Đối tượng tác động của tội phạm gì? Các loại
đối tượng tác động của tội phạm?
1. Đối tượng tác động ca ti phm?
Khi xâm phạm khách thể bao giờ ng tác động đến đối tượng nhất định. Tuy
gần gũi với khách thể nhưng đối tượng tác động của tội phạm khác khách thể.
Đối tượng c động của tội phạm những phần trong khách thể của tội phạm
khi tác động đến người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho khách thể.
Đối tượng tác động của tội phạm bao gồm các dạng sau đây:
- Con người đối với tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự;
- Các vật thể như tài sản, phương tiện thuộc quyền sở hữu hợp pháp của con
người;
- Sự hoạt động bình thường của quan nhà nước, tổ chức hội.
Đối tượng tác động của tội phạm khác khách thể của tội phạm. Khách thể
của tội phạm những quan hệ hội được Luật Hình sự bảo vệ, tính trừu
tượng. Việc quy định quan hệ hội nào khách thể của tội phạm tùy thuộc
vào lợi ích của giai cấp thống trị, thế khách thể tội phạm mang tính chất giai
cấp. Các tội phạm đều xâm phạm gây thiệt hại cho khách thể, tuy nhiên
không phải tội phạm nào cũng gây thiệt hại cho đối tượng tác động, như tội
trộm cắp tài sản chỉ làm chuyển dịch quyền sở hữu từ người này sang người
khác, chứ tài sản không bị hỏng. Đối tượng tác động của tội phạm vật
thể không mang tính giai cấp, nhưng quyền sở hữu tài sản y sự thừa
nhận của Nhà nước với chủ sở hữu lại mang tính giai cấp.
Đối tượng c động của tội phạm khác công cụ, phương tiện thực hiện tội
phạm. Đối tượng c động của tội phạm đối tượng chịu sự tác độn của
hành vi phạm tội, còn công cụ phương tiện phạm tội những công cụ,
phương tiện được người phạm tội sử dụng vào việc phạm tội, để tác động
đến đối tượng tác động của tội phạm. Công cụ, phương tiện của tội phạm
tác dụng hỗ trợ cho việc phạm tội thuận lợi.
Khách thể tội phạm là yếu tố của cấu thành tội phạm, là quan hệ hội được
Nhà nước dùng Luật Hình sự để bảo vệ. Đối tượng tác động của tội phạm
những bộ phận sự tồn tại của làm khách thể tồn tại. Đối tượng tác
động cũng như công cụ, phương tiện không phải những dấu hiệu bắt buộc
trong yếu tố khách quan của mọi cấu thành tội phạm, trừ một số trường hợp
điều luật quy định.
2. Quy định chung về đối tượng tác động của tội phạm
Sự gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm hình thức cụ thể nào cũng
luôn luôn diễn ra trên sở hành vi phạm tội m biến đổi tình trạng của đối
tượng tác động bộ phận cấu thành của quan hệ hội.
Các bộ phận của khách thể của tội phạm thể bị c động là:
- Chủ thể của quan hệ hội;
- Nội dung của quan hệ hội (là hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào
quan hệ hội) hoặc
- Đối tượng của quan hệ hội (là sự vật hoặc lợi ích qua đó quan hệ
hội phát sinh tồn tại).
Bất cứ tội phạm nào cũng đều tác động làm biến đổi tình trạng của đối tượng
tác động cụ thể. Sự m biến đổi tình trạng này phương thức gây thiệt hại
cho quan hệ hội. Sự làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động trong
chừng mực nhất định cũng th được gọi sự xâm phạm đối tượng tác
động như thực tế hiện nay vẫn gọi tên một số nhóm tội theo đối tượng tác
động. Vỉ dụ: Các tội xâm phạm tài sản; các tội m phạm tính mạng, sức
khoẻ... Cách gọi này tuy chưa thể hiện được bản chất của tội phạm nhưng
thể chấp nhận được nếu hiểu sự xâm phạm đối tượng tác động luôn luôn
nghĩa sự xâm phạm bộ phận của quan hệ hội qua đó xâm hại quan
hệ hội. Luật hình sự Việt Nam bảo vệ các quan hệ hội thông qua việc
bảo đảm tình ttạng bình thường của c bộ phận cấu thành quan hệ hội.
Sự bảo vệ đối tượng tác động cụ thể luôn luôn ý nghĩa bảo vệ các bộ
phận của quan hệ hội qua đó để bảo vệ quan hệ hội khách thể
bảo vệ của luật hình sự.
3. Ba loại đối tượng tác động của tội phạm
Thứ nhất, Con người - chủ thể của quan hệ hội
Con người với ý nghĩa vừa thực thể tự nhiên vừa.là thực thể hội thể
chủ thể của nhiều quan hệ hội khác nhau. Trong các quan hệ hội
quan hệ hội chỉ thể bị gây thiệt hại khi sự biến đổi tình trạng bình
thường của con người chủ thể của quan hệ hội đó. Quan h nhân thân
quan hệ hội thuộc loại này. Các tội phạm được quy định trong Chương
XIV BLHS đều đối tượng tác động con người. Những hặnh vi phạm tội
của nhóm tội phạm này thể hành vi tước đoạt tính mạng, hành vi gây
tổn hại cho sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người.
Thứ hai, Đối tượng vật chất - khách thể của quan h hội
Trong c quan hệ hội được luật hình sợ bảo vệ quan hệ hội bị tội
phạm gây thiệt hại qua việc làm biến đổi tình trạng bình thường của đối
tượng vật chất như quan hệ sở hữu... Các hành vi phạm tội làm biến đổi tình
trạng bình thường của tài sản một cách ưái pháp luật đều những hành vi
gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu. Sự làm biến đổi nh trạng này thể do
những loại hành vi khác nhau gây ra như hành vi chiếm đoạt, hành vi chiếm
giữ, hành vi sử dụng trái phép, hành vi huỷ hoại hay làm hỏng...
Thứ ba, Hoạt động bình thường của chủ thể - nội dung của quan hệ hội
Luật hình sự bảo vệ quan hệ hội không chỉ qua việc đảm bảo tình ưạng
bình thường cho con người chủ thể của quan hệ hội, cho đối tượng vật
chất khách thể của quan hệ hội những quan h hội nhất định,
còn qua việc bảo đảm hoạt động bình thường của chủ thể với ý nghĩa nội
dung của quan h hội. Trong những trường hợp đó, hoạt động bình
thường của chủ thể được coi đối tượng tác động của tội phạm. Sự làm
biến đối tình trạng của đối tượng tác động đây sự cản trở hoạt động bình
thường của chủ thể hoặc dưới hình thức làm biến dạng xử sự của người
khác hoặc dưới hình thức tự làm biến dạng xử sự của chính mình.
dụ: Hành vi đưa hối l (Điều 364 BLHS) hành vi nhằm m biến dạng xử
sự của người chức vụ, quyền hạn; hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự
(Điều 332 Bộ luật hình sự năm 2015) hành vi tự làm biến dạng xử sự của
chính mình.
Việc xâm hại quan hệ hội bằng cách tác động đến đối tượng tác động của
tội phạm không nghĩa đối tượng tác động của tội phạm cũng luôn luôn bị
hại cùng với các quan hệ hội. Trong nhiều trường họp, đối tượng tác
động của tội phạm không rơi vào tình trạng xấu hơn so với trước khi tội phạm
xảy ra.
dụ: Người trộm cắp tài sản thường không gây hỏng cho tài sản trộm
cắp đối tượng tác động của tội phạm còn thể biện pháp bảo vệ
giá trị vật chất của tài sản đã chiếm đoạt...
Khi nghiên cửu đối tượng tác động của tội phạm cần phân biệt đối tượng tác
động của tội phạm với công cụ, phương tiện phạm tội. Công cụ, phương tiện
phạm tội đối tượng được người phạm tội sử dụng để tác động đến đối
tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách th của tội phạm.
Với vai trò bộ phận của khách thể của tội phạm, đối tượng tác động của tội
phạm thể được phản ánh dấu hiệu trong cấu thành tội phạm.
dụ: Điều 303 BLHS quy định đối tượng tác động của tội phá hủy công trình,
sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia phải ng trình, sở
hoặc phương tiện giao thông vận tải, thông tin - liên lạc, công trình điện, dẫn
chất đốt, công trình thuỷ lợi hoặc công trình quan trọng khác về quốc phòng,
kinh tế, khoa học - thuật, văn hoá hội.
Đối với những trường hợp này, việc xác định đối tượng tác động của tội
phạm bắt buộc khi định tội.
một số tội phạm, đối tượng tác động của tội phạm thể được phản ánh
trong cấu thành tội phạm tăng nặng dấu hiệu định khung hình phạt tăng
nặng. dụ: Chiếm đoạt tài sản giá trị từ 50 triệu đồng trở lên được quy
định dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của tội trộm cắp tài sản.
Đổi với những trường hợp này, việc xác định đối tượng tác động của tội
phạm ý nghĩa trong việc định khung hình phạt tăng nặng.
Trong những trường hợp khác, việc xác định đối tượng tác động của tội phạm
thể ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm cho hội của hành
vi phạm tội do vậy ng ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
4. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài
thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho
hội, mối quan hệ nhân quả giũa hành vi hậu quả, công cụ phương tiện,
phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm phạm tội.
Những dấu hiệu trong mặt khách quan thường được tả chi tiết trong các
điều khoản phần các tội phạm cụ thể. Một phần, các dấu hiệu trong mặt
khách quan biểu hiện ra bên ngoài dễ nhận biết hơn các yếu tố khác. Mặt
khác, giữa các tội phạm khác nhau chúng khác nhau chủ yếu các dấu hiệu
trong mặt khách quan.
5. Hành vi khách quan của tội phạm
Quan điểm truyền thống về khái niệm hành vi khách quan của tội phạm được
thể hiện trong các giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung đó Hành vi
khách quan của tội phạm những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế
giới khách quan dưới những hình thức cụ th nhằm đạt những mục đích
chủ định mong muốn.
Theo khái niệm này thì hành vi khách quan của tội phạm được hiểu hành vi
của con người nói chung bao gồm cả hành vi hợp pháp hành vi bất hợp
pháp. Chỉ xuất phát từ việc nghiên cứu, chỉ ra các đặc điểm của hành vi
khách quan của tội phạm mới thể đưa ra khái niệm này thể hiện tính khoa
học.
Khi so sánh hành vi của con người hành vi hợp pháp với hành vi vi phạm
pháp luật hành vi phạm tội với c hành vi vi phạm pháp luật khác thể
chỉ ra hành vi khách quan của tội phạm các đặc điểm sau: Hành vi khách
quan của tội phạm tính nguy hiểm đáng kể cho hội;Hành vi khách quan
của tội phạm tính trái pháp luật hình sự (được quy định trong BLHS phần
các tội phạm cụ thể);Hành vi khách quan của tội phạm hành vi thức
ý chí tức là kh năng nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi,
khả năng kiềm chế không thực hiện nh vi phạm tội;Hay nói cách khác,
hành vi khách quan của tội phạm phải được ý thức kiểm soát ý chí điều
khiển.
Một người thực hiện một hành vi gây thiệt hại cho hội trong trường hợp bị
cưỡng bức về tinh thần - bị đe doạ (b khống chế về tư tưởng) thể phải
chịu trách nhiệm hình sự thể không.
Trường hợp thứ nhất: nếu người thực hiện hành vi gây hậu quả thiệt hại cho
hội khi b khống chế toàn b về tưởng thì không phải chịu trách nhiệm
hình sự.Ví dụ: A giơ súng vào đầu B ra điều kiện phải ném lựu đạn vào
nhà M, nếu không thì A bắn chết B. Sự đe doạ này đặt trong hoàn cảnh cụ
thể đó sẽ hiện thực nếu B không tuân thủ B làm theo sự khống chế của
A gây hậu quả chết người hoặc gây thiệt hại về i sản t B không phải chịu
TNHS. Trường hợp này, hành vi của B hành vi ý thức nhưng không ý
chí.
Trường hợp thứ hai: nếu người thực hiện hành vi gây hậu quả thiệt hại cho
hội khi bị khống chế một phần về tưởng t được miễn trách nhiệm hình
sự một phần. Mức độ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào mức độ bị đe doạ.Ví
dụ: A B đối tượng sống lang thang bến xe (B không còn cha mẹ
không nơi nương tựa). Vào lúc 8 giờ ngày 22/03/2005, A khống chế B cướp
giật hành của hành khách trên xe đưa cho A, nếu không A sẽ trục xuất B ra
khỏi băng nhóm. Nếu B thực hiện theo sự khống chế của A thì B vẫn phải
chịu TNHS về tội cướp giật tài sản với tình tiết giảm nhẹ phạm tội do bị người
khác đe doạ, cưỡng bức.
Để xác định tính chất mãnh liệt của hành vi đe doạ phải đánh giá một ch
khách quan, toàn diện các tình tiết như: thời gian, hoàn cảnh địa điểm, công
cụ, thái độ, cường độ của sự đe doạ.
Một người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho hội trong trường hợp bị
cưỡng bức thân thể không phải chịu trách nhiệm hình sự thực tế họ chỉ
công cụ trong tay kẻ cưỡng bức. Việc thực hiện hành vi gây thiệt hại cho
hội hoàn toàn do sức mạnh bạo lực bên ngoài.Ví dụ: B đang đứng cạnh A
xem A chặt chuối. Trong lúc A đang giơ dao ớng về phía buồng chuối để
chặt thì bất ngờ M chạy tới bắt tay A chém B. Trường hợp này, A gây thương
tích cho B trong trường hợp bị cưỡng bức về thể chất, A không phải chịu
TNHS về hậu quả thương tích của B.
th phân biệt sự khác nhau giữa cưỡng bức về thân thể cưỡng bức về
tinh thần như sau:
Cưỡng bức thân thể
Cưỡng bức tinh thần
- Chỉ sự tác động lên thân thể.
- Người bị ỡng bức không khả năng
lựa chọn bất kỳ một xử sự nào.
- thể tác động lên thân thể thể không. Nếu tác đng lên thân
thể qua đó tác động đến tưởng người bị cưỡng bc.
- Người bị cưỡng bức thể lựa chọn ít nhất hai xử s.
Từ những nội dung đã phân tích trên thể đưa ra khái niệm về hành vi
khách quan của tội phạm như sau: Hành vi khách quan của tội phạm hành
vi được quy định trong phần các tội phạm cụ thể của BLHS tính nguy hiểm
đáng kể cho hội hành vi ý thức kiểm soát ý chí.

Preview text:

Đối tượng tác động của tội phạm là gì? Các loại
đối tượng tác động của tội phạm?
1. Đối tượng tác động ca ti phm?
Khi xâm phạm khách thể bao giờ cũng tác động đến đối tượng nhất định. Tuy
gần gũi với khách thể nhưng đối tượng tác động của tội phạm khác khách thể.
Đối tượng tác động của tội phạm là những phần trong khách thể của tội phạm
mà khi tác động đến nó người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể.
Đối tượng tác động của tội phạm bao gồm các dạng sau đây:
- Con người đối với tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự;
- Các vật thể như tài sản, phương tiện thuộc quyền sở hữu hợp pháp của con người;
- Sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội.
Đối tượng tác động của tội phạm khác khách thể của tội phạm. Khách thể
của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ, có tính trừu
tượng. Việc quy định quan hệ xã hội nào là khách thể của tội phạm tùy thuộc
vào lợi ích của giai cấp thống trị, vì thế khách thể tội phạm mang tính chất giai
cấp. Các tội phạm đều xâm phạm và gây thiệt hại cho khách thể, tuy nhiên
không phải tội phạm nào cũng gây thiệt hại cho đối tượng tác động, như tội
trộm cắp tài sản chỉ làm chuyển dịch quyền sở hữu từ người này sang người
khác, chứ tài sản không bị hư hỏng. Đối tượng tác động của tội phạm là vật
thể không mang tính giai cấp, nhưng quyền sở hữu tài sản ấy là sự thừa
nhận của Nhà nước với chủ sở hữu lại mang tính giai cấp.
Đối tượng tác động của tội phạm khác công cụ, phương tiện thực hiện tội
phạm. Đối tượng tác động của tội phạm là đối tượng chịu sự tác độn của
hành vi phạm tội, còn công cụ phương tiện phạm tội là những công cụ,
phương tiện được người phạm tội sử dụng vào việc phạm tội, để tác động
đến đối tượng tác động của tội phạm. Công cụ, phương tiện của tội phạm có
tác dụng hỗ trợ cho việc phạm tội thuận lợi.
Khách thể tội phạm là yếu tố của cấu thành tội phạm, là quan hệ xã hội được
Nhà nước dùng Luật Hình sự để bảo vệ. Đối tượng tác động của tội phạm là
những bộ phận mà sự tồn tại của nó làm khách thể tồn tại. Đối tượng tác
động cũng như công cụ, phương tiện không phải là những dấu hiệu bắt buộc
trong yếu tố khách quan của mọi cấu thành tội phạm, trừ một số trường hợp
có điều luật quy định.
2. Quy định chung về đối tượng tác động của tội phạm
Sự gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm dù ở hình thức cụ thể nào cũng
luôn luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng của đối
tượng tác động là bộ phận cấu thành của quan hệ xã hội.
Các bộ phận của khách thể của tội phạm có thể bị tác động là:
- Chủ thể của quan hệ xã hội;
- Nội dung của quan hệ xã hội (là hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ xã hội) hoặc
- Đối tượng của quan hệ xã hội (là sự vật hoặc lợi ích mà qua đó quan hệ xã
hội phát sinh và tồn tại).
Bất cứ tội phạm nào cũng đều tác động làm biến đổi tình trạng của đối tượng
tác động cụ thể. Sự làm biến đổi tình trạng này là phương thức gây thiệt hại
cho quan hệ xã hội. Sự làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động trong
chừng mực nhất định cũng có thể được gọi là sự xâm phạm đối tượng tác
động như thực tế hiện nay vẫn gọi tên một số nhóm tội theo đối tượng tác
động. Vỉ dụ: Các tội xâm phạm tài sản; các tội xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ... Cách gọi này tuy chưa thể hiện được bản chất của tội phạm nhưng có
thể chấp nhận được nếu hiểu sự xâm phạm đối tượng tác động luôn luôn có
nghĩa là sự xâm phạm bộ phận của quan hệ xã hội và qua đó xâm hại quan
hệ xã hội. Luật hình sự Việt Nam bảo vệ các quan hệ xã hội thông qua việc
bảo đảm tình ttạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội.
Sự bảo vệ đối tượng tác động cụ thể luôn luôn có ý nghĩa là bảo vệ các bộ
phận của quan hệ xã hội và qua đó để bảo vệ quan hệ xã hội là khách thể
bảo vệ của luật hình sự.
3. Ba loại đối tượng tác động của tội phạm
Thứ nhất,
Con người - chủ thể của quan hệ xã hội
Con người với ý nghĩa vừa là thực thể tự nhiên vừa.là thực thể xã hội có thể
là chủ thể của nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Trong các quan hệ xã hội có
quan hệ xã hội chỉ có thể bị gây thiệt hại khi có sự biến đổi tình trạng bình
thường của con người là chủ thể của quan hệ xã hội đó. Quan hệ nhân thân
là quan hệ xã hội thuộc loại này. Các tội phạm được quy định trong Chương
XIV BLHS đều có đối tượng tác động là con người. Những hặnh vi phạm tội
của nhóm tội phạm này có thể là hành vi tước đoạt tính mạng, hành vi gây
tổn hại cho sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người.
Thứ hai, Đối tượng vật chất - khách thể của quan hệ xã hội
Trong các quan hệ xã hội được luật hình sợ bảo vệ có quan hệ xã hội bị tội
phạm gây thiệt hại qua việc làm biến đổi tình trạng bình thường của đối
tượng vật chất như quan hệ sở hữu... Các hành vi phạm tội làm biến đổi tình
trạng bình thường của tài sản một cách ưái pháp luật đều là những hành vi
gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu. Sự làm biến đổi tình trạng này có thể do
những loại hành vi khác nhau gây ra như hành vi chiếm đoạt, hành vi chiếm
giữ, hành vi sử dụng trái phép, hành vi huỷ hoại hay làm hư hỏng...
Thứ ba, Hoạt động bình thường của chủ thể - nội dung của quan hệ xã hội
Luật hình sự bảo vệ quan hệ xã hội không chỉ qua việc đảm bảo tình ưạng
bình thường cho con người là chủ thể của quan hệ xã hội, cho đối tượng vật
chất là khách thể của quan hệ xã hội mà ở những quan hệ xã hội nhất định,
còn qua việc bảo đảm hoạt động bình thường của chủ thể với ý nghĩa là nội
dung của quan hệ xã hội. Trong những trường hợp đó, hoạt động bình
thường của chủ thể được coi là đối tượng tác động của tội phạm. Sự làm
biến đối tình trạng của đối tượng tác động ở đây là sự cản trở hoạt động bình
thường của chủ thể hoặc dưới hình thức làm biến dạng xử sự của người
khác hoặc dưới hình thức tự làm biến dạng xử sự của chính mình.
Ví dụ: Hành vi đưa hối lộ (Điều 364 BLHS) là hành vi nhằm làm biến dạng xử
sự của người có chức vụ, quyền hạn; hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự
(Điều 332 Bộ luật hình sự năm 2015) là hành vi tự làm biến dạng xử sự của chính mình.
Việc xâm hại quan hệ xã hội bằng cách tác động đến đối tượng tác động của
tội phạm không có nghĩa là đối tượng tác động của tội phạm cũng luôn luôn bị
hư hại cùng với các quan hệ xã hội. Trong nhiều trường họp, đối tượng tác
động của tội phạm không rơi vào tình trạng xấu hơn so với trước khi tội phạm xảy ra.
Ví dụ: Người trộm cắp tài sản thường không gây hư hỏng cho tài sản trộm
cắp là đối tượng tác động của tội phạm mà còn có thể có biện pháp bảo vệ
giá trị vật chất của tài sản đã chiếm đoạt...
Khi nghiên cửu đối tượng tác động của tội phạm cần phân biệt đối tượng tác
động của tội phạm với công cụ, phương tiện phạm tội. Công cụ, phương tiện
phạm tội là đối tượng được người phạm tội sử dụng để tác động đến đối
tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm.
Với vai trò là bộ phận của khách thể của tội phạm, đối tượng tác động của tội
phạm có thể được phản ánh là dấu hiệu trong cấu thành tội phạm.
dụ:
Điều 303 BLHS quy định đối tượng tác động của tội phá hủy công trình,
cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia phải là công trình, cơ sở
hoặc phương tiện giao thông vận tải, thông tin - liên lạc, công trình điện, dẫn
chất đốt, công trình thuỷ lợi hoặc công trình quan trọng khác về quốc phòng,
kinh tế, khoa học - kĩ thuật, văn hoá và xã hội.
Đối với những trường hợp này, việc xác định đối tượng tác động của tội
phạm là bắt buộc khi định tội.
Ở một số tội phạm, đối tượng tác động của tội phạm có thể được phản ánh
trong cấu thành tội phạm tăng nặng là dấu hiệu định khung hình phạt tăng
nặng. Ví dụ: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên được quy
định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của tội trộm cắp tài sản.
Đổi với những trường hợp này, việc xác định đối tượng tác động của tội
phạm có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt tăng nặng.
Trong những trường hợp khác, việc xác định đối tượng tác động của tội phạm
có thể có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội và và do vậy cũng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
4. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài
thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, mối quan hệ nhân quả giũa hành vi và hậu quả, công cụ phương tiện,
phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm phạm tội.
Những dấu hiệu trong mặt khách quan thường được mô tả chi tiết trong các
điều khoản phần các tội phạm cụ thể. Một phần, vì các dấu hiệu trong mặt
khách quan biểu hiện ra bên ngoài dễ nhận biết hơn các yếu tố khác. Mặt
khác, giữa các tội phạm khác nhau chúng khác nhau chủ yếu ở các dấu hiệu trong mặt khách quan.
5. Hành vi khách quan của tội phạm
Quan điểm truyền thống về khái niệm hành vi khách quan của tội phạm được
thể hiện trong các giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung đó là Hành vi
khách quan của tội phạm là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế
giới khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt những mục đích có chủ định và mong muốn.
Theo khái niệm này thì hành vi khách quan của tội phạm được hiểu là hành vi
của con người nói chung bao gồm cả hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp
pháp. Chỉ có xuất phát từ việc nghiên cứu, chỉ ra các đặc điểm của hành vi
khách quan của tội phạm mới có thể đưa ra khái niệm này thể hiện tính khoa học.
Khi so sánh hành vi của con người là hành vi hợp pháp với hành vi vi phạm
pháp luật là hành vi phạm tội với các hành vi vi phạm pháp luật khác có thể
chỉ ra hành vi khách quan của tội phạm có các đặc điểm sau: Hành vi khách
quan của tội phạm có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội;Hành vi khách quan
của tội phạm có tính trái pháp luật hình sự (được quy định trong BLHS phần
các tội phạm cụ thể);Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi có thức và
có ý chí tức là có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi,
và có khả năng kiềm chế không thực hiện hành vi phạm tội;Hay nói cách khác,
hành vi khách quan của tội phạm phải được ý thức kiểm soát và ý chí điều khiển.
Một người thực hiện một hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong trường hợp bị
cưỡng bức về tinh thần - bị đe doạ (bị khống chế về tư tưởng) có thể phải
chịu trách nhiệm hình sự có thể không.
Trường hợp thứ nhất: nếu người thực hiện hành vi gây hậu quả thiệt hại cho
xã hội khi bị khống chế toàn bộ về tư tưởng thì không phải chịu trách nhiệm
hình sự.Ví dụ: A giơ súng dí vào đầu B và ra điều kiện phải ném lựu đạn vào
nhà M, nếu không thì A bắn chết B. Sự đe doạ này đặt trong hoàn cảnh cụ
thể đó sẽ là hiện thực nếu B không tuân thủ và B làm theo sự khống chế của
A gây hậu quả chết người hoặc gây thiệt hại về tài sản thì B không phải chịu
TNHS. Trường hợp này, hành vi của B là hành vi có ý thức nhưng không có ý chí.
Trường hợp thứ hai: nếu người thực hiện hành vi gây hậu quả thiệt hại cho
xã hội khi bị khống chế một phần về tư tưởng thì được miễn trách nhiệm hình
sự một phần. Mức độ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào mức độ bị đe doạ.Ví
dụ: A và B là đối tượng sống lang thang ở bến xe (B không còn cha mẹ và
không nơi nương tựa). Vào lúc 8 giờ ngày 22/03/2005, A khống chế B cướp
giật hành lý của hành khách trên xe đưa cho A, nếu không A sẽ trục xuất B ra
khỏi băng nhóm. Nếu B thực hiện theo sự khống chế của A thì B vẫn phải
chịu TNHS về tội cướp giật tài sản với tình tiết giảm nhẹ phạm tội do bị người
khác đe doạ, cưỡng bức.
Để xác định tính chất mãnh liệt của hành vi đe doạ phải đánh giá một cách
khách quan, toàn diện các tình tiết như: thời gian, hoàn cảnh địa điểm, công
cụ, thái độ, cường độ của sự đe doạ.
Một người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong trường hợp bị
cưỡng bức thân thể không phải chịu trách nhiệm hình sự vì thực tế họ chỉ là
công cụ trong tay kẻ cưỡng bức. Việc thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã
hội hoàn toàn do sức mạnh bạo lực bên ngoài.Ví dụ: B đang đứng cạnh A
xem A chặt chuối. Trong lúc A đang giơ dao hướng về phía buồng chuối để
chặt thì bất ngờ M chạy tới bắt tay A chém B. Trường hợp này, A gây thương
tích cho B trong trường hợp bị cưỡng bức về thể chất, A không phải chịu
TNHS về hậu quả thương tích của B.
Có thể phân biệt sự khác nhau giữa cưỡng bức về thân thể và cưỡng bức về tinh thần như sau:
Cưỡng bức thân thể
Cưỡng bức tinh thần
- Chỉ có sự tác động lên thân thể.
- Có thể tác động lên thân thể có thể không. Nếu tác động lên thân
- Người bị cưỡng bức không có khả năng thể qua đó tác động đến tư tưởng người bị cưỡng bức.
lựa chọn bất kỳ một xử sự nào.
- Người bị cưỡng bức có thể lựa chọn ít nhất hai xử sự.
Từ những nội dung đã phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về hành vi
khách quan của tội phạm như sau: Hành vi khách quan của tội phạm là hành
vi được quy định trong phần các tội phạm cụ thể của BLHS có tính nguy hiểm
đáng kể cho xã hội và là hành vi có ý thức kiểm soát và có ý chí.
Document Outline

  • Đối tượng tác động của tội phạm là gì? Các loại đố
    • 1. Đối tượng tác động của tội phạm?
    • 2. Quy định chung về đối tượng tác động của tội ph
    • 3. Ba loại đối tượng tác động của tội phạm
    • 4. Mặt khách quan của tội phạm
    • 5. Hành vi khách quan của tội phạm