ĐỀ TÀI: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề tôn giáo. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay | CNXHKH

ĐỀ TÀI: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề tôn giáo. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
: ( ) Học phần CNXHKH PLT05H
ĐỀ TÀI: - Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề
tôn giáo. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội ở
Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa của khẩu hiệu: Đạo pháp - Dân
tộc Chủ nghĩa xã hội của giáo hội phật giáo Việt Nam.-
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Lệ Thu
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thùy Dung
Lớp : K23CLCQTA
23A4030066Mã sinh viên :
Hà nội, ngày năm 20225 tháng 12 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................... 2
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ..................................................... 2
NỘI DUNG ....................................................................................................... 3
Phần 1. Phần lý luận...................................................................................... 3
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác Lênin về tôn giáo trong thời kỳ quá -
độ lên chủ nghĩa xã hội ................................................................................. 3
1.2. Tôn giáo ở Việt Nam và quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng,
Nhà nước Việt Nam hiện nay ....................................................................... 4
Phần 2. Phần liên hệ thực tế và liên hệ bản thân .......................................... 5
2.1. Liên hệ với thực trạng Phật giáo ở Việt Nam hiện nay ..................... 5
2.2. Nhận thức của cá nhân về vấn đề tôn giáo ...................................... 11
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 13
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống tinh thần của con người, tôn ôn đóng một vai trò nhấtgiáo lu
định. Tôn giáo là sự tự do tín ngưỡng của mỗi công dân. Vấn đề tôn giáo từ lâu
đã là một trong những vấn đề nhạy cảm đối với Việt Nam cũng như các nước
trên toàn thế giới. Trong lịch sử Việt Nam, vấn đề tôn giáo đã từng bị lợi dụng
cho mục đích chính trị, chống phá cách mạng Việt Nam và ngày nay vẫn còn
một số thành phần tìm cách lợi dụng tôn giáo để chống lại Nhà Nước Xã Hội
Chủ Nghĩa nước ta. Chính vì thế mà mỗi người dân chúng ta cần phải có những
sự hiểu biết thấu đáo và chính xác về tôn giáo để không bị kẻ gian lợi dụng sự
tín ngưỡng tôn giáo vào những mục đích xấu.
Xuất phát từ lý do trên và để phục vụ cho việc học tập bộ môn Chủ Nghĩa Xã
Hội Khoa Học, em quyết định chọn đề tài “Quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lenin về tôn giáo Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam .
hiện nay. Ý nghĩa của khẩu hiệu: Đạo pháp Dân tộc Chủ nghĩa xã hội của - -
giáo hội phật giáo Việt Nam. . Là đề tài nghiên cứu để trước hết em cũng như
mọi người sẽ nhìn nhận được những quan điểm tôn giáo trên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đặc biệt là Phật giáo.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo và đang có chiều hướng phát triển trên
phạm vi cả nước. Trước tình hình đổi mới đất nước như hiện nay, để góp phần
xây dựng đất nước, chúng ta cần phải thực hiện tốt các chủ trương, chính sách
của Nhà nước, Đảng về vấn đề tôn giáo, hiểu rõ hơn về tôn giáo trong quá tình
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là mục đích để em nghiên cứu đề tài trên.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
2
Để đạt được mục đích trên, trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu về lý luận chung về
vấn đề tôn giáo và nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ
lên CNXH; chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam; liên hệ với thực trạng phật giáo ở Việt Nam hiện nay: Mặt
tích cực và hạn chế của phật giáo VN; nghĩa khẩu hiệu: Đạo ân tộc ý Pháp - D -
Chủ nghĩa xã hội và nhận thức của cá nhân về vấn đề tôn giáo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tôn giáo Phật giáo
Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Việt Nam
Thời gian: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và hiện nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lenin về vấn đề tôn giáo
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy
vật với các phương pháp như: thống nhất logic lịch sử, phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Việc nghiên cứu đề tài đã giúp chúng ta hiểu được bản chất,
nguồn gốc, tính chất và nguyên tắc của tôn giáo theo quan điểm của Mác - nin Le
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chính sách của Nhà nước trong thời
kỳ đấy.
Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần nâng cao cái nhìn dúng đắn về tôn giáo cũng
như việc thực hiện các hành động về tôn giáo, đề xuất những chính sách về tôn
giáo một cách phù hợp và linh hoạt trong tình hình hiện nay.
3
NỘI DUNG
Phần 1. Phần lý luận
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác Lênin về tôn giáo trong thời ỳ qu- k á
độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo hiện thực khách
quan, thông qua hệ thống các biểu tượng siêu nhiên và niềm tin.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự
nhiên và lịch sử xã hội xác định.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự yếu thế, bất lực, bế tắc của
con người trước tự nhiên, xã hội và trước các thế lực trong đời sống.
1.1.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế xã hội: Sự bất lực của con người trước các thế -
lực tự nhiên, thế lực xã hội.
Nguồn gốc nhận thức: do khả năng nhận thức của con người về tự nhiên, xã
hội và bản thân con người là có giới hạn nên đã thần thánh hoá những điều chưa
nhận thức được.
Nguồn gốc tâm lý: đó là ảnh hưởng của yếu tố tâm lý (cả tích cực và tiêu cực)
đến sự ra đời của tôn giáo. Đặc biệt là sự bất lực trong đời sống, trong nhận
thức, tạo ra sự sợ hãi, bi quan. Đó là những tình cảm làm nảy sinh và duy trì
niềm tin tôn giáo.
1.1.3. Tính chất của tôn giáo
Tính lịch sử: Tôn giáo chỉ xuất hiện trong những điều kiện lịch sử nhất định;
trong từng thời kỳ lịch sử, tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính
trị và xã hội của thời đại đó.
4
Tính quần g của tôn giáo: Số lượng tín đồ theo các tín ngưỡng, tôn giáo chún
ngày càng đông; tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hoá, tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân lao động.
Tính chính trị của tôn iai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo để phục vụ giáo: g
cho lợi ích của giai cấp mình; đấu tranh tôn giáo là một bộ phận của đấu tranh
giai cấp; tôn giáo thay đổi cùng với sự thay đổi của quan hệ chính trị –giai cấp.
1.1.4. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Khắc phục dần các ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Phân biệt hai mặt chính trị và tôn giáo, phân biệt hoạt động tôn giáo bình
thường và việc lợi dụng tôn giáo.
Có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo. -
1.2. Tôn giáo ở Việt Nam và quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng,
Nhà nước Việt Nam hiện nay
1.2.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo.
Tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình và không có
xung đột tôn giáo.
Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có lòng yêu
nước và tinh thần dân tộc.
Chức sắc tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong xã hội, có n và ảnh uy tí
hưởng với tín đồ.
5
Các tôn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở
nước ngoài.
Tôn giáo ở Việt Nam thường bị các thế lực phản động lợi dụng.
1.2.2. Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với tôn
giáo hiện nay
Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và
sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc.
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo l ông tác vận động quần chúng.à c
Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Hoạt động tôn giáo phải tuân thủ theo pháp luật.
Phần 2. Phần liên hệ thực tế và liên hệ bản thân
2.1. Liên hệ với thực trạng Phật giáo ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện
nay
Với dân tộc Việt Nam, không thể phủ nhận được rằng, Phật giáo là một trong
những thành tố quan trọng góp phần làm nên bản sắc văn hoá dân tộc, là một
phần không thể thiếu trong nền văn hoá Việt. Hơn 2.000 năm tồn tại ở Việt
Nam, Phật giáo đã để lại dấu ấn sâu đậm trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội. Phật giáo đã góp phần hình thành những giá trị, chuẩn mực trong lối sống
của người Việt Nam.
Phật giáo đã góp phần hình thành lối sống của con người Việt Nam trong
lịch sử cũng như hiện nay.
Thực tế lịch sử dân tộc đã chứng minh rằng, sự khoan dung, hiếu hoà, độ
lượng trong đường lối trị quốc của các triều đại Lý – Trần (giai đoạn mà Phật
6
giáo giữ vai trò là hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội) là có sự đóng góp rất lớn của
Phật giáo. Các giai đoạn lịch sử sau này, mặc dù Phật giáo không còn là hệ tư
tưởng chủ đạo của xã hội nhưng nó vẫn có những ảnh hưởng không nhỏ đến
việc điều chỉnh hành vi đạo đức của con người Việt Nam. Nhiều phạm trù đạo
đức Phật giáo tham gia vào nền đạo đức của dân tộc trong lịch sử, giờ đây đã trở
thành lời ăn tiếng nói, trở thành phương tiện diễn đạt quan niệm đạo đức truyền
thống của người dân Việt Nam. Thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật gặp
gỡ với tín ngưỡng thác sinh của người Việt từ lâu đã lan toả thành nếp sống, nếp
nghĩ “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, “nhân nào quả ấy”… trong nhân dân.
Bên cạnh đó, cùng với Nho giáo và Lão giáo, thuyết Tứ ân của nhà Phật đã hoà
nhập với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt và nâng tín ngưỡng này lên
thành một đạo lý có tính bền chắc, tồn tại qua nhiều thế hệ người Việt. Có thể
nói, những quan niệm đạo đức Phật giáo đã có tác động rất lớn đến đời sống đạo
đức của xã hội Việt Nam, góp phần hình thành nhân cách, lối sống của con
người Việt Nam.
Cách thức giao tiếp, ứng xử của người Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng rất
lớn bởi các quan niệm của Phật giáo.
Về ứng xử, giao tiếp trong gia đình, Phật giáo luôn đề cao sự hoà thuận và
trách nhiệm của các bậc làm cha, làm mẹ. Đồng thời, Phật giáo cũng đề cao sự
hiếu thuận của con cái với ông bà, cha mẹ thông qua thực việc hiện Tứ ân. Một
gia đình hoàn mỹ, theo quan niệm Phật giáo, phải lấy tình thương yêu làm trọng
và các thành viên trong gia đình phải vừa tự mình vượt khổ, vừa giúp nhau thoát
khổ để đạt hạnh phúc. Tục ngữ, ca dao Việt Nam cũng đề cập đến rất nhiều cách
thức giao tiếp, ứng xử hoà thuận, hiếu nghĩa của các thành viên trong gia đình,
như “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”;
“Chị ngã, em nâng”; “Môi hở răng lạnh”; “Máu chảy ruột mềm”; “Anh em
chém nhau đằng sống”…
7
Trong giao tiếp, ứng xử với cộng đồng, Phật giáo chủ trương thiết lập quan
hệ bình đẳng giữa các tha nhân. Theo quan niệm của nhà Phật, lời nói được sử
dụng trong giao tiếp không chỉ nhằm mục đích đạt được hiệu quả giao tiếp, mà
quan trọng hơn còn là xây dựng, củng cố tình thương giữa tha nhân. Trong dân
gian, người Việt cũng vẫn thường nhắn nhủ nhau rằng, “Một điều nhịn, chín
điều lành”, “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, “Lá lành đùm lá rách”,
“Thương người như thể thương thân”… Có thể nói, đây là những quan niệm của
Phật giáo đã được Việt hóa, trở thành những giá trị văn hoá truyền thống, thành
thói quen giao tiếp ứng xử cộng đồng của người dân Việt Nam.
Không chỉ chú trọng cách thức giao tiếp trong quan hệ giữa người với người,
Đức Phật còn chú trọng đến cả cách thức ứng xử của con người với môi trường
thiên nhiên. Ngay từ buổi đầu mới du nhập vào Việt Nam, quan niệm sống hài
hoà với thiên nhiên của Phật giáo đã nhanh chóng được người dân Việt đón
nhận, vì nó phù hợp với điều kiện và môi trường sống của người Việt. Tôn
trọng tự nhiên, sống hài hòa với tự nhiên đã trở thành một trong những lẽ sống
của người Việt. Lẽ sống ấy đã đi vào thi ca, nhạc họa và trở thành một phần tất
yếu trong cuộc sống của người Việt Nam.
Phật giáo còn in đậm dấu ấn của mình trong phong tục, tập quán của
người dân Việt Nam.
Chùa trong tâm thức của người dân Việt Nam không chỉ là nơi thờ Phật, mà
còn là nơi thờ Mẫu, thờ Thần, thờ tổ tiên và thờ các anh hùng dân tộc. Chính vì
vậy, người dân Việt Nam đến chùa không phải chỉ để lễ Phật, mà còn lễ mẫu, lễ
thần, tưởng nhớ tổ tiên, dòng tộc và tưởng nhớ các anh hùng dân tộc. Đối với
đại đa số người dân Việt Nam, mặc dù không tự nhận mình là người theo Phật
giáo nhưng vẫn thường xuyên đến chùa. Họ không hiểu thấu đáo những lý
thuyết của nhà Phật, nhưng họ có thể tin những điều đó dưới góc độ luân lý, đạo
đức. Đa số người Việt đến chùa, người nhiều thì có thể thuộc một vài bài kinh,
còn lại chỉ biết mấy câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, “Nam mô Quan Thế
8
Âm Bồ Tát”. Họ đến chùa không phải với mong muốn hiểu thấu đáo giáo lý nhà
Phật, mà với mong muốn cầu mong Thần, Phật đem lại cho gia đình họ nhiều
may mắn, phúc lộc, tai qua nạn khỏi.
Phật giáo từ lâu đã ăn sâu vào cuộc sống tâm linh của cộng đồng làng, xã
Việt Nam. Chùa thờ Phật trở thành chùa làng, trở thành nơi giải trí chung của cả
cộng đồng. Sinh hoạt Phật giáo đã trở thành một sinh hoạt văn hoá trong đời
sống thường nhật của người dân. Chùa thờ Phật còn là không gian thiêng để
người dân Việt gửi gắm niềm tin. Họ tin vào niềm tin linh thiêng nhân quả của
nhà Phật, tin vào sự chứng giám anh minh, ở hiền gặp lành của một Phật Bà
nghìn mắt, nghìn tay thấu hiểu mọi khổ ải của chúng sinh, tin vào sự trợ giúp
của các vị Thần nơi cửa Phật. Chính vì niềm tin ấy, ngày mùng một, ngày rằm
hàng tháng rất đông người dân từ thành thị đến thôn quê đã đến chùa lễ Phật,
cầu phúc, cầu tài, cầu lộc, mong bình an hạnh phúc cho bản thân và gia đình.
Các ngày lễ lớn của Phật giáo, như rằm tháng tư, rằm tháng bẩy… hiện không
còn là ngày lễ của riêng Phật giáo mà đã trở thành ngày lễ chung của rất nhiều
người dân Việt Nam. Không chỉ đến chùa lễ Phật, vào ngày rằm, mùng một
hàng tháng, đại đa số các gia đình Việt Nam hiện nay đều sắm lễ để thắp hương
tổ tiên gia tộc trong gia đình mình. Vào ngày tết cổ truyền của dân tộc rất đông
người dân từ thị thành đến thôn quê thường kéo nhau đến chùa lễ Phật và hái
lộc đầu năm. Dân gian tin rằng, hái lộc và lễ chùa đầu xuân sẽ đem lại nhiều
may mắn và tốt lành cho bản thân họ và gia đình trong một năm mới.
Bên cạnh đó, tục phóng sinh, ăn chay và bố thí vào các dịp lễ của Phật giáo
cũng đang dần trở thành nếp sống của một bộ phận nhân dân Việt Nam. Một số
chùa ở các thành phố lớn, như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh…
thường xuyên tổ chức nấu cơm chay vào ngày rằm và mùng một hàng tháng để
phục vụ các phật tử và khá đông khách thập phương đến lễ chùa. Cùng với
phóng sinh, ăn chay, tinh thần từ bi, cứu khổ của nhà Phật hiện nay không chỉ
9
chi phối hành động của các tín đồ Phật giáo, mà còn có sức lan tỏa rộng rãi
trong toàn xã hội.
Hạn chế của Phật giáo Việt Nam
Tuy nhiên, gPhật iáo Việt đã bị một số người lợi dụng và cố tình hiểu Nam
sai lạc đi, biến Phật giáo, chùa chiền thành một nơi xa lánh, tách biệt với xã hội,
cúng kiến mê tín và bị kẻ xấu lợi dụng để xin xăm, bói quẻ, đốt vàng mã, là
những sinh hoạt biến dạng vốn không phải của Đạo Phật.
Tổ chức Phật Giáo không chặt chẽ: Phật Giáo không có giáo quyển, không
thống nhất cách tu hành, có nhiều tông phái và sơn môn. Vì vậy mà giữa các
tổng phái, sơn môn giữa các nước cũng như trong cùng một nước không có sự
thống nhất về cách tu hành.
2.1.2. Ý nghĩa của khẩu hiệu: Đạo pháp Dân tộc Chủ nghĩa xã hội của - -
giáo hội phật giáo Việt Nam
Đạo pháp
Có thể thấy, trong cụm từ này có hai phần: Đạo và Pháp.
Đạo:
Có nhiều cách hiểu khác nhau về “đạo”; thậm chí, mỗi tôn giáo lại sử dụng
khái niệm này để chỉ một nội dung, một lĩnh vực khác nha Trong kinh Tăng u.
nhất chi bộ III, Đức Phật đã khẳng định: “Ví như nước biển chỉ có một vị là vị
mặn, cũng vậy, này Pahàrada, Pháp và Luật của ta chỉ có một vị là vị giải
thoát”. “Pháp và Luật” ở đây tức là “Đạo”. Như vậy, với Phật giáo, “Đạo” chỉ
có một mục tiêu duy nhất tối hậu là: “Giải thoát”.
Pháp:
Đặt trong mối quan hệ với “Đạo”, Pháp được hiểu là lời nói, hành động,
phương pháp và cách thức phù hợp để đưa Đạo (chân lý) đến với đời, với Phật
tử và chúng sinh. Nếu phạm trù “Đạo” là bất biến, là không thay đổi, thì pháp là
10
yếu tố có thể thay đổi, tức là tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên – xã hội, trình độ,
nhận thức… của người tiếp nhận đạo mà sử dụng các phương pháp, cách thức
truyền đạo cho phù hợp và hiệu quả.
Tóm lại, Đạo là chân lý duy nhất và không thay đổi. Tuy nhiên, nếu chỉ có
Đạo mà không có Pháp thì Đạo không thể đi vào cuộc sống, không thể vì chúng
sinh và mục đích cao cả mà Đức Phật đã đề ra là không thể thực hiện. Vì vậy,
Đạo cần có Pháp để được lưu chuyển, được hoằng hóa trong cuộc đời. Nhưng
nếu không có Đạo thì Pháp không có mục đích, cũng chẳng thể phát huy tác
dụng, không thể thể hiện được sự mềm dẻo, dễ thích nghi cuả mình. Bởi thế,
giữa Đạo và Pháp có mối quan hệ biện chứng với nhau, quan hệ chặt chẽ với
nhau và cùng tôn đẩy nhau, tạo thành hai mặt của một chỉnh thể thống nhất và
không thể tách rời.
Dân tộc
Chọn Dân tộc (thậm chí làm vế trung tâm) trong phương châm, Giáo hội Phật
giáo Việt Nam muốn khẳng định: Phật giáo luôn luôn gắn bó, đồng hành với đất
nước Việt Nam và con người Việt Nam. Và lịch sử dân tộc đã chứng minh điều
này: Hiếm có một tôn giáo nào lại gắn bó mật thiết với người Việt, đất Việt như
Phật giáo. Trong mọi lúc thịnh suy của quốc gia ta luôn thấy sự cùng chung vai
gánh vác của Phật giáo, và vì thế, so sánh lịch sử của dân tộc và lịch sử Phật
giáo Việt Nam, ta thấy có một sự đồng điệu đến lạ kì: khi nước nhà độc lập thì
Phật giáo cũng hưng thịnh, khi Tổ quốc lâm nguy thì Phật giáo cùng chịu chung
số phận suy tàn. Thậm chí, Dân tộc và Phật giáo đã hoà quyện với nhau thành
một khối thống nhất, không thể tách rời Như vậy là dù đất nước ở trong thời .
bình hay thời chiến, Phật giáo vẫn sát cánh cùng người dân Việt trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa sự phát triển
của Phật giáo với lợi ích dân tộc, chung tay góp sức cùng nhân dân cả nước xây
dựng nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Với ý thức trách nhiệm đó, các hoạt
động Phật sự ngày càng đi vào nền nếp và hiệu quả hơn.
11
Chủ nghĩa xã hội
Xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa là mục tiêu hướng tới, là lý tưởng của dân
tộc ta trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Mục tiêu của sự nghiệp xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam rất rõ ràng, đó là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng và văn minh.
Đặt mệnh đề này trong phương châm hoạt động của Giáo hội, Phật giáo Việt
Nam một lần nữa muốn khẳng định, tinh thần ‘nhập thế”, “khế lí khế cơ” luôn
luôn được theo đuổi và thực hiện một cách triệt để của mình. Đó là, không chỉ
luôn đồng hành, gắn bó, mà Phật giáo luôn luôn kề vai sát cánh với dân tộc, với
nhân dân trong bất kể thời kỳ nào, giai đoạn phát triển nào của đất nước, miễn là
làm cho nhân dân được sống trong hòa bình và an lạc, quốc thái dân an.
Như vậy, phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” mà Giáo
hội Phật giáo Việt Nam đề ra có 3 thành tố, những thành tố ấy đã hòa quyện,
gắn bó với nhau để tạo thành một khối thống nhất không thể tách rời. Đó là sự
kết hợp hài hòa lợi ích giữa tôn giáo (Phật giáo) với lợi ích của dân tộc, của
nhân dân Việt Nam. Trên tinh thần đó, mỗi người con Phật cần phải ý thức về
suy nghĩ và việc làm của mình, sao cho luôn luôn: vì Đạo pháp, vì Dân tộc và vì
sự Tiến bộ xã hội.
2.2. Nhận thức của cá nhân về vấn đề tôn giáo
Bản thân em và gia đình không tham gia bất kì các hình thức tôn giáo nào,
sau khi đã tìm hiểu về vấn đề này thì em nhận thấy mỗi hình thứ tôn giáo đều có
một điều hay, một đạo tin khác nhau nhưng đều cùng một mục đích là làm cho
con người trở nên tốt đẹp hơn và yêu cuộc sống hơn. Từ đó, chúng ta không nên
kì thị, phân biệt những người đi theo tôn giáo vì đó chính là quyền tự do tín
ngưỡng của mỗi ngườ Hiện nay tình trạng lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng gây i.
mê tín dị đoan và làm những điều bất chính, thiếu văn hóa đang làm vẩn đục đời
12
sống tinh thần của nhân dân. ản thân chúng ta cần nằm c vấn đề cơ bản về B rõ cá
tôn giáo để không bị lôi kéo, lợi dụng, phải luôn tỉnh tảo trước những lời dụ dỗ
của một số bộ phận tôn giáo không rõ nguồn gốc, có dấu hiệu tà đạo… Tuyên
truyền cho mọi người hiểu rõ hơn về tôn giáo cũng như quyền tự do tín ngưỡng
của mỗi người nhằm nâng cao nhận thức bản thân và gia đình, công đồng, giúp
cho nơi mình đang sinh sống trở nên lành mạnh và không có các hành động
phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng dân tộc, từ đó góp phần xây dựng khối đoàn kết
dân tộc ngày một lớn mạnh.
KẾT LUẬN
Tôn giáo đã gắn liền với con người từ rất rất lâu cho đến tận bây giờ vẫn đang
hoạt động rất mạnh mẽ và nắm một vị trí quan trọng trong xã hội con người.
Tôn giáo đã làm cho xã hội hêm nhiều màu sắc cũng như làm đẹp tâm hồn, t
phong phú tư tưởng của mỗi còn người. Có thể nói, các nước Chủ nghĩa xã hội
chưa bao giờ chống lại tôn giáo mà chỉ thực hiện các chính sách để chống lại
những kẻ lợi dụng tôn giáo nhằm vào các mục đích xấu. Chỉ có quán triệt sâu
sắc và toàn diện nội dung quan điểm trên đồng vận dụng linh hoạt, khoa thời
học vào thực tiễn thì ta mới có thể đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động lợi
dụng tôn giáo, xâm phạm đến an uốc gia, bảo vệ ững chắc an ninh uốc ninh q v q
gia trên lĩnh vực tôn giáo. Vấn đề tôn giáo trên thế giới hiện nay vẫn đang là
một vấn đề nóng, không chỉ riêng đối với Chủ nghĩa xã hội hay bất kì thời đại
nào. Chính vì thế việc giải quyết các vấn đề về tôn giáo cần phải được đặt ra
như một vấn đề cấp thiết, đòi hỏi phải có những phương pháp giải quyết đúng
đắn.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Học viện Ngân hàng (2021), Bài tập môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, lưu
hành nội bộ, Hà Nội.
Tài liệu trực tuyến
2. Vũ Thị Thúy Hằng (2013), "Những giá trị và hạn chế của phật giáo ảnh
hưởng của phật giáo ở nước ta hiện nay", 123docz.ne t,
https://123docz.net//document/293222-nhung-gia-tri-va-han-che-cua-
phat-giao-anh-huong-cua-phat-giao-o-nuoc- -hien-nay.htmta , truy cập lúc
16:22, ngày 12/04/2013.
3. Tạp chí Triết học (2019), Ảnh hưởng của phật giáo trong xã hội việt nam "
hiện nay". Redsvn.net, https://redsvn.net/anh-huong-cua-phat-giao-trong-
xa-hoi-viet-nam-hien-nay/, truy cập ngày 05/05/2019.
4. Minh Chính (2019), “ Phương châm Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã
hội”, Phật giáo Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
https://phatgiao.org.vn/amp/phuong-cham-dao-phap-dan-toc-chu-nghia-
xa-hoi-d37198.html, truy cập lúc 09:24, 03/10/2019.
| 1/15

Preview text:

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Học phần: CNXHK ( H PLT05H)
ĐỀ TÀI: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề
tôn giáo. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội ở
Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa của khẩu hiệu: Đạo pháp - Dân
tộc - Chủ nghĩa xã hội của giáo hội phật giáo Việt Nam.
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Lệ Thu
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thùy Dung
Lớp : K23CLCQTA Mã sinh viên : 23A4030066
Hà nội, ngày 25 tháng 1 2 năm 2021 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................... 2
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ..................................................... 2
NỘI DUNG ....................................................................................................... 3
Phần 1. Phần lý luận...................................................................................... 3
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ................................................................................. 3
1.2. Tôn giáo ở Việt Nam và quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng,
Nhà nước Việt Nam hiện nay ....................................................................... 4
Phần 2. Phần liên hệ thực tế và liên hệ bản thân .......................................... 5
2.1. Liên hệ với thực trạng Phật giáo ở Việt Nam hiện nay ..................... 5
2.2. Nhận thức của cá nhân về vấn đề tôn giáo ...................................... 11
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 13 1 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống tinh thần của con người, tôn giáo luôn đóng một vai trò nhất
định. Tôn giáo là sự tự do tín ngưỡng của mỗi công dân. Vấn đề tôn giáo từ lâu
đã là một trong những vấn đề nhạy cảm đối với Việt Nam cũng như các nước
trên toàn thế giới. Trong lịch sử Việt Nam, vấn đề tôn giáo đã từng bị lợi dụng
cho mục đích chính trị, chống phá cách mạng Việt Nam và ngày nay vẫn còn
một số thành phần tìm cách lợi dụng tôn giáo để chống lại Nhà Nước Xã Hội
Chủ Nghĩa nước ta. Chính vì thế mà mỗi người dân chúng ta cần phải có những
sự hiểu biết thấu đáo và chính xác về tôn giáo để không bị kẻ gian lợi dụng sự
tín ngưỡng tôn giáo vào những mục đích xấu.
Xuất phát từ lý do trên và để phục vụ cho việc học tập bộ môn Chủ Nghĩa Xã
Hội Khoa Học, em quyết định chọn đề tài “Quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lenin về tôn giáo. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam
hiện nay. Ý nghĩa của khẩu hiệu: Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội của
giáo hội phật giáo Việt Nam. ”. Là đề tài nghiên cứu để trước hết em cũng như
mọi người sẽ nhìn nhận được những quan điểm tôn giáo trên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đặc biệt là Phật giáo.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo và đang có chiều hướng phát triển trên
phạm vi cả nước. Trước tình hình đổi mới đất nước như hiện nay, để góp phần
xây dựng đất nước, chúng ta cần phải thực hiện tốt các chủ trương, chính sách
của Nhà nước, Đảng về vấn đề tôn giáo, hiểu rõ hơn về tôn giáo trong quá tình
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là mục đích để em nghiên cứu đề tài trên.
Nhiệm vụ nghiên cứu: 2
Để đạt được mục đích trên, trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu về lý luận chung về
vấn đề tôn giáo và nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ
lên CNXH; chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam; liên hệ với thực trạng phật giáo ở Việt Nam hiện nay: Mặt
tích cực và hạn chế của phật giáo VN; ý nghĩa khẩu hiệu: Đạo Pháp - Dân tộc -
Chủ nghĩa xã hội và nhận thức của cá nhân về vấn đề tôn giáo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tôn giáo – Phật giáo
Phạm vi nghiên cứu: − Không gian: Việt Nam
− Thời gian: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và hiện nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về vấn đề tôn giáo
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy
vật với các phương pháp như: thống nhất logic lịch sử, phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Việc nghiên cứu đề tài đã giúp chúng ta hiểu được bản chất,
nguồn gốc, tính chất và nguyên tắc của tôn giáo theo quan điểm của Mác -L n e in
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chính sách của Nhà nước trong thời kỳ đấy.
Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần nâng cao cái nhìn dúng đắn về tôn giáo cũng
như việc thực hiện các hành động về tôn giáo, đề xuất những chính sách về tôn
giáo một cách phù hợp và linh hoạt trong tình hình hiện nay. 3 NỘI DUNG
Phần 1. Phần lý luận
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo hiện thực khách
quan, thông qua hệ thống các biểu tượng siêu nhiên và niềm tin.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự
nhiên và lịch sử xã hội xác định.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự yếu thế, bất lực, bế tắc của
con người trước tự nhiên, xã hội và trước các thế lực trong đời sống.
1.1.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội: Sự bất lực của con người trước các thế
lực tự nhiên, thế lực xã hội.
Nguồn gốc nhận thức: do khả năng nhận thức của con người về tự nhiên, xã
hội và bản thân con người là có giới hạn nên đã thần thánh hoá những điều chưa nhận thức được.
Nguồn gốc tâm lý: đó là ảnh hưởng của yếu tố tâm lý (cả tích cực và tiêu cực)
đến sự ra đời của tôn giáo. Đặc biệt là sự bất lực trong đời sống, trong nhận
thức, tạo ra sự sợ hãi, bi quan. Đó là những tình cảm làm nảy sinh và duy trì niềm tin tôn giáo.
1.1.3. Tính chất của tôn giáo
Tính lịch sử: Tôn giáo chỉ xuất hiện trong những điều kiện lịch sử nhất định;
trong từng thời kỳ lịch sử, tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính
trị và xã hội của thời đại đó. 4
Tính quần chúng của tôn giáo: Số lượng tín đồ theo các tín ngưỡng, tôn giáo
ngày càng đông; tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hoá, tinh thần của một bộ phận
quần chúng nhân dân lao động.
Tính chính trị của tôn giáo: giai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo để phục vụ
cho lợi ích của giai cấp mình; đấu tranh tôn giáo là một bộ phận của đấu tranh
giai cấp; tôn giáo thay đổi cùng với sự thay đổi của quan hệ chính trị –giai cấp.
1.1.4. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Khắc phục dần các ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Phân biệt hai mặt chính trị và tôn giáo, phân biệt hoạt động tôn giáo bình
thường và việc lợi dụng tôn giáo.
Có quan điểm lịch sử - cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
1.2. Tôn giáo ở Việt Nam và quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng,
Nhà nước Việt Nam hiện nay
1.2.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo.
Tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình và không có xung đột tôn giáo.
Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có lòng yêu
nước và tinh thần dân tộc.
Chức sắc tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong xã hội, có uy tín và ảnh hưởng với tín đồ. 5
Các tôn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài.
Tôn giáo ở Việt Nam thường bị các thế lực phản động lợi dụng.
1.2.2. Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo hiện nay
Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và
sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc.
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Hoạt động tôn giáo phải tuân thủ theo pháp luật.
Phần 2. Phần liên hệ thực tế và liên hệ bản thân
2.1. Liên hệ với thực trạng Phật giáo ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay
Với dân tộc Việt Nam, không thể phủ nhận được rằng, Phật giáo là một trong
những thành tố quan trọng góp phần làm nên bản sắc văn hoá dân tộc, là một
phần không thể thiếu trong nền văn hoá Việt. Hơn 2.000 năm tồn tại ở Việt
Nam, Phật giáo đã để lại dấu ấn sâu đậm trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội. Phật giáo đã góp phần hình thành những giá trị, chuẩn mực trong lối sống của người Việt Nam.
Phật giáo đã góp phần hình thành lối sống của con người Việt Nam trong
lịch sử cũng như hiện nay.
Thực tế lịch sử dân tộc đã chứng minh rằng, sự khoan dung, hiếu hoà, độ
lượng trong đường lối trị quốc của các triều đại Lý – Trần (giai đoạn mà Phật 6
giáo giữ vai trò là hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội) là có sự đóng góp rất lớn của
Phật giáo. Các giai đoạn lịch sử sau này, mặc dù Phật giáo không còn là hệ tư
tưởng chủ đạo của xã hội nhưng nó vẫn có những ảnh hưởng không nhỏ đến
việc điều chỉnh hành vi đạo đức của con người Việt Nam. Nhiều phạm trù đạo
đức Phật giáo tham gia vào nền đạo đức của dân tộc trong lịch sử, giờ đây đã trở
thành lời ăn tiếng nói, trở thành phương tiện diễn đạt quan niệm đạo đức truyền
thống của người dân Việt Nam. Thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật gặp
gỡ với tín ngưỡng thác sinh của người Việt từ lâu đã lan toả thành nếp sống, nếp
nghĩ “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, “nhân nào quả ấy”… trong nhân dân.
Bên cạnh đó, cùng với Nho giáo và Lão giáo, thuyết Tứ ân của nhà Phật đã hoà
nhập với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt và nâng tín ngưỡng này lên
thành một đạo lý có tính bền chắc, tồn tại qua nhiều thế hệ người Việt. Có thể
nói, những quan niệm đạo đức Phật giáo đã có tác động rất lớn đến đời sống đạo
đức của xã hội Việt Nam, góp phần hình thành nhân cách, lối sống của con người Việt Nam.
Cách thức giao tiếp, ứng xử của người Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng rất
lớn bởi các quan niệm của Phật giáo.
Về ứng xử, giao tiếp trong gia đình, Phật giáo luôn đề cao sự hoà thuận và
trách nhiệm của các bậc làm cha, làm mẹ. Đồng thời, Phật giáo cũng đề cao sự
hiếu thuận của con cái với ông bà, cha mẹ thông qua thực việc hiện Tứ ân. Một
gia đình hoàn mỹ, theo quan niệm Phật giáo, phải lấy tình thương yêu làm trọng
và các thành viên trong gia đình phải vừa tự mình vượt khổ, vừa giúp nhau thoát
khổ để đạt hạnh phúc. Tục ngữ, ca dao Việt Nam cũng đề cập đến rất nhiều cách
thức giao tiếp, ứng xử hoà thuận, hiếu nghĩa của các thành viên trong gia đình,
như “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”;
“Chị ngã, em nâng”; “Môi hở răng lạnh”; “Máu chảy ruột mềm”; “Anh em
chém nhau đằng sống”… 7
Trong giao tiếp, ứng xử với cộng đồng, Phật giáo chủ trương thiết lập quan
hệ bình đẳng giữa các tha nhân. Theo quan niệm của nhà Phật, lời nói được sử
dụng trong giao tiếp không chỉ nhằm mục đích đạt được hiệu quả giao tiếp, mà
quan trọng hơn còn là xây dựng, củng cố tình thương giữa tha nhân. Trong dân
gian, người Việt cũng vẫn thường nhắn nhủ nhau rằng, “Một điều nhịn, chín
điều lành”, “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, “Lá lành đùm lá rách”,
“Thương người như thể thương thân”… Có thể nói, đây là những quan niệm của
Phật giáo đã được Việt hóa, trở thành những giá trị văn hoá truyền thống, thành
thói quen giao tiếp ứng xử cộng đồng của người dân Việt Nam.
Không chỉ chú trọng cách thức giao tiếp trong quan hệ giữa người với người,
Đức Phật còn chú trọng đến cả cách thức ứng xử của con người với môi trường
thiên nhiên. Ngay từ buổi đầu mới du nhập vào Việt Nam, quan niệm sống hài
hoà với thiên nhiên của Phật giáo đã nhanh chóng được người dân Việt đón
nhận, vì nó phù hợp với điều kiện và môi trường sống của người Việt. Tôn
trọng tự nhiên, sống hài hòa với tự nhiên đã trở thành một trong những lẽ sống
của người Việt. Lẽ sống ấy đã đi vào thi ca, nhạc họa và trở thành một phần tất
yếu trong cuộc sống của người Việt Nam.
Phật giáo còn in đậm dấu ấn của mình trong phong tục, tập quán của
người dân Việt Nam.
Chùa trong tâm thức của người dân Việt Nam không chỉ là nơi thờ Phật, mà
còn là nơi thờ Mẫu, thờ Thần, thờ tổ tiên và thờ các anh hùng dân tộc. Chính vì
vậy, người dân Việt Nam đến chùa không phải chỉ để lễ Phật, mà còn lễ mẫu, lễ
thần, tưởng nhớ tổ tiên, dòng tộc và tưởng nhớ các anh hùng dân tộc. Đối với
đại đa số người dân Việt Nam, mặc dù không tự nhận mình là người theo Phật
giáo nhưng vẫn thường xuyên đến chùa. Họ không hiểu thấu đáo những lý
thuyết của nhà Phật, nhưng họ có thể tin những điều đó dưới góc độ luân lý, đạo
đức. Đa số người Việt đến chùa, người nhiều thì có thể thuộc một vài bài kinh,
còn lại chỉ biết mấy câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, “Nam mô Quan Thế 8
Âm Bồ Tát”. Họ đến chùa không phải với mong muốn hiểu thấu đáo giáo lý nhà
Phật, mà với mong muốn cầu mong Thần, Phật đem lại cho gia đình họ nhiều
may mắn, phúc lộc, tai qua nạn khỏi.
Phật giáo từ lâu đã ăn sâu vào cuộc sống tâm linh của cộng đồng làng, xã
Việt Nam. Chùa thờ Phật trở thành chùa làng, trở thành nơi giải trí chung của cả
cộng đồng. Sinh hoạt Phật giáo đã trở thành một sinh hoạt văn hoá trong đời
sống thường nhật của người dân. Chùa thờ Phật còn là không gian thiêng để
người dân Việt gửi gắm niềm tin. Họ tin vào niềm tin linh thiêng nhân quả của
nhà Phật, tin vào sự chứng giám anh minh, ở hiền gặp lành của một Phật Bà
nghìn mắt, nghìn tay thấu hiểu mọi khổ ải của chúng sinh, tin vào sự trợ giúp
của các vị Thần nơi cửa Phật. Chính vì niềm tin ấy, ngày mùng một, ngày rằm
hàng tháng rất đông người dân từ thành thị đến thôn quê đã đến chùa lễ Phật,
cầu phúc, cầu tài, cầu lộc, mong bình an hạnh phúc cho bản thân và gia đình.
Các ngày lễ lớn của Phật giáo, như rằm tháng tư, rằm tháng bẩy… hiện không
còn là ngày lễ của riêng Phật giáo mà đã trở thành ngày lễ chung của rất nhiều
người dân Việt Nam. Không chỉ đến chùa lễ Phật, vào ngày rằm, mùng một
hàng tháng, đại đa số các gia đình Việt Nam hiện nay đều sắm lễ để thắp hương
tổ tiên gia tộc trong gia đình mình. Vào ngày tết cổ truyền của dân tộc rất đông
người dân từ thị thành đến thôn quê thường kéo nhau đến chùa lễ Phật và hái
lộc đầu năm. Dân gian tin rằng, hái lộc và lễ chùa đầu xuân sẽ đem lại nhiều
may mắn và tốt lành cho bản thân họ và gia đình trong một năm mới.
Bên cạnh đó, tục phóng sinh, ăn chay và bố thí vào các dịp lễ của Phật giáo
cũng đang dần trở thành nếp sống của một bộ phận nhân dân Việt Nam. Một số
chùa ở các thành phố lớn, như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh…
thường xuyên tổ chức nấu cơm chay vào ngày rằm và mùng một hàng tháng để
phục vụ các phật tử và khá đông khách thập phương đến lễ chùa. Cùng với
phóng sinh, ăn chay, tinh thần từ bi, cứu khổ của nhà Phật hiện nay không chỉ 9
chi phối hành động của các tín đồ Phật giáo, mà còn có sức lan tỏa rộng rãi trong toàn xã hội.
Hạn chế của Phật giáo Việt Nam
Tuy nhiên, Phật giáo Việt Nam đã bị một số người lợi dụng và cố tình hiểu
sai lạc đi, biến Phật giáo, chùa chiền thành một nơi xa lánh, tách biệt với xã hội,
cúng kiến mê tín và bị kẻ xấu lợi dụng để xin xăm, bói quẻ, đốt vàng mã, là
những sinh hoạt biến dạng vốn không phải của Đạo Phật.
Tổ chức Phật Giáo không chặt chẽ: Phật Giáo không có giáo quyển, không
thống nhất cách tu hành, có nhiều tông phái và sơn môn. Vì vậy mà giữa các
tổng phái, sơn môn giữa các nước cũng như trong cùng một nước không có sự
thống nhất về cách tu hành.
2.1.2. Ý nghĩa của khẩu hiệu: Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội của
giáo hội phật giáo Việt Nam Đạo pháp
Có thể thấy, trong cụm từ này có hai phần: Đạo và Pháp. • Đạo:
Có nhiều cách hiểu khác nhau về “đạo”; thậm chí, mỗi tôn giáo lại sử dụng
khái niệm này để chỉ một nội dung, một lĩnh vực khác nhau. Trong kinh Tăng
nhất chi bộ III, Đức Phật đã khẳng định: “Ví như nước biển chỉ có một vị là vị
mặn, cũng vậy, này Pahàrada, Pháp và Luật của ta chỉ có một vị là vị giải
thoát”. “Pháp và Luật” ở đây tức là “Đạo”. Như vậy, với Phật giáo, “Đạo” chỉ
có một mục tiêu duy nhất tối hậu là: “Giải thoát”. • Pháp:
Đặt trong mối quan hệ với “Đạo”, Pháp được hiểu là lời nói, hành động,
phương pháp và cách thức phù hợp để đưa Đạo (chân lý) đến với đời, với Phật
tử và chúng sinh. Nếu phạm trù “Đạo” là bất biến, là không thay đổi, thì pháp là 10
yếu tố có thể thay đổi, tức là tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên – xã hội, trình độ,
nhận thức… của người tiếp nhận đạo mà sử dụng các phương pháp, cách thức
truyền đạo cho phù hợp và hiệu quả.
Tóm lại, Đạo là chân lý duy nhất và không thay đổi. Tuy nhiên, nếu chỉ có
Đạo mà không có Pháp thì Đạo không thể đi vào cuộc sống, không thể vì chúng
sinh và mục đích cao cả mà Đức Phật đã đề ra là không thể thực hiện. Vì vậy,
Đạo cần có Pháp để được lưu chuyển, được hoằng hóa trong cuộc đời. Nhưng
nếu không có Đạo thì Pháp không có mục đích, cũng chẳng thể phát huy tác
dụng, không thể thể hiện được sự mềm dẻo, dễ thích nghi cuả mình. Bởi thế,
giữa Đạo và Pháp có mối quan hệ biện chứng với nhau, quan hệ chặt chẽ với
nhau và cùng tôn đẩy nhau, tạo thành hai mặt của một chỉnh thể thống nhất và không thể tách rời. Dân tộc
Chọn Dân tộc (thậm chí làm vế trung tâm) trong phương châm, Giáo hội Phật
giáo Việt Nam muốn khẳng định: Phật giáo luôn luôn gắn bó, đồng hành với đất
nước Việt Nam và con người Việt Nam. Và lịch sử dân tộc đã chứng minh điều
này: Hiếm có một tôn giáo nào lại gắn bó mật thiết với người Việt, đất Việt như
Phật giáo. Trong mọi lúc thịnh suy của quốc gia ta luôn thấy sự cùng chung vai
gánh vác của Phật giáo, và vì thế, so sánh lịch sử của dân tộc và lịch sử Phật
giáo Việt Nam, ta thấy có một sự đồng điệu đến lạ kì: khi nước nhà độc lập thì
Phật giáo cũng hưng thịnh, khi Tổ quốc lâm nguy thì Phật giáo cùng chịu chung
số phận suy tàn. Thậm chí, Dân tộc và Phật giáo đã hoà quyện với nhau thành
một khối thống nhất, không thể tách rời. N
hư vậy là dù đất nước ở trong thời
bình hay thời chiến, Phật giáo vẫn sát cánh cùng người dân Việt trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa sự phát triển
của Phật giáo với lợi ích dân tộc, chung tay góp sức cùng nhân dân cả nước xây
dựng nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Với ý thức trách nhiệm đó, các hoạt
động Phật sự ngày càng đi vào nền nếp và hiệu quả hơn. 11
Chủ nghĩa xã hội
Xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa là mục tiêu hướng tới, là lý tưởng của dân
tộc ta trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Mục tiêu của sự nghiệp xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam rất rõ ràng, đó là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Đặt mệnh đề này trong phương châm hoạt động của Giáo hội, Phật giáo Việt
Nam một lần nữa muốn khẳng định, tinh thần ‘nhập thế”, “khế lí khế cơ” luôn
luôn được theo đuổi và thực hiện một cách triệt để của mình. Đó là, không chỉ
luôn đồng hành, gắn bó, mà Phật giáo luôn luôn kề vai sát cánh với dân tộc, với
nhân dân trong bất kể thời kỳ nào, giai đoạn phát triển nào của đất nước, miễn là
làm cho nhân dân được sống trong hòa bình và an lạc, quốc thái dân an.
Như vậy, phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” mà Giáo
hội Phật giáo Việt Nam đề ra có 3 thành tố, những thành tố ấy đã hòa quyện,
gắn bó với nhau để tạo thành một khối thống nhất không thể tách rời. Đó là sự
kết hợp hài hòa lợi ích giữa tôn giáo (Phật giáo) với lợi ích của dân tộc, của
nhân dân Việt Nam. Trên tinh thần đó, mỗi người con Phật cần phải ý thức về
suy nghĩ và việc làm của mình, sao cho luôn luôn: vì Đạo pháp, vì Dân tộc và vì sự Tiến bộ xã hội.
2.2. Nhận thức của cá nhân về vấn đề tôn giáo
Bản thân em và gia đình không tham gia bất kì các hình thức tôn giáo nào,
sau khi đã tìm hiểu về vấn đề này thì em nhận thấy mỗi hình thứ tôn giáo đều có
một điều hay, một đạo tin khác nhau nhưng đều cùng một mục đích là làm cho
con người trở nên tốt đẹp hơn và yêu cuộc sống hơn. Từ đó, chúng ta không nên
kì thị, phân biệt những người đi theo tôn giáo vì đó chính là quyền tự do tín
ngưỡng của mỗi người. Hiện nay tình trạng lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng gây
mê tín dị đoan và làm những điều bất chính, thiếu văn hóa đang làm vẩn đục đời 12
sống tinh thần của nhân dân. Bản thân chúng ta cần nằm rõ các vấn đề cơ bản về
tôn giáo để không bị lôi kéo, lợi dụng, phải luôn tỉnh tảo trước những lời dụ dỗ
của một số bộ phận tôn giáo không rõ nguồn gốc, có dấu hiệu tà đạo… Tuyên
truyền cho mọi người hiểu rõ hơn về tôn giáo cũng như quyền tự do tín ngưỡng
của mỗi người nhằm nâng cao nhận thức bản thân và gia đình, công đồng, giúp
cho nơi mình đang sinh sống trở nên lành mạnh và không có các hành động
phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng dân tộc, từ đó góp phần xây dựng khối đoàn kết
dân tộc ngày một lớn mạnh. KẾT LUẬN
Tôn giáo đã gắn liền với con người từ rất rất lâu cho đến tận bây giờ vẫn đang
hoạt động rất mạnh mẽ và nắm một vị trí quan trọng trong xã hội con người.
Tôn giáo đã làm cho xã hội thêm nhiều màu sắc cũng như làm đẹp tâm hồn,
phong phú tư tưởng của mỗi còn người. Có thể nói, các nước Chủ nghĩa xã hội
chưa bao giờ chống lại tôn giáo mà chỉ thực hiện các chính sách để chống lại
những kẻ lợi dụng tôn giáo nhằm vào các mục đích xấu. Chỉ có quán triệt sâu
sắc và toàn diện nội dung quan điểm trên đồng thời vận dụng linh hoạt, khoa
học vào thực tiễn thì ta mới có thể đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động lợi
dụng tôn giáo, xâm phạm đến an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc an ninh quốc
gia trên lĩnh vực tôn giáo. Vấn đề tôn giáo trên thế giới hiện nay vẫn đang là
một vấn đề nóng, không chỉ riêng đối với Chủ nghĩa xã hội hay bất kì thời đại
nào. Chính vì thế việc giải quyết các vấn đề về tôn giáo cần phải được đặt ra
như một vấn đề cấp thiết, đòi hỏi phải có những phương pháp giải quyết đúng đắn. 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Học viện Ngân hàng (2021), Bài tập môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, lưu hành nội bộ, Hà Nội.
Tài liệu trực tuyến
2. Vũ Thị Thúy Hằng (2013), "Những giá trị và hạn chế của phật giáo ảnh
hưởng của phật giáo ở nước ta hiện nay", 123docz.net,
https://123docz.net//document/293222-nhung-gia-tri-va-han-che-cua-
phat-giao-anh-huong-cua-phat-giao-o-nuoc-ta-hien-nay.htm, truy cập lúc 16:22, ngày 12/04/2013.
3. Tạp chí Triết học (2019), "Ảnh hưởng của phật giáo trong xã hội việt nam
hiện nay". Redsvn.net, https://redsvn.net/anh-huong-cua-phat-giao-trong-
xa-hoi-viet-nam-hien-nay/, truy cập ngày 05/05/2019.
4. Minh Chính (2019), “ Phương châm Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã
hội”, Phật giáo Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
https://phatgiao.org.vn/amp/phuong-cham-dao-phap-dan-toc-chu-nghia-
xa-hoi-d37198.html, truy cập lúc 09:24, 03/10/2019.