Điền từ thiếu vào ô trống: “bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội kẻ thù chủ yếu của chúng ta là giai cấp …, những tập quán thói quen của giai cấp ấy” (V. I. Lênin )

Các dân tộc đoàn kết với nhau, phát huy truyền thống văn hóa, phongtục tập quán, tạo nên sức mạnh phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Tuyệt đại bộ phận người Việt ở nước ngoài đều hướng về Tổquốc và đang đóng góp công sức cho xây dựng, phát triển kinh tế -xã hội ở quê hương. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
13 trang 6 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Điền từ thiếu vào ô trống: “bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội kẻ thù chủ yếu của chúng ta là giai cấp …, những tập quán thói quen của giai cấp ấy” (V. I. Lênin )

Các dân tộc đoàn kết với nhau, phát huy truyền thống văn hóa, phongtục tập quán, tạo nên sức mạnh phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Tuyệt đại bộ phận người Việt ở nước ngoài đều hướng về Tổquốc và đang đóng góp công sức cho xây dựng, phát triển kinh tế -xã hội ở quê hương. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

173 87 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 46836766
Đề bài
Phân tích tác động của đặc điểm dân số nước ta đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và môi trường.
- Tác động tích cực và tiêu cực
- Liên hệ ba mặt: kinh tế - xã hội - môi trường Lời giải chi tiết a) Tích cực :
- Dân số đông :
+ Nguồn lao động dồi dào, tác động tích cực đến nền kinh tế, đặc biệt với những ngành cần nhiều lao
động, thu hút đầu tư nước nước ngoài.
+ Thị trường tiêu thụ rộng lớn, giúp thúc đẩy sản xuất và phát triển.
- Dân số trẻ :
+ Năng động, sáng tạo, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kĩ thuật.
+ Tỉ lệ người phụ thuộc ít hơn, giúp cải thiện nâng cao chất lượng đời sống.
- Thành phần dân tộc đa dạng :
+ Các dân tộc đoàn kết với nhau, phát huy truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, tạo nên sức mạnh
phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.
+ Tuyệt đại bộ phận người Việt ở nước ngoài đều hướng về Tổ quốc và đang đóng góp công sức cho xây
dựng, phát triển kinh tế -xã hội ở quê hương. b) Tiêu cực :
Dân đông và tăng nhanh gây nên sức ép lớn về vấn đề kinh tế - xã hội - môi trường.
- Về kinh tế :
+ Gia tăng dân số nhanh, chưa phù hợp với tăng trưởng kinh tế, kĩm hãm sự phát triển và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo ngành và lãnh thổ.
+ Vấn đề thất nghiệp và thiếu việc làm trở nên gay gắt.
+ Dân cư phân bố không hợp lí nên việc sử dụng và khai thác tài nguyên không hợp lí, hiệu quả.
- Về xã hội :
+ Chất lượng cuộc sống chậm cải thiện, GDP bình quân đầu người thấp vẫn còn thấp.
+ Các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt ở những vùng miền núi.
- Về môi trường :
Dân số đông, mật độ dân số cao gây sức ép lên tài nguyên và môi trường
+ Cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên.
+ Ô nhiễm môi trường.
1. Đặt vấn đề
lOMoARcPSD| 46836766
Kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 2021 mặc dù tăng trưởng ổn định nhưng chịu nhiều tác động từ
môi trường quốc tế và môi trường trong nước. Trong đó, với đặc trưng hình thái kinh tế của Việt Nam, môi
trường dân số có những tác động mạnh tới phát triển kinh tế.
Từ trước đến nay trên toàn thế giới, thông qua các nghiên cứu đều chỉ ra kinh tế và dân số luôn có mối liên
hệ mật thiết đến thăng trầm kinh tế trong một quốc gia. Trong tác phẩm nổi tiếng “Capital in the Twenty-
First Century” xuất bản m 2014, Thomas Piketty cho rằng sự tăng lên của GDP bình quân đầu người sẽ
làm phúc lợi hội tăng theo. Tại các quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng dân số cao sẽ tác động tới GDP bình
quân đầu người theo chiều hướng phụ thuộc vào bản chất tác động lên GDP nh quân đầu người [3, Tr73].
Trong trường hợp tăng trưởng dân số cao đóng góp nguồn nhân lực thúc đẩy kinh tế phát triển, khi đó GDP
bình quân đầu người tăng. Ngược lại, tại quốc gia không có chính sách phát triển kinh tế phù hợp, dân số
tăng không chỉ không đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, mà còn kéo nền kinh tế trở nên trì trệ, GDP bình
quân đầu người sẽ sút giảm.
Nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 2020 chính biểu hiện của xu hướng thứ nhất trong quan
điểm của Thomas Piketty, tức là dân số tăng trưởng nhanh thúc đẩy kinh tế phát triển, GDP bình quân đầu
người tăng. Vấn đề phát triển kinh tế Việt Nam phản ánh đường lối chính sách theo đuổi phát triển kinh tế
của Chính phủ là đúng đắn, trong đó đặc trưng lớn của tăng trưởng kinh tế Việt Nam là thu hút đầu tư nước
ngoài (FDI). Theo tác giả Hồ Đình Bảo (2019) đã chỉ ra dòng vốn FDI ảnh hưởng tích cực trong ngắn
hạn dài hạn đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam [1]. Ngoài ra, tác giả Tài Thu cũng tái khẳng định dòng
vốn FDI ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, mặc sự tác động đó nh chất thất
thường tới khu vực kinh tế nhà nưc và tư nhân [2].
Một thực tế của nền kinh tế Việt Nam, mặc dù tăng trưởng mạnh do dòng vốn đầu tư nước ngoài tác động,
nhưng lợi thế của Việt Nam trong thời kỳ mở cửa nền kinh tế thu hút đầu tư nước ngoài chính là lao động
giá rẻ, số lượng nhiều, phát triển kinh tế nhờ vào thâm dụng lao động.
2. Phân tích vấn đ
Thomas Malthus (1766 - 1834) - nhà kinh tế học người Anh đã viết: “Nếu mọi người sinh sản với mức tối
đa, sản xuất lương thực nông nghiệp sẽ không theo kịp, dẫn đến tình trạng chết đói hàng loạt. Nhưng khi
dân số tăng lên, các công nghệ hiện đại sẽ ra đời hỗ trợ phát triển sản xuất lương thực thực phẩm các
nhu cầu cơ bản khác” [4].
Sự đúng đắn trong quan điểm này của Thomas Malthus đã được chứng minh trong suốt quá trình phát triển
của nhân loại. Mở rộng hơn trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật (KHKT), mặc dù
còn nhiều nghèo đói tại các nước đông dân như châu Phi hoặc một số khu vực đặc biệt trên thế giới, nhưng
nhìn chung, sự phát triển của dân số luôn đi cùng sự phát triển kinh tế cùng với sự có mặt của KHKT hiện
đại.
Xét trên bối cảnh Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 2020, dân số Việt Nam có sự tăng trưởng ổn định về số
lượng, nhưng khi xét trên tỷ lệ so sánh giữa các năm, số liệu lại phản ánh sự sụt giảm tỷ lệ tăng trưởng kể
từ đầu thế kỷ XXI đến nay. nhiều nguyên nhân giải thích cho sự suy giảm tỷ lệ tăng trưởng giữa các
năm kể từ năm 2000 đến nay. Trong đó, nguyên nhân bản chính mối quan hệ nghịch của dân số
thu nhập bình quân, điều này đã được phản ảnh thông qua nhiều công trình nghiên cứu thông qua quan sát
sự vận động của nền kinh tế tại các nước phát triển trên thế giới [5], [6].
Hình 1: Tốc độ tăng trưởng dân số Việt Nam 1990 – 2020
lOMoARcPSD| 46836766
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Trong hơn 20 năm qua, kinh tế Việt Nam sự tăng trưởng ấn tượng, phản ảnh qua chỉ số tăng trưởng GDP
hàng năm đều đạt trên 6% và là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng ấn tượng trên thế giới.
Sự tăng trưởng kinh tế đã giúp cho thu nhập bình quân đầu người Việt Nam tăng lên, ngược lại dân số tăng
trưởng cung cấp một lực lượng lao động dồi dào giúp kinh tế tăng trưởng.
Mặc dù thu nhập bình quân đầu người Việt Nam so với thế giới còn thấp, nhưng về cơ bản đã có những ảnh
hưởng nhất định tới tốc độ tăng trưởng dân số, cùng với chính sách kế hoạch hóa và gia đình trước đó của
Chính phủ. Do vậy, nhìn trên Hình 2 dễ dàng nhận thấy, kể từ năm 1990, tốc độ tăng dân số bắt đầu giảm
xuống cũng thời điểm thu nhập bình quân đầu người tính theo GNI tăng lên. Mặc năm 2004, tỷ lệ
tăng dân số có tăng trở lại, nhưng chỉ trong một khoảng thời gian ngắn với tỷ lệ tăngnh quân 1%/năm.
Hình 2: Tăng trưởng dân số và thu nhập bình quân đầu người Việt Nam
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Trong giai đoạn 1990 - 2020, cơ cấu dân số Việt Nam cũng có sự biến động mạnh, khi xem xét cơ cấu theo
giới tính thấy tỷ lệ nam giới tăng nhanh hơn nữ giới. Yếu tố tác động lớn đến tỷ lệ này là do quan niệm xã
hội của người phương Đông. Tỷ lệ nam giới tăng nhanh hơn nữ giới vừa tạo ra thuận lợi, vừa tạo ra bất lợi
cho phát triển kinh tế. Về cơ bản, trên cơ sở quan niệm truyền thống của người Việt Nam, hầu như nữ giới
lOMoARcPSD| 46836766
ít chọn, thậm chí không chọn các lĩnh vực lao động trong nh vực nguy hiểmnh vực công nghiệp phức
tạp đòi hỏi sức lực cơ bắp lớn. Còn lao động nam giới tham gia nhiều lĩnh vực công nghiệp phức tạp, nguy
hiểm, qua đó giúp tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh phục hồi và phát triển kinh tế. Xét về lâu dài, sự phát
triển của kinh tế tạo ra nhiều công việc phù hợp với nữ giới, đồng thời nữ giới đảm bảo tỷ lệ sinh sản lao
động, vì vậy nếu tỷ lệ nữ tiếp tục giảm xuống sẽ tạo nên nguy cơ tiềm ẩn suy giảm dân số, thiếu lao động
trong tương lai.
Hình 3: Cơ cấu dân số Việt Nam phân theo giới tính
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Khoảng cách giới tính trong cấu dân số Việt Nam có từ lâu, tuy nhiên khoảng cách này bị nới rộng mạnh
từ năm 2004 do các yếu tố KHKT tác động. Mặc khoảng cách thu hẹp trong những m gần đây,
nhưng nếu không có những tác động cụ thể, khoảng cách này sẽ lại bị nới rộng ra, nguy ảnh hưởng đến
dân số sẽ diễn ra trong vòng 20 năm nữa. (Hình 3)
Bên cạnh xem xétcấu dân số theo giới tính, có thể xem xét cơ cấu dân số theo tuổi tác. Kể từ năm 2021,
theo quy định luật pháp, tuổi nghỉ hưu của nữ giới mỗi năm tăng 6 tháng, nam giới tăng 3 tháng, tiến tới
tuổi nghỉ hưu của nữ giới là 60, tuổi nghỉ hưu của nam giới là 64. Theo đó, hoạt động thống kê dân số trong
độ tuổi lao động được tính từ 15 đến 64 tuổi. Trong Hình 4 phản ánh tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động
chiếm tỷ lệ lớn nhất, nhưng nhìn đường phản ánh tỷ lệ tăng trưởng của các nhóm tuổi qua các năm lại cho
thấy cơ cấu dân số trên 65 tuổi có tốc độ tăng nhanh, trong khi đó cơ cấu dân số dưới 14 tuổi và từ 15 đến
64 tuổi lại có xu hướng giảm xuống. Phản ánh này cho thấy Việt Nam bắt đầu đối diện với sự già hóa dân
số kể từ năm 2014, lao động có nguy cơ thiếu hụt.
Hình 4: Cơ cấu dân số Việt Nam phân theo độ tuổi
lOMoARcPSD| 46836766
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Sự thay đổi của dân số và cơ cấu dân số theo 2 tiêu chí giới tính và tuổi tác trong giai đoạn 1990 - 2020 tại
Việt Nam rất lớn. Cùng với sự thay đổi đó, kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này cũng phát triển nhanh
chóng, từ một quốc gia nghèo, lạc hậu trở thành một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh.
Hình 5: Sự phát triển của kinh tế Việt Nam thông qua các chỉ tiêu cơ bản
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990 - 2020 thông qua Hình 5 cho thấy, nếu như GDP Việt
Nam năm 1990 chỉ đạt hơn 6 tỷ USD, thì đến năm 2020 đã đạt hơn 271 tỷ USD, tăng gấp 41 lần; thu nhập
bình quân đầu người tính theo GNI từ 917 USD/người/năm 1990 đến năm 2020 đã đạt hơn 8646 USD/người
tăng gấp 9,4 lần. Sự phát triển kinh tế của Việt Nam khi so sánh với cấu dân số theo độ tuổi cho thấy,
sự phát triển kinh tế chịu nhiều ảnh hưởng bởi lực lượng lao động từ 15 đến 64 tuổi, đồng thời cũng tác
động ngược lại làm lực lượng này có sự suy giảm nhẹ về tốc độ tăng trưởng.
Hình 6: Mối quan hệ giữa GDP và cơ cấu dân số theo tuổi
lOMoARcPSD| 46836766
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Lực lượng dân số dưới 14 tuổi trong giai đoạn này có sự suy giảm kể từ năm 1996, điều này biểu thị sự ảnh
hưởng của chính sách kế hoạch hóa và gia đình, nhưng đồng thời cũng biểu thị sự ảnh hưởng của nhóm lao
động bị chi phối nhiều hơn bởi công việc cuộc sống làm thay đổi tư duy. Phát triển kinh tế cũng tác động
đến lực lượng dân số trên 65 tuổi thông qua những tác động tích cực đến đời sống, giúp cuộc sống khá giả
hơn, điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn, tuổi thọ cao hơn, vì vậy trong giai đoạn 1990 - 2020, nhóm cơ
cấu dân số này không ngừng tăng.
Về bản, số lượng dân số ngoài độ tuổi lao động càng lớn, gánh nặng đối với nền kinh tế càng cao, tuy
nhiên tại Việt Nam với những đặc trưng của môi trường xã hội phương Đông, sự ảnh hưởng này thấp hơn
các quốc gia phương Tây, tuy vậy cũng có những ảnh hưởng nhất định tới phát triển kinh tế.
Quan sát diễn biến trong Hình 6 cho thấy tiến trình tăng trưởng của GDP vẫn tiếp tục tăng, nhưng tiến trình
tăng trưởng lao động giảm xuống do nguồn cung là nhóm dân số dân số dưới 14 tuổi giảm và nhóm dân số
trên 65 tuổi tăng lên. Vấn đề này ràng bị ràng buộc bởi thu nhập bình quân đầu người. Bài học từ các
nền kinh tế phát triển, cho thấy khi thu nhập bình quân đầu người đạt ngưỡng nhất định, thể đảm bảo
cuộc sống tốt, dân số sẽ giảm xuống. Đặc biệt trong đó nhóm dân số dưới 14 tuổi giảm ảnh hưởng đến
nhóm dân số trong độ tuổi lao động, đồng thời nhóm dân số trên 65 tuổi sẽ tăng, tạo gánh nặng cho sự phát
triển xã hội.
Chính sách của các quốc gia phát triển trong trường hợp này là thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế tri
thức đi cùng với thuê lao động nước ngoài dịch chuyển một bộ phận cấu sản xuất ra thế giới, tới
những quốc gia lao động dồi dào, giá rẻ. Mặc dù Việt Nam hiện chưa tới giai đoạn như các nước phát triển,
tuy nhiên khi xem xét cấu dân số theo độ tuổi với thu nhập bình quân đầu người, mối quan hệ tlệ
nghịch của dân số trong độ tuổi lao động, dân số dưới 14 tuổi với thu nhập bình quân đầu người bắt đầu
xuất hiện.
Hình 7: Mối quan hệ giữa thu nhập bình quân và cơ cấu dân số theo tuổi
lOMoARcPSD| 46836766
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Đặc biệt tốc độ tăng trưởng của cấu dân số trên 65 tuổi tăng nhanh n thu nhập bình quân phản ảnh
dân số Việt Nam già hóa nhanh chóng. Từ những hiện tượng trên của cấu dân số và phát triển kinh tế,
thấy rằng, trong giai đoạn 1990 - 2020, kinh tế Việt Nam thông qua lực lượng lao động phát triển nhanh
chóng giúp cho thu nhập nh quân đầu người tăng, ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội và các quan điểm
sống của người Việt Nam, làm quy dân số mặc vẫn tăng nhưng lực lượng lao động nguồn lao
động không tăng nhiều, chỉ có dân số trên 65 tuổi tăng nhanh.
3 . Giải quyết vấn đề
Trên sở những phân tích thống kê, nhóm nghiên cứu thực hiện đưa dữ liệu vào hình VAR để xác
định mối quan hệ nhân quả Granger với các biến bao gồm: GDP, dân số dưới 14 tuổi (U14), dân số từ 15
64 (Tld), dân số trên 65 (B65) và thu nhập bình quân (Tbq) bằng công cụ Eview 10 và nhận được kết quả
như sau:
Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu
Bảng 1. Kiểm định tính dừng
Kết quả chạy hình VAR Estimation
Proc:
===============================
LS 1 2 D(GDP,2) D(B65,2) D(TLD,2) D(U14) D(TBQ)
lOMoARcPSD| 46836766
VAR Model:
===============================
D(GDP,2) = C(1,1)*D(GDP(-1),2) + C(1,2)*D(GDP(-2),2) + C(1,3)*D(B65(-1),2) + C(1,4)*D(B65(-2),2)
+ C(1,5)*D(TLD(-1),2) + C(1,6)*D(TLD(-2),2) + C(1,7)*D(U14(-1)) + C(1,8)*D(U14(-2)) +
C(1,9)*D(TBQ(-1)) + C(1,10)*D(TBQ(-2)) + C(1,11)
D(B65,2) = C(2,1)*D(GDP(-1),2) + C(2,2)*D(GDP(-2),2) + C(2,3)*D( B65(-1),2) + C(2,4)*D(B65(-2), 2)
+ C(2,5)*D(TLD(-1),2) + C(2,6)*D(TLD(-2),2) + C(2,7)*D(U14(-1)) + C(2,8)*D(U14(-2)) +
C(2,9)*D(TBQ(-1)) + C(2,10)*D(TBQ(-2)) + C(2,11)
D(TLD,2) = C(3,1)*D(GDP(-1),2) + C(3,2)*D(GDP(-2),2) + C(3,3)*D(B65(-1),2) + C(3,4)*D(B65(2),2)
+ C(3,5)*D(TLD(-1),2) + C(3,6)*D(TLD(-2),2) + C(3,7)*D(U14(-1)) + C(3,8)*D(U14(-2)) +
C(3,9)*D(TBQ(-1)) + C(3,10)*D(TBQ(-2)) + C(3,11)
D(U14) = C(4,1)*D(GDP(-1),2) + C(4,2)*D(GDP(-2),2) + C(4,3)*D(B65(-1),2) + C(4,4)*D(B65(-2),2) +
C(4,5)*D(TLD(-1),2) + C(4,6)*D(TLD(-2),2) + C(4,7)*D(U14(-1)) + C(4,8)*D(U14(-2)) +
C(4,9)*D(TBQ(-1)) + C(4,10)*D(TBQ(-2)) + C(4,11)
D(TBQ) = C(5,1)*D(GDP(-1),2) + C(5,2)*D(GDP(-2),2) + C(5,3)*D(B65(-1),2) + C(5,4)*D(B65(-2),2) +
C(5,5)*D(TLD(-1),2) + C(5,6)*D(TLD(-2),2) + C(5,7)*D(U14(-1)) + C(5,8)*D(U14(-2)) +
C(5,9)*D(TBQ(-1)) + C(5,10)*D(TBQ(-2)) + C(5,11)
VAR Model - Substituted Coefficients:
===============================
D(GDP,2) = - 0.540987732422*D(GDP(-1),2) - 0.61386410799*D(GDP(-2),2) +
29496.3827685*D(B65(-1),2) + 9309.84355121*D(B65(-2),2) + 44549.7916939*D(TLD(-1),2) +
22909.4388635*D(TLD(-2),2) - 254.578725108*D(U14(-1)) - 2606.87496575*D(U14(-2)) +
41223341.192*D(TBQ(-1)) - 32515719.2703*D(TBQ(-2)) - 574384616.142
D(B65,2) = - 8.06869218981e-06*D(GDP(-1),2) + 2.53134853672e-06*D(GDP(-2),2) -
2.80250992937*D(B65(-1),2) - 0.755030619728*D(B65(-2),2) - 3.05668006565*D(TLD(-1),2)
0.912799568911*D(TLD(-2),2) - 2.09314059244*D(U14(-1)) + 1.86761771507*D(U14(-2)) -
2108.68579202*D(TBQ(-1)) + 3556.36306696*D(TBQ(-2)) - 365433.873181
D(TLD,2) = 9.58299375257e-06*D(GDP(-1),2) - 2.40976951715e-06*D(GDP(-2),2) +
2.54500359499*D(B65(-1),2) + 0.42337788008*D(B65(-2),2) + 2.74185695955*D(TLD(-1),2) +
0.544272191719*D(TLD(-2),2) + 2.09037412287*D(U14(-1)) - 1.89441210077*D(U14(-2)) +
2023.52554555*D(TBQ(-1)) - 3438.44262838*D(TBQ(-2)) + 325406.205863
D(U14) = - 2.11091451773e-06*D(GDP(-1),2) - 5.36494188822e-07*D(GDP(-2),2) +
1.03407992411*D(B65(-1),2) + 0.267416288574*D(B65(-2),2) + 1.08210753814*D(TLD(-1),2) +
0.294477025488*D(TLD(-2),2) + 1.79586964756*D(U14(-1)) - 0.860752432189*D(U14(-2)) +
86.8286092108*D(TBQ(-1)) - 67.8107759942*D(TBQ(-2)) + 16210.6155316
D(TBQ) = - 6.50079516632e-09*D(GDP(-1),2) - 1.12349728991e-08*D(GDP(-2),2) +
0.000550762232522*D(B65(-1),2) - 0.000289628589477*D(B65(-2),2) + 0.000682937963009*D(TLD(-
1),2) - 0.000231017315113*D(TLD(-2),2) + 0.00122172128684*D(U14(-1))
0.00111750251835*D(U14(-2)) + 0.514061099316*D(TBQ(-1)) + 0.209973592578*D(TBQ(-2)) +
112.56810157
Ước lượng và phân tích kết quả
lOMoARcPSD| 46836766
* Kiểm định tính ổn định của mô hình VAR
Kết quả cho thấy, tất cả các biến đều nằm trong phạm vi cho phép, có nghĩa mô hình có tính ổn định và có
thể sử dụng được.
* Kiểm định nhân quả Granger
Bảng 2. Kiểm định nhân quả Granger
Dưới góc độ kết quả của kiểm định nhân quả Granger, chúng tôi nhận thấy dân số trong các độ tuổi khác
nhau có tác động lẫn nhau, về mặt xã hội học, đây là điều đương nhiên.
Thu nhập bình quân có tác động đến dân số từ 15 - 64 tuổi dân số trên 65 tuổi, nhưng không tác động
đến dân số dưới 14 tuổi. Ngược lại, dân số dưới 14 tuổi ít ảnh hưởng tới thu nhập bình quân. Đồng thời,
thu nhập bình quân có tác động qua lại với GDP.
4 . Kết luận
Như vậy, trên sở những phân ch thống kê kết hợp với kết quả nhận được từ kiểm định nhân quả Granger
đối với mô hình VAR đã xác lập sự ảnh hưởng phụ thuộc lẫn nhau của các yếu tố. Phát triển kinh tế phụ
thuộc nhiều vào thu nhập bình quân đầu người thu nhập bình quân đầu người tác động tích cực tới
cấu dân số. Vì vậy, để đảm bảo kinh tế phát triển ổn định trong tương lai, việc xác định nâng cao thu nhập
bình quân đầu người là việc quan trọng, nhờ đó sẽ ổn định được cơ cấu dân số, chống lại các tác động tiêu
cực của cấu dân số. Tuy nhiên, biện pháp này không thể kéo dài, cần các giải pháp chiến lược
thúc đẩy nâng cao hiệu suất làm việc thông qua ứng dụng KHKT.
Phương pháp nghiên cứu áp dụng trong bài báo phản ánh được phản ánh đúng ảnh hưởng của cấu
dân số tới phát triển kinh tế với số liệu được tập hợp từ Ngân hàng Thế giới và được nhóm nghiên cứu xử
lý đảm bảo tính khoa học.
Tác động tương hỗ của các yếu tố dân số và phát triển
Dân số và phát triển kinh tế - hội có tác động tương hỗ lẫn nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ngày nay, khi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đạt tới đỉnh cao của sự phát triển thì nhân loại cũng
đang phải đối mặt với thực tế là sự “bùng nổ dân số” đã gây nhiều sức ép và cản trở đến sự phát triển của
mỗi quốc gia. Thực tế ở nhiều nước cũng như nước ta cho thấy, với quy mô và cấu dân số thích hợp
thì dân số có tác động tích cực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, ngược lại, nó sẽ trở thành lực cản của quá
trình này. Khi nền kinh tế phát triển, sẽ tạo điều kiện vật chất cho việc chăm lo tới công tác giáo dục, đào
tạo, chăm sóc sức khoẻ con người, nâng cao thể lực và trí tuệ con người và có tác động tốt tới các quá trình
lOMoARcPSD| 46836766
dân số. Mối quan hệ giữa dân số phát triển kinh tế - hội mối quan hệ nhân quả, tác động qua lại
mật thiết với nhau. Vì vậy, bên cạnh những chính sách phát triển kinh tế - hội, việc đề ra và thực hiện
thành công chính sách dân số là điều rất quan trọng, nó có thể ảnh hưởng đến một hay nhiều thế hệ công
dân tương lai, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước.
Dân số và tăng trưởng kinh tế.
Dân số vừa là người sản xuất, vừa là người tiêu dùng. Bởi vậy, số lượng, cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn
đến quy mô, cấu sản xuất, tiêu dùng tích luỹ, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của hội. Mặt
khác, mỗi tiến bộ của khu vực sản xuất nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung sẽ tác động tới một loạt
các quá trình dân số. Ví dụ, do nền sản xuất được cơ giới hóa, tự động hóa, nhu cầu về lao động đơn giản
giảm xuống, trình độ tay nghề của người sản xuất cần thiết phải được nâng cao. Điều đó buộc người sản
xuất phải đầu thời gian, vật chất cho sự học hành nâng cao tay nghề chuyên môn để duy trì được việc
làm, giảm thiểu sự cạnh tranh công việc. Những điều đó thúc đẩy giảm bớt mức sinh. Cũng do tiến bộ của
nền sản xuất, mức sống dân cư được nâng cao, mức chết giảm xuống, tuổi thọ sẽ dài hơn.
Thông thường, tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) bình quân đầu người hằng năm được coi
chỉ tiêu để đánh giá tăng trưởng kinh tế. Để tăng được chỉ tiêu này, thì GNP phải tăng nhanh hơn tỷ lệ gia
tăng dân số. Việc hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số (nếu GNP không thay đổi) cũng sẽ làm tăng GNP tính trên
đầu người.
Trên thế giới một thực tế là: các nước chậm phát triển, trong khi mức bình quân GNP đầu người rất
thấp thì tỷ lệ gia tăng dân số lại cao; ngược lại, ở các nước phát triển có mức GNP đầu người rất cao thì lại
có tỷ lệ gia tăng dân số rất thấp. Vì thế, khoảng cách giữa các nước đang phát triển với các nưc phát triển
(về chỉ tiêu GNP/đầu người) càng ngày càng xa. Nguyên nhân của tình trạng này là do: Dân số tăng nhanh
sẽ hạn chế việc tích luỹ tư bản, hạn chế tăng năng suất lao động do phải đầu cho nhu cầu sống và sinh
hoạt tăng lên nhanh hơn số sản phẩm làm ra được. Khi lực lượng lao động tăng thêm thì máy móc thiết bị
cũng phải được đầu tư, chia sẻ cho lực lượng lao động mới. vậy, năng suất lao động chung không thể
tăng lên được. Sự gia tăng nhanh dân số làm giảm tỷ lệ tiết kiệm do tỷ lệ trem ăn theo cao. Tlệ tiết kiệm
trong GNP giảm, ảnh hưởng đến tốc độ tăng sản phẩm.
Trình độ phát triển kinh tế ảnh hưởng đến tốc độ gia tăng dân số. Ở các nước phát triển, tỷ lệ gia tăng dân
sthấp hơn nhiều so với các nước chậm phát triển. Đó là kết quả đồng thời của việc hạ thấp mức sinh
mức chết. Bởi vì, khi nền kinh tế phát triển, sẽ tạo điều kiện vật chất để đẩy mạnh công tác giáo dục, y tế.
Do đó sẽ nâng cao nhận thức của người dân cũng như hiểu biết về “kỹ thuật” hạn chế sinh đẻ, nhờ vậy mà
mức sinh được giảm đi. Nền kinh tế phát triển, việc áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất, buộc
người lao động phải có trình độ. Khi đó, cha mẹ sẽ phải chú ý đến việc nâng cao trình độ, chất lượng của
con cái hơn là mặt số lượng. Đồng thời, khi nền kinh tế phát triển thì chế độ bảo hiểm và phúc lợi xã hội sẽ
tốt hơn, nên cha mẹ không phải lo dựa nhiều vào các con lúc tuổi già, do vậy các cặp vợ chồng cũng không
muốn sinh nhiều con. Trong khi đó, các nước chậm phát triển thì một trong số những nguyên nhân dẫn
đến mức sinh cao là do chưa có một chế độ bảo hiểm xã hội tin cậy cho người già.
Qua phân tích trên cho thấy, để giảm mức sinh thì cần phải có điều kiện vật chất kỹ thuật, phải phát triển
kinh tế, phát triển giáo dục, y tế và đẩy mạnh chương trình kế hoạch hóa gia đình, song để có thể phát triển
kinh tế thì lại cần hạn chế tốc độ tăng dân số.
Dân số và giáo dục
Dân số và giáo dục tác động lẫn nhau trong sự liên hệ và tác động của nhiều yếu tố khác như kinh tế, chính
trị, truyền thống văn hoá, tôn giáo,... Một sự thay đổi nào đó của giáo dục không chỉ do tác động của dân
số, mà có thể do tác động của các yếu tố kể trên. Cũng như vậy, một sự biến đổi nào đó của dân số có thể
do tác động của giáo dục và cũng thể do tác động của các yếu tố khác. Khi xem xét mối quan hệ giữa
dân số giáo dục cần phải xem xét trong hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt là yếu tố kinh tế - hội; trong
mối liên hệ, sự tương tác của các yếu tố khác.
lOMoARcPSD| 46836766
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa dân số giáo dục cần chú ý đến kết quả chậm của sự tác động giữa
chúng. Giáo dục tác động đến quá trình sinh, tử của dân số, cũng như c quá trình dân số tác động tới quy
và chất lượng của giáo dục phải sau một thời gian ít nhất là hằng năm mới thấy được kết quả. Đó là đặc
điểm của sự tác động lẫn nhau giữa các quá trình hội, trong đó chủ thể khách thể của chúng con
người. Giáo dục tác động đến nhận thức dân số, song từ sự chuyển biến về nhận thức đến sự chuyển biến
hành vi đòi hỏi phải có thời gian. Mặt khác, do nhiều yếu tố cùng tác động nên quan hệ tương tác giữa dân
số và giáo dục nhiều khi bị mờ đi và kết quả trở nên khó nhận biết, chỉ sau một thời gian dài mới bộc lộ rõ.
Trong các yếu tố dân số có ảnh hưởng đến quy và cơ cấu của hệ thống giáo dục thì quy cấu
dân số tác động mạnh nhất. Quy dân số lớn, tỷ lệ phát triển dân số cao, cấu dân số trẻ, dẫn tới
quy mô dân số trong độ tuổi đi học lớn và phát triển nhanh, sẽ làm cho yêu cầu đầu tư, cung cấp ngân sách
cho ngành giáo dục lớn để đáp ứng giáo dục cho dân số trong độ tuổi đi học. Các gia đình nghèo thường
phải bắt buộc lựa chọn đầu tư giáo dục cho con trai hay con gái.
cấu dân số theo độ tuổi giới tính là những yếu tố xác định quy mô, cấu của hệ thống giáo dục.
Nếu tất cả trẻ em đến tuổi đi học đều đến trường, khi đó dân cư có tháp tuổi - giới tính hình tam giác (dân
số trẻ) sẽ có hệ thống giáo dục trong đó học sinh bậc tiểu học, trung học cơ sở lớn hơn bậc trung học phổ
thông.
Tuổi kết hôn, mức sinh, mức chết và di cư cũng ảnh hưởng tới hệ thống giáo dục. Tuổi kết hôn cao, tạo cơ
hội kéo dài thời gian học tập các trường học. Nếu mức sinh thấp, cả gia đình hội điều kiện để
bảo đảm giáo dục cho trẻ em, nâng cao tỷ lệ đến trường của từng độ tuổi và sự nh đẳng nam nữ trong lĩnh
vực giáo dục. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết (nhất là tỷ lệ tử vong ở trẻ em), kéo dài tuổi thọ nâng cao uy
tín của khoa học và giáo dục. Các bậc cha mẹ thấy rõ lợi ích của giáo dục, từ đó nỗ lực cho con đến trường
học. Di nếu không tổ chức, không kế hoạch sẽ dẫn đến gián đoạn hoặc bỏ học trẻ em. Do đó,
việc hoạch định chiến lược phát triển giáo dục cần phải tính toán đến các yếu tố này.
Các yếu tố dân số còn ảnh hưởng lớn đến chất lượng của hệ thống giáo dục. nước ta, dân số tăng
nhanh, do đó số học sinh cũng tăng nhanh. Đầu của Nhà nước của gia đình học sinh cho giáo dục
không theo kịp, nên điều kiện giảng dạy, học tập không được bảo đảm, dẫn đến tình trạng xuống cấp hệ
thống giáo dục, chất lượng giảng dạy, học tập giảm sút, tỷ lệ học sinh đến trường đang có xu hướng giảm
xuống, tỷ lệ bỏ học có xu hướng tăng lên.
Không những dân số ảnh hưởng đến giáo dục ngược lại, giáo dục cũng ảnh hưởng lớn đến các
quá trình dân số. Giáo dục trực tiếp mở rộng, nâng cao sự hiểu biết, ý thức của con người. Do vậy,
tác động rất lớn đến sự hiểu biết, thái độ hành vi dân số của họ như: điều chỉnh hành vi sinh sản một
cách hợp lý, nguyên nhân và cách hạn chế tỷ lệ tử vong ở trẻ em, sự di dân giữa các khu vực, vùng miền.
Dân số và y tế
Sự phát triển của hệ thống y tế của mỗi quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố sau: trình độ phát triển
kinh tế xã hội; điều kiện vệ sinh môi trường; tình hình phát triển dân số; chính sách của nhà nước đối với y
tế và các điều kiện chăm sóc sức khỏe nhân dân. Như vậy, dân số là một yếu tố có tính chất khách quan và
cùng với các yếu tố khác, nó quy định sự phát triển của y tế về số lượng, chất lượng cũng như cơ cấu.
Hệ thống y tế muốn đáp ứng được nhu cầu chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe thì quy của phải tương
ứng với các loại dịch vụ y tế. Dân số tăng quá nhanh, khả năng dinh dưỡng hạn chế, tỷ lệ mắc bệnh tăng
lên, trước hết bệnh suy dinh dưỡng; nhà thêm chật chội, vệ sinh không bảo đảm, nhất nguồn nước
sinh hoạt. Dinh dưỡng kém và môi trường bị ô nhiễm là những điều kiện thuận lợi cho bệnh tật phát triển.
Dân số đông và tăng quá nhanh sẽ làm cho nhiều người không có việc làm, quản lý xã hội thêm khó khăn,
nên tệ nạn hội, tai nạn giao thông,... tăng lên. Những nguyên nhân này góp phần làm tăng bệnh tật
thương tật.
Rõ ràng, quy mô dân số và tỷ lệ gia tăng của nó tác động trực tiếp và gián tiếp làm tăng số cầu đối với hệ
thống y tế. Đó một động lực thúc đẩy hệ thống này phát triến. Song, ở nước ta, mức đầu cho y tế rất
thấp so với nhu cầu. Bên cạnh đó, sự phân phối không đồng đều dịch vụ y tế trong các bộ phận dân cư, đặc
lOMoARcPSD| 46836766
biệt là giữa thành thị và nông thôn; sự mất cân đối giữa y tế dự phòngy tế điều trị đã làm giảm hiệu qu
hoạt động y tế.
Công tác chăm sóc sức khỏe và bảo vệ bà mẹ trẻ em được tăng cường làm giảm mức chết ở trẻ em sơ sinh.
Việc tăng cường các điều kiện hội, y tế trong việc chăm sóc tuổi già góp phần làm giảm nhu cầu dựa
vào con cái, cũng dẫn đến giảm sinh. Rõ ràng y tế là ngành bảo đảm mặt kỹ thuật cho quá trình tái sản xuất
dân số diễn ra hợp lý và hiệu quả.
Dân số và đô thị hoá
Trong vòng 20 năm qua, ở hầu hết các nước đang phát triển, dân số có khuynh hướng tập trung vào các đô
thị, tạo nên sự phân bố không đồng đều giữa các vùng, các khu vực, gây ảnh hưởng đến các mục tiêu phát
triển. Một trong những nhân tố quan trọng của sự tăng trưởng đô thị là sự di dân từ nông thôn ra thành thị.
Trong quá trình đô thị hóa, các biến động kinh tế như cơ hội tìm việc làm, sự chênh lệch về điều kiện văn
hoá, xã hội (giáo dục, y tế, thông tin liên lạc, điều kiện làm việc và nghỉ ngơi) đã kích thích việc di dân từ
nông thôn ra thành thị với hy vọng tìm được việc làm và điều kiện sống tốt hơn.
Dòng ditừ nông thôn ra thành thị tăng tạo nên sức ép về mọi mặt đối với các đô thị. Với sự gia tăng dân
số nhanh chóng, đô thị là nơi tiêu thụ một khối lượng khổng lồ về tài nguyên thiên nhiên như nước, năng
lượng và các nguyên liệu khác để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Việc phát triển
sản xuất, phát triển các trung tâm công nghiệp đã gây ra ô nhiễm môi trường nước, không khí đất; hệ
thống giao thông không đáp ứng được nhu cầu đi lại của dân cư,... Việc thiếu nước sinh hoạt, thiếu điều
kiện vệ sinh, điều kiện y tế là một trong những nguy đối với cuộc sống của họ.
Tình trạng dòng người từ nông thôn đổ xô về các đô thị tìm kiếm việc làm đã tạo nên các chợ người và làm
gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút,... Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải quản
lý chặt chẽ, khoa học quá trình đô thị hóa để quá trình đó phát triển theo chiều hướng tích cực. Trong quá
trình đô thị hoá, cần nghiên cứu, thiết kế, hoạch định các chính sách phù hợp để giải quyết các vấn đề lao
động, việc làm; lựa chọn kỹ thuật, phương pháp sản xuất; giáo dục, đào tạo trong mối quan hệ, tác động
qua lại mật thiết giữa dân số phát triển kinh tế, xã hội, kết hợp giải quyết các vấn đề dân số và phát triển.
Dân số và môi trường
Hiện nay, tác động của gia tăng dân số với môi trường ảnh hưởng của môi trường bị ô nhiễm đối với con
người là một trong những chủ đề, nội dung của toàn cầu hoá, được thảo luận rộng rãi trên phạm vi toàn thế
giới.
Gia tăng dân số trước hết tác động đến nguồn tài nguyên. Dân số tăng nhanh, càng khiến người ta gia tăng
mức độ “bóc lột” đất đai và làm kiệt quệ độ màu mỡ của đất. Diện tích đất canh tác giảm do nhu cầu diện
tích đất để xây dựng nhà ở, trường học, bệnh viện và các công trình công cộng khác tăng lên. Đây cũng là
một nguyên nhân làm cho tình trạng thiếu lương thực trên thế giới trầm trọng hơn nạn đói thể còn
nhiều hơn. Diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp do con người đốt rừng để lấy đất trồng trọt, khai thác rừng,
chặt phá rừng bừa bãi, không thể kiểm soát được. Điều này tiềm ẩn những nguy cơ: đất bị bào mòn miền
núi, bị nhiễm mặn, bị lấp cát ở vùng đồng bằng ven biển. Việc mất rừng nhiệt đới, khí hậu bị thay đổi, tài
nguyên sinh vật bị thu hẹp, đe dọa sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc.
Ô nhiễm môi trường không khí, môi trường đất, môi trường nước, những nguyên nhân chính tạo điều
kiện cho bệnh tật phát triển. Dân số và vai trò, địa vị của phụ nữ
Phụ nữ chiếm hơn nửa dân số trên thế giới. Vai trò của phụ nữ ngày càng được thừa nhận và là một yếu tố
quan trọng của các kế hoạch phát triển. Cải thiện và nâng cao địa vị của phụ nữ không chỉ là vấn đề nhân
đạo còn một trong những cách đầu hiệu quả cho chương trình kế hoạch hoá gia đình sự phát
triển của đất nước.
Muốn nâng cao vai trò, địa vị của người phụ nữ, trước hết cần nâng cao trình độ học vấn của họ. Nhiều
công trình nghiên cứu xác nhận rằng, trình độ học vấn của phụ nmức sinh mối quan hệ nghịch: trình
độ học vấn cao thì quy mô gia đình nhỏ và ngược lại. Trình độ học vấn ảnh hưởng đến tuổi kết hôn và thực
lOMoARcPSD| 46836766
hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Trình độ học vấn cao dễ tìm kiếm việc làm, thường đi liền với
mức thu nhập cao, sẽ có điều kiện chăm sóc con cái tốt hơn, đầu vào con cái nhiều hơn do vậy góp
phần cải thiện chất lượng dân số.
Nhiều nghiên cứu, điều tra xã hội học cho thấy, phụ nữ có việc làm có số con ít hơn so với phụ nữ không
có việc làm. Vì vậy, tạo điều kiện để phụ nữ có cơ hội tham gia vào lực lượng lao động xã hội là một trong
những giải pháp để thể hạ thấp mức sinh. Mang thai nhiều lần, sinh đẻ nhiều lần, cùng với gánh nặng
lao động sản xuất và chăm sóc, nuôi dạy con cái đã làm cho phụ nữ kiệt quệ sức khoẻ. Làm cho phụ nữ tiếp
nhận đưc các thông tin dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, sức khoẻ sinh sản là nhân tố quan trọng để cải thiện
sức khỏe phụ nữ, cải thiện địa vị của họ và làm tăng sự đóng góp của họ vào sự nghiệp phát triển kinh tế,
xã hội.
| 1/13

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46836766 Đề bài
Phân tích tác động của đặc điểm dân số nước ta đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và môi trường.
- Tác động tích cực và tiêu cực
- Liên hệ ba mặt: kinh tế - xã hội - môi trường Lời giải chi tiết a) Tích cực : - Dân số đông :
+ Nguồn lao động dồi dào, tác động tích cực đến nền kinh tế, đặc biệt với những ngành cần nhiều lao
động, thu hút đầu tư nước nước ngoài.
+ Thị trường tiêu thụ rộng lớn, giúp thúc đẩy sản xuất và phát triển. - Dân số trẻ :
+ Năng động, sáng tạo, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kĩ thuật.
+ Tỉ lệ người phụ thuộc ít hơn, giúp cải thiện nâng cao chất lượng đời sống.
- Thành phần dân tộc đa dạng :
+ Các dân tộc đoàn kết với nhau, phát huy truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, tạo nên sức mạnh
phát triển kinh tế, xây dựng đất nước.
+ Tuyệt đại bộ phận người Việt ở nước ngoài đều hướng về Tổ quốc và đang đóng góp công sức cho xây
dựng, phát triển kinh tế -xã hội ở quê hương. b) Tiêu cực :
Dân đông và tăng nhanh gây nên sức ép lớn về vấn đề kinh tế - xã hội - môi trường. - Về kinh tế :
+ Gia tăng dân số nhanh, chưa phù hợp với tăng trưởng kinh tế, kĩm hãm sự phát triển và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo ngành và lãnh thổ.
+ Vấn đề thất nghiệp và thiếu việc làm trở nên gay gắt.
+ Dân cư phân bố không hợp lí nên việc sử dụng và khai thác tài nguyên không hợp lí, hiệu quả. - Về xã hội :
+ Chất lượng cuộc sống chậm cải thiện, GDP bình quân đầu người thấp vẫn còn thấp.
+ Các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt ở những vùng miền núi. - Về môi trường :
Dân số đông, mật độ dân số cao gây sức ép lên tài nguyên và môi trường
+ Cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. + Ô nhiễm môi trường. 1. Đặt vấn đề lOMoAR cPSD| 46836766
Kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 2021 mặc dù tăng trưởng ổn định nhưng chịu nhiều tác động từ
môi trường quốc tế và môi trường trong nước. Trong đó, với đặc trưng hình thái kinh tế của Việt Nam, môi
trường dân số có những tác động mạnh tới phát triển kinh tế.
Từ trước đến nay trên toàn thế giới, thông qua các nghiên cứu đều chỉ ra kinh tế và dân số luôn có mối liên
hệ mật thiết đến thăng trầm kinh tế trong một quốc gia. Trong tác phẩm nổi tiếng “Capital in the Twenty-
First Century” xuất bản năm 2014, Thomas Piketty cho rằng sự tăng lên của GDP bình quân đầu người sẽ
làm phúc lợi xã hội tăng theo. Tại các quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng dân số cao sẽ tác động tới GDP bình
quân đầu người theo chiều hướng phụ thuộc vào bản chất tác động lên GDP bình quân đầu người [3, Tr73].
Trong trường hợp tăng trưởng dân số cao đóng góp nguồn nhân lực thúc đẩy kinh tế phát triển, khi đó GDP
bình quân đầu người tăng. Ngược lại, tại quốc gia không có chính sách phát triển kinh tế phù hợp, dân số
tăng không chỉ không đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, mà còn kéo nền kinh tế trở nên trì trệ, GDP bình
quân đầu người sẽ sút giảm.
Nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 2020 chính là biểu hiện của xu hướng thứ nhất trong quan
điểm của Thomas Piketty, tức là dân số tăng trưởng nhanh thúc đẩy kinh tế phát triển, GDP bình quân đầu
người tăng. Vấn đề phát triển kinh tế Việt Nam phản ánh đường lối chính sách theo đuổi phát triển kinh tế
của Chính phủ là đúng đắn, trong đó đặc trưng lớn của tăng trưởng kinh tế Việt Nam là thu hút đầu tư nước
ngoài (FDI). Theo tác giả Hồ Đình Bảo (2019) đã chỉ ra dòng vốn FDI có ảnh hưởng tích cực trong ngắn
hạn và dài hạn đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam [1]. Ngoài ra, tác giả Lê Tài Thu cũng tái khẳng định dòng
vốn FDI ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, mặc dù sự tác động đó có tính chất thất
thường tới khu vực kinh tế nhà nước và tư nhân [2].
Một thực tế của nền kinh tế Việt Nam, mặc dù tăng trưởng mạnh do dòng vốn đầu tư nước ngoài tác động,
nhưng lợi thế của Việt Nam trong thời kỳ mở cửa nền kinh tế thu hút đầu tư nước ngoài chính là lao động
giá rẻ, số lượng nhiều, phát triển kinh tế nhờ vào thâm dụng lao động.
2. Phân tích vấn đề
Thomas Malthus (1766 - 1834) - nhà kinh tế học người Anh đã viết: “Nếu mọi người sinh sản với mức tối
đa, sản xuất lương thực và nông nghiệp sẽ không theo kịp, dẫn đến tình trạng chết đói hàng loạt. Nhưng khi
dân số tăng lên, các công nghệ hiện đại sẽ ra đời hỗ trợ phát triển sản xuất lương thực thực phẩm và các
nhu cầu cơ bản khác” [4].
Sự đúng đắn trong quan điểm này của Thomas Malthus đã được chứng minh trong suốt quá trình phát triển
của nhân loại. Mở rộng hơn trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật (KHKT), mặc dù
còn nhiều nghèo đói tại các nước đông dân như châu Phi hoặc một số khu vực đặc biệt trên thế giới, nhưng
nhìn chung, sự phát triển của dân số luôn đi cùng sự phát triển kinh tế cùng với sự có mặt của KHKT hiện đại.
Xét trên bối cảnh Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 2020, dân số Việt Nam có sự tăng trưởng ổn định về số
lượng, nhưng khi xét trên tỷ lệ so sánh giữa các năm, số liệu lại phản ánh sự sụt giảm tỷ lệ tăng trưởng kể
từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Có nhiều nguyên nhân giải thích cho sự suy giảm tỷ lệ tăng trưởng giữa các
năm kể từ năm 2000 đến nay. Trong đó, nguyên nhân cơ bản chính là mối quan hệ nghịch của dân số và
thu nhập bình quân, điều này đã được phản ảnh thông qua nhiều công trình nghiên cứu thông qua quan sát
sự vận động của nền kinh tế tại các nước phát triển trên thế giới [5], [6].
Hình 1: Tốc độ tăng trưởng dân số Việt Nam 1990 – 2020 lOMoAR cPSD| 46836766
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Trong hơn 20 năm qua, kinh tế Việt Nam có sự tăng trưởng ấn tượng, phản ảnh qua chỉ số tăng trưởng GDP
hàng năm đều đạt trên 6% và là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng ấn tượng trên thế giới.
Sự tăng trưởng kinh tế đã giúp cho thu nhập bình quân đầu người Việt Nam tăng lên, ngược lại dân số tăng
trưởng cung cấp một lực lượng lao động dồi dào giúp kinh tế tăng trưởng.
Mặc dù thu nhập bình quân đầu người Việt Nam so với thế giới còn thấp, nhưng về cơ bản đã có những ảnh
hưởng nhất định tới tốc độ tăng trưởng dân số, cùng với chính sách kế hoạch hóa và gia đình trước đó của
Chính phủ. Do vậy, nhìn trên Hình 2 dễ dàng nhận thấy, kể từ năm 1990, tốc độ tăng dân số bắt đầu giảm
xuống cũng là thời điểm thu nhập bình quân đầu người tính theo GNI tăng lên. Mặc dù năm 2004, tỷ lệ
tăng dân số có tăng trở lại, nhưng chỉ trong một khoảng thời gian ngắn với tỷ lệ tăng bình quân 1%/năm.
Hình 2: Tăng trưởng dân số và thu nhập bình quân đầu người Việt Nam
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Trong giai đoạn 1990 - 2020, cơ cấu dân số Việt Nam cũng có sự biến động mạnh, khi xem xét cơ cấu theo
giới tính thấy tỷ lệ nam giới tăng nhanh hơn nữ giới. Yếu tố tác động lớn đến tỷ lệ này là do quan niệm xã
hội của người phương Đông. Tỷ lệ nam giới tăng nhanh hơn nữ giới vừa tạo ra thuận lợi, vừa tạo ra bất lợi
cho phát triển kinh tế. Về cơ bản, trên cơ sở quan niệm truyền thống của người Việt Nam, hầu như nữ giới lOMoAR cPSD| 46836766
ít chọn, thậm chí không chọn các lĩnh vực lao động trong lĩnh vực nguy hiểm và lĩnh vực công nghiệp phức
tạp đòi hỏi sức lực cơ bắp lớn. Còn lao động nam giới tham gia nhiều lĩnh vực công nghiệp phức tạp, nguy
hiểm, qua đó giúp tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh phục hồi và phát triển kinh tế. Xét về lâu dài, sự phát
triển của kinh tế tạo ra nhiều công việc phù hợp với nữ giới, đồng thời nữ giới đảm bảo tỷ lệ sinh sản lao
động, vì vậy nếu tỷ lệ nữ tiếp tục giảm xuống sẽ tạo nên nguy cơ tiềm ẩn suy giảm dân số, thiếu lao động trong tương lai.
Hình 3: Cơ cấu dân số Việt Nam phân theo giới tính
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Khoảng cách giới tính trong cơ cấu dân số Việt Nam có từ lâu, tuy nhiên khoảng cách này bị nới rộng mạnh
từ năm 2004 do các yếu tố KHKT tác động. Mặc dù khoảng cách có thu hẹp trong những năm gần đây,
nhưng nếu không có những tác động cụ thể, khoảng cách này sẽ lại bị nới rộng ra, nguy cơ ảnh hưởng đến
dân số sẽ diễn ra trong vòng 20 năm nữa. (Hình 3)
Bên cạnh xem xét cơ cấu dân số theo giới tính, có thể xem xét cơ cấu dân số theo tuổi tác. Kể từ năm 2021,
theo quy định luật pháp, tuổi nghỉ hưu của nữ giới mỗi năm tăng 6 tháng, nam giới tăng 3 tháng, tiến tới
tuổi nghỉ hưu của nữ giới là 60, tuổi nghỉ hưu của nam giới là 64. Theo đó, hoạt động thống kê dân số trong
độ tuổi lao động được tính từ 15 đến 64 tuổi. Trong Hình 4 phản ánh tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động
chiếm tỷ lệ lớn nhất, nhưng nhìn đường phản ánh tỷ lệ tăng trưởng của các nhóm tuổi qua các năm lại cho
thấy cơ cấu dân số trên 65 tuổi có tốc độ tăng nhanh, trong khi đó cơ cấu dân số dưới 14 tuổi và từ 15 đến
64 tuổi lại có xu hướng giảm xuống. Phản ánh này cho thấy Việt Nam bắt đầu đối diện với sự già hóa dân
số kể từ năm 2014, lao động có nguy cơ thiếu hụt.
Hình 4: Cơ cấu dân số Việt Nam phân theo độ tuổi lOMoAR cPSD| 46836766
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Sự thay đổi của dân số và cơ cấu dân số theo 2 tiêu chí giới tính và tuổi tác trong giai đoạn 1990 - 2020 tại
Việt Nam rất lớn. Cùng với sự thay đổi đó, kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này cũng phát triển nhanh
chóng, từ một quốc gia nghèo, lạc hậu trở thành một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh.
Hình 5: Sự phát triển của kinh tế Việt Nam thông qua các chỉ tiêu cơ bản
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990 - 2020 thông qua Hình 5 cho thấy, nếu như GDP Việt
Nam năm 1990 chỉ đạt hơn 6 tỷ USD, thì đến năm 2020 đã đạt hơn 271 tỷ USD, tăng gấp 41 lần; thu nhập
bình quân đầu người tính theo GNI từ 917 USD/người/năm 1990 đến năm 2020 đã đạt hơn 8646 USD/người
tăng gấp 9,4 lần. Sự phát triển kinh tế của Việt Nam khi so sánh với cơ cấu dân số theo độ tuổi cho thấy,
sự phát triển kinh tế chịu nhiều ảnh hưởng bởi lực lượng lao động từ 15 đến 64 tuổi, đồng thời cũng tác
động ngược lại làm lực lượng này có sự suy giảm nhẹ về tốc độ tăng trưởng.
Hình 6: Mối quan hệ giữa GDP và cơ cấu dân số theo tuổi lOMoAR cPSD| 46836766
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Lực lượng dân số dưới 14 tuổi trong giai đoạn này có sự suy giảm kể từ năm 1996, điều này biểu thị sự ảnh
hưởng của chính sách kế hoạch hóa và gia đình, nhưng đồng thời cũng biểu thị sự ảnh hưởng của nhóm lao
động bị chi phối nhiều hơn bởi công việc và cuộc sống làm thay đổi tư duy. Phát triển kinh tế cũng tác động
đến lực lượng dân số trên 65 tuổi thông qua những tác động tích cực đến đời sống, giúp cuộc sống khá giả
hơn, điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn, tuổi thọ cao hơn, vì vậy trong giai đoạn 1990 - 2020, nhóm cơ
cấu dân số này không ngừng tăng.
Về cơ bản, số lượng dân số ngoài độ tuổi lao động càng lớn, gánh nặng đối với nền kinh tế càng cao, tuy
nhiên tại Việt Nam với những đặc trưng của môi trường xã hội phương Đông, sự ảnh hưởng này thấp hơn
các quốc gia phương Tây, tuy vậy cũng có những ảnh hưởng nhất định tới phát triển kinh tế.
Quan sát diễn biến trong Hình 6 cho thấy tiến trình tăng trưởng của GDP vẫn tiếp tục tăng, nhưng tiến trình
tăng trưởng lao động giảm xuống do nguồn cung là nhóm dân số dân số dưới 14 tuổi giảm và nhóm dân số
trên 65 tuổi tăng lên. Vấn đề này rõ ràng bị ràng buộc bởi thu nhập bình quân đầu người. Bài học từ các
nền kinh tế phát triển, cho thấy khi thu nhập bình quân đầu người đạt ngưỡng nhất định, có thể đảm bảo
cuộc sống tốt, dân số sẽ giảm xuống. Đặc biệt trong đó nhóm dân số dưới 14 tuổi giảm ảnh hưởng đến
nhóm dân số trong độ tuổi lao động, đồng thời nhóm dân số trên 65 tuổi sẽ tăng, tạo gánh nặng cho sự phát triển xã hội.
Chính sách của các quốc gia phát triển trong trường hợp này là thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế tri
thức đi cùng với thuê lao động nước ngoài và dịch chuyển một bộ phận cơ cấu sản xuất ra thế giới, tới
những quốc gia lao động dồi dào, giá rẻ. Mặc dù Việt Nam hiện chưa tới giai đoạn như các nước phát triển,
tuy nhiên khi xem xét cơ cấu dân số theo độ tuổi với thu nhập bình quân đầu người, mối quan hệ tỷ lệ
nghịch của dân số trong độ tuổi lao động, dân số dưới 14 tuổi với thu nhập bình quân đầu người bắt đầu xuất hiện.
Hình 7: Mối quan hệ giữa thu nhập bình quân và cơ cấu dân số theo tuổi lOMoAR cPSD| 46836766
Nguồn: Ngân hàng Thế giới tháng 12/2021, nhóm nghiên cứu xử lý số liệu
Đặc biệt tốc độ tăng trưởng của cơ cấu dân số trên 65 tuổi tăng nhanh hơn thu nhập bình quân phản ảnh
dân số Việt Nam già hóa nhanh chóng. Từ những hiện tượng trên của cơ cấu dân số và phát triển kinh tế,
thấy rằng, trong giai đoạn 1990 - 2020, kinh tế Việt Nam thông qua lực lượng lao động phát triển nhanh
chóng giúp cho thu nhập bình quân đầu người tăng, ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội và các quan điểm
sống của người Việt Nam, làm quy mô dân số mặc dù vẫn tăng nhưng lực lượng lao động và nguồn lao
động không tăng nhiều, chỉ có dân số trên 65 tuổi tăng nhanh.
3 . Giải quyết vấn đề
Trên cơ sở những phân tích thống kê, nhóm nghiên cứu thực hiện đưa dữ liệu vào mô hình VAR để xác
định mối quan hệ nhân quả Granger với các biến bao gồm: GDP, dân số dưới 14 tuổi (U14), dân số từ 15
64 (Tld), dân số trên 65 (B65) và thu nhập bình quân (Tbq) bằng công cụ Eview 10 và nhận được kết quả như sau:
Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu
Bảng 1. Kiểm định tính dừng
Kết quả chạy mô hình VAR Estimation Proc:
===============================
LS 1 2 D(GDP,2) D(B65,2) D(TLD,2) D(U14) D(TBQ) lOMoAR cPSD| 46836766 VAR Model:
===============================
D(GDP,2) = C(1,1)*D(GDP(-1),2) + C(1,2)*D(GDP(-2),2) + C(1,3)*D(B65(-1),2) + C(1,4)*D(B65(-2),2)
+ C(1,5)*D(TLD(-1),2) + C(1,6)*D(TLD(-2),2) + C(1,7)*D(U14(-1)) + C(1,8)*D(U14(-2)) +
C(1,9)*D(TBQ(-1)) + C(1,10)*D(TBQ(-2)) + C(1,11)
D(B65,2) = C(2,1)*D(GDP(-1),2) + C(2,2)*D(GDP(-2),2) + C(2,3)*D( B65(-1),2) + C(2,4)*D(B65(-2), 2)
+ C(2,5)*D(TLD(-1),2) + C(2,6)*D(TLD(-2),2) + C(2,7)*D(U14(-1)) + C(2,8)*D(U14(-2)) +
C(2,9)*D(TBQ(-1)) + C(2,10)*D(TBQ(-2)) + C(2,11)
D(TLD,2) = C(3,1)*D(GDP(-1),2) + C(3,2)*D(GDP(-2),2) + C(3,3)*D(B65(-1),2) + C(3,4)*D(B65(2),2)
+ C(3,5)*D(TLD(-1),2) + C(3,6)*D(TLD(-2),2) + C(3,7)*D(U14(-1)) + C(3,8)*D(U14(-2)) +
C(3,9)*D(TBQ(-1)) + C(3,10)*D(TBQ(-2)) + C(3,11)
D(U14) = C(4,1)*D(GDP(-1),2) + C(4,2)*D(GDP(-2),2) + C(4,3)*D(B65(-1),2) + C(4,4)*D(B65(-2),2) +
C(4,5)*D(TLD(-1),2) + C(4,6)*D(TLD(-2),2) + C(4,7)*D(U14(-1)) + C(4,8)*D(U14(-2)) +
C(4,9)*D(TBQ(-1)) + C(4,10)*D(TBQ(-2)) + C(4,11)
D(TBQ) = C(5,1)*D(GDP(-1),2) + C(5,2)*D(GDP(-2),2) + C(5,3)*D(B65(-1),2) + C(5,4)*D(B65(-2),2) +
C(5,5)*D(TLD(-1),2) + C(5,6)*D(TLD(-2),2) + C(5,7)*D(U14(-1)) + C(5,8)*D(U14(-2)) +
C(5,9)*D(TBQ(-1)) + C(5,10)*D(TBQ(-2)) + C(5,11)
VAR Model - Substituted Coefficients:
=============================== D(GDP,2) = - 0.540987732422*D(GDP(-1),2) - 0.61386410799*D(GDP(-2),2) +
29496.3827685*D(B65(-1),2) + 9309.84355121*D(B65(-2),2) + 44549.7916939*D(TLD(-1),2) +
22909.4388635*D(TLD(-2),2) - 254.578725108*D(U14(-1)) - 2606.87496575*D(U14(-2)) +
41223341.192*D(TBQ(-1)) - 32515719.2703*D(TBQ(-2)) - 574384616.142
D(B65,2) = - 8.06869218981e-06*D(GDP(-1),2) + 2.53134853672e-06*D(GDP(-2),2) - 2.80250992937*D(B65(-1),2) - 0.755030619728*D(B65(-2),2) - 3.05668006565*D(TLD(-1),2)
0.912799568911*D(TLD(-2),2) - 2.09314059244*D(U14(-1)) + 1.86761771507*D(U14(-2)) -
2108.68579202*D(TBQ(-1)) + 3556.36306696*D(TBQ(-2)) - 365433.873181
D(TLD,2) = 9.58299375257e-06*D(GDP(-1),2) - 2.40976951715e-06*D(GDP(-2),2) +
2.54500359499*D(B65(-1),2) + 0.42337788008*D(B65(-2),2) + 2.74185695955*D(TLD(-1),2) +
0.544272191719*D(TLD(-2),2) + 2.09037412287*D(U14(-1)) - 1.89441210077*D(U14(-2)) +
2023.52554555*D(TBQ(-1)) - 3438.44262838*D(TBQ(-2)) + 325406.205863
D(U14) = - 2.11091451773e-06*D(GDP(-1),2) - 5.36494188822e-07*D(GDP(-2),2) +
1.03407992411*D(B65(-1),2) + 0.267416288574*D(B65(-2),2) + 1.08210753814*D(TLD(-1),2) +
0.294477025488*D(TLD(-2),2) + 1.79586964756*D(U14(-1)) - 0.860752432189*D(U14(-2)) +
86.8286092108*D(TBQ(-1)) - 67.8107759942*D(TBQ(-2)) + 16210.6155316
D(TBQ) = - 6.50079516632e-09*D(GDP(-1),2) - 1.12349728991e-08*D(GDP(-2),2) +
0.000550762232522*D(B65(-1),2) - 0.000289628589477*D(B65(-2),2) + 0.000682937963009*D(TLD(- 1),2) -
0.000231017315113*D(TLD(-2),2) + 0.00122172128684*D(U14(-1))
0.00111750251835*D(U14(-2)) + 0.514061099316*D(TBQ(-1)) + 0.209973592578*D(TBQ(-2)) + 112.56810157
Ước lượng và phân tích kết quả lOMoAR cPSD| 46836766
* Kiểm định tính ổn định của mô hình VAR
Kết quả cho thấy, tất cả các biến đều nằm trong phạm vi cho phép, có nghĩa mô hình có tính ổn định và có thể sử dụng được.
* Kiểm định nhân quả Granger
Bảng 2. Kiểm định nhân quả Granger
Dưới góc độ kết quả của kiểm định nhân quả Granger, chúng tôi nhận thấy dân số trong các độ tuổi khác
nhau có tác động lẫn nhau, về mặt xã hội học, đây là điều đương nhiên.
Thu nhập bình quân có tác động đến dân số từ 15 - 64 tuổi và dân số trên 65 tuổi, nhưng không tác động
đến dân số dưới 14 tuổi. Ngược lại, dân số dưới 14 tuổi ít ảnh hưởng tới thu nhập bình quân. Đồng thời,
thu nhập bình quân có tác động qua lại với GDP. 4 . Kết luận
Như vậy, trên cơ sở những phân tích thống kê kết hợp với kết quả nhận được từ kiểm định nhân quả Granger
đối với mô hình VAR đã xác lập sự ảnh hưởng phụ thuộc lẫn nhau của các yếu tố. Phát triển kinh tế phụ
thuộc nhiều vào thu nhập bình quân đầu người và thu nhập bình quân đầu người tác động tích cực tới cơ
cấu dân số. Vì vậy, để đảm bảo kinh tế phát triển ổn định trong tương lai, việc xác định nâng cao thu nhập
bình quân đầu người là việc quan trọng, nhờ đó sẽ ổn định được cơ cấu dân số, chống lại các tác động tiêu
cực của cơ cấu dân số. Tuy nhiên, biện pháp này không thể kéo dài, mà cần có các giải pháp chiến lược
thúc đẩy nâng cao hiệu suất làm việc thông qua ứng dụng KHKT.
Phương pháp nghiên cứu áp dụng trong bài báo phản ánh được và phản ánh đúng ảnh hưởng của cơ cấu
dân số tới phát triển kinh tế với số liệu được tập hợp từ Ngân hàng Thế giới và được nhóm nghiên cứu xử
lý đảm bảo tính khoa học.
Tác động tương hỗ của các yếu tố dân số và phát triển
Dân số và phát triển kinh tế - xã hội có tác động tương hỗ lẫn nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ngày nay, khi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đạt tới đỉnh cao của sự phát triển thì nhân loại cũng
đang phải đối mặt với thực tế là sự “bùng nổ dân số” đã gây nhiều sức ép và cản trở đến sự phát triển của
mỗi quốc gia. Thực tế ở nhiều nước cũng như ở nước ta cho thấy, với quy mô và cơ cấu dân số thích hợp
thì dân số có tác động tích cực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, ngược lại, nó sẽ trở thành lực cản của quá
trình này. Khi nền kinh tế phát triển, sẽ tạo điều kiện vật chất cho việc chăm lo tới công tác giáo dục, đào
tạo, chăm sóc sức khoẻ con người, nâng cao thể lực và trí tuệ con người và có tác động tốt tới các quá trình lOMoAR cPSD| 46836766
dân số. Mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội là mối quan hệ nhân quả, tác động qua lại
mật thiết với nhau. Vì vậy, bên cạnh những chính sách phát triển kinh tế - xã hội, việc đề ra và thực hiện
thành công chính sách dân số là điều rất quan trọng, vì nó có thể ảnh hưởng đến một hay nhiều thế hệ công
dân tương lai, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước.
Dân số và tăng trưởng kinh tế.
Dân số vừa là người sản xuất, vừa là người tiêu dùng. Bởi vậy, số lượng, cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn
đến quy mô, cơ cấu sản xuất, tiêu dùng và tích luỹ, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội. Mặt
khác, mỗi tiến bộ của khu vực sản xuất nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung sẽ tác động tới một loạt
các quá trình dân số. Ví dụ, do nền sản xuất được cơ giới hóa, tự động hóa, nhu cầu về lao động đơn giản
giảm xuống, trình độ tay nghề của người sản xuất cần thiết phải được nâng cao. Điều đó buộc người sản
xuất phải đầu tư thời gian, vật chất cho sự học hành nâng cao tay nghề chuyên môn để duy trì được việc
làm, giảm thiểu sự cạnh tranh công việc. Những điều đó thúc đẩy giảm bớt mức sinh. Cũng do tiến bộ của
nền sản xuất, mức sống dân cư được nâng cao, mức chết giảm xuống, tuổi thọ sẽ dài hơn.
Thông thường, tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) bình quân đầu người hằng năm được coi là
chỉ tiêu để đánh giá tăng trưởng kinh tế. Để tăng được chỉ tiêu này, thì GNP phải tăng nhanh hơn tỷ lệ gia
tăng dân số. Việc hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số (nếu GNP không thay đổi) cũng sẽ làm tăng GNP tính trên đầu người.
Trên thế giới có một thực tế là: ở các nước chậm phát triển, trong khi mức bình quân GNP đầu người rất
thấp thì tỷ lệ gia tăng dân số lại cao; ngược lại, ở các nước phát triển có mức GNP đầu người rất cao thì lại
có tỷ lệ gia tăng dân số rất thấp. Vì thế, khoảng cách giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển
(về chỉ tiêu GNP/đầu người) càng ngày càng xa. Nguyên nhân của tình trạng này là do: Dân số tăng nhanh
sẽ hạn chế việc tích luỹ tư bản, hạn chế tăng năng suất lao động do phải đầu tư cho nhu cầu sống và sinh
hoạt tăng lên nhanh hơn số sản phẩm làm ra được. Khi lực lượng lao động tăng thêm thì máy móc thiết bị
cũng phải được đầu tư, chia sẻ cho lực lượng lao động mới. Vì vậy, năng suất lao động chung không thể
tăng lên được. Sự gia tăng nhanh dân số làm giảm tỷ lệ tiết kiệm do tỷ lệ trẻ em ăn theo cao. Tỷ lệ tiết kiệm
trong GNP giảm, ảnh hưởng đến tốc độ tăng sản phẩm.
Trình độ phát triển kinh tế ảnh hưởng đến tốc độ gia tăng dân số. Ở các nước phát triển, tỷ lệ gia tăng dân
số thấp hơn nhiều so với các nước chậm phát triển. Đó là kết quả đồng thời của việc hạ thấp mức sinh và
mức chết. Bởi vì, khi nền kinh tế phát triển, sẽ tạo điều kiện vật chất để đẩy mạnh công tác giáo dục, y tế.
Do đó sẽ nâng cao nhận thức của người dân cũng như hiểu biết về “kỹ thuật” hạn chế sinh đẻ, nhờ vậy mà
mức sinh được giảm đi. Nền kinh tế phát triển, việc áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất, buộc
người lao động phải có trình độ. Khi đó, cha mẹ sẽ phải chú ý đến việc nâng cao trình độ, chất lượng của
con cái hơn là mặt số lượng. Đồng thời, khi nền kinh tế phát triển thì chế độ bảo hiểm và phúc lợi xã hội sẽ
tốt hơn, nên cha mẹ không phải lo dựa nhiều vào các con lúc tuổi già, do vậy các cặp vợ chồng cũng không
muốn sinh nhiều con. Trong khi đó, ở các nước chậm phát triển thì một trong số những nguyên nhân dẫn
đến mức sinh cao là do chưa có một chế độ bảo hiểm xã hội tin cậy cho người già.
Qua phân tích trên cho thấy, để giảm mức sinh thì cần phải có điều kiện vật chất kỹ thuật, phải phát triển
kinh tế, phát triển giáo dục, y tế và đẩy mạnh chương trình kế hoạch hóa gia đình, song để có thể phát triển
kinh tế thì lại cần hạn chế tốc độ tăng dân số.
Dân số và giáo dục
Dân số và giáo dục tác động lẫn nhau trong sự liên hệ và tác động của nhiều yếu tố khác như kinh tế, chính
trị, truyền thống văn hoá, tôn giáo,... Một sự thay đổi nào đó của giáo dục không chỉ do tác động của dân
số, mà có thể do tác động của các yếu tố kể trên. Cũng như vậy, một sự biến đổi nào đó của dân số có thể
do tác động của giáo dục và cũng có thể do tác động của các yếu tố khác. Khi xem xét mối quan hệ giữa
dân số và giáo dục cần phải xem xét nó trong hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt là yếu tố kinh tế - xã hội; trong
mối liên hệ, sự tương tác của các yếu tố khác. lOMoAR cPSD| 46836766
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa dân số và giáo dục cần chú ý đến kết quả chậm của sự tác động giữa
chúng. Giáo dục tác động đến quá trình sinh, tử của dân số, cũng như các quá trình dân số tác động tới quy
mô và chất lượng của giáo dục phải sau một thời gian ít nhất là hằng năm mới thấy được kết quả. Đó là đặc
điểm của sự tác động lẫn nhau giữa các quá trình xã hội, trong đó chủ thể và khách thể của chúng là con
người. Giáo dục tác động đến nhận thức dân số, song từ sự chuyển biến về nhận thức đến sự chuyển biến
hành vi đòi hỏi phải có thời gian. Mặt khác, do nhiều yếu tố cùng tác động nên quan hệ tương tác giữa dân
số và giáo dục nhiều khi bị mờ đi và kết quả trở nên khó nhận biết, chỉ sau một thời gian dài mới bộc lộ rõ.
Trong các yếu tố dân số có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu của hệ thống giáo dục thì quy mô cơ cấu
dân số có tác động mạnh nhất. Quy mô dân số lớn, tỷ lệ phát triển dân số cao, cơ cấu dân số trẻ, dẫn tới
quy mô dân số trong độ tuổi đi học lớn và phát triển nhanh, sẽ làm cho yêu cầu đầu tư, cung cấp ngân sách
cho ngành giáo dục lớn để đáp ứng giáo dục cho dân số trong độ tuổi đi học. Các gia đình nghèo thường
phải bắt buộc lựa chọn đầu tư giáo dục cho con trai hay con gái.
Cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính là những yếu tố xác định quy mô, cơ cấu của hệ thống giáo dục.
Nếu tất cả trẻ em đến tuổi đi học đều đến trường, khi đó dân cư có tháp tuổi - giới tính hình tam giác (dân
số trẻ) sẽ có hệ thống giáo dục trong đó học sinh bậc tiểu học, trung học cơ sở lớn hơn bậc trung học phổ thông.
Tuổi kết hôn, mức sinh, mức chết và di cư cũng ảnh hưởng tới hệ thống giáo dục. Tuổi kết hôn cao, tạo cơ
hội kéo dài thời gian học tập ở các trường học. Nếu mức sinh thấp, cả gia đình và xã hội có điều kiện để
bảo đảm giáo dục cho trẻ em, nâng cao tỷ lệ đến trường của từng độ tuổi và sự bình đẳng nam nữ trong lĩnh
vực giáo dục. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết (nhất là tỷ lệ tử vong ở trẻ em), kéo dài tuổi thọ nâng cao uy
tín của khoa học và giáo dục. Các bậc cha mẹ thấy rõ lợi ích của giáo dục, từ đó nỗ lực cho con đến trường
học. Di cư nếu không có tổ chức, không có kế hoạch sẽ dẫn đến gián đoạn hoặc bỏ học ở trẻ em. Do đó,
việc hoạch định chiến lược phát triển giáo dục cần phải tính toán đến các yếu tố này.
Các yếu tố dân số còn có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của hệ thống giáo dục. Ở nước ta, dân số tăng
nhanh, do đó số học sinh cũng tăng nhanh. Đầu tư của Nhà nước và của gia đình học sinh cho giáo dục
không theo kịp, nên điều kiện giảng dạy, học tập không được bảo đảm, dẫn đến tình trạng xuống cấp hệ
thống giáo dục, chất lượng giảng dạy, học tập giảm sút, tỷ lệ học sinh đến trường đang có xu hướng giảm
xuống, tỷ lệ bỏ học có xu hướng tăng lên.
Không những dân số có ảnh hưởng đến giáo dục mà ngược lại, giáo dục cũng có ảnh hưởng lớn đến các
quá trình dân số. Giáo dục trực tiếp mở rộng, nâng cao sự hiểu biết, ý thức của con người. Do vậy, nó có
tác động rất lớn đến sự hiểu biết, thái độ và hành vi dân số của họ như: điều chỉnh hành vi sinh sản một
cách hợp lý, nguyên nhân và cách hạn chế tỷ lệ tử vong ở trẻ em, sự di dân giữa các khu vực, vùng miền. Dân số và y tế
Sự phát triển của hệ thống y tế của mỗi quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố sau: trình độ phát triển
kinh tế xã hội; điều kiện vệ sinh môi trường; tình hình phát triển dân số; chính sách của nhà nước đối với y
tế và các điều kiện chăm sóc sức khỏe nhân dân. Như vậy, dân số là một yếu tố có tính chất khách quan và
cùng với các yếu tố khác, nó quy định sự phát triển của y tế về số lượng, chất lượng cũng như cơ cấu.
Hệ thống y tế muốn đáp ứng được nhu cầu chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe thì quy mô của nó phải tương
ứng với các loại dịch vụ y tế. Dân số tăng quá nhanh, khả năng dinh dưỡng hạn chế, tỷ lệ mắc bệnh tăng
lên, trước hết là bệnh suy dinh dưỡng; nhà ở thêm chật chội, vệ sinh không bảo đảm, nhất là nguồn nước
sinh hoạt. Dinh dưỡng kém và môi trường bị ô nhiễm là những điều kiện thuận lợi cho bệnh tật phát triển.
Dân số đông và tăng quá nhanh sẽ làm cho nhiều người không có việc làm, quản lý xã hội thêm khó khăn,
nên tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông,... tăng lên. Những nguyên nhân này góp phần làm tăng bệnh tật và thương tật.
Rõ ràng, quy mô dân số và tỷ lệ gia tăng của nó tác động trực tiếp và gián tiếp làm tăng số cầu đối với hệ
thống y tế. Đó là một động lực thúc đẩy hệ thống này phát triến. Song, ở nước ta, mức đầu tư cho y tế rất
thấp so với nhu cầu. Bên cạnh đó, sự phân phối không đồng đều dịch vụ y tế trong các bộ phận dân cư, đặc lOMoAR cPSD| 46836766
biệt là giữa thành thị và nông thôn; sự mất cân đối giữa y tế dự phòng và y tế điều trị đã làm giảm hiệu quả hoạt động y tế.
Công tác chăm sóc sức khỏe và bảo vệ bà mẹ trẻ em được tăng cường làm giảm mức chết ở trẻ em sơ sinh.
Việc tăng cường các điều kiện xã hội, y tế trong việc chăm sóc tuổi già góp phần làm giảm nhu cầu dựa
vào con cái, cũng dẫn đến giảm sinh. Rõ ràng y tế là ngành bảo đảm mặt kỹ thuật cho quá trình tái sản xuất
dân số diễn ra hợp lý và hiệu quả.
Dân số và đô thị hoá
Trong vòng 20 năm qua, ở hầu hết các nước đang phát triển, dân số có khuynh hướng tập trung vào các đô
thị, tạo nên sự phân bố không đồng đều giữa các vùng, các khu vực, gây ảnh hưởng đến các mục tiêu phát
triển. Một trong những nhân tố quan trọng của sự tăng trưởng đô thị là sự di dân từ nông thôn ra thành thị.
Trong quá trình đô thị hóa, các biến động kinh tế như cơ hội tìm việc làm, sự chênh lệch về điều kiện văn
hoá, xã hội (giáo dục, y tế, thông tin liên lạc, điều kiện làm việc và nghỉ ngơi) đã kích thích việc di dân từ
nông thôn ra thành thị với hy vọng tìm được việc làm và điều kiện sống tốt hơn.
Dòng di cư từ nông thôn ra thành thị tăng tạo nên sức ép về mọi mặt đối với các đô thị. Với sự gia tăng dân
số nhanh chóng, đô thị là nơi tiêu thụ một khối lượng khổng lồ về tài nguyên thiên nhiên như nước, năng
lượng và các nguyên liệu khác để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Việc phát triển
sản xuất, phát triển các trung tâm công nghiệp đã gây ra ô nhiễm môi trường nước, không khí và đất; hệ
thống giao thông không đáp ứng được nhu cầu đi lại của dân cư,... Việc thiếu nước sinh hoạt, thiếu điều
kiện vệ sinh, điều kiện y tế là một trong những nguy cơ đối với cuộc sống của họ.
Tình trạng dòng người từ nông thôn đổ xô về các đô thị tìm kiếm việc làm đã tạo nên các chợ người và làm
gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút,... Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải quản
lý chặt chẽ, khoa học quá trình đô thị hóa để quá trình đó phát triển theo chiều hướng tích cực. Trong quá
trình đô thị hoá, cần nghiên cứu, thiết kế, hoạch định các chính sách phù hợp để giải quyết các vấn đề lao
động, việc làm; lựa chọn kỹ thuật, phương pháp sản xuất; giáo dục, đào tạo trong mối quan hệ, tác động
qua lại mật thiết giữa dân số và phát triển kinh tế, xã hội, kết hợp giải quyết các vấn đề dân số và phát triển.
Dân số và môi trường
Hiện nay, tác động của gia tăng dân số với môi trường và ảnh hưởng của môi trường bị ô nhiễm đối với con
người là một trong những chủ đề, nội dung của toàn cầu hoá, được thảo luận rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới.
Gia tăng dân số trước hết tác động đến nguồn tài nguyên. Dân số tăng nhanh, càng khiến người ta gia tăng
mức độ “bóc lột” đất đai và làm kiệt quệ độ màu mỡ của đất. Diện tích đất canh tác giảm do nhu cầu diện
tích đất để xây dựng nhà ở, trường học, bệnh viện và các công trình công cộng khác tăng lên. Đây cũng là
một nguyên nhân làm cho tình trạng thiếu lương thực trên thế giới trầm trọng hơn và nạn đói có thể còn
nhiều hơn. Diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp do con người đốt rừng để lấy đất trồng trọt, khai thác rừng,
chặt phá rừng bừa bãi, không thể kiểm soát được. Điều này tiềm ẩn những nguy cơ: đất bị bào mòn ở miền
núi, bị nhiễm mặn, bị lấp cát ở vùng đồng bằng ven biển. Việc mất rừng nhiệt đới, khí hậu bị thay đổi, tài
nguyên sinh vật bị thu hẹp, đe dọa sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc.
Ô nhiễm môi trường không khí, môi trường đất, môi trường nước, là những nguyên nhân chính tạo điều
kiện cho bệnh tật phát triển. Dân số và vai trò, địa vị của phụ nữ
Phụ nữ chiếm hơn nửa dân số trên thế giới. Vai trò của phụ nữ ngày càng được thừa nhận và là một yếu tố
quan trọng của các kế hoạch phát triển. Cải thiện và nâng cao địa vị của phụ nữ không chỉ là vấn đề nhân
đạo mà còn là một trong những cách đầu tư hiệu quả cho chương trình kế hoạch hoá gia đình và sự phát triển của đất nước.
Muốn nâng cao vai trò, địa vị của người phụ nữ, trước hết cần nâng cao trình độ học vấn của họ. Nhiều
công trình nghiên cứu xác nhận rằng, trình độ học vấn của phụ nữ và mức sinh có mối quan hệ nghịch: trình
độ học vấn cao thì quy mô gia đình nhỏ và ngược lại. Trình độ học vấn ảnh hưởng đến tuổi kết hôn và thực lOMoAR cPSD| 46836766
hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Trình độ học vấn cao dễ tìm kiếm việc làm, thường đi liền với
mức thu nhập cao, sẽ có điều kiện chăm sóc con cái tốt hơn, đầu tư vào con cái nhiều hơn và do vậy góp
phần cải thiện chất lượng dân số.
Nhiều nghiên cứu, điều tra xã hội học cho thấy, phụ nữ có việc làm có số con ít hơn so với phụ nữ không
có việc làm. Vì vậy, tạo điều kiện để phụ nữ có cơ hội tham gia vào lực lượng lao động xã hội là một trong
những giải pháp để có thể hạ thấp mức sinh. Mang thai nhiều lần, sinh đẻ nhiều lần, cùng với gánh nặng
lao động sản xuất và chăm sóc, nuôi dạy con cái đã làm cho phụ nữ kiệt quệ sức khoẻ. Làm cho phụ nữ tiếp
nhận được các thông tin dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, sức khoẻ sinh sản là nhân tố quan trọng để cải thiện
sức khỏe phụ nữ, cải thiện địa vị của họ và làm tăng sự đóng góp của họ vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội.