Đề: Phân tích cơ sở hình thành và quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Hiện nay sự đoàn kết dân tộc được hiểu như thế nào? - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
Đề: Phân tích cơ sở hình thành và quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Hiện nay sự đoàn kết dân tộc được hiểu như thế nào? - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả
Preview text:
Đề: Phân tích cơ sở hình thành và quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Hiện nay sự
đoàn kết dân tộc được hiểu như thế nào? Cho ví dụ, chứng minh.
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC. 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN
a. Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam
Dân tộc ta đã hình thành, tồn tại và phát triển suốt 4000 năm lịch sử, gắn liền với yếu tố cố kết cộng
đồng dựng nước và giữ nước. Để tồn tại và phát triển, dân ta phải chống thiên tai, thường xuyên và liên
tục, trị thủy các con sông lớn, cải tạo xây dựng đồng ruộng, trồng lúa nước. Văn minh nông nghiệp
trồng lúa nước chính là văn hóa tạo ra sự cấu kết cộng đồng của những người cùng sống trên một dải
đất, có chung một kiểu sinh hoạt kinh tế, cùng tâm lý. Nghĩa là cố kết thành dân tộc. Mặt khác dân ta
phải thường xuyên đương đầu vứi các thế lực ngoại bang hung bạo. Để chiến thắng dân ta phải xiết
chặt muôn người như một, chống xâm lược tạo nên truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc. Yêu
nước, nhân nghĩa, trọng đạo lý làm người, đề cao trách nhiệm cá nhân đối với xã hội, lấy dân làm gốc,
coi trọng lòng khoan dung độ lượng, hòa hiếu, không gây thù oán, cố kết cộng đồng đã trở thành tình
cảm tự nhiên của mỗi con người Việt Nam.
Khái quát tình cảm tự nhiên, ca dao viết:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Truyền thống đó được nhân lên thành triết lý nhân sinh:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Chủ nghĩa yêu nước cố kết cộng đồng và triết lý nhân sinh, được khái quát thành tư duy chính
trị, phép ứng xử của con người trong tình làng nghĩa nước:
Tình làng, nghĩa nước
Nước mất thì nhà tan
Giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh.
Từ tư duy chính trị nâng thành phép trị nước:
Khoan thư sức dân làm kế sâu gốc bền rễ giữ nước (Trần Hưng Đạo)
Tất cả ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ: gia đinh-
làng xã- quốc gia và cũng trở thành sợi dây liên kết các dân tộc, các giai tầng xã hội Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thu được truyền thống yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc. Người đã
viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.
-Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng đoàn kết trong kho tàng văn hóa nhân loại
Bác gạn đục khơi trong, tiếp thu tư tương đại đồng, nhân ái, thương người như thương mình, nhân,
nghĩa, trọng học thuyết Nho giáo.
Tiếp thu tư tưởng lục hòa, cư xử hòa hợp giữa người với người, cá nhân với cộng đồng, con người với
môi trường tự nhiên của Phật giáo (năm điều cấm: nói dối, sát sinh, tà dâm, uống rượu, trộm cướp).
Tiếp thu tư tương đoàn kết của Tôn Trung Sơn, nhất là chủ nghĩa Tam dân, chủ trương đoàn kết 400
dòng học người Trung Quốc, không phân biệt giàu nghèo, chống thực dân Anh, chủ trương liên Nga,
dung Cộng, ủng hộ công nông.
b. Chủ nghĩa Mác- Lênin
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, sự nghiệp cách mạng chính là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là
người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân
tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng.
Chủ nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lên nin cho rằng, sự
liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi
của cách mạng vô sản. Rằng nếu không có sự đồng tình và ửng hộ của đa số nhân dân lao động với đội
ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được.
Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học
Trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống
Trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới
Từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
2. CƠ SỞ THỰC TIẼN
a. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc mình, Hồ Chí Minh
nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã
ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận,
cả nước góp sức” và “Khoan
thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Chính
chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của lịch sử này đã tác
động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.
Hồ Chí Minh đã cảm nhận được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu
nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đọan này. Đây
cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước nơi bến cảng Nhà Rồng.
b. Thực tiễn cách mạng thế giới
Đi khắp các thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc nhưng chưa thấy dân tộc nào làm cách mạng giải phóng
thành công vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công
nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức,do thiếu sự lãnh đạo đúng đắn.
Bên cạnh đó, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường CMT10 và những bài học
kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào cách mạng thế giới đặc biệt
là bài học cho sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và
giữ chính quyền cách mạng. Điều này giúp Người
hiểu sâu sắc thế nào là một cuộc “cách mạng đến
nơi” để chuẩn bị lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi vào con đừơng cách mạng những năm sau này.
3. PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC HỒ CHÍ MINH
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho yêu nước trên dải đất Nghệ Tĩnh có lòng yêu nước và
truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường ngay từ thuở thiếu thời, Người đã tiếp thu được những
tinh hoa của vùng đất địa linh nhân kiệt đó. Có thể khẳng định rằng, truyền thống anh dũng của quê
hương và tinh hoa văn hóa của xứ sở đó đã có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách, tâm
hồn Hồ Chí Minh. Những ảnh hưởng đó đã đi cùng Người trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng,
trỏ thành nguồn lực nuôi dưỡng trí tuệ, tâm hồn và bản lĩnh phi thường của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Người là mẫu mực về đạo đức cách mạng tác phong bình dị, chân tình nên có sức cảm hóa lớn đối với mọi người. Slide mới:
Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc thể hiện niềm tin mãnh liệt vào con người,
vào nhân dân mang tính vị tha va lòng bác ái. Nhờ đó, Người đã khơi dậy dược nhân dân ý thức dân
tộc, tinh thần yêu nước và biến chúng thành sức mạnh đoàn kết toàn dân đánh giặc, toàn dân xây dựng đất nước.
Người kêu gọi: “Bất kì ai, dù quá khứ của họ thế nào miễn là ngày nay họ ủng hộ cách mạng thì chúng
ta phải đoàn kết với họ”.
Không chỉ là tấm gương đoàn kết, kêu gọi và vận động mọi người đoàn kết. Hồ Chí Minh còn luôn gần
gũi và quan tâm đến đời sống của nhân dân. Người đã cảm hóa, cuốn hút, tập hợp và lôi cuốn nhân dân
bằng cả tấm lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân bằng cuộc đời cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Sự thống nhất hài hòa giữa tư tưởng, hành động và đạo đức của Hồ Chí Minh đã làm cho đoàn kết trở
thành sức mạnh quy tụ toàn dân tộc dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH.
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc là một hệ thống những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp
giáo dục, tập hợp và tổ chức lực lượng cách mạng và tiến bộ nhằm phát huy đến mức cao nhất sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng
Người cho rằng: “muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy
mình bằng đấu tranh vũ trang cách mạng, bằng cách mạng vô sản.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và
phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân
tộc luôn luôn được Người nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà tư tưởng đoàn kết là tư tưởng cơ bản,
nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Đoàn kết quyết định thành công cách mạng vì: đoàn kết tạo nên sức mạnh, là then chốt của
thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải
quy tụ cả dân tộc vào một mối thống nhất. Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, quy mô,
mức độ của thành công.
Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. “Đoàn kết là sức mạnh,
đoàn kết là thắng lợi”. HCM khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”.
Ví dụ: Tại sao Pháp – một đất nước có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại phải
thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là vì đồng bào Việt Nam đã
đoàn kết như chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất
nước Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc Sự đồng
tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn,
xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”.
Để thấy rõ hơn vị trí của sức mạnh lực lượng toàn dân đoàn kết trong thắng lợi của
Cách Mạng Tháng Tám, chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra:
“ Vì sao có cuộc thắng lợi đó?
Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các
dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc.
2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng “đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của đảng mà
còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là nhiệm vụ của
quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng
tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
Mục tiêu của Đảng hay của cách mạng là “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Muốn đoàn kết được
lực lượng toàn dân, theo Hồ Chí Minh cần phỉa thấm nhuần quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần
chúng, lắng nghe quần chúng, tôn trọng quần chúng, biết vận động, tổ chức, giáo dục quần chúng …có
như vậy mới được quần chúng ủng hộ, giúp đỡ và mục tiêu của Đảng mới được thực hiện. Hồ Chí
Minh dạy rằng “Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng song”.
Chỉ có như vậy thì mục tiêu, nhiệm vụ Đảng mới trở thành mục tiêu, nhiệm vụ của toàn dân tộc và đại
đoàn kết mới trở thành một đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng trong cuộc đấu tranh tự giải phóng.
Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp hướng dẫn những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng
thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức và thành sức mạnh.
3. Đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở hình thành khối đại đoàn kết toàn dân
Khái niêm ‘dân’ của HCM: ‘Dân’ là đồng bào, là anh em một nhà, không phân biệt già, trẻ, trai, gái,
giàu nghèo... Dân là toàn dân, toàn thể dân tộc Việt Nam, bao gồm đa số, thiểu số, có đạo, không có
đạo, tất cả những người sống trên dải đất này. Như vậy, ‘dân’ theo HCM có biên độ rất rộng, vừa được
hiểu là mỗi cá nhân, vừa được hiểu là toàn thể đồng bào, những ‘dân’ không phải là khối đồng nhất, mà
là một cộng đồng có nhiều giai tầng, ‘dân’ có lợi ích chung và riêng, có vai trò và thái độ khác nhau đối
với sự phát triển xã hội. Nắm vững quan điểm giai cấp của Mác-Lênin, HCM chỉ ra giai cấp công nhân,
nông dân là những giai cấp cơ bản, vừa là lực lượng đông đảo nhất, vừa là những người bị áp bức bóc
lột nặng nề nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, là gốc của cách mạng. HCM chỉ rõ dân là gốc
của cách mạng, là nền tảng của đất nước, là chủ thể của đại đoàn kết, là lực lượng quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng. Đại đoàn kết theo HCM là ai có tài, có đức, có lòng phụng sự tổ quốc và nhân dân,
thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì ta thật thà đoàn kết với họ. Slide mới:
Muốn đoàn kết thì phải hiểu dân, tin dân, dựa vào dân, tránh phân biệt giai cấp đơn thuần, cứng nhắc,
không nên phân biệt tôn giáo, dân tộc, cần xóa bỏ thành kiến, cần thật thà đoàn kết rộng rãi.
Muốn đại đoàn kết phải khai thác yếu tố tương đồng, hạn chế những điểm khác biệt giữa các giai tầng
dân tộc, phải xác định rõ vai trò, vị trí của mỗi giai tầng xã hội nhưng đại đoàn kết vối đại đa số người
dân lao động (CN, ND, TT, các tầng lớp lao động khác…) đó
là nền, là gốc của đại đoàn kết, nòng cốt là công nông
4. Đại đoàn kết phải có tổ chức có lãnh đạo
Đoàn kết là vấn đề chiến lược, sống còn, không phải là tập hợp ngẫu nhiên, cảm tính, tự phát mà phải
xây dựng trên một cơ sở lý luận khoa học.do đó phải có tổ chức, lãnh đạo để hoàn thành mục tiêu độc
lập dân tộc và CNXH. Sau khi tìm ra con đường cứu nước HCM luôn quan tâm tới việc hình thành tổ
chức để tập hợp mọi lực lượng, giai tầng cho phù hợp với yêu cầu của cách mạng, trong đó Mặt trận
dân tộc thống nhất là tổ chức rộng rãi nhất. Đảng Cộng Sản vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh
đạo mặt trận dan tộc thống nhất xây dựng khối đại đoàn kết, là linh hồn của khối đại đoàn kết,
Đảng là Đảng giai cấp công nhân Việt Nam, vừa Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Đảng vừa là đạo đức vừa là văn minh tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự dân tộc
Đảng là bộ phận trung thành nhất phải có năng lực lãnh đạo, có đường lối đúng mới xứng đáng địa vị
lãnh đạo khối đại doàn kết toàn dân tộc
5. Đoàn kết dân tọc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế
Đoàn kết trên lập trường giai cấp CN nghĩa là bao hàm cả đoàn kết quốc tế, tạo sự thống nhất giữa lợi
ích dân tộc với lợi ích quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. CM
giải phóng dân tộc và CM XHCN ở nước ta muốn thành công đòi hỏi phải đoàn kết quốc tế dể tạo sức
mạnh đồng bộ và tổng hợp. Thực hiện đoàn kết quốc tế, HCM quan tâm đoàn kết cách mạng nước ta
với các phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, với các phong trào giải phóng dân tộ ở các nước
trên thế giới, các phong trào đấu tranh cho hòa bình, dân chủ tiến bộ. Người đặc biệt chú trọng xây
dựng khối đoàn kết 3 nước Đông Dương, mặt trận Việt Nam- Lào-Campuchia, mặt trận nhân dân thế
giới đoàn kết với Việt Nam.
III.NGUYÊN TẮC ĐẠI ĐOÀN KẾT CỦA HỒ CHÍ MINH
1. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích
của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người:
Bởi vì trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác nhau. Mỗi
giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có một điểm
chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay không còn phụ
thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đoàn kết hay không và việc nhận thức, giải quyết đúng
đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân
trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt, mâu
thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt,
thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng,
dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất
dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người
tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình.
2. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắc vào sức mạnh to lớn
và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng nhân dân. Người viết: “Có
lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng
không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những
người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.
3. Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng rãi, lâu dài, bền vững:
Theo Hồ Chí Minh, có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng. Muốn đoàn kết thì trước hết
phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngoài thì liên minh với các dân tộc
bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Như vậy, để đoàn kết và lãnh đạo cách mạng, điều kiện tiên
quyết là phải có một Đảng cách mạng với tính cách là Bộ tham mưu, là hạt nhân để tập hợp quần chúng
trong nước và tổ chức, giữ mối liên hệ với bè bạn ở ngoài nước. Đảng cách mạng muốn thống nhất về
chính trị và tư tưởng, đảm bảo được vai trò đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp công nhân, phải
được vũ trang bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin: “Để
làm trọn trách nhiệm người lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên
minh công nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân. Có như thế mới
phát triển và củng cố được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”.
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định hướng, tổ
chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang tính nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
lược đại đoàn kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền
bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và trên thế giới. Đi vào quần chúng, thức tỉnh quần
chúng, đoàn kết quần chúng vào cuộc đấu tranh tự giải phóng mình theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác
– Lênin là mục tiêu nhất quán của Hồ Chí Minh là đại đoàn kết dân tộc lập trường vô sản, mà sức mạnh
chủ yếu của nó là liên minh công nông.
4.Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê bình, phê bình vì sự thống
nhất bền vững:
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng còn có những điểm
khác nhau cần phải giải quyết theo con đường đối thoại, bàn bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những
nhân tố tích cực vẫn có những tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ Chí
Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”; mặt khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu
tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đoàn kết xuôi
chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt,
củng cố đoàn kết: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí.
Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê bình những
cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. Trong quá trình xây dựng, củng
cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc thống nhất luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi,
một chiều, chống coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống
khuynh huớng đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong khối đại đoàn kết dân tộc. “Chúng ta
làm cách mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội
thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
5. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước chân chính phải
gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân:
Hồ Chí Minh đã xác định con đường cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và
chỉ có thể giành được thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế
giới. Về sau, trong quá trình cách mạng, tư tưởng cuả Người về vấn đề đoàn kết với cách mạng thế giới
càng được làm sáng tỏ hơn và đầy đủ hơn: Đó là vấn đề cách mạng trong nước phải gắn với phong trào
và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cụ thể hơn là với nhân dân Pháp, Mỹ, nhân dân Liên
Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, với phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành
3 tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt-Miên-Lào và Mặt trận nhân dân
thế giới đoàn kết với Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Như vậy đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở và phải đi đến việc thực hiện đoàn kết quốc tế, nếu đại
đoàn kết dân tộc là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết
quốc tế cũng là yếu tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến thắng
lợi hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay sự đoàn kết dân tộc được hiểu như thế nào?
Khái niệm đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh từ rất sớm đã bộc lộ hai nội dung cơ bản:
Đoàn kết các dân tộc trên phạm vi quốc tế.
Đoàn kết các dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc.
Sau hơn ba mươi năm, việc thể chế hóa và cụ thể hóa đường lối đổi mới của Đảng và pháp luật của
Nhà nước ta liên quan đến công tác dân tộc và chính sách đoàn kết dân tộc đã được thực hiện có hiệu
quả. Nhờ có những chính sách của Đảng và Nhà nước, truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc ở nước
ta đã tiếp tục được duy trì, củng cố và phát huy sức mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng mới
đặt ra. Sức mạnh của khối đoàn kết giữa các dân tộc được thể hiện thông qua việc chúng ta đã thực hiện
thắng lợi nhiều mục tiêu và đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: tình
hình chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản đã được ổn định, an ninh - quốc phòng được giữ vững.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản đã được Hiến pháp xác định và được thể hiện trên mọi lĩnh
vực xã hội. Kinh tế đất nước có những bước phát triển vượt bậc, đời sống của nhân dân về cơ bản được
nâng lên. Nền kinh tế nhiều thành phần ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số từng bước được
hình thành và phát triển, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiển rõ rệt. Công
tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả to lớn. Mặt bằng dân trí đã được nâng lên, sự nghiệp giáo dục
vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát triển mạnh. Bản sắc văn hóa các dân tộc được gìn giữ và phát
huy. Việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân vùng cao, vùng sâu, vùng xa được quan tâm hơn...
1. Phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc.
Sau hơn ba mươi năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế bao cấp,
trì trệ bị bao vây cấm vận, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, đã có những bước tiến vững vàng và
đạt được những thành tựu to lớn, tạo đà cho thế kỷ phát triển mới của đất nước. Đất nước đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, đời
sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện.
Những thành tựu đạt được trong các hoạt động kinh tế đã nâng cao từng bước đời sống của đồng bào
các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số, từ đó củng cố chặt chẽ lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước. Kết quả này cũng minh chứng một điều rằng: các dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam đã phát huy được truyền thống tương trợ, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và ý thức sâu
sắc được sức mạnh của truyền thống đó. Đồng thời, tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau của đồng bào
dân tộc miền núi cũng được đẩy mạnh hơn nữa, cùng nhau góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của cả nước, kinh tế vùng đồng bào dân tộc
thiểu số còn nhiều khó khăn, chậm phát triển, tỷ lệ hộ đói nghèo vẫn còn cao. Và mặc dù Đảng và Nhà
nước đã có nhiều cố gắng trong việc rút ngắn khoảng cách giữa dân tộc thiểu số và dân tộc đa số nhưng
trên thực tế, sự phân cực giàu nghèo có xu hướng tăng lên. Tình hình đó đặt ra cho Đảng và Nhà nước
ta phải xây dựng được một hệ thống chính sách đúng đắn và phù hợp nhằm tạo ra cơ hội cao hơn nữa
cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
2. Củng cố hệ thống chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới nói chung và chính sách đoàn kết các dân tộc nói riêng của Đảng và
Nhà nước, chúng ta đã đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực chính trị, an ninh – quốc phòng. Độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội
được giữ vững. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực
quốc phòng, an ninh được tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung yếu, phức tạp. Công
tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai rộng rãi. Sự phối hợp quốc
phòng, an ninh, đối ngoại được chú trọng hơn. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được
củng cố, xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực sự là lực
lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
3. Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá của đồng bào các dân tộc
Nhìn chung, những chính sách mà Đảng và Nhà nước ban hành trong những năm qua đã góp phần quan
trọng trong việc lưu giữ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc. Các hoạt động văn