quan nhà nước; tự đặt Đảng lên trên nhà nước và pháp luật; Đảng
bao biện, làm thay công việc của Nhà nước mà không chịu trách nhiệm pháp lý về các quyết định của mình
v.v... Để ngăn chặn và loại trừ những nguy cơ ấy và thực hiện tốt vai trò xây dựng Nhà nước pháp quyền,
Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, đổi mới, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình,
nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện dân chủ thực sự trong Đảng và trong xã hội. Mặt khác, phải xây
dựng quy chế phối hợp làm việc giữa cơ quan, tổ chức Đảng và cơ quan, tổ chức nhà nước trong đó xác định
rõ những loại việc mà Đảng phải chủ động ra Nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo; đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước; trong hoạt động của mình, các cơ quan, tổ chức Đảng và mọi cán bộ đảng viên
phải tuân thủ pháp luật, tôn trọng thể chế của cơ quan nhà nước v.v...Thực hiện được những yêu cầu cơ bản
nêu trên, Đảng mới thực hiện được trọng trách và sứ mệnh lịch sử của mình lãnh đạo xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân để tiến hành xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước ta.
Muốn đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay cần thực hiện đồng bộ hai
nhóm giải pháp như sau:
6
Thứ nhất, các giải pháp chỉnh đốn, đổi mới Đảng, xây dựng Đảng xứng đáng là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, thực sự trong sạch, vững mạnh; đủ năng lực trí tuệ và uy tín làm tròn trọng trách của
lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội

Một là, tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo
đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; kiên quyết khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống trong cán bộ, đảng viên.
Hai là, tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ: quy hoạch; đào tạo, bồi dưỡng; đánh giá,
tuyển dụng; luân chuyển, bố trí sử dụng cán bộ; xây dựng chế độ, chính sách cán bộ; tăng cường quản lý kiểm tra
giám sát cán bộ. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ cả về quan điểm, nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý, chế
độ trách nhiệm, bộ máy và con người làm công tác cán bộ.
Ba là, đẩy mạnh công tác xây dựng, củng cố nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
Đảng gắn với xây dựng chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể cơ sở và phong trào cách mạng của quần chúng.
Bốn là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục kiện toàn tổ chức và đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, một số giải pháp đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải tránh khuynh hướng
buông trôi, khoán trắng hoặc bao biện làm thay. Mặt khác phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện chuyển sang kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền. Theo những yêu cầu nêu trên cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
Một là, tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về phân định vai trò lãnh đạo của Đảng và
chức năng quản lý của Nhà nước.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp làm việc giữa cơ quan, tổ chức Đảng với cơ
quan, tổ chức nhà nước ở tất cả các cấp theo phương châm tôn trọng Điều lệ Đảng; tôn trọng Hiến pháp,
pháp luật, thể chế của cơ quan nhà nước, tính đến đặc thù của từng lĩnh vực nội dung lãnh đạo.
Ba là, tiếp tục tổng kết và đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong các lĩnh vực xây
dựng nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, nhất là cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng
Đảng và chính quyền cơ sở là những vấn đề bức xúc cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng hiện nay.
Bốn là, tăng cường hoạt động kiểm tra, bảo vệ nội bộ của Đảng, chỉ đạo sát sao hơn đối với hoạt động
thanh tra và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ trong bộ máy nhà nước,
bảo đảm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân là quá trình lâu
dài, đòi hỏi phải thực hiện đổi mới đồng bộ trên các mặt hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp; đổi mới
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục, khoa học - công nghệ v.v... đổi mới tổ chức bộ
máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ v.v... Chính vì vậy, ngoài việc xây dựng chiến lược, xác định chủ
trương, giải pháp đúng đắn phải có kế hoạch và bước đi thích hợp.
Câu 5: Nêu khái niệm và phân tích vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật) do nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà nước bảo đảm thực hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng
chế, để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm duy trì xã hội.
Pháp luật XHCN là hệ thống quy phạm pháp luật thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện
ý chí của nhân dân, được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN.
Với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm
sự ổn định và phát triển xã hội. Khoản 1, Điều 8, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước được tổ chức
và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật...”. Vai trò to lớn của
pháp luật được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
1. Vai trò của pháp luật đối với kinh tế.
2. Vai trò của pháp luật đối với xã hội.
3. Vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị.

4. Vai trò của pháp luật đối với phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
5. Vai trò của pháp luật đối với đạo đức và tư tưởng.
6. Vai trò của pháp luật đối với hội nhập quốc tế.
7
Trong đó vai trò của pháp luật đối hệ thống chính trị là rất quan trọng, thể hiện ở các nội dung sau:
1. Vai trò của pháp luật đối với sự lãnh đạo của Đảng:
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, làm cho
đường lối đó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội.
Thứ hai, pháp luật là phương tiện để Đảng kiểm nghiệm đường lối của mình trong thực tiễn.
Thứ ba, pháp luật là phương tiện phân định rõ phương thức lãnh đạo của Đảng bằng đường lối chính
trị với chức năng tổ chức, quản lý, điều hành mọi hoạt động xã hội của Nhà nước.
Vì vai trò quan trọng như vậy, cho nên, một mặt đòi hỏi chất lượng cao của đường lối và mặt khác
đòi hỏi chất lượng cao của việc thể chế hóa đường lối. Do vậy, mọi sai lầm về đường lối và sai lầm trong
việc thể chế hóa đường lối đều dẫn đến hậu quả xấu mà cả xã hội phải gánh chịu. Đồng thời, khắc phục
được những khiếm khuyết trong thực tiễn như báo hiệu, làm thay, lấn sân giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý, điều hành của Nhà nước.
2. Vai trò của pháp luật đối với Nhà nước:
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và công dân.
Để quản lý toàn bộ xã hội, Nhà nước dùng nhiều phương tiện, biện pháp, nhưng pháp luật là phương tiện
quan trọng nhất. Với những đặc điểm riêng có của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương,
chính sách của Nhà nước nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất.
Thứ hai, pháp luật là phương tiện tạo cơ sở pháp lý để cho các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà
nước kiểm tra, giám sát và đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm pháp luật của chính các tổ chức, các cơ
quan nhà nước, nhân viên nhà nước khác và mọi công dân.
Thứ ba pháp luật là phương tiện để Nhà nước có thể tự hoàn thiện chính mình thông qua việc quy
định bằng pháp luật các nguyên tắc tổ chức và hoạt động, quyền hạn và nghĩa vụ, các chế độ, thể lệ, quy chế
của các cơ quan quản lý nhà nước, quy chế viên chức nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước...
3. Vai trò của pháp luật đối với các tổ chức chính trị-xã hội:
Thứ nhất,pháp luật là phương tiện bảo đảm cho quần chúng nhân dân lao động tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị-xã hội của mình.
Thứ hai, pháp luật là phương tiện ghi nhận, bảo vệ, củng cố nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân dựa vào pháp luật để chống lại các hành vi lộng quyền,
bạo lực trực tiếp không có tổ chức.
Thứ ba, pháp luật là phương tiện tạo cơ sở pháp lý để cho nhân dân kiểm tra, giám sát, đấu tranh
chống lại các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức chính
trị-xã hội và mọi công dân.
Như vậy, đối với toàn bộ hệ thống chính trị, pháp luật được xem như phương tiện quan trọng ghi
nhận các nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống, bảo đảm cho hệ thống
hoạt động đồng bộ và có hiệu quả. Đồng thời, pháp luật là thước đo về tính hợp pháp, hợp chính trị, hợp đạo
lý của các yếu tố tạo nên hệ thống và của cả các thành viên hoạt động trong hệ thống đó.
Câu 6. Phân tích đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được hình thành trên cơ sở nhận
thức và tiếp thu có chọn lọc những quan điểm, tư tưởng tích cực, tiến bộ về nhà nước pháp quyền trong
lịch sử tư tưởng nhân loại, kết hợp với sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước, pháp luật kiểu mới vào thực tiễn xây dựng nhà nước của dân, do dân,
vì dân ở Việt Nam cũng như tổng kết bài học kinh nghiệm từ thực tiễn tổ chức, hoạt động của bộ máy
nhà nước ta
từ 1945 đến nay, nhất là trong những năm đổi mới.
Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền theo quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp
quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại:
Nhìn chung, lý luận về Nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm tư tưởng rất phức tạp, phong
phú và có cách tiếp cận khác nhau. Tuy vậy, nghiên cứu tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử, có
thể khái quát những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền như sau:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống
xã hội, trong đó Hiến pháp và pháp luật phải phản ánh "ý chí chung của nhân dân", "lợi ích chung của xã hội".
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do, dân chủ của công dân:
Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên bố các quyền tự do, dân chủ của công dân, mà còn phải 8
bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì
pháp luật không cấm trong khuôn khổ không xâm phạm đến tự do của người khác. Pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của
mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước và chịu trách nhiệm pháp lý về những
hành vi vi phạm pháp luật của mình.
- Để đảm bảo những yêu cầu, đặc trưng nêu trên, trong nhà nước pháp quyền phải có hình thức tổ
chức quyền lực nhà nước thích hợp và có cơ chế giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý các vi phạm pháp
luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện
. Theo các nhà tư tưởng của học thuyết nhà nước pháp quyền,
hình thức tổ chức quyền lực nhà nước thích hợp trong nhà nước pháp quyền là phân chia và kiểm soát lẫn
nhau giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ("tam quyền phân lập"). Nói cách khác, trong nhà nước
pháp quyền phải bảo đảm tính pháp quyền của các thiết chế quyền lực nhà nước mà người chủ của nó là
nhân dân và xác lập sự tôn trọng Hiến pháp (xây dựng Hiến pháp và chế độ bảo hiến)
. Để bảo đảm sự tuân
thủ pháp luật, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật phải bảo đảm sự độc lập của Tòa án và tính chất
dân chủ, minh bạch của pháp luật
.
Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền với tính cách là học thuyết về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, là một
giá trị, là tinh hoa của nhân loại có nguồn gốc xa xưa, từ thời cổ đại có thể được áp dụng ở các nước trên cơ
sở những nét đặc trưng về văn hóa, chính trị, tư tưởng - pháp lý, truyền thống dân tộc. Chính vì vậy việc áp
dụng học thuyết nhà nước pháp quyền vào nước ta hiện nay với những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là
điều hoàn toàn có thể được. Điều quan trọng là chúng ta phải tìm ra được những đặc trưng cơ bản của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bản sắc dân tộc, truyền thống, văn hóa và những điều kiện riêng của Việt Nam.
Từ thực tiễn xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và
vì dân ngày càng được định hình, có thể nêu lên cơ bản sau đây:
một số đặc trưng
Một là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân;
mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”;
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”. Với Hồ Chí Minh nhân dân là chủ thể tối cao và duy
nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ
quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết
lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là
các ông quan cách mạng mà là công bộc của nhân dân. Là nhà nước của dân, do chính nhân dân lập qua
thông qua chế độ bầu cử dân chủ. Bầu cử dân chủ là phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác
lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân dân.
Tư tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được thể chế hoá thành một mục tiêu hiến định
ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể dân chủ cộng hoà ở nước ta - Hiến pháp 1946: “Xây dựng
một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu - Hiến pháp 1946). Đặc điểm này của
Nhà nước ta tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992.
Hai là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ
quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người.
Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các Nhà nước cách mạng chân chính, nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh trên bảy mươi năm đầy gian khổ hy sinh của dân tộc Việt Nam vì độc
lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân, từng con người. Do vậy, vấn đề
bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng quyền dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà
nước và công dân, giữa công dân với Nhà nước, … luôn được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt. Nhiều Hội
nghị của Trung ương Đảng đề cập đến vấn đề này như văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X và nhiều
Nghị quyết trung ương khác. Văn kiện Đại hội Đảng VI xác định: Xây dựng một chính quyền không có đặc
quyền, đặc lợi, hoạt động vì cuộc sống của nhân dân. Nghị quyết trung ương 8 khoá VII xác định trên
nguyên tắc: dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề thuộc bản chất của Nhà nước ta. Phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trên mọi lĩnh vực. Quyền làm chủ đó được thể chế hoá báng pháp luật… Dân chủ đi đôi với kỷ 9
cương, kỷ luật… Văn kiện Đại hội Đảng IX xác định rõ những phương châm cơ bản: xây dựng cơ chế cụ thể
để thực hiện phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện (là
cơ quan dân cử và các đoàn thể), làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng việc xây dựng
và thực hiện các quy ước, hương ước tại cơ sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm dân
chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết định.
Ba là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được tổ chức và hoạt động theo pháp luật, quản lý xã
hội bằng pháp luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật trong đời sống Nhà nước và xã hội.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại.
Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã
hội. Vì vậy, nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp luật khách quan của các quy
định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một
cách chung chung với mục đích tự thân của nó.
Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân. Vì vậy,
pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tính chất và hoạt động của Nhà nước và là thước đo
giá trị phổ biến của xã hội ta: công bằng, dân chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát triển tiến
bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội ta.
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu
quản lý xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì vậy,
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất cả các
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được xác lập một cách tập
trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là Đạo luật cơ
bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân.
Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự duy
trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem
xét, đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của Nhà nước
và của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội.
Hiến pháp có một vai trò quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của nhân dân, cho nên,
việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh giá và phán quyết về những quy
định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
Bốn là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), với “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội”, quan điểm về sự tồn tại của ba quyền và sự phân công, phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực
đó của Nhà nước mới được chính thức khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng vào hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam các tri thức của nhân loại và trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Và đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám (khoá VII),
(1995) quan niệm của Đảng về ba quyền đã được sự bổ sung quan trọng: quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Nghị quyết đại hội XI và Cương lĩnh xây dựng đất nước thấp kém quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(sửa đổi, bổ sung năm 2011) đều có bổ sung quan tâm vấn đề kiểm soát quyền lực trong cơ chế tổ chức quyền
lực nhà nước ở nước ta. Theo đó nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được hoàn thiện một bước quan
trọng. Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa ba 10
quyền và quyền lực nhà nước là một quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ chức Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Năm là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chịu trách nhiệm trước công
dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công dân thực hiện các nghĩa vụ trước nhà nước và xã hội.
Mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước với công dân, giữa dân chủ với kỷ cương trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do pháp luật quy định và điều chỉnh.
Sáu là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan.
+ Đối với dân tộc Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước, đối với xã
hội không chỉ là tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan mà còn là ở chỗ sự lãnh đạo đó còn có cơ sở đạo lý sâu
sắc và cơ sở pháp lý vững vàng.
+ Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội và đời sống nhà
nước không những không trái (mâu thuẫn) với bản chất nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện
có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân ở nước ta. Trong ý nghĩa ấy, nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động là
một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, quyết định phương hướng chính trị
của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của
dân, do dân và vì dân, để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng bằng các hoạt động quản
lý nhà nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên tất
cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
Bảy là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại
hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và phát triển với nhân dân các dân tộc và các nước trên toàn thế giới,
đồng thời tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn.
Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương: Mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhậpquốc tế.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoáquan hệ, giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủquyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấutranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới.
Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền XHCN VN thể hiện những tư tưởng quan điểm
tích cực, tiến bộ, phản ánh được ước mơ và khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong
một xã hội còn giai cấp.
Câu 7: Phân tích vai trò của Nhà nước đối với đảm bảo cung ứng dịch vụ công cho xã hội.
Khái niệm dịch vụ công:
Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của người dân vì lợi ích
chung của chung của xã hội, do Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội (trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền
và tạo điều kiện cho khu vực tư thực hiện) nhằm bảo đảm hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội
Phạm vi của dịch vụ công cũng được xác định rất khác nhau, tuỳ thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi quốc gia.
Theo nghĩa rộng nhất, dịch vụ công là những hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước can thiệp vào việc
cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. Theo đó, dịch vụ công là tất cả những hoạt động nhằm
thực hiện các chức năng vốn có của Chính phủ, bao gồm từ các hoạt động ban hành chính sách, pháp
luật, an ninh, quốc phòng, cho đến những hoạt động y tế, giáo dục, giao thông công cộng.
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hoá, dịch vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của các
tổ chức và công dân mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. 
Vai trò của Nhà nước đối với việc bảo đảm cung ứng dịch vụ công cho xã hội
Mọi nhà nước, không phụ thuộc vào chế độ chính trị-xã hội đều có trách nhiệm bảo đảm cung ứng
dịch vụ công cho nhân dân. Trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung ứng Dịch vụ công xuất phát từ những nguyên nhân sau 11
Thị trường bị thất bại trong việc cung ứng các dịch vụ công cho xã hội, thể hiện dưới 4 dạng cơ bản là
các hàng hóa công cộng thuần túy, các dịch vụ có tác động ngoại ứng, tình trạng độc quyền thị trường trong
cung ứng hàng hóa, dịch vụ và tình trạng thông tin không đối xứng trong cung ứng dịch vụ.
Tình trạng bất công bằng trong thụ hưởng các hàng hóa, dịch vụ cơ bản đối với đời sống xã hội. Có
những loại dịch vụ mag tư nhân có thể cung cấp, nhưng việc tư nhân cung cấp sẽ dẫn đến chỗ những người
có thu nhập thấp (nhất là người nghèo) sẽ có ít hoặc không có cơ hội sử dụng các dịch vụ này, chẳng hạn
như dịch vụ y tế, giáo dục, cung cấp điện, nước sinh hoạt….
Những nguyên nhân nói trên đòi hỏi Nhà nước-đại diện cho quyền lực công do nhân dân bỏ phiếu bầu
ra-phải có trách nhiệm khắc phục các thất bại của thị trường bằng cách trực tiếp cung ứng hoặc điều tiết,
kiểm soát thị trường tư nhân nhằm đảm bảo cho việc cung ứng dịch vụ đó được bình thường, công bằng,
phục vụ các nhu cầu cơ bản của con người.
Trách nhiệm cụ thể của Nhà nước về dịch vụ công bao gồm:
Một là: Trực tiếp tổ chức thực hiện một số dịch vụ công: Đối với một số hàng hoá, dịch vụ, Nhà
nước thấy cần thiết phải duy trì vị trí sở hữu, là người trực tiếp cung ứng để bảo đảm việc cung cấp đầy đủ
các dịch vụ này. Nhà nước trực tiếp thực hiện cung ứng một số dịch vụ công thông qua các cơ quan, tổ chức
của mình lập ra. Điều quan trọng là Nhà nước cần phải nghiên cứu xác định rõ các dịch vụ nào thực sự cần
thiết mà Nhà nước phải trực tiếp làm, phạm vi đến đâu, để tránh ôm đồm quá với khả năng cho phép.
Về nguyên tắc, Nhà nước chỉ trực tiếp cung ứng các dịch vụ công thiết yếu cho đa số trong các
trường hợp mà thị trường thất bại và không bảo đảm công bằng trong cung ứng các dịch vụ này đối với
người nghèo. Song ngay cả khi đó, Nhà nước cũng chỉ nên cung ứng các dịch vụ công sau đây:
- Dịch vụ không thể xác định được các đặc tính đầu ra: một số dịch vụ khó có thể xác định được các
đặc tính đầu ra (chẳng hạn như vấn đề giữ gìn an ninh trật tự trên một địa bàn), hoặc rất khó có thể giám sát
việc cung ứng các dịch vụ này, từ đó có thể dẫn đến các hậu quả xấu (chẳng hạn như việc sản xuất vũ khí).
Trong các trường hợp đó Nhà nước nên trực tiếp cung ứng để có thể điều phối và giám sát tốt hơn viêc sản
xuất và cung ứng các dịch vụ này, tránh các ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội.
- Dịch vụ khó cạnh tranh: các dịch vụ công mà tư nhân không muốn tham gia, không đủ khả năng để
tham gia. Nhà nước cần trực tiếp cung ứng một số loại dịch vụ xã hội bởi vì, có những loại dịch vụ rất quan
trọng phục vụ nhu cầu chung của cả cộng đồng nhưng tư nhân không muốn cung ứng do nó không mang lại
lợi nhuận, hoặc tư nhân chưa đủ điều kiện và tiềm lực để tham gia cung ứng, nhưng trách nhiệm cung ứng
thuộc về Nhà nước nên Nhà nước phải trực tiếp cung ứng. Chẳng hạn, đối với một số dịch vụ như tiêm
chủng, y tế dự phòng, nghiên cứu cơ bản (khoa học), văn hoá quần chúng, bảo tồn - bảo tàng,... Bên cạnh
đó, cũng có những loại dịch vụ mà thị trường có thể cung cấp nhưng cung cấp không đầy đủ, hoặc dễ tạo ra
sự bất bình đẳng trong xã hội về mặt hưởng thụ dịch vụ, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng nói
riêng và toàn thể xã hội nói chung. Chẳng hạn như đối với một số loại dịch vụ xã hội tối cần thiết cho người
dân như dịch vụ y tế, giáo dục, điện, nước sinh hoạt,… thì Nhà nước có trách nhiệm trực tiếp cung ứng
(không để tư nhân độc quyền cung ứng) hoặc có các biện pháp kiểm soát thị trường tư nhân để đáp ứng
những quyền lợi cơ bản của người dân.
- Dịch vụ có sự nhạy cảm về chính trị: một số loại dịch vụ có tính chính trị, Nhà nước phải trực tiếp
đứng ra cung ứng để tránh những hậu quả xấu về mặt chính trị, chẳng hạn như tạo ra sự bất ổn về chính trị,
tư tưởng, an ninh, quốc phòng… Đương nhiên, tuỳ theo bối cảnh chính trị của mỗi nước mà Nhà nước quyết
định phạm vi các dịch vụ cần được cung ứng trực tiếp.
Hai là: Thực hiện quản lý nhà nước về cung ứng dịch vụ công:
Nhà nước không trực tiếp cung ứng các dịch vụ xã hội, mà cho phép tư nhân cung ứng một số loại dịch vụ
nhất định, nhưng Nhà nước thực hiện sự can thiệp gián tiếp đến việc cung ứng các dịch vụ đó bằng các công
cụ quản lý nhằm bảo đảm các mục tiêu xã hội đã đề ra. Do đó, đây chính là vai trò của quản lý Nhà nước đối
với các dịch vụ xã hội. Thực hiện vai trò này ở nước ta trong thời gian qua được thể hiện ở một số nội dung như sau:
Thứ nhất: Xây dựng chiến lược và các chính sách, cơ chế về cung ứng dịch vụ công.Nhà nước xây
dựng chiến lược cung ứng dịch vụ công nhằm đề ra định hướng và các giải pháp bảo đảm về số lượng và
chất lượng dịch vụ công cho xã hội gắn với tầm nhìn dài hạn. Trên cơ sở đó, Nhà nước tiến hành hoạch định
chính sách và cơ chế cung ứng các loại dịch vụ công cơ bản. Hệ thống cơ chế chính sách này là căn cứ pháp
lý để tổ chức, chỉ đạo thống nhất hoạt động cung ứng dịch vụ công.
Thứ hai:Phân cấp quản lý trong cung ứng dịch vụ công:Thực hiện phân cấp ngày càng nhiều cho các
bộ ngành và đặc biệt là các cấp chính quyền địa phương về quản lý và cung ứng các dịch vụ công. Về 12
nguyên tắc, các đơn vị ở cấp cơ sở gắn trực tiếp với người hưởng lợi sẽ là người cung ứng dịch vụ công
thích hợp và có hiệu quả nhất, vì họ hiểu rõ nhất nhu cầu của người dân và có thể tạo ra sự thuận lợi nhất
cho người dân trong việc tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ công.
Thứ ba: Thực hiện chỉ đạo, điều hành và kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ công
nhằm bảo đảm các mục tiêu của Nhà nước: Sự chỉ đạo, điều hành và kiểm tra, giám sát của Nhà nước nhằm
bảo đảm duy trì việc cung ứng các dịch vụ công thiết yếu cho xã hội một cách liên tục, ổn định; thiết lập
được môi trường chung, thống nhất cho các chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ công để họ tự nguyện cùng
tham gia giải quyết các vấn đề của cộng đồng; thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức cung ứng
dịch vụ; tạo điều kiện và bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng.
Thứ tư: Tạo lập môi trường để tăng cường tiếng nói của người dân đối với các chính sách của Nhà
nước: Nhà nước cần quán triệt quan điểmcung ứng dịch vụ công định hướng khách hàng. Việc Nhà nước
lắng nghe tiếng nói của người dân sẽ giúp Nhà nước cải tiến các chính sách đề ra phù hợp với thực tế, và đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân.
Thứ năm: Ban hành các cơ chế khuyến khích các nhà cung ứng cải thiện dịch vụ công: Chính phủ
đang từng bước đổi mới cơ chế hoạt động thích ứng đối với từng loại đơn vị cung ứng dịch vụ công để
khuyến khích các đơn vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, đa dạng hoá các dịch vụ, mở
rộng cung ứng dịch vụ cả về số lượng dịch vụ, địa bàn, số cơ sở cung ứng và nâng cao chất lượng dịch vụ
đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của các tổ chức và công dân.
Thứ sáu:Khuyến khích và thực hiện xã hội hoá các dịch vụ công:Xã hội hóa là một chủ trương đúng
đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm huy động, tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động của nhân dân và các tổ
chức vào hoạt động cung ứng dịch vụ công trên cơ sở phát huy tính sáng tạo và khả năng đóng góp của mỗi
người để cải thiện hiệu quả cung ứng dịch vụ công.
Thứ bảy: Hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo để tăng khả năng tiếp cận của họ đến các dịch vụ công:
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đi liền với sự gia tăng bất bình đẳng, sự phân hóa giàu nghèo trong
xã hội và sự chênh lệch trong hưởng thụ các dịch vụ công. Để tránh tình trạng giá cả của dịch vụ có thể trở
thành hàng rào ngăn cản người nghèo sử dụng dịch vụ công và nhằm thực hiện công bằng xã hội, Nhà nước
có trách nhiệm hỗ trợ người nghèo trong việc tiếp cận đến các dịch vụ công.
Kết luận: Như vậy, Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với dịch vụ công đảm bảo về chất
lượng, hiệu quả và sự công bằng trong cung ứng cũng như hưởng thụ các dịch vụ công của người dân. Vai
trò này được thể hiện thông qua sự can thiệp của Nhà nước đối với các dịch vụ công bằng các hình thức
khác nhau như trực tiếp cung ứng một số loại dịch vụ xã hội thiết yếu cho xã hội mà tư nhân không muốn
hoặc không có đủ khả năng để cung ứng, và gián tiếp can thiệp vào các dịch vụ công thông qua hoạt động
quản lý Nhà nước đối với dịch vụ công. Vì vậy, để phát triển các dịch vụ công cả về mặt số lượng và chất
lượng, cần phải phát huy được sức mạnh của toàn thể xã hội, trong đó trước hết là phải phát huy vai trò của
Nhà nước đối với các dịch vụ này.
Câu 8: Nêu khái niệm, phân tích các nội dung quản lý đối với ngành, lĩnh vực xã hội. Khái niệm
Quản lý nhà nước đối với lĩnh vực xã hội được quan niệm là: Quá trình tác động, điều chỉnh của
Nhà nước trên cơ sở của luật pháp đối với các hoạt động của ngành, lĩnh vực trong xã hội để các hoạt
động đó diễn ra theo quy định của pháp luật.

Nội dung quản lý đối với ngành, lĩnh vực xã hội
1. Đối tượng quản lý rộng
- Đối tượng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực liên quan đến toàn bộ dân cư, không phân biệt
tôn giáo, dân tộc, địa bàn cư trú trên lãnh thổ cả nước và còn liên quan đến cộng đồng người Việt làm ăn,
sinh sống ở nước ngoài. Ví dụ: bản sắc văn hóa của người Việt không chỉ ở cộng đồng người Việt sinh sống
trên lãnh thổ Việt Nam, mà còn liên quan đến cộng đồng người Việt sinh sống ở nước ngoài. Bảo về tài
nguyên, môi trường không chỉ trên lãnh thổ Việt Nam mà còn liên quan đến nhiều quốc gia,v.v..
- Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nhân loại (thông tin, công
nghệ, môi trường, hiểm họa thiên nhiên, ràng buộc tài chính, tác động văn hoá, các chi phối quân sự, chính
trị v.v.), cho nên, các hoạt động quản lý xã hội của mỗi quốc gia đều bị chi phối ràng buộc chặt chẽ vào
nhau. Bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia; quản lý văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường của mỗi quốc gia
phải tính đến sự tác động, chi phối của các quốc gia khác, như sự giao lưu của của những giá trị văn hóa; sự
ứng dụng khoa học công nghệ trong phòng chống dịch bệnh; sự kế thừa các giá trị trong giáo dục đào tạo; sự
hợp tác trong phòng chống biến đổi khí hậu, bảo đảm tính đa dạng sinh học, chống ô nhiễm môi trường.v.v. 13
- Khách thể quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực xã hội đa dạng, phức tạp do tính đa dạng, phức
tạp của ngành, lĩnh vực nhà nước phải quản lý. Nhà nước phải tổ chức quản lý nhằm tạo sự hợp lý giữa chủ
thể và khách thể quản lý, tạo sự cân bằng, cân đối giữa các mặt hoạt động của quá trình văn hóa, giáo dục, y
tế, môi trường và hành vi hoạt động của con người.
- Quản lý nhà nước đối với lĩnh vực xã hội có ý nghĩa quyết định đến phát triển bền vững của quốc
gia. Quản lý ngành, lĩnh vực liên quan đến các giá trị tinh thần, vật chất; là nền tảng, động lực của sự phát
triển, liên quan trực tiếp đến cuộc sống và chất lượng sống của mọi người.
Bởi vậy, quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực xã hội có ảnh trực tiếp đến mọi công dân và có ý
nghĩa quyết định đến phát triển bền vững của quốc gia
2. Nội dung quản lý đa dạng
Nội dung quản lý nhà nước đối với lĩnh vực xã hội về lý luận bao gồm:
- Xây dựng chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực trên cơ sở những quan điểm, mục tiêu lãnh đạo của
Đảng cho từng thời kỳ.
- Hoạch định, xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật làm nền tảng, cơ sở cho quản lý. Bảo
đảm quyền lợi và nghĩa vụ công dân; thiết lập trật tự an toàn xã hội; bảo đảm sự bình đẳng của công dân và
các quan hệ xã hội trên cơ sở của luật pháp.
- Hoạch định kế hoạch, chương trình, dự án về xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội nhằm mục tiêu dân
giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
- Hoạch định, xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội nhằm thực hiện công bằng xã hội.
- Tổ chức sử dụng, thu hút các nguồn lực có hiệu quả để giải quyết các vấn đề xã hội bảo đảm sự
phát triển kinh tế-xã hội phát triển bền vững.
- Tổ chức bộ máy để quản lý xã hội cho phù hợp với sự phát triển chung.
- Đào tạo nguồn nhân lực đủ năng lực để vận hành bộ máy quản lý và thực hiện những hoạt động xã hội.
- Mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút các nguồn lực từ bên ngoài bảo đảm cho sự phát triển.
- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát để các hoạt động trong quản lý của nhà nước
được bảo đảm theo quy định của pháp luật và quyền, trách nhiệm của công dân.
- Mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở bảo đảm đường lối đối ngoại của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực do đối tượng quản lý, khách thể quản lý thuộc nhiều
ngành, lĩnh vực nên rất đa dạng. Bởi vậy, nội dung quản lý cũng rất đa dạng, phong phú và phức tạp.
3. Phương thức quản lý linh hoạt
Phương thức quản lý là phương pháp và cách thức quản lý. Phương thức quản lý phụ thuộc vào mục
đích và đối tượng quản lý. Mục đích và đối tượng quản lý là những yếu tố quan trọng chi phối đến việc lựa
chọn phương thức quản lý. Trên cơ sở mục đích, đối tượng quản lý, nhà quản lý lựa chọn phương thức quản
lý cho phù hợp với đối tượng để đạt tới mục đích của quản lý.
Trong quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực xã hội việc lựa chọn phương thức quản lý phải căn
cứ vào những yếu tố sau:
- Mục tiêu quản lý: Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực nào đó phải đạt được tính hiệu lực và hiệu quả của quản lý.
- Đối tượng quản lý: Câu hỏi quản lý ai ? quản lý cái gì ? có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn
phương thức quản lý. Phương thức quản lý phù hợp mới phát huy được tính tích cực và năng động xã hội.
- Thể chế của nền hành chính nhà nước: Đây là yếu tố bảo đảm cho một nhà nước dân chủ, quản lý
bằng pháp luật. Bởi vậy, phương thức quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực không thể không căn cứ vào
hệ thống pháp luật, chính sách xã hội để chọn những phương thức quản lý phù hợp với đối tượng quản lý
nhằm đạt được mục tiêu quản lý xã hội.
- Trình độ phát triển của nền kinh tế: Đây là yếu tố vật chất, kỹ thuật bảo đảm cho các phương thức quản lý có hiệu quả.
- Văn hóa truyền thống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo.v.v: Đây cũng là những yếu tố có
ảnh hưởng đến lựa chọn phương thức quản lý đối với ngành, lĩnh vực. Phương thức quản lý phải phù hợp
với những đặc trưng về văn hóa, tập quán, tôn giáo, ... thì mới đạt được hiệu lực, hiệu quả của quản lý.
Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực do mục đích quản lý mỗi ngành, lĩnh vực khác nhau, đồng
thời do đối tượng quản lý cũng rất khác nhau nên việc lựa chọn phương thức quản lý đối với mỗi ngành, lĩnh
vực cũng không giống nhau. 14
Việc lựa chọn phương thức quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực rất đa dạng, linh hoạt không
máy móc, giáo điều, cứng nhắc, mà phải linh hoạt, phù hợp với mục đích và đối tượng quản lý. 15
Câu 9. Phân tích quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật VN và định hướng xây dựng và hoàn
thiện phap luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đến năm 2020?

Khái niệm hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được phân
định thành chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những trình tự và hình thức và thủ tục nhất định
Quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật
Một là, thể chế hóa kịp thời đầy đủ đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của pháp
luật về xây dựng nhà nước và pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm quyền
con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát
triển văn hóa – xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng.
Hai là, phát huy cao độ nội lực, tích cực chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc
tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc phòng và định hướng XHCN.
Ba là, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây
dựng và tổ chức thực hành pháp luật; kết hợp hài hòa bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và tính hiện đại của hệ thống pháp luật.
Bốn là, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực thi pháp luật.
Năm là, tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp, với những bước đi vững chắc, coi
trọng số lượng và chất lượng có trọng tâm, trọng điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật.
Những định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020.
Một là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ

thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm hoạt động của Đảng phù hợp với Hiến pháp và
pháp luật, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý, điều hành của Nhà nước, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cụ thể hóa đầy đủ nguyên tắc
hiến định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy nhanh tiến độ và nâng
cao chất lượng hoạt động lập pháp, bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ
thống pháp luật; trong đó, các đạo luật ngày càng giữ vị trí trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Hoàn thiện pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành và công bố văn bản quy phạm pháp luật thống
nhất cho cả Trung ương và địa phương, theo hướng Quốc hội ban hành luật, giảm dần việc Ủy ban thường
vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh; Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thi hành luật; hạn chế dần
thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương. Xác lập cơ chế bảo đảm luật
được thi hành ngay khi có hiệu lực.
Hoàn thiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội, cơ chế bảo vệ luật và Hiến pháp.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà nước.
Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra
Hoàn thiện pháp luật về công chức, công vụ
Hoàn thiện Luật chống tham nhũng
Đến năm 2020, pháp luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan hành pháp được hoàn
thiện theo hướng Chính phủ tập trung vào chức năng quản lý, điều hành vĩ mô và thực hiện đúng vai trò là
cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
Xây dựng các luật về tổ chức và hoạt động của các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp. 16
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục
tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho
từng cơ quan, chức danh tư pháp. Cụ thể:
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân;
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân;
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra;
Hoàn thiện pháp luật Luật thi hành án;
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp
Hai là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.
Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong xây dựng, ban hành kịp thời,
đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con
người, quyền công dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ
trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là tòa án trong việc bảo vệ các quyền đó; xử lý nghiêm minh mọi
hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; khắc phục việc xử lý oan, sai; khẩn trương hoàn
thiện Luật về bồi thường nhà nước. Xây dựng các đạo luật về lập hội, biểu tình nhằm xác định rõ quyền,
trách nhiệm của công dân trong việc thực thi quyền dân chủ và trách nhiệm của Nhà nước trong việc dân trí,
bảo đảm kỷ cương, trật tự công cộng.
Hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của
công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để
người dân tham gia vào công việc của Nhà nước; ban hành Luật về trưng cầu ý dân.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Cụ thể:
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh;
Xây dựng pháp luật cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường;
Hoàn thiện môi trường pháp lý cho sự hình thành, phát triển lành mạnh thị trường lao động;
Hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ;
Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong
kinh doanh tiền tệ - tín dụng;
Hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán;
Hoàn thiện pháp luật về tài chính công;
Tiếp tục cải cách pháp luật về thuế;
Hình thành đồng bộ pháp luật về các chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật;
Hoàn thiện pháp luật về tài nguyên và môi trường.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa
- thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội. Cụ thể:
Thể chế hóa chủ trương xã hội hóa trong các lĩnh vực văn hóa - xã hội (giáo dục - đào tạo, nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghề, y tế, văn hóa, nghệ thuật, thể thao…);
Thể chế hóa quan điểm coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu;
Hoàn thiện pháp luật về khoa học và công nghệ;
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân tộc, tôn giáo;
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Hoàn thiện pháp luật về báo chí và xuất bản;
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân;
Thể chế hóa các chính sách về công bằng xã hội.
Năm là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh;
Hoàn thiện pháp luật về biên giới quốc gia, vùng biển, vùng trời; về tổ chức, hoạt động lực lượng vũ trang nhân dân;
Hoàn thiện pháp luật về đấu tranh phòng chống tội phạm; 17
Xây dựng mới các đạo luật về phòng thủ dân sự, giáo dục quốc phòng, bảo vệ các mục tiêu quan trọng
về an nhinh quốc gia, chống khủng bố
Sáu là, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế.
Tiếp tục ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tín
dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi trường…
Hoàn thiện pháp luật theo yêu cầu gia nhập WTO; thực hiện các cam kết với ASEAN, tham gia đầy
đủ vào AFTA năm 2006, tiến tới cộng đồng kinh tế châu Á vào năm 2020;
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế;
Nội luật hóa những điều ước quốc tế mà Nhà nước ta là thành viên liên quan đến an ninh, trật tự, an
toàn xã hội. Hoàn thiện Luật dẫn độ tội phạm và chuyển giao người bị kết án phạt tù.
Câu 10. Phân tích các nguyên tắc xây dựng pháp luật?
Xây dựng pháp luật là gồm nhiều hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cá nhân
được Nhà nước trao quyền, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, theo những trình tự thủ tục luật định nhằm
chuyển hóa ý chí của giai cấp cầm quyền và ý chí chung của toàn xã hội thành các quy định pháp luật.

Nguyên tắc xây dựng pháp luật là những quan điểm tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình tổ
chức và hoạt động xây dựng pháp luật. Hay nói cách khác nguyên tắc xây dựng pháp luật là "kim chỉ nam"
định hướng cho hoạt động xây dựng pháp luật.
Hoạt động xây dựng pháp luật có những nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xây dựng pháp luật
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo toàn diện mọi mặt đời sống
kinh tế chính trị xã hội thì Đảng phải lãnh đạo công tác xây dựng pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động xây dựng pháp luật thể hiện ở các khía cạnh:
- Đảng phải đề ra chủ trương đường lối chiến lược về xây dựng pháp luật, phải nghiên cứu tình hình
thực tiễn về kinh tế; xã hội cũng như các quan hệ xã hội phát sinh tồn tại và phát triển trong xã hội để ban
hành các chủ trương đường lối cho phù hợp.
Các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải nhất quán trong chủ trương đường lối xây dựng pháp luật. Một
sự không ăn khớp, hoặc mâu thuẫn về chủ trương đường lối đều ảnh hưởng tới công tác xây dựng pháp luật.
Đảng lãnh đạo, nhưng Đảng phải tôn trọng các cơ quan tổ chức cá nhân có chức năng xây dựng pháp
luật, tránh bao biện làm thay các cơ quan nhà nước, tổ cá nhân trong xây dựng pháp luật. Đảng tập trung
lãnh đạo các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng pháp luật, như Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội Chính phủ... để thể chế hóa kịp thời đường lối, chủ trương chính sách của Đảng.
Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động xây dựng pháp luật, Đảng phải củng cố và nâng
cao chất lượng các tổ chức Đảng thuộc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng và ban hành pháp
luật. Đặc biệt phải phát huy vai trò tích cực của đội ngũ đảng viên là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân và các cán bộ công chức tham gia vào việc xây dựng pháp luật.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng pháp luật cần tránh hai khuynh hướng Đảng can
thiệp quá sâu hoạt động xây dựng pháp luật hoặc buông lỏng khoán trắng cho Nhà nước mà không quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động này.
Hai là, Nguyên tắc khách quan, công khai, minh bạch
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi trong xây dựng pháp luật phải đáp ứng được những yêu cầu khách
quan của các quan hệ xã hội, phải tôn trọng các quy luật khách quan về tự nhiên, kinh tế, xã hội, tránh tình
trạng áp đặt chủ quan, duy ý chí trong hoạt động xây dựng pháp luật.
Trong xây dựng pháp luật phải vừa bám sát các đường lối chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế
- xã hội, vừa phải khảo sát nghiên cứu thực tế để nghiên cứu các quan hệ xã hội, tồn tại một cách khách
quan trong đời sống xã hội, phải nắm chắc tình hình kinh tếxã hội để xây dựng các quy phạm pháp luật phù
hợp, có tính khả thi. Đặc biệt trong xây dựng pháp luật phải đảm bảo công khai minh bạch, tránh lợi ích
nhóm, tránh cục bộ ngành, cục bộ địa phương trong xây dựng pháp luật.
Ba là, Nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật
Thực hiện nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật đòi hỏi Nhà nước phải tạo điều kiện thực sự
để nhân dân và các tổ chức xã hội, các đoàn thể tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật như góp ý kiến
vào dự thảo Hiến pháp, Luật, Bộ luật, Pháp lệnh v.v..
Các cơ quan soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải lắng nghe tôn trọng ý kiến góp ý của dân,
những ý kiến có cơ sở lý luận và thực tiễn phải tiếp thu để chỉnh sửa trong các văn bản dự thảo. 18
Ngược lại các công dân phải có năng lực để thực hiện làm chủ trong xây dựng pháp luật. Người dân
phải hiểu biết sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, về kiến thức pháp luật và có ý thức trách nhiệm
để thực hiện quyền làm chủ của mình trong xây dựng pháp luật.
Bên cạnh đó, các cơ quan xây dựng pháp luật cũng phải tạo điều kiện để nhân dân được làm chủ trong
xây dựng pháp luật, như thông qua các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các đoàn thể hoặc
trực tiếp thực hiện các quyền dân chủ của mình trong xây dựng pháp luật, như người dân trực tiếp góp ý vào các
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, hoặc trực tiếp tham gia các hội thảo về góp ý sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật.
Thực hiện nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật đòi hỏi phải triển khai cả hai hình thức dân chủ
trực tiếp hoặc gián tiếp trong xây dựng pháp luật.
Bốn là, Nguyên tắc pháp chế trong xây dựng pháp luật
Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong xây dựng pháp luật là chế độ mà trong đó các cơ quan nhà nước,
các tổ chức cá nhân phải dân chủ triệt để các quy định pháp luật. Thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi trong
quá trình xây dựng pháp luật các cơ quan có thẩm quyền phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật
về trình tự thủ tục xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật (Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thường xuyên hệ thống hóa văn bản pháp luật xử lý
nghiêm đối với những văn bản ban hành trái thẩm quyền vi phạm luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, những quy định vi Hiến, những văn bản, quy phạm pháp luật không có tính khả thi v.v..
Đặc biệt phải tăng cường trách nhiệm của các tổ chức cá nhân trong việc tham gia soạn thảo ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, các cán bộ, công chức phải tuân thủ nghiêm ngặt các trình tự thủ tục nội
quy, quy chế trong hoạt động xây dựng pháp luật.
Năm là, Nguyên tắc lôgic và khoa học
Hoạt động xây dựng pháp luật bao gồm nhiều bước, nhiều giai đoạn, nhiều thủ tục có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy trong xây dựng pháp luật phải đảm bảo tính lôgic, tính khoa học. Đặc biệt
trong xây dựng cá vcăn bản quy phạm pháp luật bao gồm nhiều quy phạm, nhiều chế định pháp luật
khác nhau, giữa các quy phạm, chế định pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một thể
thống nhất, do đó cần phải thực hiện nguyên tắc lôgic trong xây dựng pháp luật. Phải xem đây là một
trong những nguyên tắc quan trọng của hoạt động xây dựng pháp luật.
Bên cạnh đó phải tổ chức khoa học quá trình xây dựng pháp luật, nghĩa là phải quản lý một cách
khoa học trong hoạt động xây dựng pháp luật, như quản lý về con người, chương trình, kế hoạch và tài
chính trong quá trình xây dựng pháp luật, để tránh lãng phí các nguồn lực, như nguồn lực con người,
nguồn lực tài chính, nguồn lực thời gian...
Phải tổ chức khoa học việc biên soạn văn bản pháp luật, cắt giảm các thủ tục hành chính rườm rà
trong hoạt động xây dựng pháp luật, vừa coi trọng số lượng, vừa coi trọng chất lượng trong hoạt động xây
dựng pháp luật. Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi phải biết thiết kế một cách lôgic, khoa học, hợp lý, các
chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật trong một văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt phải nghiên
cứu để kết cấu một cách lôgic, khoa học các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Các cơ
quan soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để tránh việc
trùng lắp chồng chéo, hoặc lỗ hổng các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Văn phong
trong các văn bản quy phạm pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu, từ ngữ phải có độ chính xác cao.
Câu 11. Nêu định hướng phát triển hành chính nhà nước Việt Nam theo đặc trưng mô hình
hành chính nhà nước?
Hành chính nhà nước (hành chính công) là hoạt động của các cơ quan nhà nước sử dụng quyền lực
nhà nước để quản lý các công việc nhằm phục vụ lợi ích chung của xã hội hay lợi ích riêng hợp pháp của các công dân.
Mục tiêu cao nhất của hành chính nhà nước hiện đại là nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người
dân. Công dân được coi như khách hàng của nền hành chính. Nhà nước có trách nhiệm phục vụ tốt nhất nhu
cầu của công dân. Việc thỏa mãn nhu cầu của công dân đòi hỏi hành chính nhà nước phải chuyển từ “cai trị”
sang “phục vụ”, phải trở nên năng động, có hiệu lực, hiệu quả, cung cấp đầy đủ các dịch vụ với chất lượng
cao, nhanh chóng, công chức có thái độ phục vụ tận tâm và công bằng…
Xuất phát điểm từ một nền hành chính của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp,
hành chính nhà nước Việt Nam vẫn còn ở khoảng cách khá xa so với hành chính của các nước phát triển.
Vì vậy, quá trình cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam sẽ phải đối mặt và vượt qua các thách thức 19
của riêng mình như: thách thức về đổi mới tư duy từ nền hành chính “bao cấp” sang hành chính “phục vụ”;
thách thức từ mâu thuẫn giữa năng lực quản lý của Nhà nước với sự phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh
toàn cầu hóa; thách thức từ đòi hỏi đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội; thách thức trước yêu cầu hiện đại
hóa nền hành chính dưới tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ; thách thức về nguồn lực tài chính
công cho hoạt động của bộ máy nhà nước...
Trước những thách thức to lớn đặt ra, hành chính nhà nước Việt Nam cần có các định hướng phát
triển đúng đắn để có thể vượt qua các trở ngại và từng bước hình thành các đặc trưng của hành chính công
hiện đại trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Các định hướng đó là:
Thứ nhất, đổi mới căn bản tư duy về một nền hành chính phục vụ. Chuyển từ hành chính tập trung,
quan liêu với cơ chế “xin cho” phổ biến sang nền hành chính phục vụ là cả một cuộc cách mạng nhằm xóa
bỏ thói cửa quyền, phiền hà, sách nhiễu, đặc biệt là tình trạng hối lộ và tham nhũng, hình thành nền hành
chính nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.
Thứ hai, tiếp tục mở rộng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa, huy động sự tham gia của nhân dân vào quản lý nhà nước.
Tăng cường dân chủ gián tiếp của nhân dân thông qua các cơ quan đại diện của người dân như Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Mở rộng dân chủ trực tiếp thông qua việc xây dựng cơ chế huy động nhân dân tham gia vào quản lý
nhà nước, mở rộng sự hình thành và tham gia của các tổ chức xã hội, các hội, tổ chức phi chính phủ trong
việc giải quyết nhu cầu của nhân dân và tích cực tham gia vào công tác quản lý nhà nước. Sự tham gia của
nhân dân vào hoạt động hành chính nhà nước đem lại nhiều lợi ích, thể hiện ở chỗ: Sự tham gia kiến của
người dân giúp cho Nhà nước ban hánh các quyết định và chính sách của nhà nước sát với thực tế hơn, nhờ
đó có hiệu quả và hiệu lực hơn; thông qua sự tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước, lòng tin của
nhân dân đối với nhà nước được tăng lên, tạo điều kiện để công dân và tổ chức tiếp cận các thông tin về hoạt
động của bộ máy hành chính nhà nước một cách dễ dàng, chính xác và kịp thời hơn.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, đặc biệt là các thể chế của nền
kinh tế thị trường và các thể chế về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thể chế hành chính nhà nước
bao gồm các văn bản luật, thủ tục hành chính và thiết chế tổ chức, làm cơ sở để điều chỉnh hành vi của công
chức nói riêng và công dân nói chung. Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường, cần tập trung xây
dựng hệ thống thể chế kinh tế tương thích với các quy luật của thị trường nhằm điều tiết và tạo điều kiện cho
các chủ thể kinh tế thuộc mọi thành phần phát triển.
Thứ tư, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hành chính nhà nước, xây dựng cơ cấu tổ
chức bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hợp lý. Chính phủ tập trung làm tốt hơn việc hoạch định các chính sách, xây
dựng thể chế và nâng cao năng lực chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, bảo đảm ổn định kinh tế
vĩ mô, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - xã hội.
Thứ năm, đổi mới cách thức quản lý nguồn nhân lực hành chính nhà nước. Từng bước chuyển dần từ
chế độ chức nghiệp sang kết hợp quản lý công chức theo chế độ việc làm và theo chức nghiệp nhằm đảm
bảo một nền công vụ mở, cạnh tranh và chú trọng năng lực thực thi công vụ. Xây dựng cơ chế, chính sách
khuyến khích thu hút người có tài vào làm việc trong khu vực công, tăng cường sự tự chủ cho các cơ quan
hành chính trong việc tuyển dụng, sa thải, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, thăng tiến và thuyên chuyển công
chức, thay đổi văn hoá tổ chức theo hướng quan tâm đến hiệu quả công việc.
Thứ sáu, tăng cường trách nhiệm giải trình, đẩy mạnh kiểm soát đối với hành chính nhà nước. Trách
nhiệm giải trình của tổ chức hành chính được thực hiện trước hết là dựa trên các quy định của pháp luật và của tổ chức.
Thứ bảy, hiện đại hóa hành chính nhà nước. Áp dụng công nghệ thông tin trong hành chính nhà nước
làm thay đổi cách thức hoạt động của chính phủ, vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, vừa giúp
giảm chi phí hoạt động; góp phần cải thiện hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong nền hành chính. Ứng
dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại vào hành chính nhà nước nhằm thúc đẩy sự hợp tác và cung cấp dịch vụ
theo yêu cầu của xã hội. Công nghệ thông tin cũng được xem là một công cụ chính nhằm tăng cường tính
minh bạch và trách nhiệm trong hoạt động của hệ thống hành chính.
Thứ tám, tăng cường năng lực quản lý tài chính công và tài sản công. Nhà nước có trách nhiệm quản
lý và sử dụng tốt nhất các nguồn lực vật chất do nhà nước trực tiếp quản lý và sử dụng, đặc biệt là nguồn lực
tài chính công. Đổi mới quản lý tài chính công theo hướng nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng ngân sách
nhà nước, tăng cường phân cấp quản lý ngân sách và mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn
vị sử dụng ngân sách trên cơ sở bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động công vụ, đáp ứng đầy đủ và có chất 20