Đề tài: “Lý luận về gia đình với việc xây dựng gia đình hạnh phúc ở Việt Nam hiện nay” |CNXHKH

Đề tài: “Lý luận về gia đình với việc xây dựng gia đình hạnh phúc ở Việt Nam hiện nay” với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!

I. Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề bài
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng
hình thành, nuôi dưỡng giáo dục nhân cách con người, bảo tồn phát
huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn hội, tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không những vậy,
gia đình còn tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc. Gia đình tổ ấm,
mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong đời sống của mỗi thành viên,
mỗi công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện được mối quan hệ
tình cảm thiêng liêng giữa vợ chồng, cha mẹ con cái. Gia đình chỗ
dựa tinh thần vững chắc trong cuộc sống, chốn về bình yên sau những vất vả
gian lao, nơi luôn rộng mở khoan dung sau những sai lầm vấp ngã. Chính vì
vậy, quan tâm xây dựng quan hệ hội, quan hệ gia đình bình đẳng, hạnh
phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạnghội chủ nghĩa. Từ đó,
câu hỏi nghiên cứu được đặt ra: Gia đình Việt Nam như thế nào trong giai
đoạn thời kỳ đổi mới? Những giải pháp để phát huy xây dựng gia đình
hạnh phúc ở Việt Nam hiện nay? Để trả lời cho các câu hỏi trên, em chọn đề
tài: “Lý luận về gia đình với việc xây dựng gia đình hạnh phúc ở Việt Nam
hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: để bản thân em cũng như các bạn sinh viên hiểu được
tầm quan trọng của gia đình, cũng như làm sao đểthể duy trì được 1 gia
đình hạnh phúc.
Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu thì cần phân tích rõ ràng, làm sáng
tỏ sở luận về gia đình, nêu ra thực trạng của gia đình Việt Nam hiện
nay và đưa ra được giải pháp xây dựng gia đình trong thời kì mới.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: gia đình trên thế giới nói chung và gia đình Việt Nam
nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam cũng như thế giới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu này dựa trên sở luận về quan điểm của chủ nghĩa
hội Mác - Lênin, đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật với
các phương pháp như: thống nhất lôgic lịch sử, phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài trình bày lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề gia đình
sở hình thành gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, đồng
thời phân tích diễn biến của gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội ở Việt Nam hiện nay và gắn với hoàn cảnh hiện nay, tìm ra giải pháp xây
dựng và phát triển gia đình hạnh phúc ở Việt Nam, từ đó liên hệ bản thân
gia đình.
II. Phần nội dung
Phần 1: Phần lý luận
1. Một số quan niệm chung về gia đình và gia đình Việt Nam hiện nay
1.1. Khái niệm và đặc điểm
Gia đình một cộng đồng duy nhất của các nhân đóng một vai trò quan
trọng trong sự tồn tại phát triển của nền văn minh. Khi bàn về gia đình,
C.Mác Ph.Ăngghen đã nhận định: “... hàng ngày con người sáng tạo lại
cuộc sống của mình, con người lại sáng tạo ra những người khác, để sinh
sôi, nảy nở - đó là quan hệ vợ chồng, cha mẹ con cái, gia đình." sở
hình thành gia đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân và quan hệ
huyết thống.
Ngoài hai mối quan hệ cơ bản là vợ chồng và cha mẹ con cái, trong gia đình
còn các mối quan hệ khác như quan hệ giữa ông với cháu, quan hệ
giữa anh chị em với nhau, quan hệ giữa cô, chú, bác, cháu, cháu. , quan hệ
giữa cha mẹ nuôi con nuôi... Các mối quan hệ này gắn chặt chẽ với
nhau, sự thay đổiphát triển do trình độ phát triển kinh tế và điều kiện vật
chất quyết định. Tính chất chính trị xã hội.
Từ đó thể thấy được, gia đình một kiểu cộng đồng hội riêng biệt
được hình thành, duy trì củng cố chủ yếu thông qua hôn nhân, quan hệ
huyết thống, nuôi dưỡng cũng như các quy định chi phối quyền nghĩa vụ
của các thành viên trong gia đình.
1.2. Vai trò và vị trí của gia đình trong xã hội
Gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội. Hơn nữa, quy mô, cơ cấu, hình thức tổ
chức cấu của gia đình do trình độ phát triển kinh tế - hội quyết
định.
Gia đình một thiết chế hội bản khác biệt, phục vụ như một
liên kết giữa các cá nhân xã hội. Gia đình còntổ ấm, mang hạnh phúc
và sự hòa thuận vào cuộc sống của mỗi thành viên.
1.3.Chức năng cơ bản của gia đình
Gia đình chức năng đáp ứng nhu cầu tâm sinh gắn gia đình
Ngoài ra, bên cạnh chức năng sinh sản của con người, gia đình cònchức
năng chăm sóc, giáo dục. Cùng với đó các hoạt động kinh tế tổ chức
tiêu dùng. Ngoài các trách nhiệm được liệt trên, gia đình còn phục vụ
mục đích văn hóa và chính trị...
2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
2.1.Cơ sở kinh tế - xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, sở kinh tế - hội còn khá
mờ nhạt chưa phát triển đầy đủ. Tuy nhiên,sở kinh tế vẫn còn tồn tại
dưới dạng nông nghiệp và thủ công nghiệp, và có sự phân hoá giai cấp. Các
gia đình trong giai đoạn này thường chịu áp lực từ cả hai mặt, một bên
khó khăn trong sản xuất và cuộc sống, một bên là định kiến, quan niệm khó
hiểu truyền thống văn hóa còn gây cản trở cho việc xây dựng phát
triển gia đình. Do đó, các gia đình phải tìm cách tự cải thiện hoàn cảnh, tập
trung vào công việc sản xuất giáo dục con cái để đạt được sự phát triển
bền vững cho gia đình, từ đó đặt nền tảng cho một kiểu gia đình mới tốt đẹp
và hạnh phúc.
2.2.Cơ sở chính trị - xã hội
sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội là sự tôn trọng và bảo vệ quyền lợi và tự do cá nhân của mỗi thành viên
trong gia đình, đồng thời thể hiện sự đoàn kết và tương đồng giữa các thành
viên trong gia đình. Một trong những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
hội là giáo dục và đào tạo để đẩy mạnh sự phát triển của con người để họ có
thể tự do hạnh phúc trong cuộc sống. vậy, gia đình nơi truyền đạt
giá trị đạo đức trong hội, giúp các thành viên của gia đình phát triển
về cảm xúc, tinh thần thể chất. Gia đình cũng phải hoạt động trong một
môi trường hội công bằng bình đẳng, nơi mọi người đều hội
bình đẳng để tham gia và phát triển. Trong thời kỳ quá độhội chủ nghĩa,
khuôn khổ pháp luật chính sách hội của Nhà nước hội chủ nghĩa
vừa định hướng, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng gia đình
mới.
2.3.Cơ sở văn hóa
Trong thời kỳ chuyển tiếp từ xã hội thống trị giai cấp sang chủ nghĩa xã hội,
việc xây dựng gia đình cũng cần sở văn hóa phù hợp. Điều này đòi
hỏi các gia đình phải tuân theo những giá trị bản của hội mới, bao
gồm:
Tôn trọng giá trị của phụ nữ và truyền đạt cho con cái tinh thần này.
Quan tâm đến hạnh phúc sự phát triển của mỗi thành viên trong
gia đình.
Xây dựng mối quan hệ gia đình dựa trên sự tự do, bình đẳng tôn
trọng lẫn nhau.
Tôn trọng quyền lợi của trẻ em và cho phép chúng học hỏi, khám phá
thế giới xung quanh.
Tạo ra một môi trường gia đình ấm áp và đầy tình yêu thương.
Với các giá trị này, sở văn hóa cho việc xây dựng gia đình trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được định hình, giúp gia đình phát triển và đóng
góp vào sự phát triển của cả xã hội.
2.4.Chế độ hôn nhân tiến bộ
- Bình đẳng trong hôn nhân
- Hôn nhân tiến bộ và có sự tôn trọng giữa vợ chồng với nhau
- Hôn nhân được pháp luật bảo vệ
3. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
3.1.Biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình
Gia đình Việt Nam ngày nay một “gia đình chuyển tiếp” trong quá trình
chuyển đổi từ nền văn minh nông nghiệp truyền thống sang hội công
nghiệp đương đại. “Gia đình đơn thân” (hay còn gọi gia đình hạt nhân)
đang phổ biến ở cả thành thị và nông thôn, thay thế “gia đình truyền thống”
(gia đình nhiều thế hệ cùng chung sống). nhau) đã dẫn trước rồi. Do đó, sự
tan rã của hình thứcvà sự phát triển của hình thức mới là điều khó tránh
khỏi.
Quy gia đình ngày nay đang giảm nhanh hơn so với trước đây số
lượng thành viên trong gia đình đang giảm. Nếu gia đình truyền thống cổ
xưa thể chung sống dưới một mái nhà trong ba hoặc bốn thế hệ, thì quy
gia đình ngày nay đang giảm dần. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ gồm
hai thế hệ: cha mẹ con cái. Số con trong gia đình ít hơn trước; mỗi gia
đình chỉ từ một đến hai con, còn một số ít gia đình độc thân. Tuy nhiên,
gia đình hạt nhân quy nhỏ vẫn phổ biến nhất. Mỗi thành viên trong
gia đình đều muốn một môi trường riêng tư, dễ chịu, nơi họ thể làm
bất cứ điềuhọ muốn mà không bị người khác phán xét. Con cái trong độ
tuổi kết hôn không phải phụ thuộc nhiều vào cha mẹ về tài chính do đã
công ăn việc làm ổn định nên có nhu cầu về chỗriêng để thuận tiện trong
cuộc sống hàng ngày. Mặt khác, duy trì gia đình truyền thống sẽ bóp nghẹt
tự do, phủ nhận cái tôi, bản sắc khả năng phát triển của con người, dẫn
đến hậu quả khan hiếm nhân tài trong tương lai cho đất nước. thời đại công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2.Biến đổi các chức năng của gia đình
3.2.1. Chức năng tái sản xuất con người
Với những tiến bộ của y học hiện đại, các gia đình ngày càng tích cực
tham gia vào việc sinh nở. Hơn nữa, việc sinh con chịu sự điều chỉnh
của chính sách xã hội của Nhà nước, do tình hình nhân khẩu học và nhu
cầu lao động của hội quyết định. Nếu như trước đây, gia đình Việt
Nam theo truyền thống: sinh nhiều con, càng nhiều con càng tốt và nhất
thiết phải con trai thì ngày nay, nhu cầu đó đã thay đổi căn bản: thể
hiện ở việc giảm mức sinh của nữ, giảm số mong muốn có con, và giảm
nhu cầu sinh con trai của các cặp vợ chồng. Sự ổn định hôn nhân trong
gia đình hiện đại chịu ảnh hưởng nặng nề của các khía cạnh tâm lý, tình
cảm kinh tế, chứ không chỉ con hay không con, con trai
hay không có con. Con trai thích một gia đình thông thường.
3.2.2. Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Nhìn chung, kinh tế gia đình trải qua hai bước ngoặt: Một là, từ nền
kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa. Thứ hai, từ một đơn vị
kinh tế được đặc trưng bởi việc sản xuất các sản phẩm phù hợp với nhu
cầu của thị trường toàn cầu, sang mộtcấu kinh tế của nền kinh tế thị
trường đương đại đáp ứng nhu cầu của thị trường toàn cầu.
3.2.3. Biến đổi chức năng xã hội hóa
Nội dung giáo dục gia đình hiện nay không chỉ chú trọng giáo dục đạo
đức, cách ứng xử trong gia đình, dòng tộc, làng xóm như trước đây
còn hướng đến giáo dục thế hệ trẻ những kiến thức khoa học đương đại,
trang bị hành trang cho con cái hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, khi hệ
thống giáo dục hội phát triển, kinh tế tăng trưởng như hiện nay thì
chức năng giáo dục của các chủ thể trong gia đình xu hướng giảm
dần. Những tiêu cực xảy ra trong nhà trường hội ngày càng phổ
biến, làm giảm sự kỳ vọng và suy nghĩ của cha mẹ về hệ thống giáo dục
hội trong việc phát triển đạo đức nhân cách của con cái họ. hơn
trước rất nhiều. Việt Nam hiện nay, không câu trả lời khả thi nào
cho vấn đề nan giải này. Trong những năm gần đây, những tác động nói
trên đã làm suy yếu đáng kể tầm quan trọng của gia đình trong việc
hội hóa và dạy dỗ con cái trong xã hội của chúng ta.
3.2.4. Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tình cảm
Nhu cầu về khoái cảm tâm - tình cảm đang tăng lên trong gia đình
Việt Nam ngày nay, khi gia đình chuyển từ đơn vị chủ yếu kinh tế
sang chủ yếu là đơn vị tình cảm. Các gia đình hiện đang trải qua một số
khó khăn và trở ngại. Đặc biệt trong tương lai gần, khi tỷ lệ các gia đình
chỉ có một con tăng lên, nhiều thanh niên và thậm chí cả người lớn sẽ có
một cuộc sống tâm lý-tình cảm kém phong phú hơn. Ảnh hưởng của
công nghiệp hóa toàn cầu hóa đã tạo ra khoảng cách đáng kể giữa
người giàu người nghèo, nhà nước phải thực hiện các biện pháp
hỗ trợ người nghèo để thu hẹp khoảng cách ngày càng tăng giữa người
giàu người nghèo. Cùng với đó, vấn đề đặt ra phải thay đổi cách
hiểu truyền thống về giới trong gia đình. Điều đó đòi hỏi phải xây dựng
những chuẩn mực mới bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các thành viên
trong gia đình cũng như giữa gia đình và xã hội.
3.2.5. Sự biến đổi quan hệ gia đình
3.2.5.1. Biến đổi quan hệ hôn nhân vợ chồng
Trên thực tế, đời sống hôn nhân gia đình Việt Nam đang
những vấn đề thay đổi đáng kể. Toàn cầu hóa, do chế thị
trường, khoa học công nghệ đương đại, gây ra nhiều hệ lụy tiêu
cực cho gia đình, bao gồm: mối quan hệ vợ chồng căng thẳng, tỷ lệ
ly hôn gia tăng, ngoại tình, v.v. Song song đó những tai ương
khác như bi kịch gia đình, bị xâm hại tình dục… Bên cạnh đó,
những áp lực của cuộc sống hiện đại khiến nhiều người trong xã hội
gặp khó khăn trong hôn nhân. hình chủ gia đình trong gia đình
Việt Nam ngày nay cũng đang phát triển. ít nhất hai hình
nữa cùng tồn tại với hình đàn ông-chồng. Đó chính mẫu
người phụ nữ - vợ chủ gia đình - cũng như mẫu người chồng
vợ đều là chủ gia đình.
3.2.5.2. Biến đổi quan hệ giữa các thế hệ, giá trị chuẩn mực văn hóa
trong gia đình
Tương tác giữa các thế hệ, cũng như các giá trị gia đình chuẩn
mực văn hóa, không ngừng phát triển trong bối cảnh hội Việt
Nam ngày nay. Việc giáo dục con cái trong các gia đình đương đại
hầu như được phó mặc cho nhà trường, thay được ông bà, cha
mẹ giáo dục từ nhỏ như trong các gia đình truyền thống. Người cao
tuổi trong các hộ gia đình hiện đại cũng ít hội sống cùng con
cháu như các thế hệ trước. Diễn biến của các mối quan hệ trong gia
đình cho thấy khó khăn lớn nhất đối với các gia đình Việt Nam
xung đột giữa các thế hệ do chênh lệch tuổi tác khi chung sống.
4. Thực trạng các gia đình ở Việt Nam hiện nay
4.1.Về mặt tích cực: Các gia đình đang dần chuyển từ gia đình đa thế hệ sang
gia đình nhỏ hơn nhu cầu tạo ra môi trường sống tốt hạnh phúc
hơn. Điều này được thể hiện thông qua sự phát triển của các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe, giáo dục, giải trí, và mua sắm dành cho gia đình. Nhiều người
dân đã nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu vào sức khỏe, văn
hóa, giáo dục cho trẻ em của mình. Các gia đình cũng đang dần chuyển
sang cách tiêu dùng thông minh hơn để tiết kiệm chi phí tạo ra một môi
trường sống an toàn bền vững hơn. Ngoài ra, nhiều gia đình ở Việt Nam
đang đưa ra các quyết định tiên tiến về vai trò của nam và nữ trong gia đình,
giới hạn số lượng con cái tôn trọng sự lựa chọn nhân của mỗi thành
viên trong gia đình.
4.2.Về mặt tiêu cực: Tuy nhiên, Tình trạng gia đình Việt Nam hiện nay đang
đối diện với nhiều thách thức vấn đề phức tạp. Một số vấn đề tiêu cực
của gia đình ở Việt Nam bao gồm việc trong các gia đình có người lao động
nhập cư bất hợp pháp: Gia đình của những người lao động này thường phải
chịu đựng căng thẳng, lo lắng và ảnh hưởng đến đời sống: tài chính, kinh tế,
lương thực an ninh. Bên cạnh đó vấn đề về việc thâm hụt các giá trị
gia đình: Gia đình trở nên bất ổn, không phát triển được niềm tin sự tin
tưởng của thành viên. Các giá trị gia đình như tôn trọng, nỗ lực, trách
nhiệm, học tập đoàn kết cũng chưa được đánh giá cao. Áp lực của cuộc
sống cũng vấn đề nổi lên trong thời kỳ gia đình hiện tại. Các gia đình
nông thôn đang phải đối mặt với áp lực kinh tế và xã hội. Nhiều người buộc
phải đi làm ở thành phố để kiếm sống, điều này đã gây ra sự xa cách và bất
ổn cho gia đình. Và cuối cùng, một trong những vấn đề lớn nhất đối với gia
đình tại Việt Nam tình trạng gia đình tách rời. nhiều do, người dân
đến nắm đất đô thị về nông thôn, hoặc tại những đô thị lớn, để tìm kiếm
nơi để sống tốt, và dẫn đến tình trạng gia đình tách rời.
5. Mục tiêu cơ bản của việc xây dựng và mở rộng gia đình Việt Nam trong thời kỳ
quá độ xã hội chủ nghĩa
Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền
địa phương đối với công tác gia đình. Hai là, đẩy mạnh các hoạt động truyền
thông, giáo dục, vận động nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng các
thành viên gia đình về vị trí, chức năng của gia đình trong thời đại công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ ba, ưu tiên các chính sách hỗ trợ phát triển kinh
tế gia đình đối với các gia đình chính sách, gia đình công với nước, gia đình
đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo, hộ khó khăn, hộ đặc biệt khó khăn, hộ gia
đình ở vùng sâu, vùng xa của Tổ quốc.
Phần 2: Liên hệ bản thân
Để duy trì phát triển gia đình hạnh phúc, tôi tin rằng việc giữ liên lạc chăm
sóc cho các thành viên trong gia đình rất quan trọng. Đầu tiên, tôi luôn cố gắng
tạo thời gian để trò chuyện và làm việc cùng với gia đình, đặc biệt là khi mọi người
đang gặp khó khăn hay những vấn đề cần giải quyết. Tôi cũng đưa ra sự quan
tâm và lắng nghe những suy nghĩ, cảm xúc của các thành viên trong gia đình, giúp
họ cảm thấy được yêu thương và chăm sóc. Ngoài ra, tôi cũng luôn hỗ trợ, giúp đỡ
những điều gia đình cần. Như giữ gìn sự hài hòa trong mối quan hệ hoặc
giúp đỡ các thành viên khác trong gia đình khi họ cần sự giúp đỡ. Tôi tin rằng
những việc này giúp tôi và gia đình tôi có thể duy trì và phát triển những mối quan
hệ tốt đẹp, hạnh phúc ấm cúng. Hơn thế nữa, để xây dựng một mối quan hệ tốt
với gia đình, bản thân chúng ta cần lòng bao dung, cảm thông sẵn sàng lắng
nghe những suy nghĩ của những người thân yêu. Chúng ta cần quan tâm đến cuộc
sống, công việc sức khỏe của nhau, đồng thời xây dựng một không gian giao
tiếp rõ ràng và chân thành để trao đổi và giải quyết các vấn đề khiến cho các thành
viên trong gia đình cảm thấy bị áp lực. Để duy trì được gia đình hạnh phúc là trách
nhiệm cũng như nhiệm vụ của từng cá nhân ở bên trong, bởi lẽ gia đình hạnh phúc
nền tảng vững chắc cho mỗi nhân phát triển thành công trong cuộc sống.
Họ tình yêu sự ủng hộ nhau, tạo nên một môi trường an toàn xây dựng,
giúp cho thành viên trong gia đình thể tự tin khám phá khai thác tiềm năng
của mình. Gia đình hạnh phúc cũng cung cấp cho con cái học hỏi những giá trị văn
hóa, đạo đức và ý thức trách nhiệm, giúp cho chúng trở thành con người có ích cho
xã hội. Khi có những thách thức trong cuộc sống, gia đình hạnh phúc sẽ luôn đồng
hành hỗ trợ lẫn nhau vượt qua những khó khăn. vậy, một gia đình hạnh
phúc là điều giá một món quà tuyệt vờimọi người nên trân trọng yêu
quý.
III. Kết luận
Qua nghiên cứu, phân tích luận chung về gia đình thực trạng chung của gia
đình Việt Nam hiện nay, tôi nhận thức những giá trị gia đình mang lại ý
thức được trách nhiệm của bản thân trong việc sống xứng đáng cũng như xây dựng
phát triển gia đình, tận dụng thời gian bạn với gia đình của bạn. Thật một
phước lành khi được một phần của một gia đình yêu thương. Hãy lên tiếng
khắc phục mọi khó khăn trong những gia đình còn đang những khúc mắc
với nhau. Chúng ta hãy cố gắng hết sức để xây dựng, nuôi dưỡng và nâng niu trân
trọng bến tàu tráng lệ nhất mang tên Gia đình.
| 1/12

Preview text:

I. Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề bài
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng
hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát
huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không những vậy,
gia đình còn là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc. Gia đình là tổ ấm,
mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong đời sống của mỗi thành viên,
mỗi công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện được mối quan hệ
tình cảm thiêng liêng giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái. Gia đình là chỗ
dựa tinh thần vững chắc trong cuộc sống, chốn về bình yên sau những vất vả
gian lao, nơi luôn rộng mở khoan dung sau những sai lầm vấp ngã. Chính vì
vậy, quan tâm xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia đình bình đẳng, hạnh
phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ đó,
câu hỏi nghiên cứu được đặt ra: Gia đình Việt Nam như thế nào trong giai
đoạn thời kỳ đổi mới? Những giải pháp để phát huy và xây dựng gia đình
hạnh phúc ở Việt Nam hiện nay? Để trả lời cho các câu hỏi trên, em chọn đề
tài: “Lý luận về gia đình với việc xây dựng gia đình hạnh phúc ở Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: để bản thân em cũng như các bạn sinh viên hiểu được
tầm quan trọng của gia đình, cũng như làm sao để có thể duy trì được 1 gia đình hạnh phúc.
Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu thì cần phân tích rõ ràng, làm sáng
tỏ cơ sở lý luận về gia đình, nêu ra thực trạng của gia đình Việt Nam hiện
nay và đưa ra được giải pháp xây dựng gia đình trong thời kì mới.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: gia đình trên thế giới nói chung và gia đình Việt Nam nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam cũng như thế giới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu này dựa trên cơ sở lý luận về quan điểm của chủ nghĩa xã
hội Mác - Lênin, đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật với
các phương pháp như: thống nhất lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài trình bày lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề gia đình và
cơ sở hình thành gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng
thời phân tích diễn biến của gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay và gắn với hoàn cảnh hiện nay, tìm ra giải pháp xây
dựng và phát triển gia đình hạnh phúc ở Việt Nam, từ đó liên hệ bản thân và gia đình. II. Phần nội dung Phần 1: Phần lý luận
1. Một số quan niệm chung về gia đình và gia đình Việt Nam hiện nay
1.1. Khái niệm và đặc điểm
Gia đình là một cộng đồng duy nhất của các cá nhân đóng một vai trò quan
trọng trong sự tồn tại và phát triển của nền văn minh. Khi bàn về gia đình,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận định: “... hàng ngày con người sáng tạo lại
cuộc sống của mình, con người lại sáng tạo ra những người khác, để sinh
sôi, nảy nở - đó là quan hệ vợ chồng, cha mẹ và con cái, là gia đình." Cơ sở
hình thành gia đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.
Ngoài hai mối quan hệ cơ bản là vợ chồng và cha mẹ con cái, trong gia đình
còn có các mối quan hệ khác như quan hệ giữa ông bà với cháu, quan hệ
giữa anh chị em với nhau, quan hệ giữa cô, chú, bác, cháu, cháu. , quan hệ
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi... Các mối quan hệ này gắn bó chặt chẽ với
nhau, sự thay đổi và phát triển do trình độ phát triển kinh tế và điều kiện vật
chất quyết định. Tính chất chính trị xã hội.
Từ đó có thể thấy được, gia đình là một kiểu cộng đồng xã hội riêng biệt
được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu thông qua hôn nhân, quan hệ
huyết thống, nuôi dưỡng cũng như các quy định chi phối quyền và nghĩa vụ
của các thành viên trong gia đình.
1.2. Vai trò và vị trí của gia đình trong xã hội
Gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội. Hơn nữa, quy mô, cơ cấu, hình thức tổ
chức và cơ cấu của gia đình do trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định.
Gia đình là một thiết chế xã hội cơ bản và khác biệt, nó phục vụ như một
liên kết giữa các cá nhân và xã hội. Gia đình còn là tổ ấm, mang hạnh phúc
và sự hòa thuận vào cuộc sống của mỗi thành viên.
1.3.Chức năng cơ bản của gia đình
Gia đình có chức năng đáp ứng nhu cầu tâm sinh lý và gắn bó gia đình
Ngoài ra, bên cạnh chức năng sinh sản của con người, gia đình còn có chức
năng chăm sóc, giáo dục. Cùng với đó là các hoạt động kinh tế và tổ chức
tiêu dùng. Ngoài các trách nhiệm được liệt kê ở trên, gia đình còn phục vụ
mục đích văn hóa và chính trị...
2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
2.1.Cơ sở kinh tế - xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở kinh tế - xã hội còn khá
mờ nhạt và chưa phát triển đầy đủ. Tuy nhiên, cơ sở kinh tế vẫn còn tồn tại
dưới dạng nông nghiệp và thủ công nghiệp, và có sự phân hoá giai cấp. Các
gia đình trong giai đoạn này thường chịu áp lực từ cả hai mặt, một bên là
khó khăn trong sản xuất và cuộc sống, một bên là định kiến, quan niệm khó
hiểu và truyền thống văn hóa còn gây cản trở cho việc xây dựng và phát
triển gia đình. Do đó, các gia đình phải tìm cách tự cải thiện hoàn cảnh, tập
trung vào công việc sản xuất và giáo dục con cái để đạt được sự phát triển
bền vững cho gia đình, từ đó đặt nền tảng cho một kiểu gia đình mới tốt đẹp và hạnh phúc.
2.2.Cơ sở chính trị - xã hội
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là sự tôn trọng và bảo vệ quyền lợi và tự do cá nhân của mỗi thành viên
trong gia đình, đồng thời thể hiện sự đoàn kết và tương đồng giữa các thành
viên trong gia đình. Một trong những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã
hội là giáo dục và đào tạo để đẩy mạnh sự phát triển của con người để họ có
thể tự do và hạnh phúc trong cuộc sống. Vì vậy, gia đình là nơi truyền đạt
giá trị và đạo đức trong xã hội, giúp các thành viên của gia đình phát triển
về cảm xúc, tinh thần và thể chất. Gia đình cũng phải hoạt động trong một
môi trường xã hội công bằng và bình đẳng, nơi mọi người đều có cơ hội
bình đẳng để tham gia và phát triển. Trong thời kỳ quá độ xã hội chủ nghĩa,
khuôn khổ pháp luật và chính sách xã hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
vừa định hướng, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng gia đình mới. 2.3.Cơ sở văn hóa
Trong thời kỳ chuyển tiếp từ xã hội thống trị giai cấp sang chủ nghĩa xã hội,
việc xây dựng gia đình cũng cần có cơ sở văn hóa phù hợp. Điều này đòi
hỏi các gia đình phải tuân theo những giá trị cơ bản của xã hội mới, bao gồm:
 Tôn trọng giá trị của phụ nữ và truyền đạt cho con cái tinh thần này.
 Quan tâm đến hạnh phúc và sự phát triển của mỗi thành viên trong gia đình.
 Xây dựng mối quan hệ gia đình dựa trên sự tự do, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
 Tôn trọng quyền lợi của trẻ em và cho phép chúng học hỏi, khám phá thế giới xung quanh.
 Tạo ra một môi trường gia đình ấm áp và đầy tình yêu thương.
Với các giá trị này, cơ sở văn hóa cho việc xây dựng gia đình trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được định hình, giúp gia đình phát triển và đóng
góp vào sự phát triển của cả xã hội.
2.4.Chế độ hôn nhân tiến bộ
- Bình đẳng trong hôn nhân
- Hôn nhân tiến bộ và có sự tôn trọng giữa vợ chồng với nhau
- Hôn nhân được pháp luật bảo vệ
3. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
3.1.Biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình
Gia đình Việt Nam ngày nay là một “gia đình chuyển tiếp” trong quá trình
chuyển đổi từ nền văn minh nông nghiệp truyền thống sang xã hội công
nghiệp đương đại. “Gia đình đơn thân” (hay còn gọi là gia đình hạt nhân)
đang phổ biến ở cả thành thị và nông thôn, thay thế “gia đình truyền thống”
(gia đình nhiều thế hệ cùng chung sống). nhau) đã dẫn trước rồi. Do đó, sự
tan rã của hình thức cũ và sự phát triển của hình thức mới là điều khó tránh khỏi.
Quy mô gia đình ngày nay đang giảm nhanh hơn so với trước đây và số
lượng thành viên trong gia đình đang giảm. Nếu gia đình truyền thống cổ
xưa có thể chung sống dưới một mái nhà trong ba hoặc bốn thế hệ, thì quy
mô gia đình ngày nay đang giảm dần. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ gồm
hai thế hệ: cha mẹ và con cái. Số con trong gia đình ít hơn trước; mỗi gia
đình chỉ có từ một đến hai con, còn một số ít gia đình độc thân. Tuy nhiên,
gia đình hạt nhân quy mô nhỏ vẫn là phổ biến nhất. Mỗi thành viên trong
gia đình đều muốn có một môi trường riêng tư, dễ chịu, nơi họ có thể làm
bất cứ điều gì họ muốn mà không bị người khác phán xét. Con cái trong độ
tuổi kết hôn không phải phụ thuộc nhiều vào cha mẹ về tài chính do đã có
công ăn việc làm ổn định nên có nhu cầu về chỗ ở riêng để thuận tiện trong
cuộc sống hàng ngày. Mặt khác, duy trì gia đình truyền thống sẽ bóp nghẹt
tự do, phủ nhận cái tôi, bản sắc và khả năng phát triển của con người, dẫn
đến hậu quả khan hiếm nhân tài trong tương lai cho đất nước. thời đại công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2.Biến đổi các chức năng của gia đình
3.2.1. Chức năng tái sản xuất con người
Với những tiến bộ của y học hiện đại, các gia đình ngày càng tích cực
tham gia vào việc sinh nở. Hơn nữa, việc sinh con chịu sự điều chỉnh
của chính sách xã hội của Nhà nước, do tình hình nhân khẩu học và nhu
cầu lao động của xã hội quyết định. Nếu như trước đây, gia đình Việt
Nam theo truyền thống: sinh nhiều con, càng nhiều con càng tốt và nhất
thiết phải có con trai thì ngày nay, nhu cầu đó đã thay đổi căn bản: thể
hiện ở việc giảm mức sinh của nữ, giảm số mong muốn có con, và giảm
nhu cầu sinh con trai của các cặp vợ chồng. Sự ổn định hôn nhân trong
gia đình hiện đại chịu ảnh hưởng nặng nề của các khía cạnh tâm lý, tình
cảm và kinh tế, chứ không chỉ là có con hay không có con, có con trai
hay không có con. Con trai thích một gia đình thông thường.
3.2.2. Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Nhìn chung, kinh tế gia đình trải qua hai bước ngoặt: Một là, từ nền
kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa. Thứ hai, từ một đơn vị
kinh tế được đặc trưng bởi việc sản xuất các sản phẩm phù hợp với nhu
cầu của thị trường toàn cầu, sang một cơ cấu kinh tế của nền kinh tế thị
trường đương đại đáp ứng nhu cầu của thị trường toàn cầu.
3.2.3. Biến đổi chức năng xã hội hóa
Nội dung giáo dục gia đình hiện nay không chỉ chú trọng giáo dục đạo
đức, cách ứng xử trong gia đình, dòng tộc, làng xóm như trước đây mà
còn hướng đến giáo dục thế hệ trẻ những kiến thức khoa học đương đại,
trang bị hành trang cho con cái hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, khi hệ
thống giáo dục xã hội phát triển, kinh tế tăng trưởng như hiện nay thì
chức năng giáo dục của các chủ thể trong gia đình có xu hướng giảm
dần. Những tiêu cực xảy ra trong nhà trường và xã hội ngày càng phổ
biến, làm giảm sự kỳ vọng và suy nghĩ của cha mẹ về hệ thống giáo dục
xã hội trong việc phát triển đạo đức và nhân cách của con cái họ. hơn
trước rất nhiều. Ở Việt Nam hiện nay, không có câu trả lời khả thi nào
cho vấn đề nan giải này. Trong những năm gần đây, những tác động nói
trên đã làm suy yếu đáng kể tầm quan trọng của gia đình trong việc xã
hội hóa và dạy dỗ con cái trong xã hội của chúng ta.
3.2.4. Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tình cảm
Nhu cầu về khoái cảm tâm lý - tình cảm đang tăng lên trong gia đình
Việt Nam ngày nay, khi gia đình chuyển từ đơn vị chủ yếu là kinh tế
sang chủ yếu là đơn vị tình cảm. Các gia đình hiện đang trải qua một số
khó khăn và trở ngại. Đặc biệt trong tương lai gần, khi tỷ lệ các gia đình
chỉ có một con tăng lên, nhiều thanh niên và thậm chí cả người lớn sẽ có
một cuộc sống tâm lý-tình cảm kém phong phú hơn. Ảnh hưởng của
công nghiệp hóa và toàn cầu hóa đã tạo ra khoảng cách đáng kể giữa
người giàu và người nghèo, và nhà nước phải thực hiện các biện pháp
hỗ trợ người nghèo để thu hẹp khoảng cách ngày càng tăng giữa người
giàu và người nghèo. Cùng với đó, vấn đề đặt ra là phải thay đổi cách
hiểu truyền thống về giới trong gia đình. Điều đó đòi hỏi phải xây dựng
những chuẩn mực mới bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các thành viên
trong gia đình cũng như giữa gia đình và xã hội.
3.2.5. Sự biến đổi quan hệ gia đình
3.2.5.1. Biến đổi quan hệ hôn nhân vợ chồng
Trên thực tế, đời sống hôn nhân và gia đình Việt Nam đang có
những vấn đề và thay đổi đáng kể. Toàn cầu hóa, do cơ chế thị
trường, khoa học và công nghệ đương đại, gây ra nhiều hệ lụy tiêu
cực cho gia đình, bao gồm: mối quan hệ vợ chồng căng thẳng, tỷ lệ
ly hôn gia tăng, ngoại tình, v.v. Song song đó là những tai ương
khác như bi kịch gia đình, bị xâm hại tình dục… Bên cạnh đó,
những áp lực của cuộc sống hiện đại khiến nhiều người trong xã hội
gặp khó khăn trong hôn nhân. Mô hình chủ gia đình trong gia đình
Việt Nam ngày nay cũng đang phát triển. Có ít nhất hai mô hình
nữa cùng tồn tại với mô hình đàn ông-chồng. Đó chính là mẫu
người phụ nữ - vợ là chủ gia đình - cũng như mẫu người chồng và
vợ đều là chủ gia đình.
3.2.5.2. Biến đổi quan hệ giữa các thế hệ, giá trị và chuẩn mực văn hóa trong gia đình
Tương tác giữa các thế hệ, cũng như các giá trị gia đình và chuẩn
mực văn hóa, không ngừng phát triển trong bối cảnh xã hội Việt
Nam ngày nay. Việc giáo dục con cái trong các gia đình đương đại
hầu như được phó mặc cho nhà trường, thay vì được ông bà, cha
mẹ giáo dục từ nhỏ như trong các gia đình truyền thống. Người cao
tuổi trong các hộ gia đình hiện đại cũng ít có cơ hội sống cùng con
cháu như các thế hệ trước. Diễn biến của các mối quan hệ trong gia
đình cho thấy khó khăn lớn nhất đối với các gia đình Việt Nam là
xung đột giữa các thế hệ do chênh lệch tuổi tác khi chung sống.
4. Thực trạng các gia đình ở Việt Nam hiện nay
4.1.Về mặt tích cực: Các gia đình đang dần chuyển từ gia đình đa thế hệ sang
gia đình nhỏ hơn và có nhu cầu tạo ra môi trường sống tốt và hạnh phúc
hơn. Điều này được thể hiện thông qua sự phát triển của các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe, giáo dục, giải trí, và mua sắm dành cho gia đình. Nhiều người
dân đã nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu tư vào sức khỏe, văn
hóa, và giáo dục cho trẻ em của mình. Các gia đình cũng đang dần chuyển
sang cách tiêu dùng thông minh hơn để tiết kiệm chi phí và tạo ra một môi
trường sống an toàn và bền vững hơn. Ngoài ra, nhiều gia đình ở Việt Nam
đang đưa ra các quyết định tiên tiến về vai trò của nam và nữ trong gia đình,
giới hạn số lượng con cái và tôn trọng sự lựa chọn cá nhân của mỗi thành viên trong gia đình.
4.2.Về mặt tiêu cực: Tuy nhiên, Tình trạng gia đình ở Việt Nam hiện nay đang
đối diện với nhiều thách thức và vấn đề phức tạp. Một số vấn đề tiêu cực
của gia đình ở Việt Nam bao gồm việc trong các gia đình có người lao động
nhập cư bất hợp pháp: Gia đình của những người lao động này thường phải
chịu đựng căng thẳng, lo lắng và ảnh hưởng đến đời sống: tài chính, kinh tế,
lương thực và an ninh. Bên cạnh đó là vấn đề về việc thâm hụt các giá trị
gia đình: Gia đình trở nên bất ổn, không phát triển được niềm tin và sự tin
tưởng của thành viên. Các giá trị gia đình như tôn trọng, nỗ lực, trách
nhiệm, học tập và đoàn kết cũng chưa được đánh giá cao. Áp lực của cuộc
sống cũng là vấn đề nổi lên trong thời kỳ gia đình hiện tại. Các gia đình ở
nông thôn đang phải đối mặt với áp lực kinh tế và xã hội. Nhiều người buộc
phải đi làm ở thành phố để kiếm sống, điều này đã gây ra sự xa cách và bất
ổn cho gia đình. Và cuối cùng, một trong những vấn đề lớn nhất đối với gia
đình tại Việt Nam là tình trạng gia đình tách rời. Vì nhiều lý do, người dân
đến nắm đất ở đô thị về nông thôn, hoặc tại những đô thị lớn, để tìm kiếm
nơi để sống tốt, và dẫn đến tình trạng gia đình tách rời.
5. Mục tiêu cơ bản của việc xây dựng và mở rộng gia đình Việt Nam trong thời kỳ
quá độ xã hội chủ nghĩa
Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền
địa phương đối với công tác gia đình. Hai là, đẩy mạnh các hoạt động truyền
thông, giáo dục, vận động nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng và các
thành viên gia đình về vị trí, chức năng của gia đình trong thời đại công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ ba, ưu tiên các chính sách hỗ trợ phát triển kinh
tế gia đình đối với các gia đình chính sách, gia đình có công với nước, gia đình
đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo, hộ khó khăn, hộ đặc biệt khó khăn, hộ gia
đình ở vùng sâu, vùng xa của Tổ quốc.
Phần 2: Liên hệ bản thân
Để duy trì và phát triển gia đình hạnh phúc, tôi tin rằng việc giữ liên lạc và chăm
sóc cho các thành viên trong gia đình là rất quan trọng. Đầu tiên, tôi luôn cố gắng
tạo thời gian để trò chuyện và làm việc cùng với gia đình, đặc biệt là khi mọi người
đang gặp khó khăn hay có những vấn đề cần giải quyết. Tôi cũng đưa ra sự quan
tâm và lắng nghe những suy nghĩ, cảm xúc của các thành viên trong gia đình, giúp
họ cảm thấy được yêu thương và chăm sóc. Ngoài ra, tôi cũng luôn hỗ trợ, giúp đỡ
những điều mà gia đình cần. Như là giữ gìn sự hài hòa trong mối quan hệ hoặc
giúp đỡ các thành viên khác trong gia đình khi họ cần sự giúp đỡ. Tôi tin rằng
những việc này giúp tôi và gia đình tôi có thể duy trì và phát triển những mối quan
hệ tốt đẹp, hạnh phúc và ấm cúng. Hơn thế nữa, để xây dựng một mối quan hệ tốt
với gia đình, bản thân chúng ta cần có lòng bao dung, cảm thông và sẵn sàng lắng
nghe những suy nghĩ của những người thân yêu. Chúng ta cần quan tâm đến cuộc
sống, công việc và sức khỏe của nhau, đồng thời xây dựng một không gian giao
tiếp rõ ràng và chân thành để trao đổi và giải quyết các vấn đề khiến cho các thành
viên trong gia đình cảm thấy bị áp lực. Để duy trì được gia đình hạnh phúc là trách
nhiệm cũng như nhiệm vụ của từng cá nhân ở bên trong, bởi lẽ gia đình hạnh phúc
là nền tảng vững chắc cho mỗi cá nhân phát triển và thành công trong cuộc sống.
Họ có tình yêu và sự ủng hộ nhau, tạo nên một môi trường an toàn và xây dựng,
giúp cho thành viên trong gia đình có thể tự tin khám phá và khai thác tiềm năng
của mình. Gia đình hạnh phúc cũng cung cấp cho con cái học hỏi những giá trị văn
hóa, đạo đức và ý thức trách nhiệm, giúp cho chúng trở thành con người có ích cho
xã hội. Khi có những thách thức trong cuộc sống, gia đình hạnh phúc sẽ luôn đồng
hành và hỗ trợ lẫn nhau vượt qua những khó khăn. Vì vậy, có một gia đình hạnh
phúc là điều vô giá và một món quà tuyệt vời mà mọi người nên trân trọng và yêu quý. III. Kết luận
Qua nghiên cứu, phân tích lý luận chung về gia đình và thực trạng chung của gia
đình Việt Nam hiện nay, tôi nhận thức rõ những giá trị mà gia đình mang lại và ý
thức được trách nhiệm của bản thân trong việc sống xứng đáng cũng như xây dựng
và phát triển gia đình, tận dụng thời gian bạn có với gia đình của bạn. Thật là một
phước lành khi được là một phần của một gia đình yêu thương. Hãy lên tiếng và
khắc phục mọi khó khăn trong những gia đình mà còn đang có những khúc mắc
với nhau. Chúng ta hãy cố gắng hết sức để xây dựng, nuôi dưỡng và nâng niu trân
trọng bến tàu tráng lệ nhất mang tên Gia đình.