Đề cương ôn tập thi - Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Tôn Đức Thắng
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranhsang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lộtnhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộcđịa. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐT121)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
MỤC LỤC Trang
I . ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI...........................................3
1.Bối cảnh lịch sử ............................................................................................3
2.Các mốc thời gian cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam...............4
3.Sự chuẩn bị về đường lối, tư tưởng thành lập Đảng CSVN.....................5
4.Ý nghĩa hội nghị thành lập Đảng ...............................................................5
5.Ý nghĩa của cương lĩnh đầu tiên.................................................................6
6.Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong Hội nghị thành lập Đảng..................7
II. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐCSVN..........................................................7
1. Ý nghĩa sự ra đời của Đảng........................................................................7
2. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của đảng trong GĐ 39 – 45..........8
a) Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6.............................................8
b) Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7 ............................................9
c) Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 8............................................10
III. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP (1945 – 1954)...................................................................11
1.Bối cảnh lịch sử...........................................................................................11
2.Được thể hiện qua bốn văn kiện chủ yếu .................................................12
3.Về cơ bản đường lối chung của cuộc kháng chiến tập trung
ở một số nội dung..........................................................................................12 1
IV. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ,
CỨU NƯỚC (1954 – 1975)...................................................................13
1.Bối cảnh lịch sử.............................................................................................13
2.Đường lối đó được Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo và đem lại
kết quả trong thực tiễn. ............................................................................... 14 ..
V. ĐẠI HỘI VI (12/1986).......................................................................17
1.Bối cảnh lịch sử.............................................................................................17
2.Những sai lầm của Đảng trong giai đoạn 75 – 86 và nguyên nhân..........17
3.Những bài học quý báu mà Đại hội rút ra.................................................18
4.Nội dung cơ bản của đướng lối đổi mới......................................................18
5.Ý nghĩa của đường lối đổi mới....................................................................19
VI. ĐẠI HỘI XIII..................................................................................19
1.Bối cảnh diễn ra Đại hội..............................................................................19
2.NV trọng tâm, khâu đột phá chiến lược và các bài kinh nghiệm 20 .............
3.Ba đột phá chiến lược ..................................................................................22
4.Từ ĐH XIII của Đảng đã rút ra 5 bài học trong công cuộc đổi mới.......22 2
I . ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1. Bối cảnh lịch sử
a) Tình hình thế giới
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột
nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc
địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các
nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực
dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm biến đổi
sâu sắc tình hình thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ
có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở các nước tư bản, mà
còn có tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 do V.I. Lênin
đứng đầu đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Quốc tế Cộng sản không những vạch ra đường hướng chiến lược cho cách
mạng vô sản mà còn đề cập các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đã tiến hành truyền
bá tư tưởng CMVS và thúc đẩy phong trào đấu tranh khu vực đi theo khuynh hướng vô sản.
b) Bối cảnh trong nước
Tại Việt Nam, năm 01/09/1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng từng
bước xâm lược và thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong
kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị” nhằm phá vỡ
khối đoàn kết cộng đồng quốc gia dân tộc: chia Việt Nam thành ba xứ (Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa lớn:
lần thứ nhất (1897 – 1914) và lần thứ hai (1919 – 1929). Với mưu đồ nhằm biến
Việt Nam nói riêng Đông Dương nói chung thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của
“chính quóc” đồng thời bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai
thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông,
bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa. 3
Về văn hóa – xã hội, Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà
tù nhiều trường học, đồng thời du nhập các giá tri phản văn hóa, duy trì tệ nạn xã
hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn mới. Ra sứ tuyên truyền
tư tưởng “khai hóa văn minh” của nước “Đại Pháp”.
Lúc này, nhiệm vụ đặt ra bấy giờ của lịch sử dân tộc là phải có một đường
lối cứu mới đúng đắn và phù hợp với thực tiễn dân tộc. Nhận thức được nhiệm vụ
ấy, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đã quyết định ra
đi tìm đường cứu nước (5/6/1911).
2. Các mốc thời gian cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam THỜI GIAN SỰ KIỆN
Người thanh niên Nguyễn Tấn Thành dùng tên Văn Ba để lên 05/06/1911
tàu đô đốc Amiral Latouche – Tréville sang phương Tây.
Với tên mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi đến Hội nghị Hòa 18/06/1919
Bình Véc – xây “bản yêu sách của nhân dân An Nam”.
Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn
Tháng 7/1920 đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin
Nguyễn Ái Quốc tán thành thành lập Đảng CS Pháp và gia 30/12/1920
nhập QTCS => trở thành người CS VN đầu tiên
Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng CS Pháp,
nghiên cứu hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền
bá CN Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào 1921 - 1930
yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và
cán bộ, lập ra hội VNCM Thanh niên (1925) tại Quảng Châu, TQ
Hội nghị hợp nhất các tổ chức CS thành lập Đảng CSVN đã 06/01 đến
họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (TQ) dưới sự chủ 07/02/1930
trì của dồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế CS
3. Sự chuẩn bị về đường lối, tư tưởng thành lập Đảng CSVN 4
Qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô
sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin cần
phải thành lập một chính đảng của giai cấp vô sản và Nguyễn Ái Quốc cũng khẳng
định: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mệnh. Từ đó, Người đã tích
cực chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản.
Về tư tưởng: Dưới nhiều phương thức hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã vạ
trần bản chất và tội ác của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tập hợp lực lượng và tuyên
truyền con đường cách mạng vô sản. Người sáng lập tờ báo “Le Paria” (Người
Cùng khổ) và viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí
Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế...
Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
trong nước. Người đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng
đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”.
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho
đời của chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào
tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc)
để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn
Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên, mở
lớp đào tạo cán bộ cách mạng.
Nhờ những hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc, các tổ chức cộng sản ở
Việt Nam đã ra đời là: An Nam cộng sản đảng; Đông Dương cộng sản Đảng và
Đông Dương cộng sản liên đoàn. Ngày 3/2/1930, các tổ chức này đã hợp nhất lại
thành Đảng Cộng sản Việt Nam, con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc bước
đầu được hiện thực hóa trong thực tiễn.
4. Ý nghĩa hội nghị thành lập Đảng
Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 đi lớn cần thảo luận:
1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các
nhóm cộng sản Đông Dương
2. Định tên Đảng là Đàng Cộng sản Việt Nam 5
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại
biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương.
Hội nghị nhất trí, thống nhất các tổ chức Cộng sản Việt Nam thành lập một
đảng cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như
là Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của
cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu của
thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá
trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ
về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng tiên phong,
đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng
chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi
đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp
bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và
sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như
Đại hội thành lập Đảng.
5. Ý nghĩa của cương lĩnh đầu tiên
[Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa - phong kiến.
Đó chính là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt
Nam: kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp truyền thống
yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta với những kinh nghiệm của cách
mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đặc
biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc điểm thực tiễn, yêu cầu của
cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiên tiến cách mạng của thời đại. Vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo
và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới. 6
Cương lĩnh xác định đường hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển
của cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam nằm trong phạm trù cách mạng vô
sản, độc lập dân tộc là bước đi đầu tiên, là điều kiện tiên quyết để đi đến xã hội cộng sản.]
Từ thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam và từ những nội dung
được đề cập trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có thể khẳng định rằng,
đây là lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một văn kiện chính trị phản ánh đúng
quy luật phát triển của xã hội Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới; đáp ứng
những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của
thời đại. Chính nhờ có Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng tạo nên ngay từ khi
mới ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng trở thành lực lượng lãnh đạo,
tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc theo con đường cách mạng mà Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân đã lựa chọn.
6. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong Hội nghị thành lập Đảng:
Vai trò của đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (6/1 đến 7/2/1930) là hết sức to lớn. Người
đã trực tiếp triệu tập và chủ trì Hội nghị; đã nói lên và hòa giải về sự bất đồng
trong tư tưởng; thống nhất ba tổ chức cộng sản thành một chính đảng cách mạng;
trực tiếp soạn thảo và thông qua Cương lĩnh – văn kiện quan trọng có ý nghĩa chiến
lược đến cách mạng Việt Nam.
II. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐCSVN
1) Ý nghĩa sự ra đời của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra
thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những
nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những
nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các
tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm
dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước
Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất 7
phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ cách mạng tiên phong
vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc Việt
Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách
mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng
hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời
đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
2) Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của đảng trong giai đoạn 39 – 45:
a) Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 (tháng 11 – 1939):
Đầu tháng 11-1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Bà Điểm, Hóc
Môn, Gia Định, do Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì và các đồng chí Phan Đăng
Lưu, Lê Duẩn, Võ Văn Tần…tham dự.
Hội nghị nhận định về nguyên nhân, mục đích, tinh chất và xu hướng phát
triển ác liệt của chiến tranh thế giới thứ hai; đồng thời khẳng định cuộc chiến tranh
này cũng sẽ mở ra tiền đồ rộng lớn cho nhân dân và các dân tộc bị ác bức vùng
dậy, đấu tranh liều sống liều chết vơi đế quốc xâm lược để cởi vất cái ách tôi đòi.
Dự báo Nhật sẽ xâm lược Đông Dương, Pháp sẽ đầu hàng Nhật, chế độ cai trị ở
Đông Dương sẽ là chế độ phát xít quân phiệt vô cùng tàn bạo. Hội nghị khẳng định
rằng, nhân dân Đông Dương sẽ cấp tiến hóa, cách mạng hóa hết sức mau chóng;
lòng phẫn uất trở nên sôi sục, cách mạng sẽ bùng nổ, tiền đồ cách mạng giải phóng
Đông Dương nhất định sẽ thắng lợi rực rỡ.
Hội nghị đã xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đôn
Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho
Đông Dương hoàn toàn độc lập; tính chất của cách mạng là tư sản dân quyền vẫn
bao gồm hai nhiệm vụ cơ ban chống đế quốc chống phong kiến song phải ứng
dụng một cách khôn khéo để thực hiện nhiệm vụ chính cốt của cách mạng là chống
đế quốc. Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất nói chung,
đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân
tộc; thay khậu hiệu lập chính quyền Xô viết công nông, bằng khẩu hiệu lập chính
quyền cộng hòa dân chủ. 8
Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương, bao gồm công nhân và nông dân là lực lượng chính, đoàn kết với tiểu tư
sản ở thành thị và nông dân, đồng minh tạm thời hoặc trung lập với giai cấp tư sản
dân tộc, trung và tiểu địa chủ, do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Hội nghị quyết định các chủ trương và biện pháp để củng cố Đảng về m
mặt, như phải mật thiết liên hệ với quần chúng; phải vũ trang lý luận cách mạng;
phải khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ Nam chí Bắc; phải lựa chọn, chọn
đào tạo cán bộ, thực hành kiểm soát việc thực hiện nghị quyết của Đảng, phải
chống nạn khiêu khích của bọn mật thám; phải thực hiện tự phê bình và đấu tranh
chống “tả khuynh” và “hữu khuynh”. Hội nghị nhấn mạnh trong thời kỳ nghiêm
trọng này, Đảng ta nhất định phải thống nhất ý chí lại thành một ý chí duy nhất và chỉ một mà thôi.
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11 – 1939 đã phát huy tinh thần độc lập,
tự chủ sáng tạo, kịp thời chuyển hướng, chỉ đạo quan trọng về đường lối và
phương phá cách mạng, nêu ra mục tiêu, phương hướng chiến lược hướng tập
trung chiến lược tập trung mũi nhọn của cách mạng chĩa vào đế quốc và tay sai,
chuẩn bị điều kiện, lực lượng ch khởi nghĩa giành độc lập dân tộc, giành chính
quyền. Hội Nghị đánh dấu hiệu bước chuyển hướng quan trọng về chỉ đạo chiến
lược cách mạng dân tộc dân chủ.
b) Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng 7 (tháng 11 – 1940):
Từ ngày 6 đến 9 – 11 – 1940, Hội nghị Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng
(Bắc Ninh) có các đồng chí Trường Chinh, Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ,
Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh… tham dự.
Hội nghị khẳng định tính đúng đắn và nhất trí với chủ trưởng chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu
cách mạng ruộng đất của Hội nghị Trung ương tháng 11 – 1939. Hội nghị xác định
kẻ thù của cách mạng Đông Dương là thực dân Pháp và phát xít Nhật; Mặt trận dân
tộc thống nhất phản đế Đông Dương là Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân
Pháp và phát xít Nhật ở ba nước Đông Dương. Ban chấp hành Trung ương được
hội nghị cử ra đồng chí Trường Chinh làm Quyền Tổng bí thư Trung ương Đảng;
quyết định chắp nối liên lạc với Quốc tế Cộng sản và bộ phận của Đảng ở ngoài
nước. Hội nghị thảo luận và quyết định hai vấn đề cấp bách:
Thứ nhất, duy trì lực lượng vũ trang trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, thành
lập những đội du kích dùng hình thức “vũ trang công tác”, khi cần thì chiến đấu 9
chống địch khủng bố, bảo vệ tính mạng, tài sản nhân dân, phát triển cơ sở cách
mạng, tiến tới lập căn cứ địa cách mạng, lấy Bắc Sơn – Võ Nhai làm trung tâm
hoạt động của các đội du kích và đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng.
Thứ hai, chỉ thị cho Xứ ủy Nam Kỳ hoãn ngay cuộc khởi nghĩa vì chưa đủ
điều kiện đảm bảo cho khởi nghĩa thắng lợi. Đồng chí Phan Đăng Lưu được Trung
ương giao trách nhiệm truyên đạt chủ trương này của Hội nghị cho Xứ ủy Nam Kỳ.
Tại Hội nghị Trung ương tháng 11 – 1940, do Đảng đã nhận định sáng suốt
về kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là Pháp – Nhật, nên có những chỉ đạo
phong trào cách mạng của nhân dân thực hiện chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải
phóng dân tộc sát hợp với tình hình thực tế.
c) Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng 8 (tháng 5 – 1941):
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28 /01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã về nước lãnh đạo trực tiếp cách mạng Việt Nam. Từ ngày 10 đến ngày
19/05/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
họp tại lán Khuổi Nậm, Pác Bó, do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì.
Hội nghị nhận định Đức sẽ đánh Liên Xô và Nhật sẽ phát động cuộc chiến
tranh Thái Bình Dương. Theo quy luật chiến tranh đế quốc gắn với thời cơ cách
mạng, Hội nghị dự báo chắc chắn rằng, nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã
làm xuất hiện Liên Xô – một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc
này sẽ xuất hiện thêm nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó cách mạng nhiều nước sẽ thành công.
Quá trình phát triển của cách mạng Đông Dương gắn chặt với những bước
ngoặt của cuộc chiến tranh thế giới. Đảng phải theo dõi sát diễn biến cuộc chiến
tranh nhất là những bước ngoặt của nó. Phân tích tình hình Đông Dương dưới ách
thống trị của Pháp – Nhật, Hội nghị nhận định, mặc dù bị đế quốc phát xít đàn áp
liên miên và dữ dội, phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương sẽ ngày càng phát triển; Đảng có uy tín và
ảnh hưởng lớn trong quần chúng nhân dân.
Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải
phóng dân tộc, tiếp tục tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất đưa ra từ Hội nghị
Trung ương tháng 11 – 1939 để tập trung mũi nhọn chống đế quốc và bọn tay sai
giành độc lập dân tộc. Hội nghị nêu rõ sách lược của Đảng ta là vận dụng phương
pháp hiệu triệu hết sức thống thiết để đánh thức tinh thần dân tộc sẵn có trong nhân 10
dân. Chính vì vậy Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương phải đổi ra cái
tên khác cho có tính chất dân tộc hơn, cho co mãnh lực và dễ hiệu triệu hơn và nhất
là có thể thực hiện được.Theo đề nghị sáng kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc,
Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt
Minh) thay cho Mật trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương. Đảng và Mặt
trận Việt Minh phải hết sức giúp đỡ các dân tộc Lào, Miên tổ chức ra Ai Lao độc
lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh để thống nhất hành động chống kẻ
thù chung là phát xít Pháp – Nhật.
Hội nghị Trung ương (tháng 5 – 1941) đã xác định hình thái khởi nghĩa ở
nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa. Từ dự kiến đó, Hội nghị
quyết định chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta
trong giai đoạn hiện thời. Để thực hiện được thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân
tộc bằng hình thức khởi ngĩa vũ trang, công tác xây dựng dựng lực lượng chính trị,
lực lượng vũ trang, trước hết là công tác xây dựng Đảng phải được nhấn mạnh. Hội
nghị nhận thấy trong Đảng còn thiếu nhiều cán bộ và thành phần công nhân còn ít.
Để Đảng đủ năng lực lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi, phải gấp rút đào tạo cán
bộ lãnh đạo, cán bộ phong trào công vận, nông vận, binh vận, quân sự, tuyên truyền báo chí.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5 – 1941) có ý nghĩa lịch sử to
lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng đặt ra
từ Hội nghị Trung ương tháng 11 – 1939. Có ý nghĩa quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
III. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 – 1954)
1. Bối cảnh lịch sử Tình hình quốc tế
Có nhiều chuyển biến, sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai các quốc gia
đều bị tổn thất nặng nề và phải ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, mối quan hệ
giữa Mỹ và Liên Xô từ hợp tác chuyển sang đối đầu, phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới diễn ra sôi nổi. Tình hình trong nước 11
Sau Cách mạng Tháng Tám chính quyền cách mạng và nhân dân ta phải đương
đầu với nhiều khó khăn, thách thức chồng chất, đất nước đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
2. Được thể hiện qua bốn văn kiện chủ yếu:
CT “Kháng chiến kiến quốc” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (25/11/1945)
CT “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (12/12/1946)
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19 – 12 – 1946)
“Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Tổng Bí thư Trường Chinh (năm 1947)
3. Về cơ bản đường lối chung của cuộc kháng chiến tập trung ở một số nội dung:
- Mục đích của cuộc chiến là giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.
- Tính chất của cuộc kháng chiến lúc này vẫn là “cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước
chưa đượchoàn toàn độc lập”.
- Nhiệm vụ của cuộc kháng chiến được xách định ngay từ đầu: “vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc”.
- Phương hướng chiến lược của cuộc kháng chiến: toàn dân, toàn diện, trường
kì, tự lực cánh sinh. (lý do chọn kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường
kỳ, dựa vào sức mình là chính vì chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: ph
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện. Nghĩa là nhân dân phải là chủ
thể của nền quốc phòng, mọi người dân đều có trách nhiệm và nghĩa vụ
tham gia xây dựng nền quốc phòng vững mạnh toàn diện. Tính chất toàn dân
và toàn diện quan hệ chặt chẽ với nhau và là cơ sở tạo nên sức mạnh tổng
hợp của nền quốc phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu bảo đảm sự ổn định để
phát triển đất nước; đồng thời, sẵn sàng đánh thắng kẻ thù xâm lược, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa)
- Quyết tâm kháng chiến: tinh thần quyết chiến quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
- Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp là đường lối chiến tranh nhân
dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Về chính trị, phải đoàn kết toàn dân chống Pháp xâm lược, phải thống nhất
toàn dân, làm cho mặt trận dân tộc thống nhất mỗi ngày một vững, mỗi ngày một
vòng. Phải củng cố chế độ cộng hòa dân chủ, xây dựng bộ máy kháng chiến vững 12
mạnh, thống nhất quân, chính, dân trong toàn quốc, phát riển các đoàn thể cứu
quốc,củng cố bộ máy lãnh đạo khánh chiến toàn dân. Phải cô lập kẻ thù, kéo thêm
nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp tích cực ủng hộ
ta, chống lại thực dân phản động Pháp.
Về quân sự, triệt để dùng “du kích vận động chiến”, tiến công địch ở khắp
nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa các vùng chiến sự.
Về kinh tế, xây dựng nền kinh tế kháng chiến theo nguyên tắc vừa kháng
chiến vừa kiến quốc, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc tự cấp về mọi mặt, xây
dựng kinh tế theo hướng “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”; ra sức phá kinh tế địch,
không cho chúng lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Kinh tế kháng chiến về hình
thúc là kinh tế chiến tranh, về nội dung là dân chủ mới, chú trọng phát triển nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp.
Về văn hóa, thực hiện hai nhiệm vụ: xóa bỏ nền văn hóa nô dịch, ngu dân,
xâm lược của thực dân Pháp và xây dựng nền văn hóa dân chủ mới, dựa trên ba
nguyên tắc: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. Tất cả mọi hoạt động văn
hóa lúc này phải nhằm thực hiện khẩu hiệu “yêu nước và căm thù”
Vể ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc
“bình đẳng và tương trợ”. Triệt để cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bầu bạn, làm
cho nhân dân thế giới kể cả nhân dân Pháp hiểu, tán thành và ủng hộ cuộc kháng
chiến của nhân dân ta. Đồng thời đẩy mạnh hoạt động biểu dương thực lực để đưa
hoạt động ngoại giao giành thắng lợi.
+ Kháng chiến lâu dài nhằm làm cho những chủ yếu cơ bản của địch ngày
càng bộc lộ, chỗ mạnh của địch, ngày càng hạn chế; chỗ yếu của ta từng bước được
khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày càng được phát huy.
+ Tự tực cánh sinh là dựa vào sức lực của toàn dân, vào đường lối đúng đắn
của Đảng, vào các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa của đất nước, đồng thời ra
sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để chiến thắng kẻ thù.
Đường lối kháng chiến của Đảng là sự kế thừa và nâng lên tầm cao mới tư
tưởng quân sự truyên thống của tổ tiên xưa, là sự vận dụng lý luận chiến tranh cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm nước ngoài vào điều kiện Việt
Nam. Đường lối đó là ngọn cờ dẫn dắt và là động lực chính trị tinh thần đưa quân
và dân ta tiến lên chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp xâm lược. 13
IV. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 – 1975)
1. Bối cảnh lịch sử Tình hình quốc tế
Lúc này Chiến tranh Lạnh đang diễn ra gay gắt, phong trào giải phóng dân
tộc ở nhiều nước trên thế giới diễn ra mạnh mẽ, lên đến cao trào.
Tình hình trong nước:
Sau Hiệp định Giơnevơ (1954) đất nước ta bị chia thành hai miền lấy vĩ
tuyến 17 làm giới tuyến. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa; miền Nam, Mỹ “thay chân” Pháp vào xâm lược lập nên
chính quyền độc tài tay sai Ngô Đình Diệm vì vậy miền Nam vẫn phải tiếp tục
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Đường lối của Đảng được Đảng ta xác định rõ trong Đại hội III (9/1960):
"Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược: Một là,
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà,
hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan
hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau".Đảng ta cũng chỉ rõ vai trò
của từng chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước;
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất với toàn bộ sự
nghiệp cách mạng cả nước
2. Đường lối đó được Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo và đem lại kết quả trong thực tiễn.
Giai đoạn 1954 - 1960: Miền Nam:
Đấu tranh chống chế độ Mỹ - Diệm, củng cố hoà bình, tiến tới cuộc "Đồng khởi".
"Đồng khởi" thắng lợi đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền
Nam, từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công. Miền Bắc:
- tiến hành khôi phục kinh tế
- hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc, đặc biệt là Cải cách ruộng đất.
- cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế 14
- phát triển kinh tế - xã hội.
- bước đầu mở đường (5/59; 7/59) chuẩn bị chi viện cho tiền tuyến miền Nam đánh Mỹ.
Miền Bắc cổ vũ mạnh mẽ về mặt tinh thần cho cuộc đấu tranh của đồng
bào ta ở miền Nam. Miền Nam trực tiếp đấu tranh chống Mỹ - Diệm cũng
góp phần quan trọng ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai ở Việt Nam và Đông Dương
Giai đoạn 1961 - 1965: Miền Nam:
Thắng chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ
Ta vừa giữ được quyền chủ động, vừa tạo ra thế trận mới cho cách mạng miền
Ta vừa giữ được quyền chủ động, vừa tạo ra thế trận mới cho cách mạng
miền Nam; vừa làm phá sản một hình thức chiến tranh; đẩy Mỹ và chính
quyền ngụy vào thế bị động chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam Miền Bắc:
Đảng lãnh đạo tiến hành thắng lợi Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 –
1965), đã "đưa miền Bắc tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử dân tộc.
Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới".
Với thắng lợi của cách mạng miền Nam tiếp tục góp phần quan trọng bảo vệ
Với thắng lợi của cách mạng miền Nam tiếp tục góp phần quan trọng bảo vệ
vững chắc miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn với thắng lợi của cách
mạng miền Bắc, tiếp tục cổ vũ tinh thần cho quân và dân ta ở miền Nam
đánh Mỹ. Mặt khác, những thành tích đã đạt được ở miền Bắc còn góp phần
quan trọng tạo ra điều kiện vật chất chi viện cho chiến trường miền Nam
Giai đoạn 1965 - 1968: Miền Nam:
Chiến thắng "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ.
Thắng lợi trong chiến dịch Mậu Thân 1968 làm đảo lộn thế chiến lược của địch
trên chiến trường, làm choáng váng cả nước Mỹ và thế giới, tạo ra bước ngoặt
quan trọng của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự phá sản của chiến lược "chiến tranh
cục bộ", làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược và buộc đế quốc Mỹ chấm dứt chiến
tranh phá hoại miền Bắc không điều kiện, chấp nhận đàm phán trực tiếp với ta tại Hội nghị Pari. Miền Bắc
Đảng lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân ta:
- Tiến hành chuyển hướng xây dựng kinh tế
- Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cả nước có chiến tranh
- Đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ
- Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời, giai đoạn này 15
- Tăng cường chi viện cho miền Nam làm tròn vai trò to lớn của hậu phương lớn
đối với tiền tuyến lớn.
Với những thắng lợi to lớn trên chiến trường miền Nam, không những trực tiếp Giai đoạn 1969 - 1973: Miền Nam:
Đánh thắng chiến lược "Việt Nam hóa" và "Đông Dương hoá" chiến tranh của đế
quốc Mỹ. Trong hai năm 1970 - 1971, quân dân ta ở miền Nam cùng với quân dân
hai nước Lào và Campuchia đã giành những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên
mặt trận quân sự, chính trị và cuộc tiến công chiến lược 1972 đã mở ra bước ngoặt
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giáng đòn mạnh mẽ vào ngụy quân (công cụ chủ
yếu) và quốc sách "bình định" (xương sống) của chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Miền Bắc:
Đảng lãnh đạo quân và dân ta thực hiện: - Khôi phục kinh tế
- Hàn gắn vết thương chiến tranh
- Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, đặc biệt là
đánh bại cuộc tập kích bằng đường không, 12 ngày đêm (18 - 29/12/1972), của đế quốc Mỹ
=> thắng lợi của cách mạng hai miền đã tạo tiền đề ngoại giao quan trọng, buộc
Mỹ phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán, kí kết
Hiệp định Pari về "chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam".
Giai đoạn 1973 - 30/4/1975:
Dưới sự chỉ đạo của Đảng, cách mạng hai miền tập trung chiến lược: Tạo thế, tạo
lực, tạo thời cơ và tổng tiến công nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Quân dân miền Nam tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chính trị đòi quân địch thi hành
hiệp định Pari, tổ chức xây dựng lực lượng, phản công chống lại những cuộc hành 16
quân tràn ngập lãnh thổ của kẻ địch; sau đó, đánh một số trận có tính chất thăm dò
và hoàn thành thế trận cho trận đánh cuối cùng của ta.Quân dân miền Bắc tiếp tục
hăng hái thi đua sản xuất, tăng cường chi viện sức người, sức của cho miền Nam đánh Mỹ.
Sau quá trình chuẩn bị, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 đã diễn ra Cách mạng miền Nam
là tiền tuyến lớn trực
tiếp đánh bại các chiến lược chiến
Cách mạng miền Nam là tiền tuyến lớn trực tiếp dánh bại các chiến liện
chiến tranh của đế quốc Mỹ, đồng thời, góp phần quan trọng bảo vệ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở hậu phương lớn miền Bắc. Cách mạng
miền Bắc tạo ra một bộ mặt mới, với những bước tiến chưa từng có trong
lịch sử dân tộc. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc còn tạo ra
một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, có sức cổ vũ lớn lao cho đồng bào ta ở miền
Nam đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Chiến công oanh liệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, kết thúc
bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã chứng minh đường lối quân sự và
phương pháp cách mạng của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Chính quá trình hình
thành đường lối chiến lược quân sự cách mạng từ 1954 đến 1960 dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã giúp cho nhân dân miền Nam nói riêng cả nước nói chung có đủ thế
và lực đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
V. ĐẠI HỘI VI (12/1986) 1. Bối cảnh lịch sử
a) Tình hình thế giới:
Năm 1986 mô hình Chủ nghĩa Xã hội ở nhiều nước trên thế giới đã bộc lộ
những khuyết điểm. Liên Xô và Đông Âu đã lâm vào khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng. 17
Chiến tranh lạnh kết thúc. Xu thế đối thoại thay cho đối đầu. Toàn cầu hóa
đã trở thành một xu thế khách quan.
Cuộc CM khoa học CN đã diễn ra một cách mạnh mẽ. Xuất hiện hình thái
kinh tế mới của thời đại công nghệ thông tin là kinh tế tri thức.
Các nước đang phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức
tạp chống tình trạng đói nghèo, lạc hậu; chống mọi sự can thiệp áp đặt và
xâm lược để bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia, dân tộc. b) Tình hình trong nước:
VN lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, sản xuất kém phát
triển, phân phối lưu thông VN lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng, sản xuất kém phát triển, phân phối lưu thông
VN lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, sản xuất kém phát
triển, phân phối lưu thông rối ren, các công cụ đòn bẩy kinh tế như là:
chính sách giá cả, tiền tệ, tài chính, tiền lương đều không phát huy được
tác dụng dẫn đến lạm phát gia tăng.
Không thực hiện được mục tiêu đề ra là ổn định tình hình kinh tế xã hội,
ổn định đời sống nhân dân.
Thực tế tình hình đặt ra một yêu cầu khách quan có tính sống còn đối với
sự nghiệp CM là phải xoay chuyển tình thế tạo ra sự chuyển biến có ý
nghĩa quyết định trên con đường đi lên CNXH muốn như vậy chúng ta
phải đổi mới toàn diện. Trong đổi mới toàn diện trước hết phải đổi mới về
kinh tế.Trong đổi mới kinh tế trước hết phải đổi mới tư duy về kinh tế
2. Những sai lầm của Đảng trong giai đoạn 1975 – 1986 và nguyên nhân
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật,
Đảng ta đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm: 18
Do phạm sai lầm về xác định mục tiêu, bước đi, muốn đốt cháy giai đoạn khi
chưa đủ các điều kiện cần thiết.
Không kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp và nông nghiệp mà thiên về công nghiệp nặng.
Không thực hiện nghiêm chỉnh các nghị quyết của Đại hội V là đưa nông
nghiệp lên mặt trận hàng đầu.
Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách
lớn, về chỉ đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện.
Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai
lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành
động giản đơn, nóng vội, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế,
xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng.
Đó là những biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản vừa tả khuynh, vừa hữu khuynh.
Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ
những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của
Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
3. Những bài học quý báu mà Đại hội rút ra:
Một là, trong xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng phải quán
triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng
cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
4. Nội dung cơ bản của đướng lối đổi mới
Đổi mới tư duy lí luận: khắc phục những biểu hiện chủ quan duy ý trí nóng
vội làm quy luật khách quan.Phải nhận thức và vận dụng đúng quy luật
khách quan phù hợp với thực tiễn đất nước.
Đổi mới cơ cấu kinh tế: thực hiện nhiều thành phần kinh tế. Kinh tế xã hội
chủ nghĩa trong đó có kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản – tư
nhân, kinh tế tư bản – nhà nước,… nhận thức và vận dụng đúng quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bố 19
trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện 3
chương trình kinh tế lớn: “lương thực- thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập
trung, quan liêu, hành chính, bao cấp đổi mới Kế hoạch hóa kết hợp kế
hoạch hóa với thị trường. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ
chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đổi mới và tăng cường vai trò quản lý của nhà nước về kinh tế: cần phân
biệt rõ chức năng quản lý hành chính, kinh tế của các cơ quan nhà nước
trung ương và địa phương với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của
các đơn vị kinh tế cơ sở.
Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại: mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại, mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài thông qua việc công bố
chính sách đầu tư với nhiều hình thức.
Đổi mới chính sách văn hóa – xã hội: Ban hành các chính sách xã hội cơ
bản lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu khả
năng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Chú trọng phát triển
yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng: nâng cao nhận thức lý luận, vận dụng đúng
quy luật khách quan khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ
trong việc đề ra đường lối chủ trương, chính sách, cơ chế, thể chế. Phải quán
triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, phải nắm vững thực tiễn không ngừng nâng
cao trình độ trí tuệ. Đổi mới phong cách phương pháp làm việc của Đảng đó
là đổi mới sự lãnh đạo của Đảng.
Đây là những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới toàn diện đất nướ
trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986)
5. Ý nghĩa của đường lối đổi mới
Có ý nghĩa trọng đại đánh dấu bước ngoặt trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở VN.
Đưa VN thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Đặt ra nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đường lối đổi mới kết tinh trí tuệ và tư duy khoa học của toàn Đảng, toàn
dân. Thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng. Đường lối đổi mới của Đảng
chính là sự kế thừa, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lenin vào điều kiện
hoàn cảnh cụ thể của VN ta.
Đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử như hôm nay cả về
chính trị, cả về kinh tế, văn hóa, tư tưởng xã hội. 20