Đề cương Triết học Mác-lênin

Đề cương Triết học Mác-lênin

Câu 5: Phân tích nội dung và ý nghĩa của hai nguyên lý mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển.
Trả lời:
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên sở một hệ thống những nguyên
lý, những phạm trù bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực.
Trong hệ thống đó, nguyên về mối liên hệ phổ biến nguyên về sự phát triển
là hai nguyên lý khái quát nhất.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Chủ nghĩa duy vật Macxit cho rằng, giữa các sự vật, hiện tượng luôn sự tác
động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau.
Liên hệ khái niệm chỉ sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng, tương tác
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới, hay giữa các mặt,
các yếu tố, các thuộc tính của một sự vật, hiện tượng, một quá trình.
Liên hệ phổ biến khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới
(cả tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng phong phú, nhưng đều nằm trong mối liên
hệ với các sự vật hiện tượng khác. sở của mối liên hệ này tính thống nhất vật
chất của thế giới.
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng tính khách quan, phổ biến, rất đa
dạng, phong phú. Khách quan bởi lẽ vốn của sự vật, không ai gán cho sự
vật. Phổ biến vìtồn tại ở cả tự nhiên, cả tronghội, cả ở duy. Phong phú, đa
dạng nghĩa cả mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ bản
chất-không bản chất, mối liên hệ tất nhiên-ngẫu nhiên…
Từ nguyên về mối liên hệ phổ biến, triết học duy vật Macxit rút ra ý nghĩa
phương pháp luận để định hướng cho hoạt động nhận thức thực tiễn của con
người, đó là quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử-cụ thể.
- Quan điểm toàn diện yêu cầu khi xem xét sự vật hiện tượng phải xem xét tất cả
các mặt, các yếu tố của nó, tuy nhiên phải có trọng tâm, trọng điểm; xem xét
sự vật trong mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Trong hoạt động thực
tiễn, muốn cải tạo sự vật phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp; phải xác
định, đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mối iên hệ đối với sự vận động,
phát triển của sự vật.
- Quan điểm lịch sử-cụ thể đòi hỏi xem xét, nhận thức sự vật luôn gắn với điều
kiện lịch sử cụ thể, xác định trong không gian, thời gian xác định, cụ thể; tránh
chung chug, đại khái.
2. Nguyên lý về sự phát triển:
Chủ nghĩa duy vật Mácxit coi phát triển là quá trình vận động theo hướng đi lên
từ thấp tới cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng rất quanh
co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
Phát triển không chỉ là sự tăng lên, giảm đi về lượng, còn là sự nhảy vọt về
chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ, sự vật lặp lại dường
như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
Nguồn gốc của sự phát triển chính là sự thống nhất và đấu tranh của những mặt
đối lập bên trong của sự vật quy định.
Sự phát triển cũng 3 tính chất khách quan, phổ biến, đa dạng phong
phú. Khách quandiễn ra ngay bên trong sự vật, quá trình giải quyết liên tục
những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại vận động của sự vật. Phổ biến chỗ
nó diễn ra ở tất cả các lĩnh vực (tự nhiên, xã hội, tư duy), ở bất cứ sự vật, hiện tượng
nào của thế giới khách quan. Phong phú, đa dạng nghĩa là, phát triển xu hướng
chung nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại quá trình phát triển không giống nhau,
chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố, điều kiện làm thúc đẩy hay kìm hãm s phát
triển, thậm chí đổi hướng phát triển của sự vật.
Từ nguyên về sự phát triển, triết học duy vật Macxit rút ra ý nghĩa phương
pháp luận là phải có quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Trong nhận thức, khi nhận thức sự vật không chỉ nhận thức nó trong hiện tại mà
còn phải thấy được khuynh hướng vận động, phát triển của nó trong tương lai.
Trên cơ sở đó dự báo những tình huống có thể xảy ra để chủ động nhận thức,
giải quyết. Xem xét sự vật theo quan điểm toàn diện còn phải biết phân chia quá
trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra
phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến
triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có
lợi hay có hại đối với đời sống của con người.
- Trong hoạt động thực tiễn cần chống bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, bởi lẽ mọi sự
vật, hiện tượng trong thế giới luôn vận động, biến đổi và phát triển. Phát triển là
khó khăn, bao gồm cả sự thụt lùi tạm thời, do vậy trong hoạt động thực tiễn, khi
gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải biết tin tưởng vào tương lai.
Câu 7: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mac -Lênin về con người, bản chất
con người.
Vấn đề phát triển con người toàn diện trong giai đoạn hiện nay (gđ
CNH, HĐH).
Trả lời:
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin về con người, bản chất con người
1.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành tựu
của khoa học tự nhiên, trực tiếp thuyết tiến hóa thuyết tế bào, triết học Mác đã
khẳng định con người vừa sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa
sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người. Con người là sự thống nhất giữa
yếu tố sinh học với yếu tố xã hội, là thực thể sinh vật – xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của giới
tự nhiên. Con người tự nhiên con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài.
Như vậy, con người trước hết một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những nhân
con người sống, tổ chức thể của con người mối quan hệ của đối với tự
nhiên.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải yếu tố duy nhất quy định bản chất của
con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt của con người với thế giới loài vật
mặt hội. Tính hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người tạo ra của cải vật chất tinh
thần, phục vụ nhu cầu cuộc sống của mình; Hình thành và phát triển ngôn ngữ
duy; Xác lập quan hệ hội. Bởi vậy lao động chính yếu tố quyết định bản chất
hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách nhân trong cộng đồng
hội.
1.2. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội
1.2.1. Con người là chủ thể của lịch sử
Với cách thực thể hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự
nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử
xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì
trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự
nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản
thân con người.
Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa
phương thức để làm biến đổi đời sống bộ mặt hội. Trên sở nắm bắt quy
luật của lịch sử hội, con người thông qua hoạt động vật chất tinh thần, thúc
đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người
đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội,
do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
1.2.2. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội
Từ khi xuất hiện đến nay, loài người luôn cháy bỏng hoài bão được sống tự do,
hạnh phúc và không ngừng đấu tranh để hoài bão đó được trở thành hiện thực.
Con người, với cách chủ thể của mọi quá trình sáng tạo lịch sử hội
động lực có ý nghĩa quyết định nhất cho sự tiến bộ xã hội. Cho nên con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của mọi quá trình phát triển.
Mọi chủ trương chính sách, mọi hành động của cộng đồng quốc tế, của các
quốc gia hành động của mỗi nhân đều nhằm bảo vệ con người, tự do hạnh
phúc và sự phát triển toàn diện của con người.
1.3. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người tổng hoà những
quan hệ xãhội
Để nhấn mạnh bản chất hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi
tiếng: “Bản chất con người không phải một cái trừu tượng cố hữu của nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người tổng hoà những quan
hệ xã hội”.
Theo luận đề trên thì không con người trừu ợng, thoát ly mọi điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của lịch sử và xã hội. Mác không chỉ xem xét con người trong hoạt
động thực tiễn còn xem xét trong thời đại lịch sử, trong môi trường hội
nhất định. Ở mỗi thời đại khác nhau bản chất con người là khác nhau. Vì xã hội loài
người luôn luôn vận động từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội
cao nên con người cũng phải biến đổi cho phù hợp. Con người thời đại nào đều
mang dấu ấn của thời đại ấy. Trong xã hội có giai cấp, bản chất con người mang tính
giai cấp.
2. Vấn đề phát triển con người toàn diện trong giai đoạn hiện nay (CNH, HĐH)
Con người một trong những động lực quan trọng nhất trong quá trình xây
dựng CNXH. Đphát triển đất nước đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, vấn đề quan trọng phải thực hiện phát triển nguồn
nhân lực Việt Nam, đồng thời phải có cái nhìn tổng thể mang tầm chiến lược về vấn
đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi nhiều nhân tố quan trọng như
vốn, khoa học công nghệ, thông tin, tổ chức, tài nguyên thiên nhiên, sở vật chất
song yếu tố quan trọng quyết định nhất con người. Hiện nay, trong sự nghiệp
CNH HĐH đất nước để đi lên Chủ Nghĩa hội, mục tiêu xây dựng con người
được đặt ra một cách thiết thực trực tiếp. Vấn đề con người mục tiêu của sự
nghiệp phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta là một vấn đề có tính chiến lược.
Những phẩm chất của con người mới mà Đảng ta xây dựng:
- Làm chủ tập thể.
- Có ý thức tự giác và trách nhiệm, tự giác.
- tưởng đúng đắn tình cảm cao đẹp, tri thức, thể lực để
làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và là chủ bản thân.
- Có tinh thần nhân đạo sâu sắc.
- lòng tự hào dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường cao,
khả năng sáng tạo lớn, tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng Tổ quốc.
- Cần cù, tiết kiệm, quý trọng bảo vệ của công.
- Có ý thức lao động, kỷ uật, tự giác.
- Có tinh thần yêu nước CNXH và tinh thần quốc tế vô sản trong sáng.
Lấy phát triển con người làm mục tiêu chiến lược, chúng ta cần chú ý đến những
vấn đề sau:
- Cần quan tâm đến lợi ích của con người bao gồm lợi ích vật chất
và lợi ích tinh thần, trước hết là lợi ích vật chất.
- Cần bảo đảm phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong đời
sống hội bắt đầu t sở trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, hôi.
Đặc biệt phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi
mới CNH – HĐH.
- Cần bảo đảm thực hiện sự bình đẳng giữa những nhân,
nhóm cộng đồng về cơ hội p đoạn cụ thể.
- Cần phát huy sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết toàn dân
tộc, xây dựng nhà nước của dân, do dân, dân. Phát triển kinh tế đi đôi
với bảo vệ Tổ Quốc vì hạnh phúc của nhân dân.
Để giải quyết những vấn đề này, cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối
sống nhân cách con người. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý
thức tôn trọng
pháp luật, mọi người VN đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân
tộc.
- Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây
dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân-thiện-mỹ.
- Xây dựng phát huy lối sống “mỗi người mọi ngưi, mọi
người mỗi người”, hình thành lối sống ý thức tự trọng, tự chủ, sống
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường.
- Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ
thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên.
- Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, lạc hậu.
Chống quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền
văn hóa, làm tha hóa con người. giải pháp khắc phục những mặt hạn chế
của con người Việt Nam.
- Xây dựng tưởng đạo đức lối sống: xây dựng tinh thần yêu
nước ý chí xây dựng đất nước, xây dựng đạo đức lối sống mới phấn
đấu vì lợi ích con người, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của cộng đồng, ở
từng cơ sở, từng địa phươngtrong cả nước, nêu gương người tốt, việc tốt,
phát huy sức mạnh của dư luận và sức mạnh của luật pháp để lên án và trừng
phạt thích đáng những kẻ cố tình vi phạm pháp luật, quấy rối mất trật tự, an
toàn xã hội, những kẻ gây nên những tội ác, gieo rắc những tư tưởng xấu hay
những tệ nạn xã hội.
- Phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo: Đào tạo lớp người lao
động kiến thức bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả
thiết thực, nhạy cảm với cái mới, ý thức ơn lên khoa học công
nghệ. chính sách sử dụng lao động nhân tài. Điều chỉnh hệ thống giáo
dục cho phù hợp với yêu cầu của thời đại, tạo mọi điều kiện cho mọi người ở
mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên suốt đời. Tăng cường cơ sở vật chất
từng bước hiện đại hóa nhà trường. Tăng cường đầu tư cho ngân sách nhà
nước và đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục – đào tạo.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Tập
trung xây dựng con người Việt Nam phát triển về thể lực, trí lực và tình cảm,
tưởng nhiệt tình cách mạng, trung thành với sự nghiệp đổi mới,
kỹ năng lao động và sáng tạo, ý chí bản lĩnh trong xây dựng bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH
đất nước hội nhập quốc tế. Nâng cao chất lượng toàn diện của việc xây
dựng đời sống văn hóa môi trường văn hóa thông qua đẩy mạnh phong
trào thi đua yêu nước và cuộc vận động toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Mở rộng phát triển các ngành công nghiệp
dịch vụ văn hóa. Đảm bảo tự do dân chủ trong hoạt động sáng tạo. Bên cạnh
việc tiếp tục đầu tư, tôn tạo, bảo tồn và phát huy các di tích lịch sử văn hóa, cần chú
trọng xây dựng các công trình văn hóa trọng điểm quốc gia khu vực. Nâng cao
chất lượng hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản của Nhà nước trên lĩnh vực văn
hóa - thể thao - du lịch. Đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao, nâng cao thể trạng
tầm vóc của người Việt Nam. Tăng đầu ngân sách cho văn hóa tương ứng với
tăng trưởng kinh tế. Mở rộng giao lưu văn hóa, thể thao quốc tế.
- Xây dựng môi trường văn hóa.
- XD những chính sách để phát triển kinh tế, tạo đk cho
người dân làm kinh tế, gia tăng tiềm lực kt quốc gia.
Câu hỏi: Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Nhận thức vận dụng của Đảng ta trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với thực tiễn địa phương Trả li:
1. Trong học thuyết hình thái kinh tế - hội của chủ nghĩa Mác,
quy luật quan hệ sản xuất (QHSX) phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất (LLSX) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, sở luận
phương pháp luận khoa học trong nhận thức cải tạo hội. Đó quy luật
hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự
mâu thuẫn hay phù hợp giữa QHSX LLSX đều ảnh hưởng rất lớn đến
nền kinh tế. Đối với nước ta, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc xây dựng
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX một trong những vấn đề
quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - hội của Đảng Nhà nước.
Chính vì vậy, việc nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật này giúp Đảng ta
đề ra đường lối, chính sách, mục tiêu phù hợp, góp phần quan trọng để đạt
được những thành tựu to lớn trước hết tạo bước phát triển mới của
LLSX và QHSX trong thời kỳ CNH-HĐH.
2. Sự tồn tại của một phương thức sản xuất được quy định bởi sự
thống nhấtbiện chứng giữa LLSX trình độ phát triển nhất định với quan hệ
sản xuất tương ứng. Sự vận động phát triển của phương thức sản xuất bị quy
định bởi sự tác động biện chứng giữa LLSX QHSX. Như vậy qua sự tác
động biện chứng giữa QHSX LLSX phù hợp sẽ hình thành một phương
thức sản xuất mới. Phương thức sản xuất chính cách thức con người tiến
hành sản xuất vật chất từng giai đoạn lịch sử nhất định của hội loại
người. 2.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất.
Lực lượng sản xuất sự kết hợp giữa người lao động liệu sản xuất,
trong đó “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người
lao động”. Chính người lao độngchủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức
mạnh kỹ năng lao động củanh, sử dụng liệu lao động, trước hết công cụ
lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực
lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong liệu sản xuất. Công cụ lao động do
con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, nó “nhân” sức
mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động yếu tố
động nhất của lực lượng sản xuất. Xét đến cùng, đó nguyên nhân sâu xa của mọi
biến đổi hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động thước đo trình độ chinh
phục tự nhiên của con người, tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch
sử. Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to
lớn. S phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất động lực mạnh mẽ thúc
đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên
nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống trở thành
“LLSX trực tiếp”. Sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn chỉ
kinh nghiệm thói quen của họ tri thức khoa học. thể nói: khoa học
công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
2.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(sản xuất và tái sản xuất xã hội).
QHSX gồm ba mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ về tổ chức và
quản lý sản xuất; quan hệ về phân phối sản phẩm lao động xã hội.
QHSX do con người tạo ra, nhưng hình thành một cách khách quan trong
quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. QHSX
hình thức hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với
nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát
triển không ngừng của LLSX. Trong ba mặt của QHSX, quan hệ sở hữu về liệu
sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong
từng hội. Quan hệ sở hữu về liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản
sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ hội khác. Tuy
nhiên, quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng có sự
ảnh hưởng đến quan hệ sở hữu
2.3. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn thống nhất với nhau, trong đó
lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định còn quan hệ sản xuất sự tác động trở
lại lực lượng sản xuất
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái trong đó quan hệ sản
xuất “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các
mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển.
Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người
lao động với liệu sản xuất do đó lực lượng sản xuất sở để phát triển hết
khả năng của nó. Quan hệ sản xuất cũng sự tác động trở lại sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự tác động trở lại này là do:
Thứ nhất, QHSX tính độc lập tương đối so với sự vận động không ngừng
của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, QHSX quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con
người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động hội, đến phát
triển và ng dụng khoa học và công nghệ…, và do đó tác động đến sự phát triển của
LLSX.
Sự tác động này của quan hệ sản xuất diễn ra theo 2 hướng bản: Nếu như
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là động lực thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển; ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một
cách hình thức so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
* Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong sự thống nhất, chuyển
hóa và có sự mâu thuẫn
Lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất luôn thống nhất trong mt phương
thức sản xuất. Tuy nhiên, đặc trưng của lực lượng sản xuất luôn thay đổi sự
thay đổi của lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ mới, điều này làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm
hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng
sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù
hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản
xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất bằng quan hệ sản xuất mới
cũng nghĩa phương thức sản xuất mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời
thay thế. C.Mác đã viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực
lượng sản xuất vật chất của hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có...
trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ những
hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng
xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng
hội”.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay
thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công nguyên thủy, qua chế độ
chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản
tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật hội, trong đó quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản
nhất.
2.4. Ý nghĩa phương pháp luận
LLSX quyết định QHSX đối với quá trình sản xuất hội, cho nên trong
hoạt động thực tiễn cần coi trọng vị trí, vai trò của LLSX đối với QHSX. Muốn thúc
đẩy quá trình sản xuất hội cần phải phát huy vai trò của LLSX; cần phải ưu tiên,
mở đường cho LLSX phát triển tối đa.
Vì QHSX có sự tác động tích cực trở lại đối với LLSX (thể hiện thông qua sự
phù hợp không phù hợp với trình độ LLSX) trong quá trình sản xuất hội, cho
nên không được xem thường, bỏ qua vai trò này cần phải biết phát huy vai trò
của QHSX nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho LLSX phát triển.
giữa LLSX QHSX tồn tại trong mối quan hệ vừa thống nhất, vừa đấu
tranh lẫn nhau, cho nên cần phải tôn trọng quy luật này. Việc tôn trọng quy luật giúp
chúng ta chủ động trong việc giải quyết mối quan hệ cũng như những biện pháp
phù hợp nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội phát triển.
3. Nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng CNXH *
Trước thời kỳ đổi mới
Chúng ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan khi
không tính đến điều kiện của một đất nước với nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển
với LLSX còn thấp, nhưng lại chủ trương xây dựng QHSX tiên tiến đi trước nhằm
mở đường cho LLSX phát triển, xác lập kiểu “QHSX hội chủ nghĩa thống trị”
dựa trên chế độ công hữu s hữu toàn dân sở hữu tập thể. Chính sự nhận thức
vận dụng sai lầm đó đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 chỉ rõ: một
trong những nguyên nhân bản của s khủng hoảng kinh tế hội nói chung, của
sự m hãm LLSX phát triển nói riêng trong những năm 1976 - 1980 do trong
nhận thức hành động, “chúng ta chưa thật sự thừa nhận cấu kinh tế nhiều
thành phần nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững
vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất trình độ của
LLSX”.
* Trong quá trình đổi mới
Trong khi tiến hành CNH-HĐH đất nước, đặc biệt qua 10 năm thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã từng bước nhận thức và
vận dụng quy luật này ngày càng đúng đắn hơn. Đó chủ trương phát triển
nền kinh tế thị trường sự quản của Nhà nước, theo định hướng hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu; nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
doanh và hình thức phân phối, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Vì vậy
đã góp phần quan trọng để “đạt được những thành tựu to lớn rất quan trọng…,
đạt bước phát triển mới cả về LLSX, QHSX”. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của
nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất nước ta; với
yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ TBCN trong điều kiện của
trình độ phát triển LLSX đa dạng, không đồng đều. Chính vậy, nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng
sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩahội. Đó nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời
kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mặt khác, tích cực chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ tối đa ngoại lực, không ngừng
nâng cao đời sống của nhân dân. Nhận thức đúng yêu cầu đó, trong quá trình đổi
mới, Đảng Nhà nước nhiều chủ trương, chính ch, biện pháp thực hiện
CNHHĐH để phát triển LLSX như: xác định vị trí, vai trò của các thành phần
kinh tế: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng củng cố
phát triển, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhân một trong những động lực
của nền kinh tế, kinh tế vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển…,
tạo cơ sở củng cố, từng bước hoàn thiện QHSX mới.
Mục đích của việc xây dựng QHSX, phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX trong quá trình CNH, HĐH nhằm khai thác các lợi thế tiềm năng trong
ngoài nước, các thành phần kinh tế vào phát triển kinh tế hội, ổn định nâng
cao đời sống của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Có thể khẳng định, đó là thành tựu nổi bật nhất của sự nhận thức và
vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều
kiện kinh tế xã hội cụ thể của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
4. Liên hệ địa phương Bình Định
Ở Bình Phước, sau gần 25 năm xây dựng và phát triển, nhất là trong nhiệm kỳ
Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIII (2010 - 2015), Đảng bộ, chính quyền nhân dân
tỉnh đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu thực hiện nghị quyết, đạt được những thành tựu to
lớn về kinh tế xã hội. Kinh tế phát triển tương đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng khá,
hiệu quả sức cạnh tranh được nâng lên. cấu thành phần kinh tế chuyển biến
tích cực. Công tác sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước địa phương được chú
trọng đang tiếp tục phát triển. Kinh tế tập thể bước phát triển trong lĩnh vực
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại, vận tải. Khu vực kinh tế quốc
doanh kinh tế vốn đầu nước ngoài ngày càng đóng góp quan trọng vào
tăng trưởng kinh tế của tỉnh…
Câu 11: Phân tích biện chứng giữa sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng. Nêu Ý
nghĩa PP luận.
LỜI MỞ ĐẦU
sở hạ tầng kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó thành phần kinh tế quốc
doanh, tập thể nhiều thành kinh tế khác nhau. Đây một kết cấu kinh tế năng
động, phong phú được phản chiếu trên nền kiến trúc thượng tầng đặt ra đòi hỏi
khách quan nền kiến trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của
sở kinh tế. Do đó, trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa
sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng. Theo chủ nghĩa Mác- Lê nin,“ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng không tách rời nhau, trong đó có cơ
sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Còn kiến trúc thượng tầng là
phản ánh sở hạ tầng, nhưng vai trò tác động trở lại to lớn đối với sở hạ
tầng đã sinh ra nó.” thế, em xin chọn đề tài “Sự vận dụng mối quan hệ biện
chứng giữa sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng của Đảng Cộng sản Việt Nam
nước ta trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài để nghiên cứu.
Với trình độ kiến thức còn hạn chế, nên trong bài em còn nhiều sai xót, rất mong
thầy thông cảm sửa chữa để giúp em hoàn thiện kiến thức hơn. Em xin chân
thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG.
1. Khái niệm.
- sở hạ tầng (CSHT): là tòan bộ những quan hệ sản xuất (QHSX) hợp thành
cơcấu kinh tế của một hình thái kinh tế- xã hội nhất định.
Khái niệm CSHT phản ánh chức năng hội của các QHSX với cách sở
kinh tế của các hiện tượng hội. CSHT của một hội cụ thể bao gồm những
CSHT thống trị, những QHSX tàn của hội trước những QHSX mầm
mống của hội sau. Trong một CSHT nhiều thành phần kinh tế, nhiều QHSX
thì kiểu QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần
kinh tế các kiểu QHSX khác; quy định tác động trực tiếp đến xu hướng
chung của tòan bộ đời sống kinh tế hội. Trong hội đối kháng giai cấp, tính
giai cấp của sở hạ tầng là do kiểu QHSX thống trị quy định. Tính chất đối kháng
giai cấp sự xung đột giai cấp sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay trong
CSHT.
- Kiến trúc thượng tầng (KTTT): tòan bộ những quan điểm ởng
hội,những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành
trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
KTTT của hội đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tưởng thể chế giai cấp
thống trị, tàn của các quan điểm của hội trước để lại; quan điểm tổ chức
của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tưởng của giai cấp thống trị quyết định
tính chất bản của KTTT trong một hình thái hội nhất định. Trong đó bộ phận
mạnh nhất của KTTT nhà nước- công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế
độ hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ nhà nước tưởng của giai
cấp thống trị mới thống trị được tòan bộ đời sống xã hội.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng. Mỗi
hình thái kinh tế-xã hộicơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do đó,
sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng mối
quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định.
2.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống
trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản
xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn
trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực ởng. Do
đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà nước,
pháp luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giải thích từ chính
nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào sở hạ tầng do
sở hạ tầng quyết định.
Những biến đổi căn bản trong sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi
căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh
tế-xã hội và rõ rệt hơn khi chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh
tế-xã hội khác. Sự biến mất của một kiến trúc thượng tầng không diễn ra một cách
nhanh chóng, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại dai dẳng sau
khi sở kinh tế của đã bị tiêu diệt. những yếu tố của kiến trúc thượng tầng
được giai cấp cầm quyền mới sử dụng để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.
Do đó, tính quyết định của sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất
phức tạp trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh
tế-xã hội khác.
2.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với sở hạ tầng được thể hiện
chức năng hội của kiến trúc thượng tầng bảo vệ, duy trì, củng cố phát triển
cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
Trong hội giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị
chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan
trọng, tác dụng to lớn đối với sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ
tưởng còn dựa vào chức năng kiểm soát hội để tăng cường sức mạnh kinh tế
của giai cấp thống trị. Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là
một lực lượng kinh tế”. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến sở hạ tầng, nhưng thường
thường phải thông qua nhà nước, pháp luật.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy sinh
trong quá trình của cơ sở kinh tế mới - mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh
tế, mới có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng là sản
phẩm củaskinh tế đã lỗi thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã
hội. Tất nhiên sự kìm hãm chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục.
II- Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa sở hạ tầng kiến trúc
thượng tầng của Đảng Cộng sản Việt Nam ở nước ta hiện nay.
Dưới chủ nghĩa hội hoàn chỉnh, sở hạ tầng kiến thức thượng tầng thuần
nhất và thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng,
không bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở
hữu toàn dân tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối
sản phẩm theo lao động, không còn chế độ bóc lột.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội thời kỳ cải biến cách
mạng sâu sắc triệt để, một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp nó.Bởi vì, sở hạ
tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của
nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng
về tưởng sự đấu tranh giữa giai cấp sản giai cấp sản trên lĩnh vực
tư tuởng văn hoá.
Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế đổi mới thể chế chính trị một quá trình
mang tính cách mạng lâu dài. sở hạ tầng thời kỳ quá độ nước ta bao gồm các
thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế bản nhà nước,
kinh tế thể, kinh tế bản nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với
hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cấu
kinh tế quốc dân thống nhất
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa,
vậy sự thống trị về chính trị tinh thần Nhà nước phải thực hiện biện
pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình
thức ớc đi thích hợp theo hướng như : kinh tế quốc doanh được củng cố
phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần
lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thứcnghiệp , công
ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng
để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó
vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, vừa thống nhất với nhau trong một
cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà còn cạnh tranh nhau, liên kết và bổ xung cho
nhau.
Để định hướng hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải
sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính giáo dục, trong thì biện
pháp kinh tế quan trọng nhất nhằm từng bước hội hóa nền sản xuất với hình
thức thích hợp theo hướng kinh tế quốc doanh được củng cố phát triển vươn
lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người
sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức nghiệp, công ty cổ phần phát
triển mạnh, kinh tế nhân gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hợp lý.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin
tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân
ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin tưởng Hồ Chí Minh tưởng
về s giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình đi
làm thuê bị đánh đập, lương ít.Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước
của dân, do dân dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo ”.
KẾT LUẬN
Những thành tựu Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem lại một lần nữa chứng
minh một sự đúng đắn của mối quan hệ biện chứng giữa sở hạ tầng
kiến trúc thượng tầng. Không thể nào có được một đất nước mà cơ sở hạ tầng phát
triển song kiến trúc thượng tầng, ngược lại không sự phát triển thích ứng với
sở hạ tầng cũng như không được một kiến trúc thượng tầng được coi hoàn
hảo mà lại đứng trên một cơ cở hạ tầng lạc hậu thấp kém, ta không thể coi đó như
một sự phát triển bình thường mà là một sự phát triển sai lệch què cụt. Mỗi chúng ta
tự hào về công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng lãnh đạo. Song chúng ta
hiểu rằng vẫn còn nhiều thiếu sót chưa giải quyết hết được. Đó những tác
động tiêu cực của chủ nghĩa quan liêu, của chế độ quan liêu bao cấp đã xâm nhập
vào tổ chức bộ máy hoạt động của nhà nước trong một thời gian dài. Đặc quyền,
đặc lợi, tham nhũng một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhân viên… gây nên những
tổn thất nặng nề về kinh tế và văn hoá, ảnh hưởng xấu về chính trị, tinh thầnđạo
đức trong hội ta. Cho đâu đó vẫn còn những thiếu sót chúng ta chưa làm
được, song chúng ta tin rằng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Nhà Nước ta
nền tảng của chủ nghĩa Mác- Nin tưởng Hồ Chí Minh chúng ta sẽ
thành công. Bởi chúng ta niềm tin biết vận dụng linh hoạt đúng đắn quy luật
phát triển của hội Mác Nin những người tiên phong vạch ra con
đường đi theo nhân loại
| 1/17

Preview text:

Câu 5: Phân tích nội dung và ý nghĩa của hai nguyên lý mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.

Trả lời:

Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất.

1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:

Chủ nghĩa duy vật Macxit cho rằng, giữa các sự vật, hiện tượng luôn có sự tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau.

Liên hệ là khái niệm chỉ sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng, tương tác và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới, hay giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính của một sự vật, hiện tượng, một quá trình.

Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng phong phú, nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác. Cơ sở của mối liên hệ này là tính thống nhất vật chất của thế giới.

Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng có tính khách quan, phổ biến, và rất đa dạng, phong phú. Khách quan bởi lẽ nó là vốn có của sự vật, không ai gán cho sự vật. Phổ biến vì nó tồn tại ở cả tự nhiên, cả trong xã hội, cả ở tư duy. Phong phú, đa dạng nghĩa là có cả mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ bản chất-không bản chất, mối liên hệ tất nhiên-ngẫu nhiên…

Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, triết học duy vật Macxit rút ra ý nghĩa phương pháp luận để định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, đó là quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử-cụ thể.

  • Quan điểm toàn diện yêu cầu khi xem xét sự vật hiện tượng phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố của nó, tuy nhiên phải có trọng tâm, trọng điểm; xem xét sự vật trong mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Trong hoạt động thực tiễn, muốn cải tạo sự vật phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp; phải xác định, đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mối iên hệ đối với sự vận động, phát triển của sự vật.
  • Quan điểm lịch sử-cụ thể đòi hỏi xem xét, nhận thức sự vật luôn gắn với điều kiện lịch sử cụ thể, xác định trong không gian, thời gian xác định, cụ thể; tránh chung chug, đại khái.

2. Nguyên lý về sự phát triển:

Chủ nghĩa duy vật Mácxit coi phát triển là quá trình vận động theo hướng đi lên từ thấp tới cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

Sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.

Phát triển không chỉ là sự tăng lên, giảm đi về lượng, mà còn là sự nhảy vọt về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ, sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.

Nguồn gốc của sự phát triển chính là sự thống nhất và đấu tranh của những mặt đối lập bên trong của sự vật quy định.

Sự phát triển cũng có 3 tính chất là khách quan, phổ biến, và đa dạng phong phú. Khách quan vì nó diễn ra ngay bên trong sự vật, là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Phổ biến ở chỗ nó diễn ra ở tất cả các lĩnh vực (tự nhiên, xã hội, tư duy), ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. Phong phú, đa dạng nghĩa là, phát triển là xu hướng chung nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau, chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố, điều kiện làm thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển, thậm chí đổi hướng phát triển của sự vật.

Từ nguyên lý về sự phát triển, triết học duy vật Macxit rút ra ý nghĩa phương pháp luận là phải có quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

  • Trong nhận thức, khi nhận thức sự vật không chỉ nhận thức nó trong hiện tại mà còn phải thấy được khuynh hướng vận động, phát triển của nó trong tương lai. Trên cơ sở đó dự báo những tình huống có thể xảy ra để chủ động nhận thức, giải quyết. Xem xét sự vật theo quan điểm toàn diện còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người.
  • Trong hoạt động thực tiễn cần chống bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, bởi lẽ mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn vận động, biến đổi và phát triển. Phát triển là khó khăn, bao gồm cả sự thụt lùi tạm thời, do vậy trong hoạt động thực tiễn, khi gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải biết tin tưởng vào tương lai.

Câu 7: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mac -Lênin về con người, bản chất con người.

Vấn đề phát triển con người toàn diện trong giai đoạn hiện nay (gđ CNH, HĐH).

Trả lời:

  1. Quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin về con người, bản chất con người
    1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội

Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào, triết học Mác đã khẳng định con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người. Con người là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học với yếu tố xã hội, là thực thể sinh vật – xã hội.

Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên.

Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất của con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt của con người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người tạo ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ nhu cầu cuộc sống của mình; Hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; Xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy lao động chính là yếu tố quyết định bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.

    1. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội
      1. Con người là chủ thể của lịch sử

Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.

Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người.

Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.

      1. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội

Từ khi xuất hiện đến nay, loài người luôn cháy bỏng hoài bão được sống tự do, hạnh phúc và không ngừng đấu tranh để hoài bão đó được trở thành hiện thực.

Con người, với tư cách là chủ thể của mọi quá trình sáng tạo lịch sử xã hội là động lực có ý nghĩa quyết định nhất cho sự tiến bộ xã hội. Cho nên con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi quá trình phát triển.

Mọi chủ trương chính sách, mọi hành động của cộng đồng quốc tế, của các quốc gia và hành động của mỗi cá nhân đều nhằm bảo vệ con người, vì tự do hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người.

    1. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xãhội

Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.

Theo luận đề trên thì không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lịch sử và xã hội. Mác không chỉ xem xét con người trong hoạt động thực tiễn mà còn xem xét nó trong thời đại lịch sử, trong môi trường xã hội nhất định. Ở mỗi thời đại khác nhau bản chất con người là khác nhau. Vì xã hội loài người luôn luôn vận động từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội cao nên con người cũng phải biến đổi cho phù hợp. Con người ở thời đại nào đều mang dấu ấn của thời đại ấy. Trong xã hội có giai cấp, bản chất con người mang tính giai cấp.

  1. Vấn đề phát triển con người toàn diện trong giai đoạn hiện nay (CNH, HĐH)

Con người là một trong những động lực quan trọng nhất trong quá trình xây dựng CNXH. Để phát triển đất nước đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vấn đề quan trọng là phải thực hiện phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, đồng thời phải có cái nhìn tổng thể mang tầm chiến lược về vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi nhiều nhân tố quan trọng như vốn, khoa học công nghệ, thông tin, tổ chức, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất song yếu tố quan trọng và quyết định nhất là con người. Hiện nay, trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước để đi lên Chủ Nghĩa Xã hội, mục tiêu xây dựng con người được đặt ra một cách thiết thực và trực tiếp. Vấn đề con người là mục tiêu của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta là một vấn đề có tính chiến lược.

Những phẩm chất của con người mới mà Đảng ta xây dựng:

        • Làm chủ tập thể.
        • Có ý thức tự giác và trách nhiệm, tự giác.
        • Có tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, có tri thức, có thể lực để làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và là chủ bản thân.
        • Có tinh thần nhân đạo sâu sắc.
        • Có lòng tự hào dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường cao, khả năng sáng tạo lớn, tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng Tổ quốc.
        • Cần cù, tiết kiệm, quý trọng bảo vệ của công.
        • Có ý thức lao động, kỷ uật, tự giác.
        • Có tinh thần yêu nước CNXH và tinh thần quốc tế vô sản trong sáng.
  • Lấy phát triển con người làm mục tiêu chiến lược, chúng ta cần chú ý đến những vấn đề sau:
      • Cần quan tâm đến lợi ích của con người bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, trước hết là lợi ích vật chất.
      • Cần bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong đời sống xã hội bắt đầu từ cơ sở trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hôi. Đặc biệt phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới CNH – HĐH.
      • Cần bảo đảm và thực hiện sự bình đẳng giữa những cá nhân, nhóm cộng đồng về cơ hội p đoạn cụ thể.
      • Cần phát huy sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ Tổ Quốc vì hạnh phúc của nhân dân.
  • Để giải quyết những vấn đề này, cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
    • Bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách con người. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng

pháp luật, mọi người VN đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.

    • Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân-thiện-mỹ.
    • Xây dựng và phát huy lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường.
    • Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên.
    • Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, lạc hậu. Chống quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam.
    • Xây dựng tư tưởng đạo đức và lối sống: xây dựng tinh thần yêu nước và ý chí xây dựng đất nước, xây dựng đạo đức và lối sống mới phấn đấu vì lợi ích con người, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của cộng đồng, ở từng cơ sở, từng địa phương và trong cả nước, nêu gương người tốt, việc tốt, phát huy sức mạnh của dư luận và sức mạnh của luật pháp để lên án và trừng phạt thích đáng những kẻ cố tình vi phạm pháp luật, quấy rối mất trật tự, an toàn xã hội, những kẻ gây nên những tội ác, gieo rắc những tư tưởng xấu hay những tệ nạn xã hội.
    • Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo: Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên vì khoa học và công nghệ. Có chính sách sử dụng lao động và nhân tài. Điều chỉnh hệ thống giáo dục cho phù hợp với yêu cầu của thời đại, tạo mọi điều kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên suốt đời. Tăng cường cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hóa nhà trường. Tăng cường đầu tư cho ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục – đào tạo.
    • Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển về thể lực, trí lực và tình cảm, có lý tưởng và nhiệt tình cách mạng, trung thành với sự nghiệp đổi mới, có kỹ năng lao động và sáng tạo, có ý chí và bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Nâng cao chất lượng toàn diện của việc xây dựng đời sống văn hóa và môi trường văn hóa thông qua đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước và cuộc vận động toàn dân

đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Mở rộng và phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ văn hóa. Đảm bảo tự do và dân chủ trong hoạt động sáng tạo. Bên cạnh việc tiếp tục đầu tư, tôn tạo, bảo tồn và phát huy các di tích lịch sử văn hóa, cần chú trọng xây dựng các công trình văn hóa trọng điểm quốc gia và khu vực. Nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa - thể thao - du lịch. Đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao, nâng cao thể trạng và tầm vóc của người Việt Nam. Tăng đầu tư ngân sách cho văn hóa tương ứng với tăng trưởng kinh tế. Mở rộng giao lưu văn hóa, thể thao quốc tế.

    • Xây dựng môi trường văn hóa.
    • XD những chính sách để phát triển kinh tế, tạo đk cho người dân làm kinh tế, gia tăng tiềm lực kt quốc gia.

Câu hỏi: Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với thực tiễn địa phương Trả lời:

    1. Trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác, quy luật quan hệ sản xuất (QHSX) phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, là cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo xã hội. Đó là quy luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa QHSX và LLSX đều có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Đối với nước ta, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc xây dựng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là một trong những vấn đề quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, việc nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật này giúp Đảng ta đề ra đường lối, chính sách, mục tiêu phù hợp, góp phần quan trọng để đạt được những thành tựu to lớn và trước hết là tạo bước phát triển mới của LLSX và QHSX trong thời kỳ CNH-HĐH.
    2. Sự tồn tại của một phương thức sản xuất được quy định bởi sự thống nhấtbiện chứng giữa LLSX ở trình độ phát triển nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Sự vận động phát triển của phương thức sản xuất bị quy định bởi sự tác động biện chứng giữa LLSX và QHSX. Như vậy qua sự tác động biện chứng giữa QHSX và LLSX phù hợp sẽ hình thành một phương thức sản xuất mới. Phương thức sản xuất chính là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loại người. 2.1. Lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.

Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành “LLSX trực tiếp”. Sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn chỉ là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.

2.2. Quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).

QHSX gồm ba mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất; quan hệ về phân phối sản phẩm lao động xã hội.

QHSX do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. QHSX là hình thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của LLSX. Trong ba mặt của QHSX, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác. Tuy nhiên, quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng có sự ảnh hưởng đến quan hệ sở hữu

2.3. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

* Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn thống nhất với nhau, trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định còn quan hệ sản xuất có sự tác động trở lại lực lượng sản xuất

Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Quan hệ sản xuất cũng có sự tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại này là do:

Thứ nhất, QHSX có tính độc lập tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất.

Thứ hai, QHSX quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ…, và do đó tác động đến sự phát triển của LLSX.

Sự tác động này của quan hệ sản xuất diễn ra theo 2 hướng cơ bản: Nếu như QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách hình thức so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

* Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong sự thống nhất, chuyển hóa và có sự mâu thuẫn

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn thống nhất trong một phương thức sản xuất. Tuy nhiên, đặc trưng của lực lượng sản xuất là luôn thay đổi và sự thay đổi của lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ mới, điều này làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.

2.4. Ý nghĩa phương pháp luận

Vì LLSX quyết định QHSX đối với quá trình sản xuất xã hội, cho nên trong hoạt động thực tiễn cần coi trọng vị trí, vai trò của LLSX đối với QHSX. Muốn thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội cần phải phát huy vai trò của LLSX; cần phải ưu tiên, mở đường cho LLSX phát triển tối đa.

Vì QHSX có sự tác động tích cực trở lại đối với LLSX (thể hiện thông qua sự phù hợp và không phù hợp với trình độ LLSX) trong quá trình sản xuất xã hội, cho nên không được xem thường, bỏ qua vai trò này và cần phải biết phát huy vai trò của QHSX nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho LLSX phát triển.

Vì giữa LLSX và QHSX tồn tại trong mối quan hệ vừa thống nhất, vừa đấu tranh lẫn nhau, cho nên cần phải tôn trọng quy luật này. Việc tôn trọng quy luật giúp chúng ta chủ động trong việc giải quyết mối quan hệ cũng như có những biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội phát triển.

3. Nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dựng CNXH * Trước thời kỳ đổi mới

Chúng ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan khi không tính đến điều kiện của một đất nước với nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển với LLSX còn thấp, nhưng lại chủ trương xây dựng QHSX tiên tiến đi trước nhằm mở đường cho LLSX phát triển, xác lập kiểu “QHSX xã hội chủ nghĩa thống trị” dựa trên chế độ công hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chính sự nhận thức và vận dụng sai lầm đó đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 chỉ rõ: một trong những nguyên nhân cơ bản của sự khủng hoảng kinh tế xã hội nói chung, của sự kìm hãm LLSX phát triển nói riêng trong những năm 1976 - 1980 là do trong nhận thức và hành động, “chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX”.

* Trong quá trình đổi mới

Trong khi tiến hành CNH-HĐH đất nước, đặc biệt là qua 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã từng bước nhận thức và vận dụng quy luật này ngày càng rõ và đúng đắn hơn. Đó là chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu; nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Vì vậy đã góp phần quan trọng để “đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng…, đạt bước phát triển mới cả về LLSX, QHSX”. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ TBCN trong điều kiện của trình độ phát triển LLSX đa dạng, không đồng đều. Chính vì vậy, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mặt khác, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ tối đa ngoại lực, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Nhận thức đúng yêu cầu đó, trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp thực hiện CNHHĐH để phát triển LLSX như: xác định rõ vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng củng cố và phát triển, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển…, tạo cơ sở củng cố, từng bước hoàn thiện QHSX mới.

Mục đích của việc xây dựng QHSX, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình CNH, HĐH là nhằm khai thác các lợi thế tiềm năng trong và ngoài nước, các thành phần kinh tế vào phát triển kinh tế xã hội, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Có thể khẳng định, đó là thành tựu nổi bật nhất của sự nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

4. Liên hệ địa phương Bình Định

Ở Bình Phước, sau gần 25 năm xây dựng và phát triển, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIII (2010 - 2015), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu thực hiện nghị quyết, đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội. Kinh tế phát triển tương đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng khá, hiệu quả và sức cạnh tranh được nâng lên. Cơ cấu thành phần kinh tế chuyển biến tích cực. Công tác sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước địa phương được chú trọng và đang tiếp tục phát triển. Kinh tế tập thể có bước phát triển trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại, vận tải. Khu vực kinh tế quốc doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh…

Câu 11: Phân tích biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nêu Ý nghĩa PP luận.

LỜI MỞ ĐẦU

Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành kinh tế khác nhau. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú được phản chiếu trên nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Do đó, trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Theo chủ nghĩa Mác- Lê nin,“ Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng không tách rời nhau, trong đó có cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Còn kiến trúc thượng tầng là phản ánh cơ sở hạ tầng, nhưng nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối với cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.” Vì thế, em xin chọn đề tài “Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Đảng Cộng sản Việt Nam ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài để nghiên cứu.

Với trình độ kiến thức còn hạn chế, nên trong bài em còn nhiều sai xót, rất mong thầy cô thông cảm và sửa chữa để giúp em hoàn thiện kiến thức hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG

I. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG.

1. Khái niệm.

  • Cơ sở hạ tầng (CSHT): là tòan bộ những quan hệ sản xuất (QHSX) hợp thành cơcấu kinh tế của một hình thái kinh tế- xã hội nhất định.

Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm những CSHT thống trị, những QHSX tàn dư của xã hội trước và những QHSX là mầm mống của xã hội sau. Trong một CSHT có nhiều thành phần kinh tế, nhiều QHSX thì kiểu QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu QHSX khác; nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung của tòan bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu QHSX thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay trong CSHT.

  • Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là tòan bộ những quan điểm tư tưởng xã hội,những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và thể chế giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm và tổ chức của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của KTTT trong một hình thái xã hội nhất định. Trong đó bộ phận mạnh nhất của KTTT là nhà nước- công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được tòan bộ đời sống xã hội.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định.

2.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng. Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà nước, pháp luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giải thích từ chính nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định.

Những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế-xã hội và rõ rệt hơn khi chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác. Sự biến mất của một kiến trúc thượng tầng không diễn ra một cách nhanh chóng, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế của nó đã bị tiêu diệt. Có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới sử dụng để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới. Do đó, tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác.

2.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.

Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa vào chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế”. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phải thông qua nhà nước, pháp luật.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy sinh trong quá trình của cơ sở kinh tế mới - mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh tế, mới có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng là sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội. Tất nhiên sự kìm hãm chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục. II- Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Đảng Cộng sản Việt Nam ở nước ta hiện nay.

Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng thuần nhất và thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn dân và tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm theo lao động, không còn chế độ bóc lột.

Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp nó.Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tuởng văn hoá.

Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang tính cách mạng lâu dài. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất

Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần Nhà nước phải thực hiện biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng như : kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà còn cạnh tranh nhau, liên kết và bổ xung cho nhau.

Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục, trong dó thì biện pháp kinh tế là quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hóa nền sản xuất với hình thức và thích hợp theo hướng kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hợp lý.

Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít.Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo ”.

KẾT LUẬN

Những thành tựu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem lại một lần nữa chứng minh một sự đúng đắn của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Không thể nào có được một đất nước mà cơ sở hạ tầng phát triển song kiến trúc thượng tầng, ngược lại không có sự phát triển thích ứng với cơ sở hạ tầng và cũng như không có được một kiến trúc thượng tầng được coi là hoàn hảo mà lại đứng trên một cơ cở hạ tầng lạc hậu thấp kém, ta không thể coi đó như là một sự phát triển bình thường mà là một sự phát triển sai lệch què cụt. Mỗi chúng ta tự hào về công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Song chúng ta hiểu rõ rằng vẫn còn nhiều thiếu sót mà chưa giải quyết hết được. Đó là những tác động tiêu cực của chủ nghĩa quan liêu, của chế độ quan liêu bao cấp đã xâm nhập vào tổ chức bộ máy và hoạt động của nhà nước trong một thời gian dài. Đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhân viên… gây nên những tổn thất nặng nề về kinh tế và văn hoá, ảnh hưởng xấu về chính trị, tinh thần và đạo đức trong xã hội ta. Cho dù đâu đó vẫn còn những thiếu sót mà chúng ta chưa làm được, song chúng ta tin rằng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà Nước ta mà nền tảng của nó là chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta sẽ thành công. Bởi chúng ta có niềm tin và biết vận dụng linh hoạt đúng đắn quy luật phát triển của xã hội mà Mác – Lê Nin là những người tiên phong vạch ra con đường đi theo nhân loại