Preview text:
lOMoAR cPSD| 48302938
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KẾ TOÁN VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
---------------�--------------- KẾ TOÁN THUẾ
ĐỀ TÀI: CHỨNG MINH THUẾ LÀ CÔNG CỤ ĐIỀU
HÒA THU NHẬP, THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG PHÂN PHỐI Nhóm tiểu luận: 1
Danh sách thành viên nhóm: STT Họ và tên Mã sinh viên Lớp 1
Trịnh Thị Ánh Dương (NT) 6655995 K66KEKTC 2 Nguyễn Thị Kim Thủy 6667845 K66KEKTC 3 Đỗ Thị Phương Uyên 673628 K67KED 4 Đỗ Ngọc Mai 673071 K67KEKTB
Giảng viên hướng dẫn: TS. TRẦN MINH HUỆ Hà Nội - 2024 lOMoAR cPSD| 48302938 I. Đặt vấn đề
Sau hơn 35 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu
đáng kể. Điều này thể hiện rõ ràng qua mức thu nhập bình quân đầu người liên
tục tăng trong phạm vi cả nước. Một mặt tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật
chất giúp giải quyết hàng loạt vấn đề, mặt khác nếu tăng trưởng không hợp lý
đôi khi lại khiến cho nền kinh tế trở nên trì trệ. Chính vì vậy, khi nền kinh tế đã
tăng trưởng ở mức độ cao, thì vấn đề phát triển biền vững được ưu tiên đặt
nên hàng đầu. Tuy nhiên, nền kinh tế càng phát triển thì sự phân hóa giàu
nghèo ngày càng cao giữa các cá nhân và thể nhân của một quốc gia và giữa
các quốc gia với nhau, làm tăng sự bất bình đẳng và gây ra nhiều vấn đề xã hội,
kinh tế và chính trị. Trong một thế giới mà một phần nhỏ những người giàu có
sở hữu một lượng tài sản lớn hơn so với tổng số tài sản của một số lớn những
người nghèo nhất, sự phân hóa giàu ngheo không chỉ là một vấn đề cá nhân
mà còn là một vấn đề đối với toàn bộ xã hội. Tình trạng phân hóa này không
chỉ dừng lại ở việc chênh lệch thu nhập mà còn phản ánh ở nhiều khía cạnh
khác nhau của cuộc sống, bao gồm giáo dục, y tế, cơ hội việc làm và tiếp cận
các dịch vụ cơ bản. Trong bối cảnh này, chính phủ đã áp dụng các chính sách và
công cụ điều tiết để ứng phó. Một trong những công cụ quan trọng mà chính
phủ đã sử dụng đó là thuế. Theo từ điển tiếng Việt 1998: “Thuế là khoản tiền
hay hiện vật mà người dân hoặc các tổ chức kinh doanh, tùy theo tài sản, thu
nhập, nghề nghiệp buộc phải nộp cho Nhà nước theo mức quy định”. Thuế
đóng một vai trò vô cùng quan trọng, nó được ví như là dòng máu của nền kinh
tế đối với một quốc gia. Thứ nhất, thuế là công cụ chủ yếu huy động nguồn lực
vật chất cho Nhà nước. Thứ hai, thuế là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô.
Thứ ba, thuế là công cụ kiểm tra kiểm soát các hoạt động kinh doanh. Và thứ
tư, cũng là vai trò quan trọng nhất, thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực
hiện công bằng xã hội trong phân phối. Thuế, dưới góc nhìn này, không chỉ là
cách để chính phủ thu tài chính mà còn một cơ chế quan trọng để tái phân
phối thu nhập và tài nguyên từ những người giàu có sang những người có thu
nhập thấp hơn. Việc xây dựng và thi hành các chính sách thuế phù hợp có thể
đóng vai trò quyết định trong việc giảm thiểu chênh lệch về thu nhập và tạo ra
một xã hội công bằng hơn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vai trò thuế là một
công cụ điều hòa thu nhập và thực hiện công bằng xã hội trong phân phối là
cực kỳ cần thiết và mang tính chất chiến lược đối với sự phát triển bền vững
của một quốc gia. Nhận thức được tầm quan trọng đó, nhóm em quyết định lOMoAR cPSD| 48302938
lựa chọn đề tài: “ Chứng minh thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện
công bằng xã hội trong phân phối” để nghiên cứu.
II. Nội dung nghiên cứu 1.
Thuế góp phần giảm bớt khoảng cách giàu nghèo thông qua việc điều tiết thu nhập
Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập của mỗi cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào
các yếu tố như khả năng và trình độ lao động, vị trí công tác, quyền sở hữu về
tài sản của cá nhân đó. Tuy nhiên, các yếu tố nói trên của mỗi cá nhân thường
không giống nhau nên đã tạo ra sự khác biệt về thu nhập của mỗi người. Chính
sự khác biệt ấy là nguồn gốc tạo ra sự phân cực giàu nghèo, là sự bất bình đẳng
trong xã hội. Để giảm bớt khoảng cách trong thu nhập hiện nay Nhà nước cố
gắng điều chỉnh theo hai hướng: giảm bớt thu nhập của một số đối tượng có thu
nhập cao và nâng đỡ những người có thu nhập thấp để rút ngắn khoảng cách
chênh lệch khoảng cách giữa các tầng lớp dân cư. Và thuế là công cụ chính
được nhà nước sử dụng để điều hòa vĩ mô thu nhập xã hội, thông qua cả hai
hình thức thuế trực thu và thuế gián thu.
1.1. Thuế trực thu
Đây là loại thuế được nhà nước sử dụng để động viên và điều tiết trực tiếp thu
nhập của các chủ thể trong xã hội, trong đó điển hình là thuế thu nhập cá nhân
và thuế thu nhập doanh nghiệp. Thông qua thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập
doanh nghiệp không những tạo được nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước
mà nó còn góp phần rất lớn trong việc rút ngắn hố sâu khoảng cách thu nhập
giữa các tầng lớp dân cư trong nền kinh tế.
1.1.1. Thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân là khoản tiền thuế mà người có thu nhập phải trích nộp
một phần tiền lương hoặc từ các nguồn thu khác vào ngân sách nhà nước sau khi
đã tính các khoản được giảm trừ. Theo đó, thuế thu nhập cá nhân được xây dựng
trên nguyên tắc công bằng và khả năng nộp thuế. Thuế thu nhập cá nhân không
đánh vào những cá nhân có thu nhập thấp, vừa đủ nuôi sống bản thân và gia
đình ở mức cần thiết mà thuế thu nhập cá nhân chỉ đánh vào thu nhập cao hơn
mức khởi điểm thu nhập chịu thuế; thêm vào đó khi thu nhập cá nhân tăng lên
thì tỷ lệ thu thuế cũng tăng thêm; còn có quy định miễn, giảm thuế cho những cá
nhân mang gánh nặng xã hội. Do đó, việc nộp thuế thu nhập cá nhân cũng góp
phần làm giảm hợp lý khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư. lOMoAR cPSD| 48302938
Tại Việt Nam biểu thuế suất thuế TNCN như sau: Bậc Phần thu nhập tính Phần thu nhập tính Thuế suất thuế thuế/ năm thuế/ tháng (%) (triệu đồng) ( triệu đồng ) 1 Đến 60 Đến 5 5 2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10 3 Trên 120 đến 216 Trên 10 đến 18 15 4 Trên 216 đến 384 Trên 18 đến 32 20 5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 52 25 6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30 7 Trên 960 Trên 80 35
Biểu thuế luỹ tiến từng phần (Điều 22- Luật thuế thu nhập cá nhân 2007)
Nhà nước phân cấp thuế thu nhập cá nhân theo từng bậc thu nhập khác nhau,
người có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, người có thu nhập vừa thì phải
nộp thuế ít hơn, người có thu nhập dưới mức quy định người hoặc không có thu
nhập thì không phải nộp thuế, từ đó nhà nước sẽ nắm bắt thông tin về thu nhập
của dân cư, tiến tới kiểm soát, điều tiết hợp lý thu nhập, góp phần thực hiện
công bằng xã hội, hạn chế chênh lệch giàu nghèo.
Bên cạnh việc phân cấp thuế suất đối với từng bậc thu nhập nhà nước còn quy
định về các trường hợp miễn thuế, giảm thuế đối với các đối tượng khó khăn có
thu nhập thấp như để giảm bớt gánh nặng thuế phải nộp đối với các đối tượng có
thu nhập thấp. Căn cứ vào gia cảnh để giảm trừ thuế thì mức giảm trừ của gia
cảnh gồm 2 phần: giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế và giảm trừ gia
cảnh cho người phụ thuộc (người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng).
Theo quy định, mức giảm trừ gia cảnh (GTGC) đối với đối tượng nộp thuế là 11
triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm); mức GTGC đối với mỗi người phụ
thuộc mà người nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 4,4 triệu đồng/tháng kể từ
tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng.1
Với nước ta, Luật thuế thu nhập cá nhân hiện nay vẫn chưa thực sự đáp ứng đầy
đủ yêu cầu đảm bảo công bằng. Vì như đã biết tính chất công bằng trong một
chính sách thuế liên quan đến cả công bằng dọc và công bằng ngang. Công bằng
dọc tức là người có thu nhập cao hơn phải đóng góp nhiều hơn, trong khi công
bằng ngang phải đảm bảo mức đóng góp như nhau cho những người có thu nhập
ngang bằng nhau. Và có một thực tế ở nước ta hiện nay đó là không phải người
1 Theo Nghị quyết 954/2020/UBTVQH14 lOMoAR cPSD| 48302938
nào giàu nhất cũng đang đóng thuế nhiều nhất nhưng lại có những nhóm người
nghèo lại phải gánh những khoản thuế quá mức so với thu nhập và nhu cầu tối
thiểu cho cuộc sống của họ. Do đó, việc cải cách cơ chế tiền lương theo hướng
minh bạch, chẳng hạn như giảm các khoản phụ cấp không qua lương, sẽ góp
phần làm tăng tính hiệu quả cho công cuộc cải cách thuế hướng đến mục tiêu
công bằng hơn và hiệu quả hơn.
1.1.2 . Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để nhà nước thực hiện chức
năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Trong nền kinh tế thị
trường của nước ta hiện nay, mọi thành phần kinh tế đều có quyền kinh doanh
tự do và bình đẳng. Theo đó doanh nghiệp nào với lực lượng lao động có tay
nghề cao, năng lực tài chính mạnh thì doanh nghiệp đó sẽ chiếm ưu thế và có cơ
hội để nhận được thu nhập cao; ngược lại các doanh nghiệp với năng lực tài
chính, lực lượng lao động bị hạn chế sẽ nhận được lợi nhuận thấp thậm chí có
thể không có lợi nhuận. Ðể hạn chế nhược điểm đó, Nhà nước sử dụng thuế thu
nhập doanh nghiệp làm công cụ điều tiết thu nhập của các chủ thể có thu nhập
cao, đảm bảo yêu cầu đóng góp của các chủ thể kinh doanh vào ngân sách Nhà
nước được công bằng, hợp lý. Thuế thu nhập doanh nghiệp có khả năng đảm
bảo công bằng theo chiều dọc: đối tượng nộp thuế có thu nhập chịu thuế cao thì
nộp thuế nhiều, đối tượng nôp thuế có thu nhập thấp thì nộp thuế ít. Đối tượng
nộp thuế gặp khó khăn thì được giảm thuế, được chuyển lỗ sang những năm
sau…Thuế thu nhập doanh nghiệp có nhiều mức thuế suất ưu đãi khác nhau. 1.2 . Thuế gián thu
Có thế kể đến các loại thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
xuất nhập khẩu… Thuế gián thu điều tiết thu nhập thực tế có khả năng thanh
toán của dân cư bằng việc đánh thuế cao với hàng hóa dịch vụ cao cấp, đánh
thuế thấp với các hàng hóa dịch vụ thiết yếu đảm bảo đời sống của dân cư.
Nhà nước dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa người giàu và người
nghèo. Thông qua thuế thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và tiến tới
công bằng xã hội. Bên cạnh đó, chính sách thuế cũng được sử dụng để điều
chỉnh thu nhập nhờ việc đánh vào hàng tiêu dùng: Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
giá trị gia tăng. Với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu thuế sẽ được giảm bớt
nhằm có lợi cho người nghèo hơn, từ đó sự chênh lệch về thu nhập cũng được
giảm bớt. Trái lại những mặt hàng xa xỉ, cao cấp, thông qua việc tăng thuế sẽ
góp phần phân phối lại một bộ phận thu nhập của người giàu trong xã hội.
1.2.1 . Thuế tiêu thụ đặc biệt lOMoAR cPSD| 48302938
Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế gián thu đánh vào một số hàng hóa đặc biệt
do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hoặc nhập khẩu và tiêu thụ tại Việt
Nam. Đó thường là các hàng hóa, dịch vụ xa xỉ hoặc tiềm ẩn những tác động
không tốt đến sức khỏe hoặc môi trường, vì vậy cần được điều tiết tiêu thụ.
Thuế tiêu thụ đặc biệt làm tăng giá bán của hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường,
rất dễ hiểu theo quy luật cung-cầu, nếu giá bán một mặt hàng tăng, sản lượng
tiêu thụ của mặt hàng đó thường giảm. Thông qua cơ chế này, nhà nước sử dụng
thuế TTĐB nhằm điều hướng tiêu dùng các mặt hàng đặc biệt và đảm bảo sự
công bằng trong đóng góp xã hội.
Một trong những cách mạnh mẽ nhất mà thuế tiêu thụ đặc biệt có thể đóng góp
vào việc giảm bớt khoảng cách giàu nghèo là thông qua việc áp dụng thuế này
lên các mặt hàng xa xỉ và thường được tiêu tiền bởi những người giàu có. Các
sản phẩm như ô tô cao cấp, tàu bay, du thuyền và hàng tiêu dùng sang trọng
thường chiếm phần lớn nguồn tiêu dùng của nhóm thu nhập cao. bằng cách yêu
cầu các nhóm người giàu phải đóng góp nhiều hơn vào ngân sách quốc gia.
Thêm nữa, việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt lên các mặt hàng có hại cho sức
khỏe như thuốc lá, rượu bia, và đồ uống có gas cũng đóng một vai trò quan
trọng trong việc giảm bớt khoảng cách giàu nghèo. Những sản phẩm này thường
được tiêu thụ nhiều bởi các nhóm giàu có, nhưng cũng gây ra nhiều hậu quả tiêu
cực cho sức khỏe, đặc biệt là ở những cộng đồng có thu nhập thấp. Việc áp dụng
thuế tiêu thụ đặc biệt là một biện pháp hiệu quả để không chỉ tăng nguồn thu
nhập cho ngân sách quốc gia bằng cách yêu cầu các nhóm người giàu phải đóng
góp nhiều hơn vào ngân sách quốc gia mà còn giúp giảm bớt việc tiêu tiền vào
những sản phẩm có hại, từ đó cải thiện sức khỏe và giảm chi phí điều trị trong cộng đồng.
Ví dụ: Nhà nước đánh thuế cao đối với mặt hàng ô tô – đây là loại hàng hóa mà
chỉ những thu nhập cao mới mua được. Mặt hàng này phải chịu thuế GTGT,
thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt với mức thuế suất rất cao. Như đối
với xe ô tô chở từ 9 người trở xuống (trừ một số loại theo quy định) có dung tích
xi lanh trên 4000 cm^3 đến 5000 cm^3 bị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt 110%.
1.2.2 . Thuế giá trị gia tăng
Một trong những đặc điểm nổi bật của thuế giá trị gia tăng là tính công bằng
trong việc đóng góp vào ngân sách quốc gia từ mọi tầng lớp xã hội. Theo cơ chế
này, mỗi người tiêu dùng đều phải chịu một phần thuế tương ứng với giá trị của
sản phẩm hoặc dịch vụ mà họ mua. Điều này có nghĩa là các nhóm giàu có, tiêu lOMoAR cPSD| 48302938
tiền nhiều hơn, sẽ đóng góp nhiều hơn vào ngân sách nhà nước thông qua thuế
giá trị gia tăng, đồng thời giảm bớt bất bình đẳng thu nhập.
Thuế giá trị gia tăng làm giảm áp lực thuế đối với hàng hóa thiết yếu như thực
phẩm, y tế, giáo dục, đào tạo công cộng thông qua việc miễn hoặc giảm thuế
cho các mặt hàng này. Điều này không chỉ giảm bớt gánh nặng tài chính đối với
các gia đình có thu nhập thấp mà còn tạo điều kiện thuận lợi hơn cho họ tiếp cận
và sử dụng các dịch vụ cần thiết. Bên cạnh đó, giúp giảm bớt bất bình đằng
trong việc tiếp cận dịch vụ cơ bản giữa các tầng lớp xã hội.
Đối với nhà nước, việc giảm áp lực thuế đối với hàng hóa thiết yếu cũng có thể
được xem là một biện pháp nhằm thúc đẩy tiêu thụ và tăng cường sự phát triển
kinh tế. Những người tiêu dùng có thu nhập thấp thường chi tiêu hầu hết thu
nhập của mình vào các mặt hàng và dịch vụ cần thiết, vì vậy việc giảm thuế cho
các mặt hàng này có thể tạo ra một tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh
và sản xuất, đồng thời góp phần vào việc tăng cường sự phát triển kinh tế và
giảm bớt khoảng cách giàu nghèo.
2. Nguồn thuế góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
và công bằng xã hội.
Sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về thuế tại Việt Nam được thể hiện rõ
từ quá trình ban hành và thực hiện phấp luật. Cụ thể đó là mọi nguồn thu từ
thuế, lệ phí đều do Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội đặt ra bằng luật
và pháp lệnh, được áp dụng thực hiện thống nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Thêm vào đó tính thống nhất còn được thể hiện qua việc hệ thống thuế ở nước
ta không chia thành các sắc thuế quốc gia và sắc thuế đại phương như một số nước.
Để đảm bảo sự bình đẳng, công bằng về cạnh tranh, lợi ích cũng như sự phát
triển hài hòa giữa các chủ thể trong xã hội thì mức thuế suất được sử dụng để
động viên là như nhau đối với các chủ thể có cùng một điều kiện hoạt động và
đi cùng với điều kiện hoạt động khác nhau là các mức thuế suất khác nhau.
Minh họa cho đặc điểm này, có thể lấy ví dụ về mức thuế suất theo luật thuế
thu nhập doanh nghiệp năm 2008. Theo đó, thuế suất chung áp dụng cho các
doanh nghiệp là 25%, tuy nhiên đối với tất cả các doanh nghiệp thành lập mới
từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn sẽ
được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm. Miễn thuế 4 năm, lOMoAR cPSD| 48302938
giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo, nếu doanh nghiệp thành lập
mới trong lĩnh vực xã hội hóa tại địa bàn khó khăn…
Thuế là nguồn thu chủ yếu để hình thành nên ngân sách nhà nước và nhà
nước sẽ sử dụng ngân sách để trang trải cho các khoản chi tiêu công nhằm
thực hiện vai trò và chức năng của mình. Nguồn thuế thu được, một phần
được sử dụng để phân phối lại cho các đối tượng chính sách, khó khăn trong xã
hội. Trong các khoản chi của nhà nước thì khoản chi liên quan đến chi phúc lợi
xã hội, an sinh xã hội, chi các chương trình mục tiêu để hỗ trợ cho những người
có thu nhập thấp, những người thuộc diện chính sách, đối tượng khó khăn…
luôn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi ngân sách của nhà nước. Và đặc biệt
đối với Việt Nam - đất nước đang phấn đấu thực hiện mục tiêu xã hội chủ
nghĩa - thì các khoản chi tiêu này là một trong số các ưu tiên hàng đầu trong
quá trình phân bổ ngân sách của Nhà nước.
Ví dụ: - Trong dự toán phân bổ ngân sách nhà nước năm 2011 được Quốc hội
thông qua thì tổng số chi ngân sách là 725.600 tỷ đồng, trong đó dành 143.400
tỷ đồng tập trung thực hiện đảm bảo an sinh xã hội như điều chỉnh chuẩn
nghèo, thực hiện chế độ bảo hiểm y tế cho người nghèo, cận nghèo, trẻ em
dưới 6 tuổi, tăng chi đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, cải cách tiền lương.
Hay như các chính sách hỗ trợ người nghèo như cho sinh viên và các hộ nghèo vay vốn ưu đãi…
- Ngày 15/3/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP
quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội. Theo Nghị
định, mức chuẩn trợ giúp xã hội áp dụng từ ngày 01/7/2021 là 360.000
đồng/tháng (tăng 90.000 đồng/tháng so với mức chuẩn cũ quy định tại Nghị
định số 136/2013 /NĐ-CP là 270.000 đồng/tháng ).
Theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, các đối tượng bảo trợ
xã hội hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, bao gồm:
1. Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP: Bị bỏ
rơi chưa có người nhận làm con nuôi; mồ côi cả cha và mẹ; mồ côi cha hoặc
mẹ và người còn lại bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật; cả
cha và mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật… lOMoAR cPSD| 48302938
2. Người thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định số
20/2021/NĐ-CP đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng mà đủ 16 tuổi nhưng
đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn
băng thứ nhất thì tiếp tục được hưởng chính sách trợ giúp xã hội cho đến khi
kết thúc học, nhưng tối đa không quá 22 tuổi.
3. Trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo.
4. Người thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có chồng hoặc chưa có vợ;
đã có chồng hoặc vợ nhưng đã chết hoặc mất tích theo quy định của pháp
luật và đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 đến 22 tuổi và
người con đó đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng, đại học văn bằng thứ nhất quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 20 /2021/NĐ-CP.
5. Người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 5
Nghị định số 20/2021/NĐ-CP.
6. Người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định pháp
luật về người khuyết tật.
7. Trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc đối
tượng quy định tại các khoản 1, 3 và 6 Điều 5 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP
đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi đặc biệt khó khăn.
8. Người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo không có nguồn thu nhập ổn
định hàng tháng như tiền lương, tiền công, lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã
hội, trợ cấp xã hội hàng tháng.
Các đối tượng trên được trợ cấp xã hội hàng tháng với mức bằng mức chuẩn
trợ giúp xã hội (360.000 đồng/tháng kể từ ngày 01/7/2021) nhân với hệ số
tương ứng. Ngoài ra, các đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp xã hội
hàng tháng được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm y tế. Bên cạnh đó, các đối tượng quy định tại Điều 5 Nghị định số
20/2021/NĐ-CP học giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, cao đẳng và đại
học được hưởng chính sách hỗ trợ về giáo dục, đào tạo và dạy nghề theo quy định của pháp luật. lOMoAR cPSD| 48302938 III. Kết luận
Thuế có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Vai trò của thuế không chỉ là cung cấp nguồn tài chính cho chính phủ mà còn là
một công cụ quan trọng để điều chỉnh và cân đối phân phối thu nhập trong xã
hội. Qua việc áp dụng các chính sách thuế, chúng ta đã thấy rằng thuế có thể
giảm bớt khoảng cách giàu nghèo và tạo ra một sự công bằng xã hội hơn.
Bên cạnh đó, bằng cách sử dụng thu nhập từ thuế để tài trợ cho các dịch vụ cơ
bản như giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, ..., đảm bảo rằng bất cứ
ai cũng đều có cơ hội tiếp cận các dịch vụ quan trọng này mà không phụ thuộc
vào mức thu nhập cá nhân, đồng thời góp phần xây dựng một nền tảng vững
chắc cho sự phát triển và thịnh vượng của xã hội.
Việc nghiên cứu và cải thiện hệ thống thuế cũng là một phần quan trọng trong
việc xây dựng một xã hội công bằng và bền vững trong tương lai. Thuế là khoản
thu chủ yếu của NSNN và là công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vì thế
ngày càng có nhiều chính sách thuế mới được ra đời khiến hệ thống thuế trở
nên đa dạng, phức tạp, linh hoạt và tác động sâu rộng đến mọi hoạt động kinh
tế - xã hội. Đánh thuế không đơn thuần để tạo thu NSNN mà còn mang nhiều ý
nghĩa quan trọng về kinh tế, xã hội, chính trị, đối nội, đối ngoại. Do đó Nhà
nước cần phải có các biện pháp quản lý thu thuế hợp lý, hiệu quả nhằm phát
huy được những tác động tích cực của thuế đối với hoạt động kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.