HÓM 11
Đề tài: Nghiên cứu ảnh hưởng của tâm lo lắng khi học ngoại ngtới hiệu quả
học ếng Trung Quốc của sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc trường Đại học
Hà Nội
Thành viên thực hiện:
STT
Họ và tên
Lớp
Chức vụ
Mã sinh viên
1
Phạm Thị Lan Anh
1T23
Trưởng nhóm
2307040009
2
Bàn Thị Ngọc Ánh
3T23
Thư ký
2207040017
3
Nguyễn Mai Huê
6T23
Thành viên
2307040050
4
Nguyễn Thị Diệu Linh
6T23
Thành viên
2307040075
5
Vũ Thảo Linh
6T23
Thành viên
2307040083
6
Dương Hồng Ngọc
6T23
Thành viên
2307040109
7
Bùi Trúc Tâm
1T23
Thành viên
2307040141
8
Bùi Thị Huyền Trang
6T23
Thành viên
2307040158
1. Bối cảnh nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, ếng Trung Quốc đã trở thành một ngôn ngữ
quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt trong việc học ếng Trung
Quốc theo định hướng m kiếm cơ hội việc làm. Quá trình học tập một ngoại ngữ
mới có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó yếu tố tâm lý có tác động lớn
trong hiệu quả học tập. Trong các yếu tố nh cảm, lo lắng được xem nhân tố
cản trở lớn nhất trong việc học ngôn ngữ (Oxford, 1999). Lo lắng trong học tập
ngoại ngữ (foreign language anxiety) tác động trực ếp và gián ếp đến khả năng
ếp thu của người học. Vậy nên việc nghiên cu ảnh hưởng của tâm lý lo lắng tới
hiệu quả học ếng Trung Quốc của sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc trường
Đại học Nội nhằm phân ch mối quan hệ giữa hai đối ợng, từ đó đề xut
phương pháp giảm thiểu lo lắng, ng cao hiệu quả học ếng Trung Quốc cho sinh
viên.
2. Các nghiên cứu có liên quan đến tâm lý lo lắng trong việc học ngoại ngữ
Tâm lý lo lắng trong việc học ngoại ngđược Horwitz và cộng sự (1986) định
nghĩa “sự tự nhận thức phức tạp, bao gồm niềm n, cảm xúc hành vi liên
quan đến quá trình học ngôn ngữ”. Nghiên cứu của Tuấn Công cộng sự
(2024) cũng chỉ ra rằng lo lắng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực ếp đến hiệu
quhọc ngoại ngữ. Dựa trên thuyết văn a hội của Vygotsky, nhóm tác gi
nhấn mạnh vai trò của môi trường học tập thân thiện và sự hỗ trợ tgiảng viên,
bạn học trong việc giảm lo lắng. Điều này cho thấy giảng viên bạn học nh
ởng lớn đến cảm xúc tâm của người học, góp phần chuyển hóa lo lắng
thành động lực học tập. Tuy nhiên, nghiên cứu này chủ yếu xem xét tâm lý lo lắng
một cách tổng thể thiếu đi sự phân ch khu biệt các thành tố bộ phận, điều
này có thể hạn chế việc xác định tác động cụ thể của từng yếu tố đối với hiệu quả
học ngôn ngữ.
Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Lương Thị Ngọc Diễm, Đinh Thị Lịch (2024) trong bài
báo Đánh giá các nghiên cứu về sự lo lắng khi học ngoại ngữ ý nghĩa trong
giảng dạy ngoại ngữ(Journal of educaonal equipment: Educaon management)
đã sử dụng phương pháp tổng hợp thuyết dựa trên các nghiên cứu hiện về
sự lo lắng khi học ngoại ngữ, khung thuyết từ các nh nổi bật như "Giả
thuyết màng lọc cảm xúc" (The Aecve Filter Hypothesis) của Krashen
thuyết về lo lắng ngôn ng(Theory of Foreign Language Anxiety) của Horwitz
các cộng sự ng như kết quthực ễn từ các nghiên cứu liên quan đến giảng dạy
ngoại ngữ. Bài báo dẫn ra ba thành phần lo lắng chính khi học ngoại ngữ gồm (1)
lo lắng trong giao ếp, (2) lo lắng trong kiểm tra và (3) nỗi sợ bị đánh giá êu cực,
bài o còn chỉ ra nguồn gốc của lo lắng khi học ngoại ngữ phát sinh tcác khía
cạnh khác nhau cũng như mối tương quan của với giới nh, độ tuổi thi
gian học. T đó cung cấp một cái nhìn toàn diện về sự lo lắng khi học ngoại ng
(Foreign Language Anxiety - FLA) và những tác động của nó đến quá trình học tập
của sinh viên.
Bài báo The Impact of Anxiety in Learning English as a Foreign Language” ca
tác giả Mohammed Aaf (IJAPR, 2022) tập trung phân ch mối quan hệ giữa lo
lắng trong học tập ngoại ng(FLA) các yếu tố như động lực, hiệu suất, thành
ch, giới nh và hành vi. Bài báo cho thấy lo lắng trong học tập ngoại ngữ có thể
ảnh hưởng cả ch cực lẫn êu cực đến người học. Tác giả dựa vào các khái nim
về tâm lo lắng của các nghiên cứu đi trước: (Horwitz cộng sự, 1986) hay
(MacIntyre,1994) sự lo lắng và phản ứng cảm xúc êu cực nảy sinh khi học hoặc
sử dụng ngôn ngth haiđlàm bản chất của lo lắng trong học tập ngoại
ngữ, đồng thời phân loại lo lắng thành lo lắng tạo điều kiện lo lắng làm suy
nhược (Scovel,1978). Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến nguyên nhân gây ra lo lắng
trong học tập ngoại ngchyếu đến từ người dạy, người học phương pháp
giảng dạy, trong đó nhận thức của người học được coi là nguyên nhân bản gây
ra lo lắng (Dewaele, Petrides, & Furnham, 2008). Bài viết đã hệ thống hóa các khái
niệm phức tạp, giúp người đọc dễ hiểu nắm bắt được tác động của lo lắng
trong học tập ngoại ngữ. Tuy nhiên nghiên cứu này còn thiếu dữ liệu thực nghiệm
cụ thđm mức độ nh ởng giải pháp giảm thiểu lo lắng trong thc
ễn giảng dạy.
Dựa trên sthuyết về lo lắng trong học tập ngoại ngữ của Horwitz (1986)
Young (1991) Lưu Hớn Vũ đã bài nghiên cứu tâm lý lo lắng các yếu tố ảnh
ởng đến quá trình học ếng Trung của sinh viên ngành ngôn ngTrung Quc
tại một số trường đại hc Việt Nam với sự tham gia của 124 sinh viên. Từ đó cho
thấy việc học ngoại ngliên quan rất nhiều đến các yếu tố ngoại cảnh tác động.
Kết quả cho thấy sinh viên có mức độ lo lắng về thi cử là cao nhất và sinh viên nữ
có mức độ lo lắng cao hơn sinh viên nam. Kết luận này ngược lại với kết quả kho
sát trong nghiên cứu của Trần Thị Kim Loan (2018) khi kết qukhảo sát cho thấy
mức độ lo lắng của sinh viên nam và sinh viên nnhư nhau. Bên cạnh đó thời
gian học ng ảnh ởng đến mức độ lo lắng của sinh viên, cụ thsinh viên
khoảng thời gian đã học ếng Trung lâu hơn sẽ sự lo lắng ít hơn so với sinh viên
học ít hơn. Theo kết quả của bài khảo sát thì nguyên nhân lớn nhất dẫn đến những
lo lắng trên đó là do đặc điểm của ếng Trung Quc.
Nghiên cứu của Trần Thị Kim Loan (2018) đã khảo sát nhóm giáo viên dạy ếng
Hán và sinh viên học ếng Hán của Trung tâm Quốc ngvà đưa ra kết luận nhân
tố cảm c nh ởng trực ếp đến quá trình biểu đạt ếp thu ngôn ng
của sinh viên, trong đó kỹ năng nghe và đọc thì sẽ ít bị ảnh hưởng hơn là kỹ năng
nói và viết. Trần Thị Kim Loan đã vận dụng lý thuyết về “Giả thuyết Màng lọc cảm
xúc” của Krashen trong cuốn “Principles and Pracce in Second Language
Acquision”(1982): Không phải mọi Thông Tin Đầu Vào (Input) đu đến đưc
Thiết Bị Tri Nhận Ngôn Ngữ (LAD) mà đâu đó trong quá trình, chỉ một vài thông
n được ếp nhận. Quá trình này diễn ra BLọc Cảm Xúc (Filter), đóng vai trò
như cánh cổng, “mở” “đóngtùy theo tâm trạng của chúng ta. Nghĩa là, khi
thư giãn, thông n đầu vào dễ dàng đến được LAD, còn khi căng thẳng hoặc trong
môi trường êu cực, việc ếp thu thông n sẽ khó khăn hơn (Tham khảo bảng
ới). Theo khảo sát, 93% giáo viên khẳng định yếu tố cảm xúc ảnh hưởng tới
hiệu quả học tập của sinh viên, trong đó nổi bật là cảm xúc lo lắng (66,7%) và nh
cách người học (60%). Khi sinh viên không tự n, bị ảnhởng bởi cảm xúc hoặc
tâm bất an thì khnăng nói diễn đạt đều gặp vấn đề: thiếu logic, không
ràng, nói lắp bắp, lí nhí
3. Tổng kết các nghiên cứu trước đó và đưa ra đề tài
Các bài nghiên cứu trên vẫn còn tồn tại một số những thiếu sót, chúng đa số
chtập trung vào việc tả tác động của lo lắng chưa đưa ra c bin pháp
cụ thể, khả thi giúp giáo viên hoặc người học giảm thiểu lo lắng trong thực tế hay
chưa nêu rõ mẫu nghiên cứu, bối cảnh thực hiện nghiên cứu, cũng như cách thu
thập dữ liệu cụ thể. Chính điều này đã làm giảm đi nh n cậy của các bài nghiên
cứu. Ngoài ra, các tác giả còn sử dụng phần tài liệu tham khảo có niên đại khá cũ
như Krashen (1982) hoc Horwitz (1986) Young (1991); chưa tận dụng các
nguồn tài liệu gần đây để phân ch sự phát triển của các phương pháp giảng dạy
ngôn ngữ trong thời đại công nghsố, điều này làm hạn chế nh mới mẻ, nh
thời sự của các bài nghiên cứu.
Trong bối cảnh giáo dục hiện nay, nghiên cu ảnh hưởng của tâm lo lắng
đến hiệu quả học ếng Trung Quốc của sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc tại
trường Đại học Nội một chđề hết sức quan trọng và thiết thực. Tâm lo
lắng không chyếu tố tác động đến cảm xúc còn ảnh hưởng trực ếp đến
khnăng ếp thu kiến thức ngoại ngữ của người học. Mặc các nghiên cu
trước đây đã chra rằng tâm lo lắng tác động đến hiệu quả học ngoại ngữ nói
chung, nhưng chưa nghiên cứu nào đi sâu vào việc phân ch nh hưởng cụ th
của lo lắng đối với việc học ếng Trung Quốc của sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung
Quốc. Việc nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp làm rõ mối quan hệ giữa lo lắng và hiệu
suất học tập, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm hỗ trợ sinh viên giảm bớt
căng thẳng, nâng cao hiệu quả học tập và phát huy tối đa khả năng sử dụng ếng
Trung Quốc của mình.
Tài liệu tham khảo
Scovel, T. (1978). The eect of aect on foreign language learning: A review of
the anxiety research. Language learning, 28(1), 129-142.
hps://doi.org/10.1111/j.1467-1770.1978.tb00309.x
Krashen, S. (1982). Principles and Pracce in Second Language Acquision.
hps://www.sdkrashen.com/content/books/principles_and_pracce.pdf
Krashen, S. (1985). The Input Hypothesis: Issues and Implicaons. London:
Longman.
Horwitz, E. K., Horwitz, M. B, & Cope, J. (1986). Foreign language
classroom anxiety. The Modern Language Journal, 70 (2), 125-132.
hps://doi.org/10.2307/327317
Young . (1991). 6 nguyên nhân dẫn đến lo lắng trong học ngoại ngữ
hps://zim.vn/foreign-language-anxiety-la-gi-nguyen-nhan-tac-dong-
cachkhac-phuc
MacIntyre, P. D. (1994). Variables underlying willingness to communicate: A
causal analysis. Communicaon Research Reports, 11(2), 135-142.
hps://petermacintyre.weebly.com/uploads/1/0/1/8/10187707/
wtc_causal1994.pdf
Dewaele, J. M., Petrides, K. V., & Furnham, A. (2008). Eects of trait emoonal
intelligence and sociobiographical variables on communicave anxiety and
foreign language anxiety among adult mullinguals: A review and empirical
invesgaon. Language learning, 58(4), 911-960.
hps://www.researchgate.net/publicaon/
36725955_Eects_of_Trait_Emoonal_Intelligence_and_Sociobiographical_Var
iables_on_Communicave_Anxiety_and_Foreign_Language_Anxiety_Among_
Adult_Mullinguals_A_Review_and_Empirical_Invesgaon
Trần ThKim Loan. (2018). Ảnh ởng êu cực của nhân tố cảm c đối với
người học ngoại ngữ và cách khắc phục.
hps://js.vnu.edu.vn/FS/arcle/view/4233/3942
Lưu Hớn Vũ. (2019). Lo lắng trong học tập ếng Trung Quốc của sinh viên
ngành ngôn ngữ Trung Quc hps://js.vnu.edu.vn/FS/arcle/view/4420/4071
Lê Công Tuấn, Trịnh Quốc Lập, Ngô Huyền Hồng Nga. (2024). Nghiên cứu đặc
điểm và các yếu tố gây ra tâm lo lắng khi học ngoại ngữ dựa trên thuyết văn
hóa xã hội. Tạp chí Giáo dục, 24 (13), 42-46.
hps://tcgd.tapchigiaoduc.edu.vn/index.php/tapchi/arcle/view/2042/838
Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Lương Thị Ngọc Diễm, Đinh Thị Lịch. (2024). Đánh giá
các nghiên cứu về sự lo lắng khi học ngoại ngữ ý nghĩa trong giảng dạy ngoại
ngữ. Journal of educaonal equipment: Educaon management, Volume 1, Issue
312. hps://vjol.info.vn/index.php/tctbgd/arcle/download/97617/82469/?
utm_source=chatgpt.com

Preview text:

HÓM 11
Đề tài: Nghiên cứu ảnh hưởng của tâm lý lo lắng khi học ngoại ngữ tới hiệu quả
học tiếng Trung Quốc của sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc trường Đại học Hà Nội Thành viên thực hiện: STT Họ và tên Lớp Chức vụ Mã sinh viên 1 Phạm Thị Lan Anh 1T23 Trưởng nhóm 2307040009 2 Bàn Thị Ngọc Ánh 3T23 Thư ký 2207040017 3 Nguyễn Mai Huê 6T23 Thành viên 2307040050 4 Nguyễn Thị Diệu Linh 6T23 Thành viên 2307040075 5 Vũ Thảo Linh 6T23 Thành viên 2307040083 6 Dương Hồng Ngọc 6T23 Thành viên 2307040109 7 Bùi Trúc Tâm 1T23 Thành viên 2307040141 8 Bùi Thị Huyền Trang 6T23 Thành viên 2307040158
1. Bối cảnh nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tiếng Trung Quốc đã trở thành một ngôn ngữ
quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt trong việc học tiếng Trung
Quốc theo định hướng tìm kiếm cơ hội việc làm. Quá trình học tập một ngoại ngữ
mới có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó yếu tố tâm lý có tác động lớn
trong hiệu quả học tập. Trong các yếu tố tình cảm, lo lắng được xem là nhân tố
cản trở lớn nhất trong việc học ngôn ngữ (Oxford, 1999). Lo lắng trong học tập
ngoại ngữ (foreign language anxiety) tác động trực tiếp và gián tiếp đến khả năng
tiếp thu của người học. Vậy nên việc nghiên cứu ảnh hưởng của tâm lý lo lắng tới
hiệu quả học tiếng Trung Quốc của sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc trường
Đại học Hà Nội nhằm phân tích mối quan hệ giữa hai đối tượng, từ đó đề xuất
phương pháp giảm thiểu lo lắng, nâng cao hiệu quả học tiếng Trung Quốc cho sinh viên.
2. Các nghiên cứu có liên quan đến tâm lý lo lắng trong việc học ngoại ngữ
Tâm lý lo lắng trong việc học ngoại ngữ được Horwitz và cộng sự (1986) định
nghĩa là “sự tự nhận thức phức tạp, bao gồm niềm tin, cảm xúc và hành vi liên
quan đến quá trình học ngôn ngữ”. Nghiên cứu của Lê Tuấn Công và cộng sự
(2024) cũng chỉ ra rằng lo lắng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả học ngoại ngữ. Dựa trên thuyết văn hóa xã hội của Vygotsky, nhóm tác giả
nhấn mạnh vai trò của môi trường học tập thân thiện và sự hỗ trợ từ giảng viên,
bạn học trong việc giảm lo lắng. Điều này cho thấy giảng viên và bạn học có ảnh
hưởng lớn đến cảm xúc và tâm lý của người học, góp phần chuyển hóa lo lắng
thành động lực học tập. Tuy nhiên, nghiên cứu này chủ yếu xem xét tâm lý lo lắng
một cách tổng thể mà thiếu đi sự phân tích khu biệt các thành tố bộ phận, điều
này có thể hạn chế việc xác định tác động cụ thể của từng yếu tố đối với hiệu quả học ngôn ngữ.
Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Lương Thị Ngọc Diễm, Đinh Thị Lịch (2024) trong bài
báo “Đánh giá các nghiên cứu về sự lo lắng khi học ngoại ngữ và ý nghĩa trong
giảng dạy ngoại ngữ” (Journal of educational equipment: Education management)
đã sử dụng phương pháp tổng hợp lý thuyết dựa trên các nghiên cứu hiện có về
sự lo lắng khi học ngoại ngữ, khung lý thuyết từ các mô hình nổi bật như "Giả
thuyết màng lọc cảm xúc" (The Affective Filter Hypothesis) của Krashen và lý
thuyết về lo lắng ngôn ngữ (Theory of Foreign Language Anxiety) của Horwitz và
các cộng sự cũng như kết quả thực tiễn từ các nghiên cứu liên quan đến giảng dạy
ngoại ngữ. Bài báo dẫn ra ba thành phần lo lắng chính khi học ngoại ngữ gồm (1)
lo lắng trong giao tiếp, (2) lo lắng trong kiểm tra và (3) nỗi sợ bị đánh giá tiêu cực,
bài báo còn chỉ ra nguồn gốc của lo lắng khi học ngoại ngữ phát sinh từ các khía
cạnh khác nhau cũng như mối tương quan của nó với giới tính, độ tuổi và thời
gian học. Từ đó cung cấp một cái nhìn toàn diện về sự lo lắng khi học ngoại ngữ
(Foreign Language Anxiety - FLA) và những tác động của nó đến quá trình học tập của sinh viên.
Bài báo “The Impact of Anxiety in Learning English as a Foreign Language” của
tác giả Mohammed Aatif (IJAPR, 2022) tập trung phân tích mối quan hệ giữa lo
lắng trong học tập ngoại ngữ (FLA) và các yếu tố như động lực, hiệu suất, thành
tích, giới tính và hành vi. Bài báo cho thấy lo lắng trong học tập ngoại ngữ có thể
ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực đến người học. Tác giả dựa vào các khái niệm
về tâm lý lo lắng của các nghiên cứu đi trước: (Horwitz và cộng sự, 1986) hay
(MacIntyre,1994) “sự lo lắng và phản ứng cảm xúc tiêu cực nảy sinh khi học hoặc
sử dụng ngôn ngữ thứ hai” để làm rõ bản chất của lo lắng trong học tập ngoại
ngữ, đồng thời phân loại lo lắng thành lo lắng tạo điều kiện và lo lắng làm suy
nhược (Scovel,1978). Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến nguyên nhân gây ra lo lắng
trong học tập ngoại ngữ chủ yếu đến từ người dạy, người học và phương pháp
giảng dạy, trong đó nhận thức của người học được coi là nguyên nhân cơ bản gây
ra lo lắng (Dewaele, Petrides, & Furnham, 2008). Bài viết đã hệ thống hóa các khái
niệm phức tạp, giúp người đọc dễ hiểu và nắm bắt được tác động của lo lắng
trong học tập ngoại ngữ. Tuy nhiên nghiên cứu này còn thiếu dữ liệu thực nghiệm
cụ thể để làm rõ mức độ ảnh hưởng và giải pháp giảm thiểu lo lắng trong thực tiễn giảng dạy.
Dựa trên cơ sở lí thuyết về lo lắng trong học tập ngoại ngữ của Horwitz (1986)
và Young (1991) Lưu Hớn Vũ đã có bài nghiên cứu tâm lý lo lắng và các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình học tiếng Trung của sinh viên ngành ngôn ngữ Trung Quốc
tại một số trường đại học ở Việt Nam với sự tham gia của 124 sinh viên. Từ đó cho
thấy việc học ngoại ngữ có liên quan rất nhiều đến các yếu tố ngoại cảnh tác động.
Kết quả cho thấy sinh viên có mức độ lo lắng về thi cử là cao nhất và sinh viên nữ
có mức độ lo lắng cao hơn sinh viên nam. Kết luận này ngược lại với kết quả khảo
sát trong nghiên cứu của Trần Thị Kim Loan (2018) khi kết quả khảo sát cho thấy
mức độ lo lắng của sinh viên nam và sinh viên nữ là như nhau. Bên cạnh đó thời
gian học cũng ảnh hưởng đến mức độ lo lắng của sinh viên, cụ thể sinh viên có
khoảng thời gian đã học tiếng Trung lâu hơn sẽ có sự lo lắng ít hơn so với sinh viên
học ít hơn. Theo kết quả của bài khảo sát thì nguyên nhân lớn nhất dẫn đến những
lo lắng trên đó là do đặc điểm của tiếng Trung Quốc.
Nghiên cứu của Trần Thị Kim Loan (2018) đã khảo sát nhóm giáo viên dạy tiếng
Hán và sinh viên học tiếng Hán của Trung tâm Quốc ngữ và đưa ra kết luận nhân
tố cảm xúc có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình biểu đạt và tiếp thu ngôn ngữ
của sinh viên, trong đó kỹ năng nghe và đọc thì sẽ ít bị ảnh hưởng hơn là kỹ năng
nói và viết. Trần Thị Kim Loan đã vận dụng lý thuyết về “Giả thuyết Màng lọc cảm
xúc” của Krashen trong cuốn “Principles and Practice in Second Language
Acquisition”(1982): Không phải mọi Thông Tin Đầu Vào (Input) đều đến được
Thiết Bị Tri Nhận Ngôn Ngữ (LAD) mà ở đâu đó trong quá trình, chỉ một vài thông
tin được tiếp nhận. Quá trình này diễn ra ở Bộ Lọc Cảm Xúc (Filter), đóng vai trò
như “cánh cổng”, “mở” và “đóng” tùy theo tâm trạng của chúng ta. Nghĩa là, khi
thư giãn, thông tin đầu vào dễ dàng đến được LAD, còn khi căng thẳng hoặc trong
môi trường tiêu cực, việc tiếp thu thông tin sẽ khó khăn hơn (Tham khảo bảng
dưới). Theo khảo sát, 93% giáo viên khẳng định yếu tố cảm xúc ảnh hưởng tới
hiệu quả học tập của sinh viên, trong đó nổi bật là cảm xúc lo lắng (66,7%) và tính
cách người học (60%). Khi sinh viên không tự tin, bị ảnh hưởng bởi cảm xúc hoặc
tâm lý bất an thì khả năng nói và diễn đạt đều gặp vấn đề: thiếu logic, không rõ
ràng, nói lắp bắp, lí nhí…
3. Tổng kết các nghiên cứu trước đó và đưa ra đề tài
Các bài nghiên cứu trên vẫn còn tồn tại một số những thiếu sót, chúng đa số
chỉ tập trung vào việc mô tả tác động của lo lắng mà chưa đưa ra các biện pháp
cụ thể, khả thi giúp giáo viên hoặc người học giảm thiểu lo lắng trong thực tế hay
chưa nêu rõ mẫu nghiên cứu, bối cảnh thực hiện nghiên cứu, cũng như cách thu
thập dữ liệu cụ thể. Chính điều này đã làm giảm đi tính tin cậy của các bài nghiên
cứu. Ngoài ra, các tác giả còn sử dụng phần tài liệu tham khảo có niên đại khá cũ
như Krashen (1982) hoặc Horwitz (1986) và Young (1991); chưa tận dụng các
nguồn tài liệu gần đây để phân tích sự phát triển của các phương pháp giảng dạy
ngôn ngữ trong thời đại công nghệ số, điều này làm hạn chế tính mới mẻ, tính
thời sự của các bài nghiên cứu.
Trong bối cảnh giáo dục hiện nay, nghiên cứu ảnh hưởng của tâm lý lo lắng
đến hiệu quả học tiếng Trung Quốc của sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc tại
trường Đại học Hà Nội là một chủ đề hết sức quan trọng và thiết thực. Tâm lý lo
lắng không chỉ là yếu tố tác động đến cảm xúc mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến
khả năng tiếp thu kiến thức ngoại ngữ của người học. Mặc dù các nghiên cứu
trước đây đã chỉ ra rằng tâm lý lo lắng tác động đến hiệu quả học ngoại ngữ nói
chung, nhưng chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào việc phân tích ảnh hưởng cụ thể
của lo lắng đối với việc học tiếng Trung Quốc của sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung
Quốc. Việc nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp làm rõ mối quan hệ giữa lo lắng và hiệu
suất học tập, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm hỗ trợ sinh viên giảm bớt
căng thẳng, nâng cao hiệu quả học tập và phát huy tối đa khả năng sử dụng tiếng Trung Quốc của mình.
Tài liệu tham khảo
Scovel, T. (1978). The effect of affect on foreign language learning: A review of
the anxiety research. Language learning, 28(1), 129-142.
https://doi.org/10.1111/j.1467-1770.1978.tb00309.x
Krashen, S. (1982). Principles and Practice in Second Language Acquisition.
https://www.sdkrashen.com/content/books/principles_and_practice.pdf
Krashen, S. (1985). The Input Hypothesis: Issues and Implications. London: Longman.
Horwitz, E. K., Horwitz, M. B, & Cope, J. (1986). Foreign language
classroom anxiety. The Modern Language Journal, 70 (2), 125-132.
https://doi.org/10.2307/327317
Young . (1991). 6 nguyên nhân dẫn đến lo lắng trong học ngoại ngữ
https://zim.vn/foreign-language-anxiety-la-gi-nguyen-nhan-tac-dong- cachkhac-phuc
MacIntyre, P. D. (1994). Variables underlying willingness to communicate: A
causal analysis. Communication Research Reports, 11(2), 135-142.
https://petermacintyre.weebly.com/uploads/1/0/1/8/10187707/ wtc_causal1994.pdf
Dewaele, J. M., Petrides, K. V., & Furnham, A. (2008). Effects of trait emotional
intelligence and sociobiographical variables on communicative anxiety and
foreign language anxiety among adult multilinguals: A review and empirical
investigation. Language learning, 58(4), 911-960.
https://www.researchgate.net/publication/
36725955_Effects_of_Trait_Emotional_Intelligence_and_Sociobiographical_Var
iables_on_Communicative_Anxiety_and_Foreign_Language_Anxiety_Among_
Adult_Multilinguals_A_Review_and_Empirical_Investigation
Trần Thị Kim Loan. (2018). Ảnh hưởng tiêu cực của nhân tố cảm xúc đối với
người học ngoại ngữ và cách khắc phục.
https://js.vnu.edu.vn/FS/article/view/4233/3942
Lưu Hớn Vũ. (2019). Lo lắng trong học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên
ngành ngôn ngữ Trung Quốc https://js.vnu.edu.vn/FS/article/view/4420/4071
Lê Công Tuấn, Trịnh Quốc Lập, Ngô Huyền Hồng Nga. (2024). Nghiên cứu đặc
điểm và các yếu tố gây ra tâm lý lo lắng khi học ngoại ngữ dựa trên lý thuyết văn
hóa xã hội. Tạp chí Giáo dục, 24 (13), 42-46.
https://tcgd.tapchigiaoduc.edu.vn/index.php/tapchi/article/view/2042/838
Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Lương Thị Ngọc Diễm, Đinh Thị Lịch. (2024). Đánh giá
các nghiên cứu về sự lo lắng khi học ngoại ngữ và ý nghĩa trong giảng dạy ngoại
ngữ. Journal of educational equipment: Education management, Volume 1, Issue
312. https://vjol.info.vn/index.php/tctbgd/article/download/97617/82469/? utm_source=chatgpt.com