
















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58137911
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MACLENIN 
Câu 1: Sản xuất hàng hóa?  * Khái niệm 
- Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi, mua bán. 
- Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm làm ra để đáp 
ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán. Ví 
dụ: Người săn bắn, nuôi gà, nuôi heo, trồng cây… và mục đích chính của những 
hoạt động này là để phục vụ cho nhu cầu cung cấp thực phẩm cho gia đình, bộ 
tộc. Người nuôi tằm, dệt vải là để phục vụ cho nhu cầu may mặc quần áo cho 
bản thân, thành viên trong gia đình, bộ tộc. 
* Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá 
- Thứ nhất, có sự phân công lao động xã hội 
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất trên phạm vi 
xã hội (khác với phân công công việc trong từng đơn vị, cơ quan). Phân công lao 
động xã hội tạo ra khả năng trao đổi (có sản phẩm dư thừa) và nhu cầu trao đổi 
(mỗi người sản xuất một hoặc một vài sản phẩm, nhưng để tồn tại con người cần 
nhiều sản phẩm đa dạng). 
- Thứ 2, có sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất 
Khi giữa những người sản xuất có sự tách biệt về mặt kinh tế, để sử dụng 
sản phẩm của nhau bắt buộc họ phải trao đổi, mua bán. Điều kiện 1 là cơ sở 
(cần) dẫn đến sự trao đổi hàng hoá, điều kiện 2 là điều kiện quyết định (đủ) 
sự trao đổi hàng hoá. 
Ví dụ:Giả sử như người thợ dệt vải có nhiều vải hơn so với nhu cầu của bản thân 
mình nhưng người đó lại cần có nhiều loại sản phẩm khác, chẳng hạn như lương 
thực. Người thợ vải sẽ mang số vải dư thừa để đổi lấy gạo. Và ngược lại, người 
nông dân cũng dư thừa gạo và đồng thời thiếu vải để may mặc nên sẽ dùng gạo  để đổi lấy vải. 
* Những ưu thế của sản xuất hàng hoá 
+ Tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn.      lOMoAR cPSD| 58137911
+ Hàng hoá không ngừng được nâng lên cả về số lượng, chủng loại và chất lượng. 
+ Mở rộng giao lưu kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội giữa các vùng miền, quốc  gia, dân tộc. 
=> Từ những ưu thế trên của sản xuất hàng hoá ta thấy: “Sản xuất hàng hoá 
 thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đẩy mạnh phân công lao động trên 
phạm vi ngày càng rộng lớn (toàn cầu).” Câu 2: Hàng hóa và hai thuộc tính? 
* Khái niệm hàng hóa 
- Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con 
người thông qua trao đổi, mua bán. 
- Có thể phân loại hàng hóa thành hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình (dịch 
vụ) hoặc hàng hóa vật thể và hàng hóa phi vật thể. 
Ví dụ: Một chiếc xe hơi, một chiếc nhẫn, một ngôi nhà. Hàng hoá có mặt trên 
thị trường kinh tế và có thể được các thành viên của xã hội mua lại. Chúng có 
thể được trao đổi thành tiền (mua hoặc bán) hoặc thành hàng hóa khác (trao đổi  hoặc trao đổi). 
* Hai thuộc tính của hàng hóa 
- Giá trị sử dụng của hàng hoá 
Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng hay tính có ích của hàng hoá, 
nó thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. 
 Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết 
bị, nguyên nhiên vật liệu là để sản xuất… Và ngay mỗi một vật cũng có thể có 
nhiều thuộc tính tự nhiên khác nhau, do đó nó có nhiều giá trị sử dụng hay công 
dụng khác nhau: gạo có thể dùng nấu cơm, nhưng gạo cũng có thể dùng làm 
nguyên liệu trong ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế..  Đặc điểm: 
+ Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của vật quy định; 
+ Khoa học - kỹ thuật càng phát triển công dụng của vật phẩm ngày 
càng được phát hiện nhiều hơn.      lOMoAR cPSD| 58137911
+ Giá trị sử dụng của hàng hoá là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã 
hội thông qua con đường trao đổi, mua bán (sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, 
sản xuất như thế nào… do thị trường quyết định). 
+ Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn. 
=> Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng 
không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa. Chẳng hạn, 
không khí rất cần cho cuộc sống con người. nhưng không phải là hàng hóa. Nước 
suối, quả dại cũng có giá trị sử dụng, nhưng cũng không phải là hàng hóa. Như 
vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được 
sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi. 
Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. 
- Giá trị của hàng hoá 
Để nhận thức được giá trị của hàng hoá chúng ta phải thông qua giá trị  trao đổi của hàng hoá. 
Giá trị trao đổi của hàng hoá là quan hệ về lượng, là tỷ lệ trao đổi lẫn nhau 
giữa những hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau.   
VD: 1m vải đổi lấy 30kg thóc 
Hai hàng hoá khác nhau (vải và thóc) muốn trao đổi được với nhau thì 
giữa chúng phải có cơ sở chung giống nhau. Cái chung đó không thể là thuộc 
tính tự nhiên, không thể là giá trị sử dụng, mà cái chung đó là do chúng đều là 
sản phẩm của lao động. Nhờ cái chung đó mà tất cả các hàng hoá trao đổi được 
với nhau. Thực chất của trao đổi hàng hoá cho nhau là trao đổi lao động ẩn giấu 
trong các hàng hoá đó. 
Giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết  tinh trong hàng hoá đó. 
Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị, giá trị là nội 
dung bên trong của giá trị trao đổi.      lOMoAR cPSD| 58137911
Giá trị của hàng hoá là một phạm trù lịch sử, thể hiện mối quan hệ giữa 
những người sản xuất hàng hoá. 
* Mối quan hệ( đọc thêm) 
Hai thuộc tính của hàng hoá có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, 
vừa mâu thuẫn với nhau. Đề trả lời cho câu hỏi “Vì sao hàng hóa có hai thuộc 
tính” chúng ta sẽ đi vào phân tích mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa: 
- Thống nhất: Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá. 
Nếu một vật có giá trị sử dụng (tức có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con 
người, xã hội), nhưng không có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có 
kết tinh lao động) như không khí tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hoá. Ngược 
lại, một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh), nhưng không có giá trị sử dụng 
(tức không thể thoả mãn nhu cầu nào của con người, xã hội) cũng không trở  thành hàng hoá.  - Đối lập:  
Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá khác nhau về chất 
(vải mặc, sắt thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng 
hoá lại đồng nhất về chất, đều là “những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà 
thôi”, tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá ( vải 
mặc, sắt thép, lúa gạo… đều do lao động tạo ra, kết tinh lao động trong đó). 
Thứ hai, quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau 
cả về mặt không gian và thời gian. 
o Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước. o 
Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. 
Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị 
bắt buộc họ cũng phải chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan 
tâm tới giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có 
giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Nếu không thực hiện      lOMoAR cPSD| 58137911
giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng 
hoá cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất  thừa. 
Câu 3: Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư?  * Khái niệm 
Giá trị thặng dư là bộ phận của giá trị mới, dôi ra ngoài giá trị sức lao 
động do người bán sức lao động (người lao động làm thuê) tạo ra và thuộc về 
nhà tư bản (người mua hàng hóa sức lao động). 
Ví dụ: Xưởng A thuê 1 anh công nhân và trả cho anh mức lương là 
30.000VND/giờ. Thế nhưng thực tế trong một giờ anh công nhân đó tạo ra giá 
trị sản phẩm là 50.000VND. Như vậy số tiền chênh lệch 20.000VND chính là  thặng dư. 
* Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư 
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, 
các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị 
thặng dư. Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá 
trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. - Sản xuất giá trị 
thặng dư tuyệt đối 
Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài ngày lao động 
để tăng thời gian lao động thặng dư, trong khi giá trị sức lao động, thời gian lao 
động tất yếu không đổi. 
Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao 
động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị, 
thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là: m’      =  40/40 x 100%      lOMoAR cPSD| 58137911
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, trong khi mọi điều khác vẫn 
như cũ, thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và m’ cũng tăng lên thành:   m’ = 60/40 x 100% 
Hạn chế của phương pháp sản xuất (m) tuyệt đối: 
+ Giới hạn ngày tự nhiên chỉ có 24h; 
+ Bị giới hạn tâm, sinh lý của con người; 
Nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày lao động của người công nhân, 
nhưng việc kéo dài đó không thể vượt quá giới hạn sinh lý của công nhân. Vì họ 
còn phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. 
+ Gặp phải sự đấu tranh của người lao động. 
Việc kéo dài thời gian lao động còn bị sự phản kháng của giai cấp công 
nhân đấu tranh đòi giảm giờ làm. Giai cấp tư sản muốn kéo dài ngày lao động, 
còn giai cấp công nhân lại muốn rút ngắn thời gian lao động. Do đó, độ dài ngày 
lao động được xác định tùy thuộc vào so sánh lực lượng trong cuộc đấu tranh hai 
giai cấp nói trên, điểm dừng của độ dài ấy là điểm mà ở đó lợi ích kinh tế của 
nhà tư bản và của người lao động được thực hiện theo một thỏa hiệp tạm thời. 
Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, nhà tư bản tìm cách 
tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động về thực chất 
cũng tương tự như kéo dài ngày lao động, tức là chi phí nhiều sức lao động hơn 
trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động và tăng 
cường độ lao động là biện pháp để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. 
Có thể kéo dài ngày lao động bằng cách tăng thời gian lao động với cường 
độ lao động như cũ hoặc tăng cường độ lao động với thời gian lao động không  đổi. 
Phương pháp này thường được sử dụng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa 
tư bản, khi mà khoa học, kỹ thuật chưa phát triển. 
- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối      lOMoAR cPSD| 58137911
Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao 
động tất yếu trong khi độ dài ngày lao động không đổi. 
Ví dụ: Ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là lao 
động thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1 giờ thì thời gian lao động tất 
yếu rút xuống còn 4 giờ. Do đó, thời gian lao động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6 
giờ và tỷ suất giá trị thặng dư (m’) tăng từ 100% lên 150%. 
Giá trị sức lao động được quyết định bởi giá trị các tư liệu tiêu dùng và 
dịch vụ để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, muốn hạ thấp giá trị sức lao 
động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người 
công nhân. Do đó, cần phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản 
xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các  tư liệu tiêu dùng. 
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. 
Để giảm giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt thuộc phạm 
vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó được thực hiện ằng cách tăng năng suất lao 
động trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt hay tăng năng suất lao động trong 
các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tu liệu sinh hoạt đó. 
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch 
Muốn tăng năng suất lao động phải cải tiến sản xuất, đổi mới công nghệ; 
xí nghiệp nào tăng năng suất trước thì thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. 
Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu được do giá trị cá biệt 
thấp hơn giá trị xã hội nhờ tăng năng suất lao động cá biệt. 
Giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng phổ biến trong xã hội tư bản 
nhưng nó là nhất thời đối với từng nhà tư bản. 
Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư 
tương đối, vì cả hai cùng dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (tăng NSLĐCB  và tăng NSLĐXH).      lOMoAR cPSD| 58137911
Tuy giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối có sự khác nhau nhưng cả hai 
loại đó đều là một bộ phận giá trị mới do công nhân tạo ra, đều có nguồn gốc là 
lao động không được trả công. Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản sản xuất 
giá trị thặng dư tuyệt đối chiếm ưu thế, song trong thế kỉ XX thì sản xuất giá trị 
thặng dư tương đối chiếm ưu thế hơn. Ngày nay, để sản xuất giá trị thặng dư (m) 
nhà tư bản vẫn sử dụng kết hợp cả hai phương pháp nói trên. 
* Ý nghĩa:( đọc thêm) 
– Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối có ý 
nghĩalớn đối với việc sản xuất ra của cải vật chất, cụ thể: 
+ Trong điều kiện cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu, việc kéo dài thời gian 
lao động và tăng cường độ lao động có ý nghĩa giải quyết được khó khăn về đời 
sống hoặc hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra. 
+ Cải tiến kĩ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học mới, tăng năng suất lao động, 
gia tăng của cải vật chất có ý nghĩa lâu bền. 
– Việc chạy đua giành giá trị thặng dư siêu ngạch có tác dụng thúc đẩy các 
nhàtư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, 
điều đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. 
– Nếu gạt bỏ tính chất tư bản chủ nghĩa, thì hai phương pháp này có ý nghĩatích 
cực trong việc đem lại của cải vật chất cho xã hội, góp phần gia tăng phúc lợi xã 
hội, tái sản xuất mở rộng ở nước ta. 
Câu 4: Tất yếu khách quan của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa ở Việt Nam?  * Khái niệm: 
 Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế trong đó các yếu tố đầu vào và đầu ra phải 
đều phải thông qua thị trường.      lOMoAR cPSD| 58137911
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh 
tế vận hành theo các quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng 
bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn 
minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. 
Đại hội XII xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việ 
t Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị 
trường, đồng thời đảm bảo định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát 
triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có 
sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh  đạo”. 
* Tính tất yếu khách quan của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa ở Việt Nam: 
- Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp 
với tính quy luật phát triển tất yếu.  
Nền kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, ở 
Việt Nam những điều kiện cho sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hóa 
không mất đi mà còn phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu, sự phát triển 
kinh tế hàng hóa tất yếu hình thành kinh tế thị trường. 
Khi có đủ các điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng hoá 
tự hình thành. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá theo quy luật tất yếu đạt tới 
trình độ nền kinh tế thị trường. Đó là tính quy luật. 
Ở Việt Nam, các điều kiện cho sự hình thành và phát triển của kinh tế 
hàng hoá luôn tồn tại. Do đó, sự hình thành nền KTTT ở Việt Nam là tất yếu  khách quan. 
Như vậy, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại và đặc điểm phát triển của  dân tộc. 
- Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát triển. 
Kinh tế thị trường có rất nhiều ưu việt, là động lực quan trọng thúc đẩy sự 
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.      lOMoAR cPSD| 58137911
Kinh tế thị trường là phương thức phân bổ nguồn lực hiệu quả mà loài 
người đã đạt được so với các mô hình kinh tế phi thị trường. 
KTTT luôn là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và 
có hiệu quả cao. Dưới tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế luôn phát 
triển theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật – công nghệ, nâng cao 
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Xét trên góc 
độ đó, sự phát triển kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn mà còn là cơ sở vật 
chất tạo điều kiện thực hiện những mục tiêu XHCN. 
Do đó, trong thời kỳ quá độ lên CNXH cần phải phát triển KTTT, sử dụng 
KTTT làm phương tiện thúc đẩy LLSX phát triển nhanh và hiệu quả, thực hiện 
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. - Ba là, do đó 
là mô hình kinh tế thị trường phù hợp với nguyện vọng của nhân dân mong muốn 
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
Sự tồn tại của kinh tế thị trường ở nước ta tạo ra một động lực quan trọng 
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho 
chủ nghĩa xã hội. Với đặc điểm lịch sử của dân tộc, Việt Nam không thể lựa chọn 
mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chỉ có lựa chọn mô hình kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới phù hợp với ý chí và nguyện vọng của 
đông đảo nhân dân về một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn  minh. 
Phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh 
là khát vọng của nhân dân Việt Nam. Để hiện thực hoá khát vọng như vậy, việc 
phát triển KTTT mà trong đó hướng đến những giá trị mới đó là tất yếu khách  quan. 
=> Tóm lại, Phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta là bước đi quan trọng 
nhằm xã hội hoá nền sản xuất xã hội, là bước đi tất yếu của sự phát triển từ sản 
xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là bước quá độ để đi lên CNXH. 
Câu 5: Tất yếu khách quan của CNH, HĐH ở Việt Nam? 
* Khái niệm: ( đọc thêm) 
Cách mạng công nghiệp là những bước phát triển nhảy vọt về chất trình 
độ của tư liệu lao động trên cơ sở những phát minh đột phá về kỹ thuật và công      lOMoAR cPSD| 58137911
nghệ trong quá trình phát triển của nhân loại kéo thoe sự thay đổi căn bản về 
phân công lao động xã hội cũng như tạo bước phát triển năng suất lao động cao 
hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những tính năng mới trong kỹ thuật - 
công nghệ đó vào đời sống xã hội. 
Ví dụ:  Trong cuộc cách mạng công nghiệp 2.0 ngay sau cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ nhất, cuộc cách mạng lần thứ 2 tiếp diễn sau đó từ nửa cuối thế kỷ 
19 nhờ dầu mỏ và động cơ đốt trong. Thời kỳ này, điện năng được sử dụng nhiều 
hơn và công nghệ kỹ thuật được phát triển vượt bậc. 
1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
Quan niệm của Đảng ta về của công nghiệp hoá, hiện đại hoá: là quá trình 
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản 
lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách 
phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại; 
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, nhằm tạo ra 
năng suất lao động xã hội cao.  Ví dụ:  - 
Trong nông nghiệp: Các loại giống lúa, giống cây trồng, vật nuôi được tạo 
ra nhờ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nghiên cứu, những loại giống này cho 
năng suất và chất lượng cao hơn so với thông thường. Một số nơi áp dụng công 
nghệ: tưới phun mưa, nuôi trồng trong nhà…  - 
Trong y tế: Nhiều trang thiết bị máy móc được sử dụng trong y tế nhằm giúp 
chữa trị bệnh cho con người. Như máy siêu âm, chụp X quang, chuẩn đoán bệnh  ung thư… 
2. Đặc điểm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam: 
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa, thựchiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn  minh". 
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri  thức.      lOMoAR cPSD| 58137911
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị 
trường địnhhướng xã hội chủ nghĩa. 
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh 
tế vàViệt Nam đang tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 
3. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam 
Đối với nước ta, từ một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, xây 
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu thông 
qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã 
hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản 
xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho nền sản xuất xã hội không ngừng phát triển, đời 
sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao, trên 
cơ sở đó từng bước nâng dần văn minh của xã hội. Quá trình công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa còn làm cho khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức ngày 
càng được tăng cường, củng cố, đồng thời nâng cao vai trò lãnh đạo của giai cấp  công nhân. 
- Một là, công nghiệp hoá là quy luật phổ biến của sự phát triển lực lượng sản 
xuất xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua. 
Quy luật phổ biến của sự phát triển lực lượng sản xuất, của sự phát triển 
xã hội mà mọi quốc gia đều phải trải qua khi muốn phát triển. 
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện sẽ tạo cơ sở vật chất để 
tăng cường tiềm lực củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc 
gia và tạo môi trường kinh tế – xã hội ổn định cho sự phát triển kinh tế. 
- Hai là, đối với các nước kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như nước 
ta, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu 
thông qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất là hệ thống các yếu 
tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với một trình độ kỹ thuật mà 
lực lượng lao động xã hội sử dụng để tiến hành quá trình lao động sản xuất.      lOMoAR cPSD| 58137911
Mỗi phương thức sản xuất có cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng đặc 
trưng cho xã hội đó. Cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công 
nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên 
trình độ khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch 
và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 
Như vậy, cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có trình độ xã hội 
quá cao hơn cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Vì thế, từ chủ nghĩa 
tư bản hay trước chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật 
chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh 
tế phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
=> Tóm lại, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhân tố quyết định thắng lợi con 
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì thế, Đảng ta xác định công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa  xã hội. 
Câu 6: Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến Việt Nam?  A) Khái niệm 
 Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực 
hiện sự gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ 
lợi ích đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung. 
B) Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến Việt Nam 
* Tác động tích cực 
- Mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện 
chophát triển sản xuất trong nước, phát huy lợi thế kinh tế quốc gia, phục vụ mục 
tiêu tăng trưởng bền vững, chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng kinh tế theo  chiều sâu. 
- Tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp 
lý,hiện đại và hiệu quả hơn. 
- Nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công  nghệquốc gia.      lOMoAR cPSD| 58137911
- Tăng cơ hội cho doanh nghiệp nội tiếp cận thị trường quốc tế, qua 
đónâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế. 
- Người dân được cải thiện chất lượng tiêu dùng và mở rộng cơ hội  tìmkiếm việc làm. 
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực. 
- Tạo tiền đề cho xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm 
đàbản sắc dân tộc đáp ứng được yêu cầu là động lực cho sự phát triển. 
- Tác động mạnh mẽ tới việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã 
hộichủ nghĩa, xây dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh. 
- Tạo điều kiện nâng cao vị thế trên trường quốc tế. 
- Giúp đảm bảo an ninh quốc gia để tập trung phát triển kinh tế, 
đồngthời tăng cường khả năng giải quyết các vấn đề về môi trường, biến đổi khí 
hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu quốc tế, gìn giữ hoà bình, ổn định khu  vực và thế giới. 
* Tác động tiêu cực 
- Cạnh tranh ngày càng gay gắt, nảy sinh thêm áp lực và nhiều khó 
khănđối với doanh nghiệp và các ngành kinh tế nội địa. 
- Nền kinh tế dễ bị tổn thương do phụ thuộc vào thị trường bên ngoài. 
- Nguy cơ phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro giữa các nước 
vàcác nhóm xã hội làm tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. 
- Nhiều bất lợi trong tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. 
- Đe doạ chủ quyền quốc gia, quyền lực Nhà nước, xói mòn bản sắc  vănhoá dân tộc. 
- Gia tăng nguy cơ khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốcgia, 
dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp... 
* Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong 
phát triển của Việt Nam( đọc thêm)      lOMoAR cPSD| 58137911
Trong bối cảnh toàn cầu hóa cẩn đầy mạnh công tác nghiên cứu, phân tích 
dự đoán cho tương lai. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, biến động 
kinh tế thị trưởng có tác động lớn tiền trình hội nhập nước ta. Vì vậy, để nâng 
cao lực hiệu hội việc kết nối, điều phối, điều hành tập trung, thống hoạch định 
chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế. Phương hướng nhằm nâng cao hiểu hội nhập 
kinh tế quốc tế. Nhận thức sâu sắc thời thách thức hội nhập kinh tế quốc tế mang  lại: 
- Xây dựng chiến lược lộ trình hội nhập kinh tế phù hợp 
- Tích cực chủ động tham gia vào liên kết kinh tế quốc tế thực đầy đủ cam 
kếtViệt Nam liên kết kinh tế quốc tế khu vực. Hoàn thiện thể chế kinh tế luật  pháp 
- Nâng cao lực cạnh tranh quốc tế kinh tế 
- Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ Việt Nam 
- Hội nhập quốc tế nghiệp toàn dân thành công có tham gia hưởng ứng  doanhnghiệp người dân 
- Đẩy mạnh hoạt đồng thương mại, đầu tư Việt Nam cần nâng cao lục phòng 
chống giải quyết xử lý tranh chấp khiếu nại, khiếu kiện thương mại, đầu tư quốc 
tế trọng đào tạo, hồi dựng, phát triển đồi ngũ luật sư, cán pháp lý để bảo vệ quyền 
lợi ích hợp pháp, đáng người dân doanh nghiệp. Nhận diện nhanh động thái xu 
hướng phát triển lớn giới, từ có điều chỉnh đán, kịp thời chiến lược phát triển,  tận dụng triệt để. 
- Thiết lập kinh tế thị trường đầy đủ minh bạch đại vua mục tiêu vừa yêu cầuhội  nhập 
- Tạo điều kiện thuận lợi, phải huy vai trị địa phương doanh nghiệp công táchỏi  nhập kinh tế quốc tế. 
Liên hệ bản thân: 
Là sinh viên đất nước Việt Nam cần phải làm để góp phần hội nhập kinh  tế quốc tế:      lOMoAR cPSD| 58137911
- Mỗi người có vai trò quan trọng việc tham gia thực mục tiêu chiến lược hội 
nhập kinh tế quốc tế. Lợi ích hợp pháp, đáng người dân doanh nghiệp. 
- Nhân diễn nhanh động thái, xu hưởng phát triển lớn giới, từ cỏ điều chỉnhđắn, 
kịp thời chiến lược phát triển, tận dụng triệt để hội mở. 
- Cần nắm bắt hội nhận diện thách thức. Thiết lập kinh tế thị trường đầy đủ, 
minh bạch đại vừa mục tiêu vừa yêu cẩu hội nhập. 
- Tạo điều kiện thuận lợi, phát huy vai trò địa phương. doanh nghiệp công tác 
hội nhập kinh tế quốc tế Mỗi cá nhân hay tập thể cần nâng cao tinh thần trách 
nhiệm thần tập thể để xây dựng đất nước có hiệu cao hội nhập kinh tế quốc tế 
quốc gia. Nâng cao hiệu hội nhập kinh tế quốc tế đóng vai trò then chốt hội nhập 
kinh tế quốc tế việc nâng cao lực thực thi hội nhập kinh tế quốc tế, có tăng cường 
xây dựng nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao, có tri thức, kiến thức. Mỗi 
sinh viên cần phải trau dồi nhiều kiến thức để đối mặt với thách thức đợi tương 
lai người. Mỗi người phải có kiến thức sâu rộng đề sau xử lý cách tốt nhạy bén. 
Không thể để khó khăn nhỏ bé làm nản lòng hay cản trở được, mà giúp thân tiếp 
thu nhiều thứ có ích xã hội thân có nhiều kỳ tốt tạo môi trường Việt Nam tròng 
lòng bạn bè quốc tế nghĩ tích cực về đất nước mình. 
* Tuy nhiên bên cạnh thời cơ trong hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam vẫn 
còn cơ hội thách thức sau( đọc thêm) 
 Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về 
hội nhập kinh tế quốc tế có nơi, có lúc chưa được quán triệt kịp thời, đầy đủ và 
thực hiện nghiêm túc. Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi cách tiếp cận 
phiến diện, ngắn hạn và cục bộ; do đó, chưa tận dụng được hết các cơ hội và ứng 
phó hữu hiệu với các thách thức. 
 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình đổi mới ở trong nước, nhất 
là đổi mới, hoàn thiện thể chế, trước hết là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách 
chưa được thực hiện một cách đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng 
cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu bảo đảm quốc phòng an ninh, bảo vệ      lOMoAR cPSD| 58137911
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy 
bản sắc văn hóa dân tộc. 
 Hội nhập kinh tế quốc tế chưa được phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với hội 
nhập trong các lĩnh vực khác. Chưa tạo được sự đan xen chặt chẽ lợi ích chiến 
lược, lâu dài với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng. Việc ứng phó với 
những biến động và xử lý những tác động từ môi trường khu vực và quốc tế còn 
bị động, lúng túng và chưa đồng bộ. 
 Việc khắc phục những hạn chế, yếu kém, tồn tại và triển khai thực hiện 
các cam kết quốc tế mới cũng sẽ đặt ra nhiều khó khăn, thách thức không chỉ về 
kinh tế mà còn cả về chính trị, xã hội. Sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhiều 
ngành, doanh nghiệp và sản phẩm của nước ta sẽ gặp khó khăn hơn. Việc thực 
hiện các cam kết sâu rộng và cao hơn, nhất là vấn đề lao động, việc làm, bảo vệ 
môi trường... đáp ứng yêu cầu nội luật hóa các cam kết nếu không được nghiên 
cứu, chuẩn bị kỹ, có lộ trình, bước đi phù hợp, sẽ tác động tiêu cực đến quá trình 
đổi mới, hoàn thiện thể chế, giải quyết những vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Việc 
thực hiện các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cũng đặt ra những 
thách thức mới không chỉ đối với quản lý của Nhà nước mà còn có thể ảnh hưởng 
đến ổn định chính trị - xã hội. Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan 
hệ qua lại và có thể chuyển hóa lẫn nhau. Cơ hội có thể trở thành thách thức nếu 
không được tận dụng kịp thời. Thách thức có thể biến thành cơ hội nếu chúng ta 
chủ động ứng phó thành công.