lOMoARcPSD| 60826700
Du lịch cộng đồng trên thế giới:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Nguyễn Công Thảo
1
, Nguyễn Thị Thanh Bình
1
1
Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam. Email:
writervn@yahoo.com
Nhận ngày 5 tháng 5 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 17 tháng 6 năm 2019.
Tóm tắt: i viết này giới thiệu một số quan điểm căn bản về du lịch cộng đồng của các học giả trên
thế giới. Ba nội dung chính được thảo luận bao gồm: khái niệm, nguồn lực và phương thức triển khai
hoạt động du lịch cộng đồng, cũng như tính bền vững của loại nh du lịch này. Kết quả tổng quan
cho thấy, sự tham gia của người dân địa phương là yếu tố quan trọng, quyết định sự thành công cũng
như tính bền vững của hoạt động này trên các phương diện kinh tế, văn hóa và môi trường.
Từ khóa: Du lịch cộng đồng, người dân địa phương, thế giới.
Phân loại ngành: Dân tộc học
Abstract: This article introduces some fundamental views about community-based tourism by
scholars in the world. The three main contents discussed include the concept, resources and methods
of implementing community-based tourism activities, as well as the sustainability of the type of
tourism. The overall results show that the participation of local people is an important factor,
determining the success and sustainability of the activities from the economic, cultural and
environmental perspectives.
Keywords: Community-based tourism, local people, the world.
Subject classification: Ethnology
1. Đặt vấn đề
Du lịch cộng đồng (DLCĐ) bắt đầu phát
triển mạnh nước ta từ đầu những năm
2000. Đây loại hình hoạt động phù hợp với
điều kiện tự nhiên, văn hóa, hội của đất
nước cũng như xu thế lựa chọn của nhiều
khách du lịch trong ngoài nước. Tuy
nhiên, cho đến nay, việc y dựng chiến lược
quốc gia nhằm thúc đẩy quá trình phát triển
hệ thống, hiệu quả, bền vững cho hoạt
động DLCĐ vẫn chưa được hoàn thiện. Hầu
hết các mô hình hoặc hoạt động tự phát hoặc
do địa phương hay các tổ chức quốc tế hỗ trợ,
mang tầm ngắn hạn khó thể triển khai
phạm vi rộng. Bài viết này
2
giới thiệu
DLCĐ trên thế giới, bao gồm: khái niệm; sự
phát triển hoạt động DLCĐ; tính bền
vững của loại hình du lịch này.
lOMoARcPSD| 60826700
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
2. Khái niệm du lịch cộng đồng
DLCĐ được xuất hiện từ những năm 1970
cho đến nay đã phát triển phổ biến hầu
hết các châu lục, đặc biệt khu vực nông
thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số
(DTTS) Châu Phi, khu vực Mỹ Latinh
Châu Á. Rozemeijer định nghĩa DLCĐ
hoạt động du lịch được sở hữu, khởi xướng
bằng một hay vài cộng đồng địa phương,
sự liên kết với khối nhân nhằm tận dụng
nguồn tài nguyên tự nhiên cũng như văn hóa
một cách bền vững để thu hút khách du lịch,
tăng thu nhập cải thiện sinh kế [15].
Ashley.C cho rằng, DLCĐ chủ yếu loại
hình du lịch quy nhỏ song hành
hướng đến cả mục đích phát triển kinh tế và
phát triển hội [3]. một cách nhìn khá
tương đồng, Goodwin and Santilli quan niệm
DLCĐ hoạt động du lịch được sở hữu hoặc
quản bởi cộng đồng nhằm tạo ra lợi ích
lớn lao hơn cho cộng đồng [7, tr.1-37]. Quỹ
Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên cho rằng, DLCĐ
hoạt động “mà đó cộng đồng địa phương
trực tiếp tham gia và nắm vai trò quan trọng
trong việc quản lý và phát triển. Phần lớn lợi
ích thu được thuộc về cộng đồng” [22].
Hausle và Strasdas khẳng định DLngoài
ý nghĩa loại hình du lịch sự tham gia
tích cực, chủ động của người dân vào mọi
mắt xích, còn trực tiếp đóng góp vào phát
triển kinh tế cho người dân cho cả địa
phương [13]. Theo quan điểm được đưa ra
trong bộ “Tiêu chuẩn về du lịch cộng đồng”
được các quốc gia Đông Nam Á đồng thuận
năm 2016, DLCĐ hình thức du lịch được
sở hữu, vận hành, điều phối quản bởi
cộng đồng nhằm hướng tới việc cải thiện
điều kiện kinh tế cộng đồng thông qua các
hoạt động hỗ trợ sinh kế bền vững, duy trì
bảo vệ các truyền thống văn hóa hội
giá trị, cũng như các nguồn tài nguyên thiên
nhiên [2]. Theo đó, DLCĐ được cho là phải
đạt được 10 tiêu chí sau: (1) Trao quyền và
sự tham gia của cộng đồng nhằm đảm bảo
nền quản trị và quyền sở hữu minh bạch; (2)
Thiết lập quan hệ hợp tác với các bên liên
quan; (3) Đạt được sthừa nhận đúng đắn từ
phía quan chức năng thẩm quyền; (4)
Cải thiện điều kiện kinh tế cũng như các giá
trị nhân văn; (5) Duy trì cơ chế chia sẻ lợi ích
minh bạch, công bằng; (6) Tăng cường gắn
kết nền kinh tế khu vực địa phương; (7)
Tôn trọng truyền thống văn hóa địa
phương; (8) Góp phần bảo tồn tự nhiên; (9)
Cải thiện chất lượng trải nghiệm cho khách
du lịch thông qua việc thúc đẩy sự tương tác
giữa khách và chủ; (10) Hướng tới tự chủ về
tài chính.
thể thấy, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong
các cách nhìn về DLCĐ là việc thừa nhận sự
tham gia chủ động của cộng đồng địa
phương điều kiện tiên quyết, bản sắc tạo
ra sự khác biệt với các loại hình du lịch khác.
Về tổng thể, hoạt động DLCĐ phải từ cộng
đồng, do cộng đồng và vì cộng đồng.
3. Phát triển hoạt động du lịch cộng đồng
3.1. Các giá trị có thể khai thác
Theo Quỹ Châu Á, DL thường diễn ra
dưới các hình thức sau: (1) Du lịch sinh thái;
(2) Du lịch văn hóa; (3) Du lịch nông nghiệp;
(4) Du lịch bản địa; (5) Du lịch làng. Đối
tượng tìm đến loại hình DLCĐ thường muốn
tự trải nghiệm đời sống văn hóa, nhịp sống
lOMoARcPSD| 60826700
Nguyễn Công Thảo, Nguyễn Thị Thanh Bình
thường ngày, môi trường tự nhiên hoang
[1]. lẽ đó, bản sắc văn hóa tộc người
điều kiện cũng như cảnh quan sinh thái địa
phương hai trong nhiều giá trị quan trọng
thể khai thác trong hoạt động DLCĐ [4,
tr.48-70]. Mỗi cộng đồng, dân tộc thường có
bản sắc riêng đây tiền đề, điểm tựa để
phát triển DLCĐ bởi khách du lịch luôn
tâm thế muốn trải nghiệm những điều mới
mẻ, khác với trải nghiệm thường ngày của họ
[16, tr.89-116]. Lựa chọn này còn đem lại
cảm giác “vnguồn”, quay trở lại lịch sử cho
du khách [11, tr.566-591]. Khác với loại hình
du lịch giải trí thông thường, khách du lịch
với mục đích tìm hiểu bản sắc văn hóa
thường nhu cầu thu thập kiến thức một
cách hệ thống, sâu về văn hóa của một cộng
đồng, dân tộc nào đó. Chính thế, họ
thường định kỳ đi thăm với sự lựa chọn địa
điểm có chủ đích thay vì ngẫu nhiên và điều
đó dẫn đến sự ra đời của khái niệm du lịch
văn hóa [12]. Vai trò của cộng đồng địa
phương nhờ đó hết sức quan trọng bởi họ
đối tượng trực tiếp trình diễn, chia sẻ, diễn
giải các giá trị văn hóa ấy cho du khách.
3.2. Sự tham gia của các bên liên quan
DLCĐ cần phải kết hợp 3 yếu tố để thể
vận hành một cách hiệu quả, bền vững: (1)
sự hỗ trợ và tham gia của người địa phương;
(2) Bảo vệ bản sắc văn hóa của người dân
cũng như môi trường sở tại; (3) Lợi ích
hướng tối đa đến người dân địa phương [16,
tr.89-116]. Sau khi tiến hành nghiên cứu hoạt
động du lịch 3 công viên quốc gia của Nhật
Bản, Hiwasaki chỉ ra 4 nhân tố dẫn đến sự
thành công ở đây bao gồm: (1) Sắp xếp về tổ
chức; (2) Nội quy liên quan đến bảo tồn; (3)
Ý thức tốt về bảo vệ môi trường; (4) Sự bền
chặt của quan hệ hợp c giữa các bên liên
quan [10]. Đây là 4 yếu tố quan trọng, có thể
áp dụng, nhân rộng các địa bàn khác. Trong
một nghiên cứu ở bản Mae Kampong nằm ở
phía Bắc Chiang Mai, i hoạt động DLCĐ
cực kỳ phát triển được biết đến bình
diện quốc gia, các tác giả đã chỉ ra 3 nhân tố
đóng vai trò quan trọng trong thành công của
hình DLCĐ ở đây, bao gồm: (1) Các điều
kiện tự nhiên, địa thuận lợi; (2) Shỗ trợ
hiệu quả từ bên ngoài; (3) Sự đổi mới trong
quản lý [8, tr.4-23], [9].
Theo Goodwin Rosa Santilli, để đạt
được hiệu quả bền vững, các thành phần
chính tham gia vào hoạt động DLCĐ cần bao
gồm: Cộng đồng địa phương, trực tiếp các
hộ dân sống trong khu vực triển khai hoạt
động DLCĐ, những người cam kết tham gia
vào hoạt động này. Họ vừa người sở hữu,
vận hành, quản lý và thụ hưởng phần lợi ích
quan trọng thu được từ hoạt động DLCĐ;
doanh nghiệp, công ty du lịch trong tiếp cận
thị trường, tìm hiểu và tìm kiếm khách hàng,
tổ chức, cung cấp vốn đầu tư các dịch vụ
làm cầu nối đưa du khách đến các điểm du
lịch; chính quyền địa phương đóng vai trò
trung gian, giữa các doanh nghiệp, công ty
du lịch với cộng đồng địa phương thể
đưa ra phán quyết phân xử khi tranh chấp.
Đây cũng nơi thể cung cấp các nguồn
lực bổ sung quan trọng cho việc cải tạo, nâng
cấp, xây dựng sở hạ tầng phục vụ hoạt
động DLCĐ; các tổ chức phát triển vai trò
hỗ trợ về mặt nâng cao ng lực, kỹ năng làm
du lịch cho cộng đồng và một phần nhỏ về
mặt tài chính, giúp cộng đồng đủ năng lực
để tham gia vào DLCĐ giai đoạn đầu;
truyền thông góp phần quảng sản phẩm
lOMoARcPSD| 60826700
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
du lịch, cung cấp những thông tin căn bản
ban đầu cho thị trường; khách du lịch đóng
vai trò quyết định đến sự tăng trưởng, bền
vững của hoạt động DLCĐ [7].
Tiếp cận dưới lăng kính lập kế hoạch,
Reid cho rằng để hoạt động DLCĐ hiệu quả,
bền vững, người dân địa phương cần được
tham gia ngay từ khâu lập kế hoạch điều
này giúp cho việc xác định các điểm du lịch,
mức độ tổ chức, phát triển du lịch [14]. Chỉ
khi những quyết định này được đưa ra bởi
cộng đồng, họ mới thực sự sở hữu, quản
và vận hành hoạt động du lịch trên mảnh đất
của mình.
Quan điểm của Reid được củng cố qua
nghiên cứu trường hợp của Harwood ở West
Papua. Harwood đặc biệt nhấn mạnh cách
tiếp cận dựa trên cộng đồng lãnh thổ cho
việc lập kế hoạch phát triển DLCĐ, đặc biệt
cần thiết các khu vực hẻo lánh nơi mật độ
dân số thấp, có nhiều nhóm địa phương khác
nhau ảnh hưởng của luật tục địa phương
vẫn còn rõ nét trong việc quản lý tài nguyên
thiên nhiên. Sự tham gia của cộng đồng địa
phương được thừa nhận đảm bảo cho tính
bền vững của hoạt động du lịch [18, tr.1909-
1923].
4. Tính bền vững của hoạt động du
lịch cộng đồng
Weaver Lawson cho rằng, hoạt động
DLCĐ chỉ thể hiệu quả, bền vững khi
đồng thời đảm bảo được ba mục tiêu: (1)
Kinh tế bền vững; (2) Văn hóa, hội bền
vững; (3) Môi trường bền vững. Hoạt động
DLCĐ giống như nhiều hoạt động kinh tế
khác, nhiên những tác động nhất định
đến các DTTS, dưới nhiều màu sắc khác
nhau, cả tích cực tiêu cực [6]. Dưới góc
độ kinh tế, mô hình DLCĐ sẽ góp phần tăng
cường các thể chế để thúc đẩy sự tham gia
của cộng đồng địa phương thúc đẩy phát
triển kinh tế. cũng hướng đến việc đưa ra
cách tiếp cận hài hòa, điều tiết trong phát
triển thông qua nhấn mạnh việc cần lưu tâm
đảm bảo sự hòa hợp, tương thích giữa các
hình phát triển với các yếu tố khác của nền
kinh tế địa phương; chất lượng của phát triển
dưới khía cạnh văn hóa môi trường [4,
tr.48-70]. Tuy nhiên, việc xác định các hộ
gia đình cộng đồng địa phương được
hưởng lợi sinh kế của họ được cải thiện
hay không từ DLCĐ, chỉ thể nhận diện
được khi chi phí dành cho việc khởi xướng
hoạt động này ít hơn nhiều so với lợi ích tổng
thể thu được. Điều này đặc biệt ý nghĩa
khi những nhóm nghèo thường e ngại từ bỏ
các hoạt động tự cung tự cấp quen thuộc để
tham gia vào hoạt động mới mẻ này bởi họ
thiếu nguồn lực và e ngại rủi do [4, tr.48-70].
Phân hóa giàu nghèo thể những hệ
lụy không mong muốn khi phát triển DLCĐ
do có sự khác biệt về điều kiện kinh tế, trình
độ nhận thức, khả năng tiếp cận với nguồn
lực khác nhau giữa các nhóm tộc người; giữa
các hộ trong cùng một tộc người. Điều đó
thể dẫn đến tâm thế tham gia khác nhau, dẫn
đến việc hưởng lợi không bình đẳng giữa các
hộ dân trong cùng 1 làng, bản. Chính vì thế,
mối quan hệ quyền lực giữa các bên liên
quan trong việc vận hành DLCĐ cũng một
vấn đề cần được làm đồng thuận ngay
từ khi xây dựng dự án [11, tr.566-591]. Mục
đích cuối cùng của DLCĐ hướng tới việc
nâng cao năng lực cho cộng đồng địa phương
4 cấp độ: kinh tế, tâm lý, hội chính
lOMoARcPSD| 60826700
Nguyễn Công Thảo, Nguyễn Thị Thanh Bình
trị [17, tr.59-62]. Đây được cho chuỗi giá
trị DLCĐ đem lại cho người dân: ban đầu
cải thiện sinh kế mức cao nhất cải
thiện địa vị chính trị. Bên cạnh đó, sự phát
triển của DLCĐ một phần xuất phát từ nhu
cầu bảo tồn tự nhiên. Các nhà hoạt động môi
trường nhận thức được rằng, khó thể duy
trì các khu bảo tồn nếu không có sự hỗ trợ từ
các cộng đồng địa phương. Các tổ chức bảo
tồn nhìn nhận hình quản tài nguyên
dựa vào cộng đồng một phương thức hữu
hiệu. Dưới lăng kính đó, DLCĐ được coi
tạo dựng được lợi ích kép: bảo tồn tự nhiên
và phát triển cộng đồng [21, tr.104-105].
Sử dụng du lịch như biện pháp kích
thích phát triển kinh tế, giảm nghèo được
thúc đẩy từ những năm 1970 gần đây
khuynh hướng chuyển trọng tâm sang
hình du lịch sinh thái, du lịch giảm nghèo và
DLCĐ. Quá trình này thể hiện khá nét
Lào, nơi khách du lịch quốc tế cung cấp
một nguồn ngoại tệ quan trọng, ảnh
hưởng đến tỷ giá tiền tệ, tình hình việc làm
thậm chí chiến ợc giảm nghèo của
chính phủ. DLCĐ từ đầu những năm 2000 đã
ảnh hưởng lớn đến việc quốc gia này nhận
tài trợ để phát triển cơ sở hạ tầng từ nhiều tổ
chức quốc tế. Dự án Nam Ha một trong
những minh họa nét cho việc DLCĐ đóng
góp như thế nào vào xóa đói, giảm nghèo;
phát triển vốn văn hóa, tài chính; sự phát
triển của khối doanh nghiệp tư nhân [5].
Dưới phương diện văn hóa, trong quá
trình phát triển hiện nay, văn hóa của các
DTTS xu thế mai một dưới tác động của
nhiều yếu tố: hỗn cư, di dân, đô thị hóa, toàn
cầu hóa. Thúc đẩy DLCĐ sẽ góp phần
thương mại hóa các sản phẩm văn hóa, giới
thiệu các giá trị văn hóa địa phương, tộc
người tới mạng lưới rộng hơn. Điều này giúp
các cộng đồng thiểu số thêm nguồn lực tài
chính, động lưu giữ, bảo tồn các giá trị,
thực hành văn hóa của mình. Đây thực tế
đã được chứng minh ở nhiều nước trong khu
vực như Trung Quốc, Thái Lan, Lào,
Indonesia hay nhiều nước ở Châu Phi
[4, tr.48-70].
Dưới phương diện xã hội, DLCĐ tạo việc
làm, tăng thu nhập góp phần xóa đói giảm
nghèo cho một bộ phận người DTTS. Hoạt
động này cũng góp phần nâng cao dân trí, kỹ
năng làm thương mại, dịch vụ cho họ, giúp
họ gắn kết hơn vào dòng chảy của quốc gia
thay sống biệt lập như trước đây. Đây
lựa chọn tối ưu, giúp các DTTS tận dụng
nguồn lực tại chỗ của mình để tạo ra thu
nhập, hợp tác, giao lưu với các tộc người
khác, các nhóm đến từ nền văn hóa khác.
Biên giới văn hóa, tộc người của họ nhờ đó
sẽ được mở rộng hơn, vị thế hội sẽ được
nâng cao hơn. Nhờ quá trình này, khoảng
cách về trình độ phát triển kinh tế, năng lực
hội nhập, tham gia dòng chảy phát triển quốc
gia, khu vực của các DTTS sẽ được nâng
cao. Mức độ phụ thuộc vào sản xuất nông
nghiệp trong cơ cấu thu nhập của họ sẽ từng
bước được giảm bớt nhờ việc đa dạng a
nguồn thu nhập từ thương mại, dịch vụ phục
vụ khách du lịch. Ngoài ra, vai trò của DLCĐ
không chỉ thể hiện trong lĩnh vực giảm
nghèo, phát triển kinh tế còn đóng góp
quan trọng trong tạo việc làm, nâng cao vị
thế của nữ giới, cải thiện điều kiện vệ sinh
môi trường và chất lượng chăm sóc y tế như
một nghiên cứu ở El
Salvador đã chỉ ra [19, tr.69-84].
Dưới phương diện môi trường, hoạt động
DLCĐ cũng góp phần bảo vệ môi trường tự
lOMoARcPSD| 60826700
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
nhiên, đặc biệt là rừng. Hầu hết các DTTS ở
nước ta sinh sống dựa vào sản xuất nông
nghiệp. Việc thiếu đất sản xuất như nhiều
báo cáo đã chỉ ra nguyên nhân chính dẫn
đến tình trạng canh tác trái phép trên đất
rừng, phá rừng, khai thác lâm, hải sản, tài
nguyên khoáng sản trái phép. Hoạt động
DLCĐ thông qua hình du lịch sinh thái,
du lịch mạo hiểm một khi được triển khai sẽ
giúp người dân địa phương nhận thức tốt hơn
về giá trị của rừng qua đó từng bước hạn
chế nạn phá rừng trái phép [20, tr.117-31].
5. Kết luận
Mặc thừa nhận DLCĐ một hướng đi
bền vững, góp phần cải thiện sinh kế cho các
cộng đồng địa phương cũng như bảo vệ thiên
nhiên, không ít nghiên cứu đã chỉ ra rằng mô
hình du lịch này chưa thực sự thành công như
kỳ vọng ở nhiều nơi. Có quan ngại cho rằng,
liệu người dân địa phương nhận được lợi
ích tương xứng với những họ cống hiến
hay phần lớn lợi ích từ loại hình du lịch này
rơi vào các nhóm khác và liệu loại hình này
tồn tại bền vững trong tương lai [21,
tr.104-105]. Quan ngại này được Scheyvens
ủng hộ khi cho rằng, hầu hết các hoạt động
DLCĐ được chủ động khởi xướng bởi các
mạng lưới, tổ chức bên ngoài chứ không phải
bản thân người dân địa phương và vì thế các
nhóm địa phương thường tham gia với tâm
thế bị động nhóm hưởng lợi thứ yếu
[17, tr.59-62].
Kết quả tổng quan cho thấy, sự tham gia
của người dân địa phương yếu tố quan
trọng, quyết định sự thành công cũng như
tính bền vững của hoạt động này trên các
phương diện kinh tế, văn hóa và môi trường.
chỉ giới hạn trong một số nghiên cứu,
những thảo luận trong bài viết này thể
được sử dụng như nguồn liệu tham khảo
cho việc xây dựng chiến lược, chính sách
phát triển hoạt động DLCĐ nước ta, đặc
biệt khu vực vùng DTTS. Như nhiều học
giả đã chỉ ra, nếu hoạt động này được vận
hành đúng đắn, sự tham gia bình đẳng,
tích cực của các bên liên quan, tác động tích
cực của sẽ không chỉ trong phạm vi kinh
tế, cả dưới phương diện văn hóa, hội
môi trường. Đây điều kiện tiên quyết
cho mục tiêu phát triển bền vững.
Chú thích
2
Bài viết này sản phẩm của Đề tài “Giải pháp xây
dựng tổng thể sản phẩm điểm đến du lịch gắn với
khai thác tối ưu các giá trị của Giang trong phát
triển du lịch bền vững, Mã số: ĐTXH.HG-06/18.
Tài liệu tham khảo
[1] Quỹ Châu Á, Viện Nghiên cứu phát triển ngành
nghề nông thôn Việt Nam (2012), Tài liệu hướng
dẫn phát triển du lịch cộng đồng, Hà Nội.
[2] ASEAN (2016), ASEAN community - based
tourism, Secretariat, Jakarta.
[3] Ashley.C (2006), How can governments boost
the local economic impacts of tourism?, Options
and Tools, ODI, London, The UK and SNV, The
Hague the Netherlands.
[4] Brohman.J (1996), “New Directions in Tourism
for the Third World”, Annals of Tourism
Research, Vol.23, No.1.
[5] David Harrison, Steven Schipani (2007), “Lao
lOMoARcPSD| 60826700
Nguyễn Công Thảo, Nguyễn Thị Thanh Bình
Tourism and Poverty Alleviation:
CommunityBased”, Tourism and the Private
Sector, Vol.10, No.2-3.
[6] David Weaver, Laura Lawton (2009), Tourism
Management, Wiley Publisher, CA (USA).
[7] Harold Goodwin and Rosa Santilli (2009),
“Community based tourism: a success?”, IRCT
occasional paper 11, Vol.37, No.1.
[8] Kontogeorgopoulos. N (2005), “Community
based ecotourism in Phuket and Ao Phangnha
Thailand: partial victories and bittersweet
remedies”, Journal of Sustain able Tourism,
Vol.13.
[9] Kontogeorgopoulos. N, Anuwat Churyen,
Varaphorn Duangsaeng (2013), “Success
Factors in Community-Based Tourism in
Thailand: The Role of Luck, External Support,
and Local Leadership”, Tourism Planning &
Development, Vol.11, No.1.
[10] Lisa Hiwasaki (2006), “Community-Based
Tourism: A Pathway to Sustainability for Japan's
Protected Areas”, Society & Natural Resources
An International Journal, Vol.19, No. 8.
[11] Maureen Greed (1997), “Power relations and
community - based tourism planning”, Annals of
Tourism Research, Vol.24, No.3.
[12] McIntosh, R., Goeldner, C. (1990), Tourism:
Principles, Practices, Philosophies (6th ed.),
John Wiley & Sons, Inc, New York.
[13] Nicole Hausler and Wolfang Strasdas (2000),
Community - based Sustainable Tourism: A
Reader, ASSET Press.
[14] Reid. D (2003), Tourism, globalisation and
development: responsible tourism planning,
Pluto Press, London (UK).
[15] Rozemeijer. N (2001), Community - based
tourism in Botswana: the SNV experience in
three community based tourism projects,
SNV/IUCN CBNRM support programme,
Botswana.
[16] Russell. P. (2000), “Community - based
tourism”, Travel & Tourism Analyst, No.5.
[17] Scheyvens. R (2002), “Case study: ecotourism
and empowerment of local communities”,
Tourism Management, Vol.20, No.2.
[18] Sharon Harwood (2010), “Planning for
community - based tourism in a remote
location”, Sustainability, Vol.2.
[19] Tomás López - Guzmán, Sandra
SánchezCañizares, Víctor Pavón (2011),
Communitybased tourism in developing
country: a case study, Journal of Tourism,
Volume 6, No. 1.
[20] Zebu E.H. & Bush M.L. (1990), “Park-People
relationships: an international review,
Landscape and Urban Planning, Vol.19.
[21] Wheeller. B (1992), “Is progressive tourism
appropriate?”, Tourism Management, Vol.13,
No.1. [22]
http://www.widecast.org/Resources/Docs/
WWF_2001_Community_Based_Ecotourism_
Develop.pdf

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60826700
Du lịch cộng đồng trên thế giới:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Nguyễn Công Thảo1, Nguyễn Thị Thanh Bình1
1 Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Email: writervn@yahoo.com
Nhận ngày 5 tháng 5 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 17 tháng 6 năm 2019.
Tóm tắt: Bài viết này giới thiệu một số quan điểm căn bản về du lịch cộng đồng của các học giả trên
thế giới. Ba nội dung chính được thảo luận bao gồm: khái niệm, nguồn lực và phương thức triển khai
hoạt động du lịch cộng đồng, cũng như tính bền vững của loại hình du lịch này. Kết quả tổng quan
cho thấy, sự tham gia của người dân địa phương là yếu tố quan trọng, quyết định sự thành công cũng
như tính bền vững của hoạt động này trên các phương diện kinh tế, văn hóa và môi trường.
Từ khóa: Du lịch cộng đồng, người dân địa phương, thế giới.
Phân loại ngành: Dân tộc học
Abstract: This article introduces some fundamental views about community-based tourism by
scholars in the world. The three main contents discussed include the concept, resources and methods
of implementing community-based tourism activities, as well as the sustainability of the type of
tourism. The overall results show that the participation of local people is an important factor,
determining the success and sustainability of the activities from the economic, cultural and environmental perspectives.
Keywords: Community-based tourism, local people, the world.
Subject classification: Ethnology
nhiên, cho đến nay, việc xây dựng chiến lược
quốc gia nhằm thúc đẩy quá trình phát triển
có hệ thống, hiệu quả, bền vững cho hoạt 1. Đặt vấn đề
động DLCĐ vẫn chưa được hoàn thiện. Hầu
hết các mô hình hoặc hoạt động tự phát hoặc
Du lịch cộng đồng (DLCĐ) bắt đầu phát do địa phương hay các tổ chức quốc tế hỗ trợ,
triển mạnh ở nước ta từ đầu những năm mang tầm ngắn hạn và khó có thể triển khai
2000. Đây là loại hình hoạt động phù hợp với ở phạm vi rộng. Bài viết này2 giới thiệu
điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội của đất DLCĐ trên thế giới, bao gồm: khái niệm; sự
nước cũng như xu thế lựa chọn của nhiều phát triển hoạt động DLCĐ; và tính bền
khách du lịch trong và ngoài nước. Tuy vững của loại hình du lịch này. lOMoAR cPSD| 60826700
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
2. Khái niệm du lịch cộng đồng
hoạt động hỗ trợ sinh kế bền vững, duy trì và
bảo vệ các truyền thống văn hóa xã hội có
DLCĐ được xuất hiện từ những năm 1970 giá trị, cũng như các nguồn tài nguyên thiên
và cho đến nay đã phát triển phổ biến ở hầu nhiên [2]. Theo đó, DLCĐ được cho là phải
hết các châu lục, đặc biệt là ở khu vực nông đạt được 10 tiêu chí sau: (1) Trao quyền và
thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số có sự tham gia của cộng đồng nhằm đảm bảo
(DTTS) ở Châu Phi, khu vực Mỹ Latinh và nền quản trị và quyền sở hữu minh bạch; (2)
Châu Á. Rozemeijer định nghĩa DLCĐ là Thiết lập quan hệ hợp tác với các bên liên
hoạt động du lịch được sở hữu, khởi xướng quan; (3) Đạt được sự thừa nhận đúng đắn từ
bằng một hay vài cộng đồng địa phương, có phía cơ quan chức năng có thẩm quyền; (4)
sự liên kết với khối tư nhân nhằm tận dụng Cải thiện điều kiện kinh tế cũng như các giá
nguồn tài nguyên tự nhiên cũng như văn hóa trị nhân văn; (5) Duy trì cơ chế chia sẻ lợi ích
một cách bền vững để thu hút khách du lịch, minh bạch, công bằng; (6) Tăng cường gắn
tăng thu nhập và cải thiện sinh kế [15]. kết nền kinh tế khu vực và địa phương; (7)
Ashley.C cho rằng, DLCĐ chủ yếu là loại Tôn trọng truyền thống và văn hóa địa
hình du lịch ở quy mô nhỏ và song hành phương; (8) Góp phần bảo tồn tự nhiên; (9)
hướng đến cả mục đích phát triển kinh tế và Cải thiện chất lượng trải nghiệm cho khách
phát triển xã hội [3]. Ở một cách nhìn khá du lịch thông qua việc thúc đẩy sự tương tác
tương đồng, Goodwin and Santilli quan niệm giữa khách và chủ; (10) Hướng tới tự chủ về
DLCĐ là hoạt động du lịch được sở hữu hoặc tài chính.
quản lý bởi cộng đồng nhằm tạo ra lợi ích
Có thể thấy, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong
lớn lao hơn cho cộng đồng [7, tr.1-37]. Quỹ các cách nhìn về DLCĐ là việc thừa nhận sự
Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên cho rằng, DLCĐ tham gia chủ động của cộng đồng địa
là hoạt động “mà ở đó cộng đồng địa phương phương là điều kiện tiên quyết, là bản sắc tạo
trực tiếp tham gia và nắm vai trò quan trọng ra sự khác biệt với các loại hình du lịch khác.
trong việc quản lý và phát triển. Phần lớn lợi Về tổng thể, hoạt động DLCĐ phải từ cộng
ích thu được thuộc về cộng đồng” [22]. đồng, do cộng đồng và vì cộng đồng.
Hausle và Strasdas khẳng định DLCĐ ngoài
ý nghĩa là loại hình du lịch có sự tham gia
tích cực, chủ động của người dân vào mọi 3. Phát triển hoạt động du lịch cộng đồng
mắt xích, còn trực tiếp đóng góp vào phát
triển kinh tế cho người dân và cho cả địa 3.1. Các giá trị có thể khai thác
phương [13]. Theo quan điểm được đưa ra
trong bộ “Tiêu chuẩn về du lịch cộng đồng” Theo Quỹ Châu Á, DLCĐ thường diễn ra
được các quốc gia Đông Nam Á đồng thuận dưới các hình thức sau: (1) Du lịch sinh thái;
năm 2016, DLCĐ là hình thức du lịch được (2) Du lịch văn hóa; (3) Du lịch nông nghiệp;
sở hữu, vận hành, điều phối và quản lý bởi (4) Du lịch bản địa; (5) Du lịch làng. Đối
cộng đồng nhằm hướng tới việc cải thiện tượng tìm đến loại hình DLCĐ thường muốn
điều kiện kinh tế cộng đồng thông qua các tự trải nghiệm đời sống văn hóa, nhịp sống lOMoAR cPSD| 60826700
Nguyễn Công Thảo, Nguyễn Thị Thanh Bình
thường ngày, môi trường tự nhiên hoang sơ Ý thức tốt về bảo vệ môi trường; (4) Sự bền
[1]. Vì lẽ đó, bản sắc văn hóa tộc người và chặt của quan hệ hợp tác giữa các bên liên
điều kiện cũng như cảnh quan sinh thái địa quan [10]. Đây là 4 yếu tố quan trọng, có thể
phương là hai trong nhiều giá trị quan trọng áp dụng, nhân rộng ở các địa bàn khác. Trong
có thể khai thác trong hoạt động DLCĐ [4, một nghiên cứu ở bản Mae Kampong nằm ở
tr.48-70]. Mỗi cộng đồng, dân tộc thường có phía Bắc Chiang Mai, nơi hoạt động DLCĐ
bản sắc riêng và đây là tiền đề, điểm tựa để cực kỳ phát triển và được biết đến ở bình
phát triển DLCĐ bởi khách du lịch luôn có diện quốc gia, các tác giả đã chỉ ra 3 nhân tố
tâm thế muốn trải nghiệm những điều mới đóng vai trò quan trọng trong thành công của
mẻ, khác với trải nghiệm thường ngày của họ mô hình DLCĐ ở đây, bao gồm: (1) Các điều
[16, tr.89-116]. Lựa chọn này còn đem lại kiện tự nhiên, địa lý thuận lợi; (2) Sự hỗ trợ
cảm giác “về nguồn”, quay trở lại lịch sử cho hiệu quả từ bên ngoài; (3) Sự đổi mới trong
du khách [11, tr.566-591]. Khác với loại hình quản lý [8, tr.4-23], [9].
du lịch giải trí thông thường, khách du lịch
Theo Goodwin và Rosa Santilli, để đạt
với mục đích tìm hiểu bản sắc văn hóa được hiệu quả bền vững, các thành phần
thường có nhu cầu thu thập kiến thức một chính tham gia vào hoạt động DLCĐ cần bao
cách hệ thống, sâu về văn hóa của một cộng gồm: Cộng đồng địa phương, trực tiếp là các
đồng, dân tộc nào đó. Chính vì thế, họ hộ dân sống trong khu vực triển khai hoạt
thường định kỳ đi thăm với sự lựa chọn địa động DLCĐ, những người cam kết tham gia
điểm có chủ đích thay vì ngẫu nhiên và điều vào hoạt động này. Họ vừa là người sở hữu,
đó dẫn đến sự ra đời của khái niệm du lịch vận hành, quản lý và thụ hưởng phần lợi ích
văn hóa [12]. Vai trò của cộng đồng địa quan trọng thu được từ hoạt động DLCĐ;
phương nhờ đó hết sức quan trọng bởi họ là doanh nghiệp, công ty du lịch trong tiếp cận
đối tượng trực tiếp trình diễn, chia sẻ, diễn thị trường, tìm hiểu và tìm kiếm khách hàng,
giải các giá trị văn hóa ấy cho du khách.
tổ chức, cung cấp vốn đầu tư và các dịch vụ
làm cầu nối đưa du khách đến các điểm du
3.2. Sự tham gia của các bên liên quan
lịch; chính quyền địa phương đóng vai trò
trung gian, giữa các doanh nghiệp, công ty
DLCĐ cần phải kết hợp 3 yếu tố để có thể du lịch với cộng đồng địa phương và có thể
vận hành một cách hiệu quả, bền vững: (1) đưa ra phán quyết phân xử khi có tranh chấp.
sự hỗ trợ và tham gia của người địa phương; Đây cũng là nơi có thể cung cấp các nguồn
(2) Bảo vệ bản sắc văn hóa của người dân lực bổ sung quan trọng cho việc cải tạo, nâng
cũng như môi trường sở tại; (3) Lợi ích cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt
hướng tối đa đến người dân địa phương [16, động DLCĐ; các tổ chức phát triển có vai trò
tr.89-116]. Sau khi tiến hành nghiên cứu hoạt hỗ trợ về mặt nâng cao năng lực, kỹ năng làm
động du lịch ở 3 công viên quốc gia của Nhật du lịch cho cộng đồng và một phần nhỏ về
Bản, Hiwasaki chỉ ra 4 nhân tố dẫn đến sự mặt tài chính, giúp cộng đồng có đủ năng lực
thành công ở đây bao gồm: (1) Sắp xếp về tổ để tham gia vào DLCĐ ở giai đoạn đầu;
chức; (2) Nội quy liên quan đến bảo tồn; (3) truyền thông góp phần quảng bá sản phẩm lOMoAR cPSD| 60826700
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
du lịch, cung cấp những thông tin căn bản đến các DTTS, dưới nhiều màu sắc khác
ban đầu cho thị trường; khách du lịch đóng nhau, cả tích cực và tiêu cực [6]. Dưới góc
vai trò quyết định đến sự tăng trưởng, bền độ kinh tế, mô hình DLCĐ sẽ góp phần tăng
vững của hoạt động DLCĐ [7].
cường các thể chế để thúc đẩy sự tham gia
Tiếp cận dưới lăng kính lập kế hoạch, của cộng đồng địa phương và thúc đẩy phát
Reid cho rằng để hoạt động DLCĐ hiệu quả, triển kinh tế. Nó cũng hướng đến việc đưa ra
bền vững, người dân địa phương cần được cách tiếp cận hài hòa, điều tiết trong phát
tham gia ngay từ khâu lập kế hoạch và điều triển thông qua nhấn mạnh việc cần lưu tâm
này giúp cho việc xác định các điểm du lịch, đảm bảo sự hòa hợp, tương thích giữa các mô
mức độ tổ chức, phát triển du lịch [14]. Chỉ hình phát triển với các yếu tố khác của nền
khi những quyết định này được đưa ra bởi kinh tế địa phương; chất lượng của phát triển
cộng đồng, họ mới thực sự sở hữu, quản lý dưới khía cạnh văn hóa và môi trường [4,
và vận hành hoạt động du lịch trên mảnh đất tr.48-70]. Tuy nhiên, việc xác định các hộ của mình.
gia đình và cộng đồng địa phương có được
Quan điểm của Reid được củng cố qua hưởng lợi và sinh kế của họ có được cải thiện
nghiên cứu trường hợp của Harwood ở West hay không từ DLCĐ, chỉ có thể nhận diện
Papua. Harwood đặc biệt nhấn mạnh cách được khi chi phí dành cho việc khởi xướng
tiếp cận dựa trên cộng đồng và lãnh thổ cho hoạt động này ít hơn nhiều so với lợi ích tổng
việc lập kế hoạch phát triển DLCĐ, đặc biệt thể thu được. Điều này đặc biệt có ý nghĩa
cần thiết ở các khu vực hẻo lánh nơi mật độ khi những nhóm nghèo thường e ngại từ bỏ
dân số thấp, có nhiều nhóm địa phương khác các hoạt động tự cung tự cấp quen thuộc để
nhau và ảnh hưởng của luật tục địa phương tham gia vào hoạt động mới mẻ này bởi họ
vẫn còn rõ nét trong việc quản lý tài nguyên thiếu nguồn lực và e ngại rủi do [4, tr.48-70].
thiên nhiên. Sự tham gia của cộng đồng địa
Phân hóa giàu nghèo có thể là những hệ
phương được thừa nhận đảm bảo cho tính lụy không mong muốn khi phát triển DLCĐ
bền vững của hoạt động du lịch [18, tr.1909- do có sự khác biệt về điều kiện kinh tế, trình 1923].
độ nhận thức, khả năng tiếp cận với nguồn
lực khác nhau giữa các nhóm tộc người; giữa
các hộ trong cùng một tộc người. Điều đó có 4.
Tính bền vững của hoạt động du
thể dẫn đến tâm thế tham gia khác nhau, dẫn lịch cộng đồng
đến việc hưởng lợi không bình đẳng giữa các
hộ dân trong cùng 1 làng, bản. Chính vì thế,
Weaver và Lawson cho rằng, hoạt động mối quan hệ quyền lực giữa các bên liên
DLCĐ chỉ có thể hiệu quả, bền vững khi quan trong việc vận hành DLCĐ cũng là một
đồng thời đảm bảo được ba mục tiêu: (1) vấn đề cần được làm rõ và đồng thuận ngay
Kinh tế bền vững; (2) Văn hóa, xã hội bền từ khi xây dựng dự án [11, tr.566-591]. Mục
vững; (3) Môi trường bền vững. Hoạt động đích cuối cùng của DLCĐ là hướng tới việc
DLCĐ giống như nhiều hoạt động kinh tế nâng cao năng lực cho cộng đồng địa phương
khác, dĩ nhiên có những tác động nhất định ở 4 cấp độ: kinh tế, tâm lý, xã hội và chính lOMoAR cPSD| 60826700
Nguyễn Công Thảo, Nguyễn Thị Thanh Bình
trị [17, tr.59-62]. Đây được cho là chuỗi giá người tới mạng lưới rộng hơn. Điều này giúp
trị mà DLCĐ đem lại cho người dân: ban đầu các cộng đồng thiểu số có thêm nguồn lực tài
là cải thiện sinh kế và mức cao nhất là cải chính, động cơ lưu giữ, bảo tồn các giá trị,
thiện địa vị chính trị. Bên cạnh đó, sự phát thực hành văn hóa của mình. Đây là thực tế
triển của DLCĐ một phần xuất phát từ nhu đã được chứng minh ở nhiều nước trong khu
cầu bảo tồn tự nhiên. Các nhà hoạt động môi vực như Trung Quốc, Thái Lan, Lào,
trường nhận thức được rằng, khó có thể duy Indonesia hay nhiều nước ở Châu Phi
trì các khu bảo tồn nếu không có sự hỗ trợ từ [4, tr.48-70].
các cộng đồng địa phương. Các tổ chức bảo
Dưới phương diện xã hội, DLCĐ tạo việc
tồn nhìn nhận mô hình quản lý tài nguyên làm, tăng thu nhập góp phần xóa đói giảm
dựa vào cộng đồng là một phương thức hữu nghèo cho một bộ phận người DTTS. Hoạt
hiệu. Dưới lăng kính đó, DLCĐ được coi là động này cũng góp phần nâng cao dân trí, kỹ
tạo dựng được lợi ích kép: bảo tồn tự nhiên năng làm thương mại, dịch vụ cho họ, giúp
và phát triển cộng đồng [21, tr.104-105].
họ gắn kết hơn vào dòng chảy của quốc gia
Sử dụng du lịch như là biện pháp kích thay vì sống biệt lập như trước đây. Đây là
thích phát triển kinh tế, giảm nghèo được lựa chọn tối ưu, giúp các DTTS tận dụng
thúc đẩy từ những năm 1970 và gần đây có nguồn lực tại chỗ của mình để tạo ra thu
khuynh hướng chuyển trọng tâm sang mô nhập, hợp tác, giao lưu với các tộc người
hình du lịch sinh thái, du lịch giảm nghèo và khác, các nhóm đến từ nền văn hóa khác.
DLCĐ. Quá trình này thể hiện khá rõ nét ở Biên giới văn hóa, tộc người của họ nhờ đó
Lào, nơi mà khách du lịch quốc tế cung cấp sẽ được mở rộng hơn, vị thế xã hội sẽ được
một nguồn ngoại tệ quan trọng, có ảnh nâng cao hơn. Nhờ quá trình này, khoảng
hưởng đến tỷ giá tiền tệ, tình hình việc làm cách về trình độ phát triển kinh tế, năng lực
và thậm chí là chiến lược giảm nghèo của hội nhập, tham gia dòng chảy phát triển quốc
chính phủ. DLCĐ từ đầu những năm 2000 đã gia, khu vực của các DTTS sẽ được nâng
có ảnh hưởng lớn đến việc quốc gia này nhận cao. Mức độ phụ thuộc vào sản xuất nông
tài trợ để phát triển cơ sở hạ tầng từ nhiều tổ nghiệp trong cơ cấu thu nhập của họ sẽ từng
chức quốc tế. Dự án Nam Ha là một trong bước được giảm bớt nhờ việc đa dạng hóa
những minh họa rõ nét cho việc DLCĐ đóng nguồn thu nhập từ thương mại, dịch vụ phục
góp như thế nào vào xóa đói, giảm nghèo; vụ khách du lịch. Ngoài ra, vai trò của DLCĐ
phát triển vốn văn hóa, tài chính; sự phát không chỉ thể hiện trong lĩnh vực giảm
triển của khối doanh nghiệp tư nhân [5].
nghèo, phát triển kinh tế mà còn có đóng góp
Dưới phương diện văn hóa, trong quá quan trọng trong tạo việc làm, nâng cao vị
trình phát triển hiện nay, văn hóa của các thế của nữ giới, cải thiện điều kiện vệ sinh
DTTS có xu thế mai một dưới tác động của môi trường và chất lượng chăm sóc y tế như
nhiều yếu tố: hỗn cư, di dân, đô thị hóa, toàn một nghiên cứu ở El
cầu hóa. Thúc đẩy DLCĐ sẽ góp phần Salvador đã chỉ ra [19, tr.69-84].
thương mại hóa các sản phẩm văn hóa, giới
Dưới phương diện môi trường, hoạt động
thiệu các giá trị văn hóa địa phương, tộc DLCĐ cũng góp phần bảo vệ môi trường tự lOMoAR cPSD| 60826700
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
nhiên, đặc biệt là rừng. Hầu hết các DTTS ở phương diện kinh tế, văn hóa và môi trường.
nước ta sinh sống dựa vào sản xuất nông Dù chỉ giới hạn trong một số nghiên cứu,
nghiệp. Việc thiếu đất sản xuất như nhiều những thảo luận trong bài viết này có thể
báo cáo đã chỉ ra là nguyên nhân chính dẫn được sử dụng như nguồn tư liệu tham khảo
đến tình trạng canh tác trái phép trên đất cho việc xây dựng chiến lược, chính sách
rừng, phá rừng, khai thác lâm, hải sản, tài phát triển hoạt động DLCĐ ở nước ta, đặc
nguyên khoáng sản trái phép. Hoạt động biệt ở khu vực vùng DTTS. Như nhiều học
DLCĐ thông qua mô hình du lịch sinh thái, giả đã chỉ ra, nếu hoạt động này được vận
du lịch mạo hiểm một khi được triển khai sẽ hành đúng đắn, có sự tham gia bình đẳng,
giúp người dân địa phương nhận thức tốt hơn tích cực của các bên liên quan, tác động tích
về giá trị của rừng và qua đó từng bước hạn cực của nó sẽ không chỉ trong phạm vi kinh
chế nạn phá rừng trái phép [20, tr.117-31]. tế, mà cả dưới phương diện văn hóa, xã hội
và môi trường. Đây là điều kiện tiên quyết
cho mục tiêu phát triển bền vững. 5. Kết luận
Mặc dù thừa nhận DLCĐ là một hướng đi Chú thích
bền vững, góp phần cải thiện sinh kế cho các
cộng đồng địa phương cũng như bảo vệ thiên 2 Bài viết này là sản phẩm của Đề tài “Giải pháp xây
nhiên, không ít nghiên cứu đã chỉ ra rằng mô dựng tổng thể sản phẩm và điểm đến du lịch gắn với
hình du lịch này chưa thực sự thành công như khai thác tối ưu các giá trị của Hà Giang trong phát
kỳ vọng ở nhiều nơi. Có quan ngại cho rằng, triển du lịch bền vững”, Mã số: ĐTXH.HG-06/18.
liệu người dân địa phương có nhận được lợi
ích tương xứng với những gì họ cống hiến
hay phần lớn lợi ích từ loại hình du lịch này Tài liệu tham khảo
rơi vào các nhóm khác và liệu loại hình này
có tồn tại bền vững trong tương lai [21, [1] Quỹ Châu Á, Viện Nghiên cứu phát triển ngành
tr.104-105]. Quan ngại này được Scheyvens
nghề nông thôn Việt Nam (2012), Tài liệu hướng
ủng hộ khi cho rằng, hầu hết các hoạt động
dẫn phát triển du lịch cộng đồng, Hà Nội.
DLCĐ được chủ động khởi xướng bởi các [2] ASEAN (2016), ASEAN community - based
mạng lưới, tổ chức bên ngoài chứ không phải
tourism, Secretariat, Jakarta.
bản thân người dân địa phương và vì thế các [3] Ashley.C (2006), How can governments boost
nhóm địa phương thường tham gia với tâm
the local economic impacts of tourism?, Options
thế bị động và là nhóm hưởng lợi thứ yếu
and Tools, ODI, London, The UK and SNV, The [17, tr.59-62]. Hague the Netherlands.
Kết quả tổng quan cho thấy, sự tham gia [4] Brohman.J (1996), “New Directions in Tourism
của người dân địa phương là yếu tố quan
for the Third World”, Annals of Tourism
trọng, quyết định sự thành công cũng như
Research, Vol.23, No.1.
tính bền vững của hoạt động này trên các [5] David Harrison, Steven Schipani (2007), “Lao lOMoAR cPSD| 60826700
Nguyễn Công Thảo, Nguyễn Thị Thanh Bình Tourism and Poverty
Alleviation: [15] Rozemeijer. N (2001), Community - based
CommunityBased”, Tourism and the Private
tourism in Botswana: the SNV experience in
Sector, Vol.10, No.2-3.
three community based tourism projects,
[6] David Weaver, Laura Lawton (2009), Tourism
SNV/IUCN CBNRM support programme,
Management, Wiley Publisher, CA (USA). Botswana.
[7] Harold Goodwin and Rosa Santilli (2009), [16] Russell. P. (2000), “Community - based
“Community based tourism: a success?”, IRCT
tourism”, Travel & Tourism Analyst, No.5.
occasional paper 11, Vol.37, No.1.
[17] Scheyvens. R (2002), “Case study: ecotourism
[8] Kontogeorgopoulos. N (2005), “Community
and empowerment of local communities”,
based ecotourism in Phuket and Ao Phangnha
Tourism Management, Vol.20, No.2.
Thailand: partial victories and bittersweet [18] Sharon Harwood (2010), “Planning for
remedies”, Journal of Sustain able Tourism,
community - based tourism in a remote Vol.13.
location”, Sustainability, Vol.2.
[9] Kontogeorgopoulos. N, Anuwat Churyen, [19] Tomás López - Guzmán, Sandra
Varaphorn Duangsaeng (2013), “Success
SánchezCañizares, Víctor Pavón (2011),
Factors in Community-Based Tourism in
Communitybased tourism in developing
Thailand: The Role of Luck, External Support,
country: a case study, Journal of Tourism,
and Local Leadership”, Tourism Planning & Volume 6, No. 1.
Development, Vol.11, No.1.
[20] Zebu E.H. & Bush M.L. (1990), “Park-People
[10] Lisa Hiwasaki (2006), “Community-Based relationships: an international review,
Tourism: A Pathway to Sustainability for Japan's
Landscape and Urban Planning, Vol.19.
Protected Areas”, Society & Natural Resources [21] Wheeller. B (1992), “Is progressive tourism
An International Journal, Vol.19, No. 8.
appropriate?”, Tourism Management, Vol.13,
[11] Maureen Greed (1997), “Power relations and No.1. [22]
community - based tourism planning”, Annals of
http://www.widecast.org/Resources/Docs/
Tourism Research, Vol.24, No.3.
WWF_2001_Community_Based_Ecotourism_
[12] McIntosh, R., Goeldner, C. (1990), Tourism: Develop.pdf
Principles, Practices, Philosophies (6th ed.),
John Wiley & Sons, Inc, New York.
[13] Nicole Hausler and Wolfang Strasdas (2000),
Community - based Sustainable Tourism: A
Reader,
ASSET Press.
[14] Reid. D (2003), Tourism, globalisation and
development: responsible tourism planning, Pluto Press, London (UK).