














Preview text:
  lOMoAR cPSD| 46797236
ĐỀ CƯƠNG LUÂT HÀNH CHÍNH ̣ NỘI DUNG II: QUAN HỆ PHÁP LUẬT  HÀNH CHÍNH 
II.1. Khái niệm, đặc điểm  a) Khái niệm:  
Quan hệ pháp luật hành chính là hình thức pháp lý của quan hệ hành chính, xuất 
hiện trên cơ sở sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật hành chính đối với quan hệ  đó.  b) Đặc điểm:  
- Nội dung quan hệ pháp luật hành chính được quy định bởi đặc thù của quan 
hệ hành chính, trong đó chủ yếu là tính bất bình đẳng của quan hệ đó, bởi 
trên cơ sở của hoạt động hành chính, quan hệ pháp luật hành chính được  phát sinh. 
- Để quan hệ pháp luật hành chính xuất hiện phải có sự hiện diện của chủ 
thể bắt buộc là cơ quan nhà nước mà trong đó chủ yếu là cơ quan hành 
chính (hoặc đại diện của nó), là bên được giao quyền hạn mang tính pháp 
lý, hoạt động nhân danh Nhà nước, vì lợi ích của Nhà nước. 
- Quan hệ pháp luật hành chính có thể xuất hiện theo sáng kiến của bất kì 
bên nào (cơ quan nhà nước, công dân,...) mà không nhất thiết phải có sự 
đồng ý của bên kia, trừ những ngoại lệ. 
- Đa phần các tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính 
được giải quyết theo thủ tục hành chính, nhưng có những trường hợp được 
giải quyết bởi Tòa án. 
- Nếu bất kì bên nào vi phạm yêu cầu của Luật Hành chính thì phải chịu 
trách nhiệm trước Nhà nước, cơ quan hoặc người có thẩm quyền đại diện 
cho Nhà nước, chứ không phải chịu trách nhiệm trước bên kia như trong 
quan hệ pháp luật dân sự.  II.2. Cơ cấu 
Quan hệ pháp luật hành chính được cấu thành bởi/hay có cơ cấu là: chủ thể, khách  thể và nội dung. 
NỘI DUNG III. CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 
III.1. Khái niệm và phân loại các cơ quan hành chính ở Việt Nam    lOMoAR cPSD| 46797236 Khái niệm 
Ở Việt Nam, cơ quan hành chính nhà nước được hình thành từ các cơ quan quyền 
lực nhà nước cùng cấp. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của 
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là cơ quan chấp hành của Quốc 
hội. Chính phủ do Quốc hội thành lập. Uỷ ban nhân dân là cơ quan hành chính 
nhà nước ở địa phương và là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân. Uỷ ban 
nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm. Chính 
phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp hợp thành hệ thống cơ quan hành chính nhà  nước. 
Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước, được 
thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. 
Phân loại các cơ quan 
- Cơ quan hành chính nhà nước được phân thành nhiều loại khác nhau dựa 
trêncác tiêu chí như phạm vi lãnh thổ, thẩm quyền, nguyên tắc tổ chức và giải  quyết công việc. 
- Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ, cơ quan hành chính nhà nước được chia làm 
hailoại là cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và cơ quan hành chính nhà  nước ở địa phương. 
- Cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương gồm Chính phủ, các bộ, cơ 
quanngang bộ. Đây là những cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý 
hành chính nhà nước trên toàn bộ lãnh thổ, đóng vai trò quan trọng, chỉ đạo các 
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.  III.2. Chính phủ 
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nước CHXHCN Việt 
Nam , thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội (Hiến pháp  2013) 
Cơ cấu chính phủ: Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ 
trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. 
Hiện nay thành viên Chính phủ do Quốc hội phê chuẩn gồm Thủ tướng, 5 Phó 
thủ tướng, 17 Bộ trưởng và 4 Thủ trưởng cơ quan ngang bộ    lOMoAR cPSD| 46797236
III.3. Bộ, các cơ quan ngang bộ 
  Bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện hai chức năng: Quản lý nhà nước đối với 
ngành hoặc lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc; Quản lý các dịch vụ công thuộc  ngành, lĩnh vực. 
Bộ, cơ quan ngang bộ có hai loại: 
- Bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành: là cơ quan của Chính phủ 
thực hiện quản lý nhà nước đối với một ngành hay nhóm liên ngành kinh tế, 
xã hội, văn hóa (như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, thương mại, văn  hóa, giáo dục). 
- Bộ, cơ quan ngang bộ quản lý theo lĩnh vực: là cơ quan của Chính 
phủ thực hiện quản lý nhà nước đối với từng lĩnh vực lớn (như kế hoạch, tài 
chính, khoa học công nghệ, môi trường, ngoại giao, tổ chức và công vụ). III.4.  Ủy ban nhân dân 
- UBND ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng 
cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà  nước ở địa phương, 
- Cơ cấu: Chủ tịch UBND, Phó chủ tịch, các thành viên khác.  - Thẩm quyền: 
+ Ra quyết định, chỉ thị, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với mọi cơ quan, 
tổ chức, cá nhân có liên quan trong phạm vi địa phương + Có thẩm quyền  ban hành VBQPPL...    lOMoAR cPSD| 46797236
NỘI DUNG IV: CÔNG VỤ, CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC      lOMoAR cPSD| 46797236
NỘI DUNG VI: HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP HOẠT ĐỘNG CỦA HÀNH 
CHÍNH NHÀ NƯỚC; QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH 
VI.1. Khái quát chung 
VI.1.1. Hình thức hoạt động hành chính nhà nước 
VI.1.1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG HÀNH  CHÍNH NHÀ NƯỚC 
 Hình thức hoạt động hành chính nhà nước: là sự thể hiện ra bên ngoài 
của những hoạt động hành chính nhà nước. Đó là các hình thức: ban hành các 
quyết định chủ đạo, quy phạm hay cá biệt, những hoạt động tổ chức như tổ chức 
các phong trào thi đua, tuyên truyền những kinh nghiệm tiên tiến, tiến hành các 
chỉ đạo cụ thể tại cơ sở, v.v.   
Đặc điểm của hình thức hoạt động hành chính nhà nước:  (1) 
Các hình thức hoạt động hành chính nhà nước là những loại hoạt 
động như:  hoạt động xây dựng và ban hành văn bản pháp luật hay hoạt động tác 
nghiệp vật chất – kỹ thuật.  (2) 
Mỗi loại hình thức hoạt động hành chính nhà nước phải có cùng 
nội dung, tính chất và phương thức tác động; ví dụ: hình thức ban hành các quyết 
định có tính chất pháp lý và quyền lực; hình thức áp dụng các biện pháp cưỡng 
chế hành chính mang tính quyền lực - pháp lý; các hình thức tổ chức trực tiếp tác 
động đến các đối tượng quản lý bằng cách vận động, tuyên truyền, thuyết phục…  (3) 
Nhiều hình thức hoạt động hành chính nhà nước thể hiện chức 
năng, thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước   
 1.2. PHÂN LOẠI CÁC HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG HÀNH CHÍNH  NHÀ NƯỚC 
Dựa vào đặc điểm của các hoạt động hành chính nhà nước, các hình thức 
hoạt động hành chính nhà nước gồm ba nhóm: (i) những hình thức mang tính 
pháp lý; (ii) những hình thức ít mang tính pháp lý; và (iii) những hình thức không  mang tính pháp lý.      lOMoAR cPSD| 46797236
1.2.1. Các hình thức hoạt động mang tính pháp lý 
Các hình thức hoạt động mang tính pháp lý bao gồm: Hoạt động ban 
hành các quyết định chủ đạo; Hoạt động ban hành các quyết định quy phạm; Hoạt 
động ban hành các quyết định cá biệt. 
Là hình thức hoạt động mang tính pháp lý nên chúng được pháp luật quy 
định cụ thể, chi tiết và là yếu tố quan trọng nhất của thẩm quyền của các cơ quan 
hành chính nhà nước cũng như của các cơ quan nhà nước nói chung. Các hình 
thức hoạt động mang tính pháp lý thể hiện đặc trưng quyền lực – pháp lý của hoạt 
động nhà nước, là trung tâm của hoạt động nhà nước, vì vậy, đây là hoạt động 
chủ yếu của cơ quan nhà nước. Các hình thức hoạt động khác đều “xoay quanh” 
hình thức hoạt động này, phục vụ cho hình thức này.   
1.2.2. Các hình thức hoạt động ít mang tính pháp lý 
Các hình thức này bao gồm:  1) 
Các hoạt động tổ chức trực tiếp như: hoạt động nghiên cứu, tổng 
kếtvà phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến; áp dụng các biện pháp cụ thể nhằm 
ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quản lý nhà 
nước; điều phối các hoạt động hội thảo, tổ chức phong trào thi đua, học tập gương  điển hình;  2) 
Các hoạt động tác nghiệp vật chất - kỹ thuật, như: chuẩn bị tư 
liệu,dữ kiện, thông tin cho việc ban hành QĐHC, lập các biên bản, báo cáo, nhật 
trình công việc, chuẩn bị các tài liệu về tài chính, kỹ thuật, v.v. Đa số các công 
việc đó thuộc loại hình hoạt động văn thư. Trong một số trường hợp nhất định, 
hình thức này cũng có ý nghĩa pháp lý nhất định.  3) 
Hợp đồng hành chính (vấn đề còn rất mới ở Việt Nam, được 
nghiêncứu riêng ở chương sau). 
Đặc điểm của các hoạt động ít mang tính pháp lý như sau: 
a. Chúng không làm thay đổi cơ chế điều chỉnh pháp luật, không 
làmphát sinh các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể. 
b. Chúng cũng có tính quyền lực nhà nước nhưng ở các mức độ khác  nhau. 
c. Mức độ tính pháp lý khác nhau của chúng do pháp luật quy định  cụ  thể, chi tiết.    lOMoAR cPSD| 46797236
d. Những hình thức này thông thường có ý nghĩa là căn cứ hoặc 
tạođiều kiện để thực hiện những hình thức pháp lý hoặc để tổ chức thực hiện 
những hình thức pháp lý.   
1.2.3. Hình thức hoạt động không mang tính pháp lý 
 Trong nhiều trường hợp, thay vì ban hành các quyết định cá biệt, chỉ 
cần áp dụng các hoạt động tổ chức - xã hội trực tiếp mà vẫn đạt được mục đích 
của quản lý, thậm chí còn hiệu quả hơn việc ban hành các quyết định pháp luật 
hay áp dụng các biện pháp cưỡng chế mang tính quyền lực. Những hoạt động tổ 
chức trực tiếp cụ thể bao gồm, ví dụ: tổ chức những cuộc mít tinh, tuần hành; tổ 
chức chiếu phim hay tổ chức các cuộc thi và rất nhiều những hình thức đa dạng  khác. 
● Quyết định hành chính của cơ quan chuyên môn thuộc UBND 
Người đứng đầu cơ quan chuyên môn, thuộc Ủy ban nhân dân ban hành: quyết 
định, chỉ thị. 
Quyết định của người đứng đầu cơ quan chuyên môn hành chính cá biệt, còn 
chỉ thị được ban hành để điều hành, chỉ đạo, phối hợp công tác giữa các bộ phận trực 
thuộc, hay cơ quan chuyên môn cấp dưới. 
● Quyết định hành chính của các đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp  nhànước 
Người đứng đầu các tổ chức này có thể ban hành 
- Các quyết định mang tính quy phạm nội bộ (ban hành quy chế làm việc, 
các chế độ, chính sách trong nội bộ tổ chức v.v) hoặc quyết định cá biệt 
(lên lương, khen thưởng, kỷ luật v.v) 
- Chỉ thị được sử dụng để chỉ đạo, điều hành, phối hợp công tác giữa các  đơn vị trực thuộc. 
NỘI DUNG VII: CƯỠNG CHẾ HÀNH CHÍNH VÀ TRÁCH NHIỆM HÀNH  CHÍNH 
VII.1. Cưỡng chế hành chính   VII.1.1. Khái niệm    lOMoAR cPSD| 46797236
Về bản chất, cưỡng chế là một thuộc tính của quyền lực nhà nước. “Cưỡng chế” 
là việc ban hành những quyết định hoặc việc áp dụng những biện pháp tổ chức có tính chất 
bắt buộc trực tiếp, cũng như việc ban hành những quy định làm cơ sở cho việc ban hành 
những quyết định cưỡng chế và áp dụng những biện pháp nói trên. 
Cưỡng chế hành chính: là tổng hợp các biện pháp do Luật Hành chính quy định 
được áp dụng để tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp lên tâm lý, tư tưởng và hành 
vi của cá nhân hoặc tổ chức, trực tiếp hoặc gián tiếp bắt buộc các chủ thể đó phải thực 
hiện các nghĩa vụ pháp lý nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn hoặc xử lý những hành 
vi trái pháp luật, bảo đảm trật tự và kỷ luật trong hoạt động hành chính nhà nước.  ĐẶC ĐIỂM: 
- Chủ yếu do các CQHC có thẩm quyền áp dụng theo thủ tục hành chính 
- Đảm bảo thực hiện, bảo vệ các quy phạm vật chất của ngành LHC cũng  như các ngành luật khác 
- Giữa cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng cưỡng chế hành chính và cơ 
quan, người bị ad CCHC không có quan hệ trực thuộc mà chỉ có quan hệ  giám sát, kiểm tra 
VII.1.2. Các biện pháp cưỡng chế hành chính 
Cưỡng chế trong hoạt động hành chính nhà nước được hiểu dưới hai giác độ: 
(1) Cưỡng chế trong hoạt động hành chính nhà nước là những loại biện 
phápcưỡng chế nhà nước mà các chủ thể tham gia hoặc thực hiện hoạt động này có thể bị 
áp dụng nếu vi phạm pháp luật. 
(2) Cưỡng chế trong hoạt động hành chính nhà nước là những loại biện 
phápcưỡng chế nhà nước mà các chủ thể thực hiện hoạt động hành chính nhà nước có  quyền áp dụng. 
Các biện pháp cưỡng chế hành chính: có thể do các loại cơ quan khác nhau 
thực hiện, kể cả Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp. Nhưng đáng chú ý nhất 
là những cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong 
hoạt động hành chính nhà nước 
 ví dụ: các cơ quan thanh tra, hải quan, kiểm lâm, thuế vụ, công an, v.v. Thẩm 
quyền của mỗi loại cơ quan nói trên được quy định rất chặt chẽ trong các văn bản pháp 
luật, nhằm tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn và hiện tượng độc quyền, lạm quyền.    lOMoAR cPSD| 46797236
Các biện pháp cưỡng chế hành chính bao gồm: các biện pháp phòng ncgừa hành 
chính, các biện pháp ngăn chặn hành chính, các biện pháp trách nhiệm hành chính và các 
biện pháp xử lý hành chính. 
VII.2. Khái niệm trách nhiệm hành chính, v và các yếu tố cấu thành  VII.2.1. Khái niệm TNHC   
VII.2.2. Khái niệm, các yếu tố cấu thành pháp lí VPHC    lOMoAR cPSD| 46797236
*Khái niệm vi phạm hành chính 
-Vi phạm hành chính là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái 
pháp luật, có lỗi (có lỗi hoặc vô ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành vi 
hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội, trật tự 
quản lý, sở hữu của Nhà nước ,của tổ chức và cá nhân, xâm phạm các quyền, tự 
do và lợi ích hợp pháp của công dân mà theo quy định của pháp luật phải chịu 
trách nhiệm hành chính mà không phải tội phạm. 
*Các yếu tố cấu thành pháp lí vi phạm hành chính 
-Để xác định một hành vi xảy ra trong thực tế có phải là vi phạm hành 
chính hay không, cần phải xác định các dấu hiệu pháp lý của các yếu tố cấu thành 
loại vi phạm pháp luật này. vi phạm hành chính được cấu thành bởi 04 yếu tố 
gồm: mặt khách quan, chủ thể, chủ quan, khách thể. 
+Mặt khách quan: Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm 
hành chính là hành vi vi phạm hành chính. Nói cách khác, hành vi mà tổ chức, cá 
nhân thực hiện là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước và đã bị pháp 
luật hành chính ngăn cấm. Như vậy, khi xem xét, đánh giá hành vi của cá nhân 
hay tổ chức có phải là vi phạm hành chính hay không, bao giờ cũng phải có những 
căn cứ pháp lí rõ ràng xác định hành vi đó phải được pháp luật quy định là sẽ bị 
xử phạt bằng các biện pháp xử phạt hành chính. Cần tránh tình trạng áp dụng 
nguyên tắc suy đoán” hoặc “áp dụng tương tự pháp luật” trong việc xác định vi 
phạm hành chính đối với các tổ chức và cá nhân.Đối với một số loại vi phạm hành 
chính cụ thể, dấu hiệu trong mặt khách quan có tính chất phức tạp, không đơn 
thuần chỉ có một dấu hiệu nội dung trái pháp luật trong hành vi mà còn có thể có 
sự kết hợp với những yếu tố khác. Thông thường, những yếu tố này có thể là: 
● Thời gian thực hiện hành vi vi phạm 
● Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm 
● Công cụ, phương tiện vi phạm 
● Hậu quả và mối quan hệ nhân quả 
+Mặt chủ quan: Dấu hiệu bắt buộc là yếu tố lỗi của chủ thể vi phạm. 
Lỗi là trạng thái tâm lý của một người đối với hành vi vi phạm của chính họ. 
Người nào nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, có hại cho xã hội 
bị pháp luật cấm mà vẫn thực hiện thì được xác định là vi phạm hành chính.Có 
hai hình thức lỗi: Lỗi cố ý, lỗi vô ý.    lOMoAR cPSD| 46797236
+Chủ thể vi phạm hành chính: Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành 
chính là các tổ chức, cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy 
định của pháp luật hành chính.Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là 
chủ thể của vi phạm hành chính phải là người không mắc các bệnh tâm thần hoặc 
mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành 
vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định, cụ thể là: 
● Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là chủ thể của vi phạm hành chính 
trong trường hợp thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Như vậy, khi xác định 
người ở độ tuổi này có vi phạm hành chính hay không cần xác định yếu 
tố lỗi trong mặt chủ quan của họ. 
● Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính  trong mọi trường hợp. 
● Tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm: các cơ quan nhà nước, 
các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ 
trang nhân dân và các tổ chức khác được thành lập theo quy định của  pháp luật; 
● Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo 
quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà 
Việt Nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác. 
+Khách thể của vi phạm hành chính: Dấu hiệu khách thể để nhận biết về 
vi phạm hành chính là hành vi vi phạm này đã xâm hại đến trật tự quản lí hành 
chính nhà nước được pháp luật hành chính quy định và bảo vệ 
NỘI DUNG IX: KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG HÀNH CHÍNH; KHIẾU NẠI 
HÀNH CHÍNH VÀ KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH 
IX.1. Kiểm soát hoạt động hành chính nhà nước 
IX.1.1. Các nguyên tắc kiểm soát hoạt động hành chính nhà nước. 
Kiểm soát đối với hành chính nhà nước là một loại hoạt động đặc biệt. Mục 
tiêu cụ thể của hoạt động này chủ yếu nhằm xem xét tính hợp pháp và hợp lý, đặc 
biệt là tính hợp pháp trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Do đó, 
quá trình kiểm soát cần phải nhất quán tuần theo nguyên tắc cơ bản sau:    lOMoAR cPSD| 46797236
1. Nguyên tắc tuân theo Hiến pháp và pháp luật 
Hoạt động kiểm soát đối với hành chính nhà nước phải được tiến hành bởi 
những chủ thể có thẩm quyền kiểm soát được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp 
luật. Quá trình kiểm soát chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở những phương thức 
mang tính chất đặc thù của chủ thể mà pháp luật đã xác định. Nguyên tắc này thể 
hiện sự quy chuẩn và chính thống khi xem xét tính hợp pháp của hoạt động hành  chính nhà nước. 
2. Nguyên tắc bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực trong hoạt động kiểm  soát 
Chủ thể tiến hành kiểm soát trong quá trình tác nghiệp cần phải thu thập 
thông tin đầy đủ; tôn trọng sự thật khách quan, cân nhắc chọn lọc kỹ càng để loại 
bỏ những thông tin không chính xác. Để có thể đưa ra các kết luận, các quyết định 
liên quan đến hoạt động hành chính nhà nước, hoặc liên quan đến lợi ích của công 
dân, tổ chức, của nhà nước rất cần thiết có sự cẩn trọng toàn diện trong quá trình 
kiểm soát đối với hành chính nhà nước. Đó là chất liệu cơ bản đảm bảo nguyên 
tắc chính xác, khách quan trung thực trong hoạt động kiểm soát hành chính nhà  nước. 
3. Nguyên tắc công khai, dân chủ, kịp thời 
Công khai, dân chủ, kịp thời trong hoạt động kiểm soát hành chính có nguồn 
gốc từ nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được ghi nhận 
trong Hiến pháp nước ta, đồng thời là một cách thức để xây dựng, củng cố ý thức 
làm chủ của nhân dân. Đây là nguyên tắc vừa thể hiện sự thu hút các đối tượng 
khác nhau tham gia hoặc hỗ trợ hoạt động kiểm soát vừa thể hiện thái độ của nhà 
nước đối với những vi phạm pháp luật nhằm giữ nghiêm trật tự quản lý hành 
chính được xác định trong pháp luật Bên cạnh đó, quá trình kiểm soát hành chính 
nhà nước cần lắng nghe thông tin, ý kiến nhiều chiều, tâm tư nguyện vọng của 
đối tượng kiểm soát, của nhân dân đối với từng trường hợp cụ thể. 
4. Nguyên tắc không làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng kiểm  soát 
Hành chính nhà nước là hệ thống bị kiểm soát nhiều nhất và chặt chẽ nhất 
trong bộ máy nhà nước, khi tiến hành kiểm soát các chủ thể không được làm gián 
đoạn hay ảnh hưởng tới các hoạt động bình thường của hành chính nhà nước. Đây 
là nguyên tắc mang tính chất tác nghiệp của chủ thể kiểm soát nhằm duy trì hoạt    lOMoAR cPSD| 46797236
động chức năng của hành chính nhà nước, đồng thời đảm bảo cho các thủ tục 
hành chính và dịch vụ công cung cấp cho nhân dân được liên tục và thông suốt. 
5. Nguyên tắc thường xuyên 
Yêu cầu trong quản lý nhà nước, trong đó có hành chính nhà nước, là quyền 
lực nhà nước phải được kiểm soát thường xuyên. Yêu cầu này không những thực 
hiện nhiệm vụ nhà nước trao cho chủ thể kiểm soát, mà còn là đòi hỏi từ phía 
nhân dân đối với việc thực thi quyền lực nhà nước. Thực hiện nguyên tắc kiểm 
soát thường xuyên đối với hành chính nhà nước có ý nghĩa thực tiễn trong việc 
thiết lập và đảm bảo trật tự hành chính nhà nước, đảm bảo kỷ cương trong hoạt 
động công vụ và pháp luật của nhà nước. 
IX.1.2. Các phương thức kiểm soát hoạt động hành chính nhà nước.  2.1. Kiểm tra 
Kiểm tra: là hoạt động xem xét, đánh giá từ thực tế, được cấp trên tiến hành đối 
với cấp dưới, hoặc của chủ thể có thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước trong việc 
thực hiện chức năng, nhiệm vụ, pháp luật của đối tượng bị kiểm tra. 
Thông thường, kiểm tra được thực hiện trong mối quan hệ về tổ chức hoặc theo 
quy định của pháp luật. Quan niệm này được vận dụng theo hai hướng: 
- Kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan hành chính nhà nước cấp 
trên với cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới hoặc của thủ trưởng cơ quan hành chính 
đối với cán bộ, công chức, viên chức trực thuộc về tổ chức nhằm xem xét, đánh giá mọi 
mặt hoạt động của đối tượng kiểm tra. 
- Kiểm tra là hoạt động của các tổ chức xã hội như tổ chức Đảng đối với đảng 
viên được Đảng giới thiệu vào các vị trí lãnh đạo trong hệ thống hành chính nhà nước 
trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý; kiểm tra của tổ chức chính trị - xã hội đối với một 
số lĩnh vực thuộc quản lý hành chính nhà nước khi được trao quyền quản lý.  2.2. Thanh tra 
Thanh tra: là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp 
luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, 
pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 
Cơ quan thanh tra: là tổ chức được cơ quan hành chính thiết lập để tự mình 
thường xuyên tiến hành kiểm soát việc thực hiện quyền lực của hệ thống hành chính. Đó 
là phạm trù hoạt động của Thanh tra nhà nước được quy định tại Luật Thanh tra năm 2010.    lOMoAR cPSD| 46797236
Thanh tra nhà nước bao gồm: thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. 
Đối với thanh tra hành chính thì giữa chủ thể thanh tra và đối tượng thanh tra có mối quan 
hệ trực thuộc về tổ chức. Đối với thanh tra chuyên ngành, chủ thể thanh tra phải được trao 
nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra cụ thể đối với từng lĩnh vực, cấp bậc quản lý nhà nước.  2.3 Giám sát 
Khái niệm: Giám sát là hoạt động xem xét, đánh giá có tính bao quát của chủ thể 
bên ngoài hệ thống đối với khách thể thuộc hệ thống khác. Như vậy, đối với hành chính 
nhà nước, giám sát hoạt động hành chính nhà nước được thực hiện bởi các chủ thể bên 
ngoài hệ thống. Việc giám sát của các chủ thể này được tiến hành trên cơ sở các quy định 
của pháp luật về quyền, nhiệm vụ, chức năng được nhà nước trao. IX.1.3. Các phương 
thức giám sát, kiểm tra và thanh tra 
PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 
Khái niệm: Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là cách thức thực hiện 
những chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước, cách thức tác động 
của chủ thể quản lý hành chính lên các đối tượng quản lý nhằm đạt được những 
hành vi xử sự cần thiết. 
– Đặc điểm của phương pháp quản lý hành chính nhà nước : 
+ Phương pháp quản lý hành chính nhà nước do các chủ thể quản lý hành chính 
nhà nước (các cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước có thẩm 
quyền trong bộ máy hành chính nhà nước…) tiến hành để thực hiện chức năng,  nhiệm vụ của mình. 
+ Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là cách thức thực hiện quyền lực 
nhà nước trong quản lý. 
+ Những phương pháp quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước được thể 
hiện dưới những hình thức quản lý hành chính nhà nước nhất định (ban hành văn 
bản quy phạm pháp luật, ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật…) và 
được tiến hành trong giới hạn do pháp luật quy định. 
Phương pháp thuyết phục: 
– Khái niệm: Thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự 
giác thực hiện những hành vi nhất định hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất  định.   
 Nội dung của phương pháp thuyết phục:    lOMoAR cPSD| 46797236
+ Phương pháp thuyết phục do chủ thể quản lý hành chính nhà nước sử dụng để 
tác động lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của  mình. 
+ Bản chất của phương pháp thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ 
sự cần thiết và tự giác thực hiện hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định. 
+ Phương pháp thuyết phục được thể hiện bằng những hoạt động như: giải thích, 
động viên, hướng dẫn, chứng minh… làm cho đối tượng hiểu rõ và tự giác chấp 
hành các yêu cầu của chủ thể quản lý.  ‘;mnbvfZA