








Preview text:
lOMoAR cPSD| 59732875
A . Các biện pháp bảo đảm đầu tư
1. Bảo đảm quyền sở hữu tài sản cho nhà đầu tư
Quyền sở hữu tài sản là chế định đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013.
Khoản 1 Điều 32 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần
vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”. Trên cơ sở đó,
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân một cách
tương xứng với đóng góp to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Đồng thời
khẳng định rõ ràng và nhất quán về tài sản hợp pháp để đầu tư, sản xuất kinh
doanh được Nhà nước bảo vệ.
Trong Luật Đầu tư 2020, bảo đảm quyền sở hữu tài sản là một biện pháp bảo đảm
đầu tư được quy định tại Khoản 1 Điều 10 như sau: “Tài sản hợp pháp của nhà
đầu tư không bị quốc hữu hóa hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành chính”. Khi
đầu tư, nhà đầu tư luôn có một khối tài sản hợp pháp. Số tài sản này không bị
quốc hữu hóa (đưa các tài sản từ sở hữu tư nhân thành sở hữu Nhà nước) hay bị
tịch thu bằng biện pháp hành chính. Quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư được
bảo hộ. Việc quy định về chế định này trong hệ thống pháp luật về bảo đảm đầu
tư của Việt Nam chính là lời cam kết thỏa đáng đối với nhà đầu tư về việc không
quốc hữu hóa, không tịch thu vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nahf đầu tư bằng
các biện pháp hành chính.
2 . Bảo đảm hoạt động đầu tư kinh doanh
Bên cạnh việc bảo đảm về quyền sở hữu tài sản, Nhà nước còn đảm bảo hoạt động
đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư. Đây là cam kết của Nhà nước trong việc: bảo lOMoAR cPSD| 59732875
đảm quyền tự do kinh doanh, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư và
cam kết trong việc mở cửa thị trường đầu tư liên quan đến thương mại.
2.1 Bảo đảm quyền tự do kinh doanh
Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhẳm mục đích sinh lời. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các cá nhân
nói riêng và doanh nghiệp nói chung là yếu tố rất quan trọng đối với nền kinh tế
phát triển. Các nhà đầu tư luôn mong muốn quyền tự do kinh doanh được bảo
đảm về mặt pháp lý để họ có thể mở rộng sản xuất, đầu tư lâu dài cho hoạt động
kinh doanh. Quyền tự do kinh doanh về cơ bản được cụ thể hóa qua một số quyền
như tự do thành lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành nghề đầu tư, hình thức đầu tư,
địa bàn đầu tư. Việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư, ngành nghề dinh doanh hoàn toàn
phụ thuộc vào ý muốn, điều kiện và khả năng của các chủ thể kinh doanh, dựa
trên cơ sở tìm hiểu nhu cầu thị trường. Không ai có quyền can thiệp trái phép vào
quyền này của họ, bởi lẽ người chịu trách nhiệm về những kết quả kinh doanh
chính là các nhà đầu tư.
Việc xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, nhà đầu tư không bị buộc phải đạt một tỷ lệ
nhất định. Tỷ lệ nội địa hóa được hiểu tỷ lệ sử dụng các nguyên liệu và phụ tùng
công nghiệp để sản xuất trong nước. Về hoạt động nghiên cứu và phát triển trong
nước, nhà đầu tư cũng không bị buộc phải đạt được mức độ hoặc giá trị nhất định.
Đối với nhiều doanh nghiệp trong nước, việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ tại một
địa điểm cụ thể trong nước hoặc nước ngoài và đặt trụ sở chính theo yêu cầu của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là điều bắt buộc. Tuy nhiên, đối với nhà đầu tư
tại Việt Nam, họ có thể lựa chọn thực hiện hoặc không thực hiện hai hoạt động trên. 2.2
Bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư kinh doanh
Nguyên tắc bảo đảm đối xử bình đẳng là một nguyên tắc vô cùng quan trọng, bao
trùm lên nguyên tắc khác, và không thể thiếu trong việc bảo đảm sự cạnh tranh 2 lOMoAR cPSD| 59732875
bình đẳng trong đầu tư kinh doanh. Đối xử binh đẳng giữa các nhà đầu tư là việc
các nhà đầu tư cùng phải được hưởng các quyền như nhau và cùng thực hiện các
nghĩa vụ như nhau đối với Nhà nước trong cùng một hoàn cảnh và điều hiện giống
nhau. Thực tiễn cho thấy, các nhà đàu tư đến từ các quốc gia với các nền kinh tế
khác nhau nên họ rất quan tâm đến việc Chính phủ Việt Nam có bảo đảm đối xử
công bằng và thỏa đáng với họ không, sự đối xử đó sẽ tạo ra niềm tin và sự an
tâm đối với nhà đầu tư và ngược lại.
Các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam
đều đối xử một cách bình đẳng trước pháp luật. Họ đều được hưởng các quyền
lợi và phải gánh chịu các nghĩa vụ pháp lý mà không có sự phân biệt bởi lý do
chính trị, kinh tế, văn hóa… hay bất kỳ một lý do nào khác. Các nhà đâu tư còn
có cơ hội ngang nhau trong việc lựa chọn các phương thức, hình thức đầu tư, lĩnh
vực đầu tư, cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh, được chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài… Về cơ bản, pháp luật Việt Nam đã hoàn thiện theo hướng nhất thể hóa,
tạo ra một khung pháp lý thống nhất cho cả đầu tư trong nước và ngoài nước nhằm
xây dựng một sẩn chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư.
3 . Bảo đảm quyền chuyển tài sản của nhà đầu tư nước ngoài
Bất ký một nhà đầu tư nào khi thực hiện đầu tư vào một nền kinh tế khác đều đặt
ra yêu cầu là phải được chuyển vốn, lợi nhuận và các tài sản hợp pháp khác
Bảo lãnh của Chính phủ đối với một số dự án quan trọng
Theo quy định Luật Quản lý nợ công năm 2017, bảo lãnh của Chính phủ được
hiểu là “cam kết của Chính phủ với người cho vay về việc thực hiện nghĩa vụ trả
nợ trong trường hợp đến hạn trả nợ mà người vay không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.”.
Bộ Tài chính là đại diện chính thức hay còn gọi là cơ quan cấp bảo lãnh; người
vay là bên vay trong thỏa thuận vay hoặc là người phát hành công cụ nợ, có trách
nhiệm hoàn vốn cho bên cho vay theo đúng các điều kiện, điều khoản của thỏa 3 lOMoAR cPSD| 59732875
thuận vay hoặc phát hành; người cho vay....Đây là hình thức bảo lãnh có tính pháp
lý cao nhất tại Việt Nam. Bảo lãnh Chính phủ được thực hiện dưới hình thức thư
bảo lãnh, hợp đồng bảo lãnh hoặc văn bản bảo lãnh (gọi chung là “Thư bảo lãnh”).
Các chương trình, dự án được Chính phủ xem xét cấp bảo lãnh thường là các
chương trình, dự án đầu tư có tầm quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước: chương trình, dự án ứng dụng công nghệ cao, dự án trong
lĩnh vực năng lượng, khai thác, chế biến khoáng sản hoặc sản xuất hàng hóa, cung
ứng dịch vụ xuất khẩu; chương trình, dự án thuộc lĩnh vực, địa bàn được Nhà
nước khuyến khích đầu tư; chương trình, dự án được tài trợ bằng khoản vay
thương mại có nguồn vốn ODA dưới dạng tín dụng hỗn hợp.
Có thể liệt kê các dự án trong thời gian được Chính phủ bảo lãnh như: Dự án sân
bay Long Thành (2015); dự án Xi măng Hạ Long, Xi măng Đồng Bành được
Chính phủ bảo lãnh vay nợ nước ngoài; dự án Nhà máy bột giấy Phương Nam;
Chương trình đầu tư phát triển đội bay của Tổng công ty Hàng không Việt Nam
(VNA); dự án thuộc sơ đồ Điện VII; dự án đường Hồ Chí Minh; Dự án nhiệt điện
và thủy điện do Tập đoàn Điện lực Việt Nam là chủ đầu tư....Có thể thấy rằng,
đây đều là những dự án quan trọng, sẽ ảnh hưởng lớn tới phát triển kinh tế đất
nước, phát triển cơ sở hạ tầng. Nhận thức được tầm quan trọng và chiến lược của
các dự án, chương trình này, Luật Đầu tư năm 2020 ghi nhận biện pháp bảo lãnh
của Chính phủ đối với một số dự án, chương trình quan trọng như một biện pháp bảo đảm đầu tư.
4 . Bảo đảm đầu tư kinh doanh trong trường hợp thay đổi pháp luật
Có thể thấy rằng, mặc dù có sự ổn định trong một khoảng thời gian nhất định,
nhưng dưới sự vận động, thay đổi không ngừng của các yếu tố văn hóa, xã hội,
chính trị, kinh tế...các chính sách pháp luật đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp. Mỗi dự án đầu tư có thể kéo dài khoảng từ 10 năm đến 30 năm trong khi đó
tuổi thọ của các văn bản pháp luật và chính sách ưu đãi của pháp luật Việt Nam
thường chỉ từ 5 đến 10 năm. Chính vì vậy, bảo đảm đầu tư kinh doanh trong 4 lOMoAR cPSD| 59732875
trường hợp thay đổi pháp luật là biện pháp nhằm đảm bảo các chính sách ưu đãi
cho nhà đầu tư ít bị biến động khi có sự thay đổi của pháp luật.
Việc bổ sung quy định này nhằm đảm bảo Việt Nam thực hiện đầy đủ cam kết
trong WTO về việc không hồi tố các điều kiện đầu tư (phạm vi hoạt động, tỷ lệ
sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài). Biện pháp này quy định cụ thể tại Điều 13
Luật Đầu tư năm 2020, với hai nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, bảo đảm lợi ích cho nhà đầu tư trong trường hợp chính sách pháp luật
mới được ban hành có ưu đãi cao hơn. Khoản 1 Điều 13 quy định:
“ Trường hợp văn bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư mới,
ưu đãi đầu tư cao hơn thì nhà đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định
của văn bản pháp luật mới cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án đầu tư,
trừ ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với dự án đầu tư thuộc trường hợp quy định tại
điểm a khoản 5 Điều 20 của Luật này.”
Thứ hai, bảo đảm trong trường hợp chính sách pháp luật mới gây bất lợi đến quyền
lợi mà nhà đầu tư đang được hưởng. Khoản 2 Điều 13 quy định: Trường hợp văn
bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư thấp hơn ưu đãi đầu tư
mà nhà đầu tư được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được tiếp tục áp dụng ưu đãi
đầu tư theo quy định trước đó cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án đầu
tư.”. Theo đó, trong trường hợp nếu có sự thay đổi về chính sách pháp luật làm
ảnh hưởng, gây thiệt hại cho nhà đầu tư thì Nhà nước không áp dụng nguyên tắc
hồi tố đối với những thay đổi đó. Nghĩa là, Nhà nước vẫn đảm bảo cho nhà đầu
tư đó được hưởng ưu đãi, điều kiện thuận lợi mà trước đó họ đã và đang được
hưởng (xác định theo các ưu đãi được quy định tại Giấy phép đầu tư, Giấy phép
kinh doanh, Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư, Giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư, văn bản quyết địnhchủ trương đầu tư hoặc văn bản khác của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền).
Trong trường hợp, nhà đầu tư không được tiếp tục áp dụng ưu đãi đầu tư này thì
được xem xét giải quyết bằng một hoặc một số biện pháp sau đây: Khấu trừ thiệt 5 lOMoAR cPSD| 59732875
hại thực tế của nhà đầu tư vào thu nhập chịu thuế; Điều chỉnh mục tiêu hoạt động
của dự án đầu tư; Hỗ trợ nhà đầu tư khắc phục thiệt hại.
Đây là một chế định thể hiện sự mềm mỏng và ưu đãi của Việt Nam đối với các
nhà đầu tư. Có thể thấy trong mọi trường hợp thay đổi về chính sách hoặc quy
định pháp luật từ phía Nhà nước thì quyền lợi tối đa của các nhà đầu tư đều được
đảm bảo. Về phần mình, Nhà nước nhận một số bất lợi và giành cho các nhà đầu
tư quyền chủ động lựa chọn cách giải quyết sao cho thỏa đáng với nguyện vọng
và quyền lợi hợp pháp của họ. Điều này thể hiện rõ thiện chí và mong muốn của
Nhà nước Việt Nam đối với việc khuyến khích và thu hút vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài .
5 . Bảo đảm giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh
Kinh tế Việt Nam đã bước vào giai đoạn phát triển mới khi nước ta ngày càng hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới với nhiều cơ hội mới mở ra cho doanh
nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trong quá trình
thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, tranh chấp là điều khó tránh khỏi xảy ra
giữa các nhà đầu tư. Các tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh bao gồm:
Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong nước; Tranh chấp giữa các tổ chức kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài; Tranh chấp giữa nhà đầu tư trong nước với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ
Việt Nam; Tranh chấp giữa các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên
lãnh thổ Việt Nam; Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong đó có ít nhất một bên là
nhà đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong các loại tranh chấp quốc tế, thì tranh chấp đầu tư quốc tế có xu hướng ngày
càng gia tăng về số lượng và mức độ phức tạp. Khi tranh chấp phát sinh, yêu cầu
đặt ra là phải thiết lập một cơ chế giải quyết tranh chấp nhanh chóng, hiệu quả, 6 lOMoAR cPSD| 59732875
công bằng để bảo vệ lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư trong mô hình kinh
doanh. Chính vì lẽ đó mà quy định về giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu
tư kinh doanh là một biện pháp bảo đảm được hầu hết các nhà đầu tư quan tâm,
lưu ý trước khi lựa chọn đầu tư. Nhận thức được điều này, pháp luật đầu tư quy
định biện pháp này như là một cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư kinh doanh có
hiệu quả. Theo đó, Điều 14 quy định các phương thức giải quyết tranh chấp trong
hoạt động đầu tư bao gồm: thương lương, hòa giải; trọng tài; hoặc tòa án. Tùy
phạm vi và các chủ thể liên quan đến tranh chấp mà áp dụng phương thức giải quyết phù hợp.
Thương lượng là phương thức được các bên tranh chấp lựa chọn trước tiên và
trong thực tiễn phần lớn các tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết
bằng phương thức này. Nhà nước khuyến khích áp dụng phương thức tự thương
lượng để giải quyết tranh chấp trên tinh thần hoàn toàn tôn trọng quyền thỏa thuận
của các bên. Hòa giải là việc các bên tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp
với sự hỗ trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện
chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của trung gian hòa
giải. Quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không phải của trung
gian hòa giải mà hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên trong tranh chấp.
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp không thể thiếu trong nền kinh tế thị
trường và ngày càng được các nhà kinh doanh ưa chuộng. Đó là hình thức giải
quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên
với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu thuẫn tranh chấp. Trọng
tài thương mại có nhiều ưu điểm như thủ tục đơn giản, linh hoạt theo thỏa thuận
của các bên giúp giải quyết tranh chấp nhanh chóng. Giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài không công khai giúp Doanh nghiệp giữ bí mật được các thông tin tranh
chấp có thể gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của mình Tòa án là
cơ quan giải quyết tranh chấp của Nhà nước, phán quyết của tòa án có tính cưỡng
chế cao. Nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế, do đó khi đã đưa ra tòa án người
thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án. 7 lOMoAR cPSD| 59732875
B. Thực hiện các biện pháp bảo đảm đầu tư ở Việt Nam
Qua khoảng thời gian thực thi Luật Đầu tư 2020, danh mục ngành nghề cấm kinh
doanh có điều kiện vẫn còn khá nhiều điểm chưa tương thích với các nguyên tắc
tại các Hiệp định như TPP, FTA.
Ngay từ khâu đăng ký kinh doanh, nhà đầu tư có thể vấp phải rào cản thủ tục mã
hóa ngành nghề dựa vào Hệ thống ngành nghề kinh tế của Việt Nam. Hiện tại,
quy định hệ thống mã số ngành căn cứ theo Quyết định số 27/2018/QĐTTg ngày
của Thủ tướng Chính phủ và Biểu cam kết thương mại dịch vụ của Việt Nam
trong Tổ chức thương mại Thế giới (Cam kết WTO). Nghị định 01 /2021/NĐ-CP
về đăng ký doanh nghiệp quy định: đối với những ngành, nghề kinh doanh không
có trong hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam, cơ quan đăng ký kinh doanh xem
xét ghi nhận ngành, nghề kinh doanh này vào cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký
doanh nghiệp nếu không thuộc ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh.
Tuy nhiên, không ít nhà đầu tư gặp khó khăn nếu chọn kinh doanh những ngành
nghề không thuộc danh mục ban hành. Yêu cầu “mã hóa” ngành nghề kinh doanh
tương thích với hệ thống ngành nghề kinh tế của Việt Nam là một cản trở đối với
doanh nghiệp khi mở rộng đầu tư theo nhu cầu của mình.
Nếu Luật Doanh nghiệp đã ghi nhận quyền tự do kinh doanh trong những ngành,
nghề mà pháp luật không cấm, việc quy định tương tự như yêu cầu đăng ký ngành
nghề tương thích với quy định Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam có lẽ không còn tương thích.
Tại một số nước thành viên khác của TPP như Malaysia, Singapore, thủ tục đăng
ký kinh doanh được tối giản, thực hiện qua các kênh trực tuyến. Giấy chứng nhận
thành lập do Cơ quan đăng ký doanh nghiệp của Singapore ( Certificate of
Incorporation) cấp chỉ nhằm ghi nhận việc thành lập công ty với dung lượng thông 8 lOMoAR cPSD| 59732875
tin trong phạm vi một trang giấy A4 mà không phải liệt kê mã ngành nghề. Nhiều
thành viên TPP khác ở Châu Âu như Úc hay New Zeland từ lâu cũng đơn giản
hóa thủ tục cấp phép. Họ cũng không yêu cầu phải ghi thông tin mục đích và
phạm vi hoạt động kinh doanh, bao gồm cả thông tin về người đại diện và vốn
đầu tư trên giấy chứng nhận thành lập. Việcnày giúp doanh nghiệp có thể tự do
rút gọn hay mở rộng ngành nghề kinh doanh, không phụ thuộc vào thủ tục sửa
đổi giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp như cách áp dụng hiện tại của Việt
Nam hiện nay. Ngoài nguyên tắc “bỏ chọn” đã đề cập ở trên, Hiệp định TPP dành
hẳn một chương riêng định hướng loại bỏ các rào cản kỹ thuật không cần thiết
đối với thương mại. Cũng theo yêu cầu về đầu tư, Điều 9.9 Hiệp định TPP quy
định, về nguyên tắc, trong trường hợp thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành,
triển khai, vận hành, kinh doanh hoặc các hình thức chuyển nhượng dự án đầu tư
mà các nhà đầu tư của bên tham gia hoặc không tham gia hiệp định thực hiện
trong lãnh thổ của mình, không thành viên nào có quyền đặt ra hoặc đưa vào áp
dụng các yêu cầu, hoặc ban hành các cam kết riêng lẻ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 . Vũ Lê Quỳnh Ngân (2009), Pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam – Một số vấn
đề lý luận thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
2 . Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình luật đầu tư
3 . Trường Đại Học Kinh tế Quốc dân, Giáo trình kinh tế đầu tư.
4 . http://hanam.gov.vn/vi/vn/stp/Pages/Article.aspx?ChannelId=28&articl eID=761
5 . http://enternews.vn/trung-quoc-tra-gia-the-tham-cho-su-phat-trien- 45204 .html
6 . http://nghiencuuquocte.org/2016/04/09/quoc-huu-hoa-nationalization/
7 . http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/tien-te-bao-hiem/2015-03- 02/the-nao-
laquoc-huu-hoa-ngan-hang-18354.aspx
8 . http://tapchitaichinh.vn/co-che-chinh-sach/binh-luan-chinh-sach/cu-the- hoa-cacuu-
dai-ve-thue-trong-thu-hut-dau-tu-89855.html
9. http://www.mpi.gov.vn/congkhaithongtin/Pages/solieudoanhnghiep.asp x? nam=2017 9