Đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ | Tiểu luận Lịch sử Đảng | Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội

Đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ | Tiểu luận Lịch sử Đảng | Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
________________________
BÀI TIỂU LUẬN
Đng l"i qu&n s( c*a Đ,ng C-ng s,n Vi/t Nam
trong chi5n d7ch Đi/n Bi8n Ph*
Tiểu luận k5t thúc môn học: L7ch sử Đ,ng C-ng S,n Vi/t Nam
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Liên
Lớp: Lịch sử đảng tiết 2-3, thứ 4
Người thực hiện: Nguyễn Y Phụng
MSSV: 19001015
Ngành: Hóa dược CLC
Hà N-i, ngày 08 tháng 06 năm 2021
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Nguyễn Thị Liên. Trong
quá trình học tập và tìm hiểu bộ môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, em đã
nhận được sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết của cô. Cô đã
giúp em tích luỹ thêm nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiện hơn
trong cuộc sống. Từ những kiến thức mà cô truyền tải, em đã dần hiểu biết hơn
về Đảng cộng sản Việt Nam nói chung và chiến thắng Điện Biên Phủ nói riêng.
Thông qua bài tiểu luận này, em xin trình bày lại những gì mà mình đã tìm hiểu
về Đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên
Phủ gửi đến cô.
Có lẽ kiến thức là vô hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người luôn
tồn tại những hạn chế nhất định. Do đó, trong quá tình hoàn thành bài tiểu luận,
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân em rất mong nhận được
những góp ý đến từ cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Kính chúc cô sức khoẻ, hạnh phúc thành công trên con đường sự nghiệp giảng
dạy.
MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU...........................................................................................1
B.NỘI DUNG.......................................................................................2
1. Đặc điểm, âm mưu và thủ đoạn của thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ......................................................................................................2
2. Sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhân tố quyết
định đưa đến chiến thắng của nhân dân ta đối với chủ nghĩa thực
dân Pháp ở Đông Dương ..................................................................4
3.Phương châm “đánh chắc tiến chắc”..............................................6
4.Xác định chủ trương tác chiến trong chiến lược Đông Xuân 1953 -
1954...................................................................................................9
C.TỔNG KẾT.....................................................................................13
1
A. MỞ ĐẦU
Cách đây hơn 60 năm, dân tộc ta đã làm nên kỳ tích Điện Biên Phủ, tiêu
diệt tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất trong lịch sử chiến tranh xâm lược
Đông Dương của quân đội viên chinh Pháp và can thiệp Mỹ, buộc đối
phương phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, đưa cuộc kháng chiến vệ quốc kéo dài
suốt 9 năm của nhân dân ta đi đến thắng lợi vẻ vang.
Nghiên cứu đường lối quân sự của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ
(năm 1954) để một lần nữa thấy rõ tầm vóc vĩ đại và những tác động lớn lao
của chiến thắng này đối với tiến trình lịch sử dân tộc cũng như lịch sử nhân
loại suốt hơn nửa thế kỷ qua, làm sáng rõ thêm những giá trị còn tiềm ẩn,
làm sống dậy tinh thần Điện Biên Phủ và rút ra những điều bổ ích cho công
cuộc đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.
Cuốn tiẻu luận “Đường li qu n sự c"a Đảng C%ng sản Việt Nam
trong chi)n d*ch Điện Biên Ph"” được viết và tổng hợp bởi sinh viên Nguyễn Y
Phụng trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia Hà Nội.
2
B.NỘI DUNG
1. Đặc điểm, m mưu và th" đoạn c"a thực d n Pháp và can thiệp Mỹ
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, thực dân Pháp trở lại
xâm lược nước ta một lần nữa. Sau hơn 7 năm (1945 - 1952) tiến hành chiến
tranh xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã mất hàng chục vạn sĩ quan và binh
lính. Thất bại và buộc phải đình chiến ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ tăng cường can
thiệp vào chiến tranh Đông Dương, gánh trên 70% chiến phí, buộc thực dân
Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược, phục vụ cho chiến lược
toàn cầu của Mỹ. Trước những thất bại liên tiếp ở Đông Dương và trước phong
trào đấu tranh ngày càng mạnh của nhân dân Pháp đòi chấm dứt chiến tranh xâm
lược, vấn đề cấp thiết đặt ra cho thực dân Pháp là: Hoặc phải thắng nhanh, hoặc
phải chịu thua, hoặc đề nghị Mỹ nhảy vào thay thế. Chính phủ Pháp chủ trương
xin thêm viện trợ của Mỹ, tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh hòng tìm
lối thoát bằng thắng lợi quân sự.
Chủ trương kế hoạch quân sự của Pháp, Mỹ trong những năm 1953 -1954:
Tháng 5-1953, với sự thỏa thuận của Mỹ, Tướng Hăng-ri Na-va,
Tham mưu trưởng lục quân của khối Bắc Đại Tây Dương được cử
làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương - viên
tướng có nhãn quan chiến lược khá sắc sảo, vừa tới Đông Dương,
Na-va đã phát hiện đồng bằng Bắc Bộ không còn là cái then cửa của
vùng Đông Nam Á nữa. Với những thắng lợi của chiến dịch Đông
Xuân 1952 - 1953, đối phương đã có những căn cứ ở Tây Bắc Việt
Nam và ở Thượng Lào để mượn đường Tây Trường Sơn vu hồi toàn
cõi Đông Dương. Đây chẳng những là tình thế khó khăn đối với
quân viễn chinh Pháp, mà còn là một sự uy hiếp nghiêm trọng đối
với phòng tuyến chống cộng của Mỹ ở Đông Nam châu Á.
Na-va vạch một kế hoạch quân sự của Pháp, Mỹ trong 2 năm (1953
- 1954), hòng chuyển bại thành thắng. Trọng tâm của kế hoạch này
là tổ chức khối chủ lực tác chiến. Kế hoạch tác chiến của Na-va chia
thành 2 bước: Bước 1 (từ thu đông 1953 đến mùa xuân năm 1954),
3
giữ thế phòng ngự chiến lược, tránh quyết chiến ở phía Bắc, thực
hiện tiến công chiến lược ở phía Nam nhằm chiếm đóng vùng tự do
của ta ở Khu 5 (Trung Nam Bộ) và ở Hậu Giang (Nam Bộ). Bước 2
(từ mùa thu năm 1954), sẽ tập trung toàn bộ lực lượng tác chiến trên
chiến trường phía Bắc, giành thắng lợi quyết định. Kế hoạch Na-va
là một kế hoạch chiến lược có quy mô rộng lớn và là cố gắng cuối
cùng của thực dân Pháp trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, buộc
ta phải chấp nhận đàm phán theo ý đồ và những điều kiện do Pháp
định sẵn.
Sau những đòn chủ động tiến công đầu tay bị chặn lại, phát hiện
quân ta chuyển hướng lên Tây bắc, Na-va lập tức đổ quân xuống
Điện Biên Phủ vào ngày 20-11-1953. Tiếp đó, ngày 03-12-1953,
Na-va hạ quyết tâm xây dựng Điện Biên Phủ trở thành một tập đoàn
cứ điểm mạnh, hòng nghiền nát các đại đoàn chủ lực của Việt Minh.
Rõ ràng, Đi/n Bi8n Ph* là nơi thể hi/n ý chí x&m lợc và nỗ l(c
cao nhất, niềm hy vọng lớn nhất c*a th(c d&n Pháp và can thi/p
c*a Mỹ trong tình th5 ngày càng nguy kh"n ở Đông Dơng. Kế
hoạch quân sự Na-va và sự xuất hiện tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ thật sự làmột thách thức lớn đối với cuộc kháng chiến của nhân
dân ta.
4
2. Sự lãnh đạo c"a Đảng và Ch" t*ch Hồ Chí Minh - nh n t quy)t đ*nh
đưa đ)n chi)n thắng c"a nh n d n ta đi với ch" nghĩa thực d n Pháp ở
Đông Dương
Trước âm mưu và cuồng vọng của kẻ thù, trí tuệ, bản lĩnh và sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng ta càng ngời sáng; phương hướng tiến công chiến lược
của Đảng trong Đông Xuân 1953 - 1954, được hoạch định ngay sau chiến
dịch Tây Bắc (cuối năm 1952) và trong suốt quá trình xây dựng triển khai kế
hoạch mới.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II họp từ ngày
25-01 đến ngày 30-01-1953, đã vạch ra phương hướng chiến lược, phương
hướng tác chiến và tư tưởng chỉ đạo tác chiến trong chiến cuộc Đông Xuân
1953 - 1954. Tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản báo cáo
quan trọng, phát triển và cụ thể hóa đường lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và đường lối kháng chiến của Đảng. Người nhấn mạnh hai nhiệm
vụ chủ yếu để đưa kháng chiến đến thắng lợi: Một là, chỉ đạo kháng chiến và
chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến lược. Hai là, phát động
quần chúng phải thực hiện cải cách ruộng đất. Về chính sách ruộng đất, Hội
nghị nêu rõ: “Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là
tối đại đa số trong dân tộc… Muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ
nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế
chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân”(1).
Chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến
lược Nghị quyết (2) Xác định:
Một là, phương hướng chiến lược của ta là: Tránh chỗ mạnh, đánh
chỗ yếu để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng
vùng tự do, tạo điều kiện giải phóng hoàn toàn Bắc Bộ.
Hai là, từ phương hướng chiến lược đó, Trung ương quyết định
phương hướng tác chiến với tinh thần chủ động đáp ứng yêu cầu phát
triển của kháng chiến: Quân đội ta phải đánh địch ở những nơi địch sơ
5
hở, đồng thời phải hoạt động mạnh sau lưng địch; tập trung lực lượng
mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược
mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải
phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó
với ta.
Ba là, cũng tại Hội nghị này, tư tưởng chỉ đạo tác chiến của quân
đội ta một lần nữa được khẳng định: Không chủ quan khinh địch,
không nóng vội, không mạo hiểm, đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc
thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng, không chắc thắng thì kiên
quyết không đánh.
Bốn là, về việc xây dựng củng cố lực lượng vũ trang, Hội nghị xác
định: Ngoài việc tăng cường bộ đội chủ lực và xây dựng bộ đội địa
phương, các vùng tự do và vùng căn cứ du kích cần phải xây dựng
những tổ chức dân quân du kích không thoát ly sản xuất, để đàn áp bọn
phản cách mạng, giữ gìn trị an, bảo vệ lợi ích quần chúng đấu tranh với
địch, phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực; phải phối hợp mặt trận
trước mặt địch với mặt trận sau lưng địch một cách linh hoạt.
Trong giai đoạn tiến công chiến lược cần phải nhận rõ tính chất trường kỳ
của kháng chiến; phải tăng cường công tác chính trị, luôn luôn nâng cao trình
độ chính trị và giác ngộ giai cấp của bộ đội ta; phải luôn xem trọng việc huấn
luyện bộ đội, phải có kế hoạch về việc xây dựng và bổ sung bộ đội; cần tăng
cường và cải thiện dần việc trang bị cho bộ đội, nhất là xây dựng pháo binh.
Có thể nói, những chủ trương chính sách quân sự của Hội nghị Trung ương 4
khóa II của Đảng là sự tổng kết sâu sắc những kinh nghiệm chỉ đạo đấu tranh
vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong những năm kháng
chiến đã qua, vạch phương hướng cho quân và dân ta tiến vững chắc đến
thắng lợi, thể hiện rõ quan điểm, tư tưởng của Đảng về nghệ thuật chỉ đạo
chiến tranh giải phóng ở giai đoạn cuối này, tính chủ động của Đảng ta sẵn
sàng làm thất bại những âm mưu và hành động xâm lược mới của thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ.
6
3. Phương ch m “đánh chắc ti)n chắc”
Ngay từ tháng 1-1953, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị
lần thứ tư khoá II từ ngày 25 tới ngày 30 để đưa ra các quyết sách quan trọng
về cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954. Trong Báo cáo khai
mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích sáng rõ tình hình thế giới và trong
nước, đồng thời đề ra những nhiệm vụ cụ thể trong kháng chiến, kiến quốc.
Cùng với sự khẳng định những mặt tiến bộ của quân đội ta sau những lớp
chỉnh huấn, Bác Hồ cũng đã thẳng thắn phê bình: “Tuy vậy, một số đơn vị
còn mắc những khuyết điểm như: ham đánh to, ăn to, chủ quan khinh địch, tự
kiêu tự mãn, tổ chức quá kềnh càng, chế độ tài chính không chặt chẽ, ham
chuộng hình thức, cán bộ chưa biết thương yêu chiến sĩ như anh em ruột
thịt… Từ nay quân đội ta phải quyết tâm sửa đổi những khuyết điểm ấy”(3).
Trong “chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự”, Người yêu cầu phải làm
10 việc cụ thể, trong đó có: “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân
đội” và “xây dựng pháo binh.”(4)
Cũng tại phiên khai mạc Hội nghị Trung ương bốn khoá II, Tổng Bí thư
Trường Chinh đã trình bày Báo cáo của Trung ương Đảng, trong đó xác định
rõ quan điểm chỉ đạo và phương châm đánh chắc, tiến chắc cho toàn bộ cuộc
tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954: “Về vấn đề chỉ đạo chiến tranh,
phương châm chung của cuộc chiến tranh giải phóng của ta là trường kỳ
kháng chiến tự lực cánh sinh. Ta không chủ quan, khinh địch, không nóng
vội, không mạo hiểm. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết
đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ
quan, mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn.
Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ
có thắng chứ không được bại, vì bại thì hết vốn…
Bởi vậy, về chiến lược, chủ lực của ta phải lấy vận động chiến làm chính,
7
nhưng vận động chiến cơ động, linh hoạt. Dùng vận động chiến cơ động, linh
hoạt tiêu diệt từng miếng một của địch, không phải đánh ào ạt, tiêu diệt luôn
một lượt.”(5)
Như vậy, phương châm tác chiến “đánh chắc, tiến chắc” và “dùng vận
động chiến cơ động, linh hoạt tiêu diệt từng miếng một của địch, không phải
đánh ào ạt, tiêu diệt luôn một lượt” cho toàn bộ chiến cuộc Đông - Xuân
1953-1954 đã được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư
Trường Chinh xác định và chỉ đạo ngay từ đầu năm 1953.
Trước đó, trong “Thư gửi các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh
về kế hoạch đánh địch ở Nghĩa Lộ” ngày 18-12-1952, Tổng Bí thư Trường
Chinh cũng đã nhấn mạnh sự cần thiết phải kiên quyết thực hiện phương
châm “Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc”:
Báo cáo ngày 12 tháng Mười của các anh, đã nhận được. Sau khi Bộ
Chính trị nghiên cứu, trả lời như sau:
“Các đồng chí vẫn nên làm theo tinh thần bức điện ngày 7 tháng Mười của
đồng chí Thận… Tóm lại, dù sao cũng phải chuẩn bị đầy đủ, đánh ăn chắc,
tiến ăn chắc, không đánh thì thôi, đánh thì phải thắng.”(6)
Quan điểm chỉ đạo “đánh ăn chắc, tiến ăn chắc” của Tổng Bí thư Trường
Chinh được hình thành trong suốt quá trình lãnh đạo thực hiện chủ trương
kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ dựa vào sức mình là chính đã
được nêu lên từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trong
tác phẩm - ấn hành năm 1947. Đó là sự Kháng chi)n nhất đ*nh thắng lợi
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình xây dựng và chiến đấu của
quân và dân ta.
Quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Trường Chinh cho chiến cuộc Đông
Xuân 1953-1954: “đánh ăn chắc, tiến ăn chắc” và “dùng vận động chiến cơ
động, linh hoạt tiêu diệt từng miếng một của địch, không phải đánh ào ạt, tiêu
8
diệt luôn một lượt” chính là hệ quả logic của quá trình tổng kết thực tiễn
chiến đấu thành công và chưa thành công của quân đội ta qua các chiến dịch.
Đồng thời, đó cũng là sự khái quát lý luận quân sự cách mạng Việt Nam trên
cơ sở kế thừa di sản tư tưởng quân sự độc đáo của dân tộc như “dĩ đoạn binh,
chế trường trận” (Trần Quốc Tuấn), “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”
(Nguyễn Trãi), v.v. kết hợp với tham khảo kinh nghiệm quốc tế, vận dụng
sáng tạo phù hợp với điều kiện “chiến trường của ta hẹp, người của ta không
nhiều.”
Về vai trò lãnh đạo và chỉ đạo công tác quân sự của Tổng Bí thư Trường
Chinh trong kháng chiến chống Pháp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng
định: “Bác Hồ là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng đề ra
đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về lý luận với cuốn Kháng chiến nhất định
thắng lợi, là do anh Trường Chinh. Trên cương vị Tổng Bí thư, anh Trường
Chinh không chỉ chú trọng chỉ đạo những công tác chung mà còn rất coi
trọng chỉ đạo công tác quân sự. Có nhiều hội nghị quân sự anh Trường Chinh
trực tiếp chủ trì với cương vị thay mặt Ban Chấp hành Trung ương lúc bấy
giờ.”(7)
9
4. Xác đ*nh ch" trương tác chi)n trong chi)n lược Đông Xu n 1953 -
1954
Tháng 9-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp dưới sự chủ tọa của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định phương hướng chiến lược đúng đắn do
Hội nghị Trung ương 4 Đảng đề ra từ đầu năm 1953. Bộ Chính trị đã phê
chuẩn phương án tác chiến do Tổng quân ủy trình bày với hướng tiến công
chiến lược: Tây Bắc Việt Nam, Tây Nguyên và vùng Trung - Hạ Lào là
những nơi địch yếu nhưng chúng không thể bỏ. Đưa bộ đội chủ lực lên
hướng đó, tuy có nhiều khó khăn về tiếp tế, vận tải nhưng ta buộc địch phải
phân tán lực lượng để đối phó, tranh thủ tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đẩy
mạnh hoạt động ở vùng sau lưng địch, tạo điều kiện giải phóng đồng bằng
Bắc Bộ mà không phải đưa lực lượng đánh vào đồng bằng.
Bộ Chính trị đề ra phương châm hoạt động cho bộ đội ta là: Tích cực, chủ
động, cơ động, linh hoạt, sẵn sàng đánh địch trong mọi tình huống.
Tháng 01-1953, bộ đội ta tiến lên Tây Bắc nhằm tiêu diệt địch, giải phóng
Lai Châu, vượt biên giới Việt Nam - Lào, phối hợp với Quân giải phóng Pa-
thét Lào đánh địch ở Trung - Hạ Lào.
Bị uy hiếp ở chỗ sở hở nhất, ngày 20-11-1953, Na-va cho đổ quân xuống
Điện Biên Phủ, chủ lực ta được lệnh bao vây Điện Biên Phủ. Ngày 03-12-
1953, Na-va quyết định tiếp nhận cuộc chiến tại Điện Biên Phủ, tập trung xây
dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có ở Đông
Dương.
Ngày 06-12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến
dịch chiến lược Điện Biên Phủ. Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ được
thành lập do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng, kiêm Bí thư
Đảng ủy mặt trận.
10
Đảng chỉ đạo các mặt trận khác trong cả nước cùng tích cực hoạt động
phối hợp, nhân dân cả nước hăng hái phục vụ chiến dịch. Nhân dịp kỷ niệm
lần thứ chín Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1953), Chủ
tịch Hồ Chí Minh quyết định: “cho mỗi Đại đoàn và mỗi Liên khu một lá cờ
“Quyết chiến, quyết thắng” để làm giải thưởng luân lưu”(8).
Cùng với cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, Trung ương
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định cho mở chiến dịch ngoại giao.
Tháng 12-1953, báo Nhân dân và Đài Tiếng nói Việt Nam công bố những
câu trả lời phỏng vấn của Hồ Chủ tịch với phóng viên báo Expressen (Thụy
Điển) và bài nói của Người nhân dịp kỷ niệm 7 năm Ngày toàn quốc kháng
chiến. Người tuyên bố: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Chính phủ Pháp
gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu bảy, tám
năm nay chống kẻ xâm lược chính để bảo vệ nền độc lập và quyền tự do
được sống hòa bình… Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong
cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng
cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân
dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”(9).
Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của nhân dân ta tiến đến giai đoạn
quyết định, ngọn cờ hòa bình của Đảng và nhân dân ta giương cao cùng với
ngọn cờ quyết chiến, quyết thắng.
Ngày 06-12-1953, Bộ Chính trị họp xem xét Phương án tác chiến mùa
Xuân năm 1954, do Tổng Quân ủy báo cáo. Tổng Quân ủy dự kiến: Muốn
bảo đảm thực hiện được quyết tâm của Trung ương là tiêu diệt và giải phóng
Lai Châu - Phong Sa Lỳ cho đến Luông Pha Băng (Lào) trong Đông Xuân thì
phải nhìn trường hợp địch tăng cường Điện Biên Phủ thành lập tập đoàn cứ
điểm mà chuẩn bị. Phương án cũng dự kiến, nếu tiến công Điện Biên Phủ,
thời gian có thể kéo dài 45 ngày và nhấn mạnh: Ta có nhiều điều kiện thuận
lợi để thực hiện chủ trương của Trung ương, nhưng đồng thời cũng có nhiều
khó khăn, khó khăn lớn nhất vẫn là vấn đề cung cấp, mà chủ yếu là vấn đề
11
đường sá; có nhiều khó khăn cần ráo riết tập trung lực lượng mới làm kịp,
nhưng nếu kiên quyết khắc phục khó khăn, hoàn thành được chiến dịch thì
thắng lợi này sẽ là một thắng lợi rất lớn.
Ngày 20-12-1953, Bộ Chính trị họp nghe Tổng Quân ủy Trung ương báo
cáo tình hình chiến sự và tình hình Điện Biên Phủ, thông qua chủ trương, kế
hoạch quân sự và chính thức hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ. Như vậy, từ chỗ tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu đến chỗ chọn Điện
Biên Phủ - nơi mạnh nhất của địch lúc đó - để tiêu diệt là một quyết định
đúng đắn, đầy bản lĩnh của Đảng ta, mở ra bước ngoặt quyết định của cuộc
kháng chiến.
Công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ được xúc tiến rất khẩn
trương và dồn dập. Trước lúc các đơn vị bộ đội tham gia chiến dịch Điện
Biên Phủ ra mặt trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư động viên cán bộ, chiến
sĩ mặt trận Điện Biên Phủ (tháng 12-1953) phải: “chiến đấu anh dũng hơn,
chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh”(10).
Ngày 05-01-1954, Sở chỉ huy tiền phương lên đường ra mặt trận, Chủ tịch
Hồ Chí Minh căn dặn Tư lệnh: “Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng,
chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”(11). Thấu triệt quyết
tâm
chiến lược và phương châm đánh chắc thắng của Đảng, căn cứ vào thực tế
chiến trường, sau 11 ngày đêm suy nghĩ, ngày 26-01-1954, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã quyết định chuyển từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang
phương án “đánh chắc, tiến chắc”. Quyết định trên đã được Đảng ủy mặt trận
trao đổi, đồng ý và ngày 30-01- 1954, được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí
thư Trường Chinh và Bộ Chính trị phê chuẩn.
Thực hiện phương châm đánh chắc, tiến chắc trong chiến dịch Điện Biên
Phủ, Trung ương Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm chỉ đạo các ngành,
các địa phương hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến dịch. Trong
tháng 02-1954, Bộ Chính trị đã có những Chỉ thị quan trọng, tập trung cao độ
12
sức mạnh về mọi mặt để hoàn thành mục tiêu của chiến dịch.
Ngày 15-3-1954, tức 2 ngày sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu,
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện động viên các chiến sĩ
ngoài mặt trận: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta
đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng… Ta
phải cố gắng, chiến đấu kéo dài, bền bỉ, chớ chủ quan khinh địch, quyết
giành toàn thắng cho chiến dịch này”(12). Ngày 19-4-1954, Bộ Chính trị ra
Nghị quyết “Về tiếp tục thấu triệt phương châm đánh chắc, đề cao quyết tâm
tích cực giành toàn thắng cho chiến dịch Điện Biên Phủ”.
Những sự kiện nổi bật trên đây cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng là hết sức
toàn diện, sâu sát, đúng đắn và sáng tạo trong cuộc chiến đấu tổng lực với kẻ
thù. Nhờ vậy, Đảng ta đã khơi dậy và nhân lên gấp bội sức mạnh của lòng
quả cảm và ý thức tự giải phóng của dân tộc ta, tạo nên sức mạnh vô địch tại
Điện Biên Phủ, sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố
quyết định đưa đến thắng lợi Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện
Biên Phủ. Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ “được ghi vào lịch sử dân
tộc như một Bạch-đằng, một Chi-lăng, hay một Đống-đa trong thế kỷ 20 và
đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ
thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”(13).
13
C.TỔNG KẾT
Chiến thắng Điện Biên Phủ là tượng đài hùng vĩ của phẩm giá, trí tuệ, bản
lĩnh và tinh thần con người Việt Nam. Điện Biên Phủ tạo nên lực lượng, ý
chí và niềm tin để nhân dân ta đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ, đưa nước ta đi vào kỷ nguyên độc lập, tự do và từng bước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã nâng cao vị thế Việt Nam
trên trường quốc tế. Điện Biên Phủ trở thành biểu tượng sức mạnh Việt Nam
trong thế kỷ XX, có tác động to lớn vào lịch sử nhân loại, cổ vũ các dân tộc
thuộc địa đứng lên đấu tranh thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân,
góp phần làm thay đổi cục diện chính trị thế giới trong thế kỷ XX.
14
PHỤ LỤC
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t. 14, tr. 24
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t. 14, tr. 21 –
23
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 7, tr. 12
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 7, tr.
13,15
(5) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001, t. 14, tr. 59
(6) Trường Chinh: Tuyển tập, I (1937-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2007, tr. 906-907 (đồng chí Hưng là Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
đồng chí Thận là Tổng Bí thư Trường Chinh)
(7) Trường Chinh: Một nhân cách lớn - Một lãnh tụ kiệt xuất của cách mạng
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 31
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t. 7, tr. 196
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t. 7, tr. 168
(10)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t. 7, tr. 198
(11) Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nxb. Thông tấn,
H, 2007, tr. 163
(12) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t. 15, tr. 53
(13) Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa
xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, H, 1976, tr. 55 - 56
| 1/18

Preview text:


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
________________________ BÀI TIỂU LUẬN
Đng l"i qu&n s( c*a Đ,ng C-ng s,n Vi/t Nam
trong chi5n d7ch Đi/n Bi8n Ph*
Tiểu luận k5t thúc môn học: L7ch sử Đ,ng C-ng S,n Vi/t Nam
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Liên
Lớp: Lịch sử đảng tiết 2-3, thứ 4
Người thực hiện: Nguyễn Y Phụng MSSV: 19001015
Ngành: Hóa dược CLC
Hà N-i, ngày 08 tháng 06 năm 2021 LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Nguyễn Thị Liên. Trong
quá trình học tập và tìm hiểu bộ môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, em đã
nhận được sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết của cô. Cô đã
giúp em tích luỹ thêm nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiện hơn
trong cuộc sống. Từ những kiến thức mà cô truyền tải, em đã dần hiểu biết hơn
về Đảng cộng sản Việt Nam nói chung và chiến thắng Điện Biên Phủ nói riêng.
Thông qua bài tiểu luận này, em xin trình bày lại những gì mà mình đã tìm hiểu
về Đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ gửi đến cô.
Có lẽ kiến thức là vô hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người luôn
tồn tại những hạn chế nhất định. Do đó, trong quá tình hoàn thành bài tiểu luận,
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân em rất mong nhận được
những góp ý đến từ cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Kính chúc cô sức khoẻ, hạnh phúc thành công trên con đường sự nghiệp giảng dạy. MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU...........................................................................................1
B.NỘI DUNG.......................................................................................2
1. Đặc điểm, âm mưu và thủ đoạn của thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ......................................................................................................2
2. Sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhân tố quyết
định đưa đến chiến thắng của nhân dân ta đối với chủ nghĩa thực
dân Pháp ở Đông Dương ..................................................................4
3.Phương châm “đánh chắc tiến chắc”..............................................6
4.Xác định chủ trương tác chiến trong chiến lược Đông Xuân 1953 -
1954...................................................................................................9
C.TỔNG KẾT.....................................................................................13 1 A. MỞ ĐẦU
Cách đây hơn 60 năm, dân tộc ta đã làm nên kỳ tích Điện Biên Phủ, tiêu
diệt tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất trong lịch sử chiến tranh xâm lược
Đông Dương của quân đội viên chinh Pháp và can thiệp Mỹ, buộc đối
phương phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, đưa cuộc kháng chiến vệ quốc kéo dài
suốt 9 năm của nhân dân ta đi đến thắng lợi vẻ vang.
Nghiên cứu đường lối quân sự của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ
(năm 1954) để một lần nữa thấy rõ tầm vóc vĩ đại và những tác động lớn lao
của chiến thắng này đối với tiến trình lịch sử dân tộc cũng như lịch sử nhân
loại suốt hơn nửa thế kỷ qua, làm sáng rõ thêm những giá trị còn tiềm ẩn,
làm sống dậy tinh thần Điện Biên Phủ và rút ra những điều bổ ích cho công
cuộc đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.
Cuốn tiẻu luận “Đường li qu n sự c"a Đảng C%ng sản Việt Nam
trong chi)n d*ch Điện Biên Ph"” được viết và tổng hợp bởi sinh viên Nguyễn Y
Phụng trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia Hà Nội. 2 B.NỘI DUNG
1. Đặc điểm, m mưu và th" đoạn c"a thực d n Pháp và can thiệp Mỹ
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, thực dân Pháp trở lại
xâm lược nước ta một lần nữa. Sau hơn 7 năm (1945 - 1952) tiến hành chiến
tranh xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã mất hàng chục vạn sĩ quan và binh
lính. Thất bại và buộc phải đình chiến ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ tăng cường can
thiệp vào chiến tranh Đông Dương, gánh trên 70% chiến phí, buộc thực dân
Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược, phục vụ cho chiến lược
toàn cầu của Mỹ. Trước những thất bại liên tiếp ở Đông Dương và trước phong
trào đấu tranh ngày càng mạnh của nhân dân Pháp đòi chấm dứt chiến tranh xâm
lược, vấn đề cấp thiết đặt ra cho thực dân Pháp là: Hoặc phải thắng nhanh, hoặc
phải chịu thua, hoặc đề nghị Mỹ nhảy vào thay thế. Chính phủ Pháp chủ trương
xin thêm viện trợ của Mỹ, tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh hòng tìm
lối thoát bằng thắng lợi quân sự.
Chủ trương kế hoạch quân sự của Pháp, Mỹ trong những năm 1953 -1954:
Tháng 5-1953, với sự thỏa thuận của Mỹ, Tướng Hăng-ri Na-va,
Tham mưu trưởng lục quân của khối Bắc Đại Tây Dương được cử
làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương - viên
tướng có nhãn quan chiến lược khá sắc sảo, vừa tới Đông Dương,
Na-va đã phát hiện đồng bằng Bắc Bộ không còn là cái then cửa của
vùng Đông Nam Á nữa. Với những thắng lợi của chiến dịch Đông
Xuân 1952 - 1953, đối phương đã có những căn cứ ở Tây Bắc Việt
Nam và ở Thượng Lào để mượn đường Tây Trường Sơn vu hồi toàn
cõi Đông Dương. Đây chẳng những là tình thế khó khăn đối với
quân viễn chinh Pháp, mà còn là một sự uy hiếp nghiêm trọng đối
với phòng tuyến chống cộng của Mỹ ở Đông Nam châu Á.
Na-va vạch một kế hoạch quân sự của Pháp, Mỹ trong 2 năm (1953
- 1954), hòng chuyển bại thành thắng. Trọng tâm của kế hoạch này
là tổ chức khối chủ lực tác chiến. Kế hoạch tác chiến của Na-va chia
thành 2 bước: Bước 1 (từ thu đông 1953 đến mùa xuân năm 1954), 3
giữ thế phòng ngự chiến lược, tránh quyết chiến ở phía Bắc, thực
hiện tiến công chiến lược ở phía Nam nhằm chiếm đóng vùng tự do
của ta ở Khu 5 (Trung Nam Bộ) và ở Hậu Giang (Nam Bộ). Bước 2
(từ mùa thu năm 1954), sẽ tập trung toàn bộ lực lượng tác chiến trên
chiến trường phía Bắc, giành thắng lợi quyết định. Kế hoạch Na-va
là một kế hoạch chiến lược có quy mô rộng lớn và là cố gắng cuối
cùng của thực dân Pháp trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, buộc
ta phải chấp nhận đàm phán theo ý đồ và những điều kiện do Pháp định sẵn.
Sau những đòn chủ động tiến công đầu tay bị chặn lại, phát hiện
quân ta chuyển hướng lên Tây bắc, Na-va lập tức đổ quân xuống
Điện Biên Phủ vào ngày 20-11-1953. Tiếp đó, ngày 03-12-1953,
Na-va hạ quyết tâm xây dựng Điện Biên Phủ trở thành một tập đoàn
cứ điểm mạnh, hòng nghiền nát các đại đoàn chủ lực của Việt Minh.
Rõ ràng, Đi/n Bi8n Ph* là nơi thể hi/n ý chí x&m lợc và nỗ l(c
cao nhất, niềm hy vọng lớn nhất c*a th(c d&n Pháp và can thi/p
c*a Mỹ trong tình th5 ngày càng nguy kh"n ở Đông Dơng
. Kế
hoạch quân sự Na-va và sự xuất hiện tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ thật sự làmột thách thức lớn đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. 4
2. Sự lãnh đạo c"a Đảng và Ch" t*ch Hồ Chí Minh - nh n t quy)t đ*nh
đưa đ)n chi)n thắng c"a nh n d n ta đi với ch" nghĩa thực d n Pháp ở Đông Dương
Trước âm mưu và cuồng vọng của kẻ thù, trí tuệ, bản lĩnh và sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng ta càng ngời sáng; phương hướng tiến công chiến lược
của Đảng trong Đông Xuân 1953 - 1954, được hoạch định ngay sau chiến
dịch Tây Bắc (cuối năm 1952) và trong suốt quá trình xây dựng triển khai kế hoạch mới.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II họp từ ngày
25-01 đến ngày 30-01-1953, đã vạch ra phương hướng chiến lược, phương
hướng tác chiến và tư tưởng chỉ đạo tác chiến trong chiến cuộc Đông Xuân
1953 - 1954. Tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản báo cáo
quan trọng, phát triển và cụ thể hóa đường lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và đường lối kháng chiến của Đảng. Người nhấn mạnh hai nhiệm
vụ chủ yếu để đưa kháng chiến đến thắng lợi: Một là, chỉ đạo kháng chiến và
chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến lược. Hai là, phát động
quần chúng phải thực hiện cải cách ruộng đất. Về chính sách ruộng đất, Hội
nghị nêu rõ: “Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là
tối đại đa số trong dân tộc… Muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ
nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế
chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân”(1).
Chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến
lược Nghị quyết (2) Xác định:
Một là, phương hướng chiến lược của ta là: Tránh chỗ mạnh, đánh
chỗ yếu để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng
vùng tự do, tạo điều kiện giải phóng hoàn toàn Bắc Bộ.
Hai là, từ phương hướng chiến lược đó, Trung ương quyết định
phương hướng tác chiến với tinh thần chủ động đáp ứng yêu cầu phát
triển của kháng chiến: Quân đội ta phải đánh địch ở những nơi địch sơ 5
hở, đồng thời phải hoạt động mạnh sau lưng địch; tập trung lực lượng
mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược
mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải
phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó với ta.
Ba là, cũng tại Hội nghị này, tư tưởng chỉ đạo tác chiến của quân
đội ta một lần nữa được khẳng định: Không chủ quan khinh địch,
không nóng vội, không mạo hiểm, đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc
thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh.
Bốn là, về việc xây dựng củng cố lực lượng vũ trang, Hội nghị xác
định: Ngoài việc tăng cường bộ đội chủ lực và xây dựng bộ đội địa
phương, các vùng tự do và vùng căn cứ du kích cần phải xây dựng
những tổ chức dân quân du kích không thoát ly sản xuất, để đàn áp bọn
phản cách mạng, giữ gìn trị an, bảo vệ lợi ích quần chúng đấu tranh với
địch, phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực; phải phối hợp mặt trận
trước mặt địch với mặt trận sau lưng địch một cách linh hoạt.
Trong giai đoạn tiến công chiến lược cần phải nhận rõ tính chất trường kỳ
của kháng chiến; phải tăng cường công tác chính trị, luôn luôn nâng cao trình
độ chính trị và giác ngộ giai cấp của bộ đội ta; phải luôn xem trọng việc huấn
luyện bộ đội, phải có kế hoạch về việc xây dựng và bổ sung bộ đội; cần tăng
cường và cải thiện dần việc trang bị cho bộ đội, nhất là xây dựng pháo binh.
Có thể nói, những chủ trương chính sách quân sự của Hội nghị Trung ương 4
khóa II của Đảng là sự tổng kết sâu sắc những kinh nghiệm chỉ đạo đấu tranh
vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong những năm kháng
chiến đã qua, vạch phương hướng cho quân và dân ta tiến vững chắc đến
thắng lợi, thể hiện rõ quan điểm, tư tưởng của Đảng về nghệ thuật chỉ đạo
chiến tranh giải phóng ở giai đoạn cuối này, tính chủ động của Đảng ta sẵn
sàng làm thất bại những âm mưu và hành động xâm lược mới của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. 6
3. Phương ch m “đánh chắc ti)n chắc”
Ngay từ tháng 1-1953, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị
lần thứ tư khoá II từ ngày 25 tới ngày 30 để đưa ra các quyết sách quan trọng
về cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954. Trong Báo cáo khai
mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích sáng rõ tình hình thế giới và trong
nước, đồng thời đề ra những nhiệm vụ cụ thể trong kháng chiến, kiến quốc.
Cùng với sự khẳng định những mặt tiến bộ của quân đội ta sau những lớp
chỉnh huấn, Bác Hồ cũng đã thẳng thắn phê bình: “Tuy vậy, một số đơn vị
còn mắc những khuyết điểm như: ham đánh to, ăn to, chủ quan khinh địch, tự
kiêu tự mãn, tổ chức quá kềnh càng, chế độ tài chính không chặt chẽ, ham
chuộng hình thức, cán bộ chưa biết thương yêu chiến sĩ như anh em ruột
thịt… Từ nay quân đội ta phải quyết tâm sửa đổi những khuyết điểm ấy”(3).
Trong “chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự”, Người yêu cầu phải làm
10 việc cụ thể, trong đó có: “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân
đội” và “xây dựng pháo binh.”(4)
Cũng tại phiên khai mạc Hội nghị Trung ương bốn khoá II, Tổng Bí thư
Trường Chinh đã trình bày Báo cáo của Trung ương Đảng, trong đó xác định
rõ quan điểm chỉ đạo và phương châm đánh chắc, tiến chắc cho toàn bộ cuộc
tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954: “Về vấn đề chỉ đạo chiến tranh,
phương châm chung của cuộc chiến tranh giải phóng của ta là trường kỳ
kháng chiến tự lực cánh sinh. Ta không chủ quan, khinh địch, không nóng
vội, không mạo hiểm. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết
đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ
quan, mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn.
Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ
có thắng chứ không được bại, vì bại thì hết vốn…
Bởi vậy, về chiến lược, chủ lực của ta phải lấy vận động chiến làm chính, 7
nhưng vận động chiến cơ động, linh hoạt. Dùng vận động chiến cơ động, linh
hoạt tiêu diệt từng miếng một của địch, không phải đánh ào ạt, tiêu diệt luôn một lượt.”(5)
Như vậy, phương châm tác chiến “đánh chắc, tiến chắc” và “dùng vận
động chiến cơ động, linh hoạt tiêu diệt từng miếng một của địch, không phải
đánh ào ạt, tiêu diệt luôn một lượt” cho toàn bộ chiến cuộc Đông - Xuân
1953-1954 đã được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư
Trường Chinh xác định và chỉ đạo ngay từ đầu năm 1953.
Trước đó, trong “Thư gửi các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh
về kế hoạch đánh địch ở Nghĩa Lộ” ngày 18-12-1952, Tổng Bí thư Trường
Chinh cũng đã nhấn mạnh sự cần thiết phải kiên quyết thực hiện phương
châm “Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc”:
Báo cáo ngày 12 tháng Mười của các anh, đã nhận được. Sau khi Bộ
Chính trị nghiên cứu, trả lời như sau:
“Các đồng chí vẫn nên làm theo tinh thần bức điện ngày 7 tháng Mười của
đồng chí Thận… Tóm lại, dù sao cũng phải chuẩn bị đầy đủ, đánh ăn chắc,
tiến ăn chắc, không đánh thì thôi, đánh thì phải thắng.”(6)
Quan điểm chỉ đạo “đánh ăn chắc, tiến ăn chắc” của Tổng Bí thư Trường
Chinh được hình thành trong suốt quá trình lãnh đạo thực hiện chủ trương
kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ dựa vào sức mình là chính đã
được nêu lên từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trong
tác phẩm Kháng chi)n nhất đ*nh thắng lợi - ấn hành năm 1947. Đó là sự
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình xây dựng và chiến đấu của quân và dân ta.
Quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Trường Chinh cho chiến cuộc Đông
Xuân 1953-1954: “đánh ăn chắc, tiến ăn chắc” và “dùng vận động chiến cơ
động, linh hoạt tiêu diệt từng miếng một của địch, không phải đánh ào ạt, tiêu 8
diệt luôn một lượt” chính là hệ quả logic của quá trình tổng kết thực tiễn
chiến đấu thành công và chưa thành công của quân đội ta qua các chiến dịch.
Đồng thời, đó cũng là sự khái quát lý luận quân sự cách mạng Việt Nam trên
cơ sở kế thừa di sản tư tưởng quân sự độc đáo của dân tộc như “dĩ đoạn binh,
chế trường trận” (Trần Quốc Tuấn), “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”
(Nguyễn Trãi), v.v. kết hợp với tham khảo kinh nghiệm quốc tế, vận dụng
sáng tạo phù hợp với điều kiện “chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều.”
Về vai trò lãnh đạo và chỉ đạo công tác quân sự của Tổng Bí thư Trường
Chinh trong kháng chiến chống Pháp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng
định: “Bác Hồ là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng đề ra
đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về lý luận với cuốn Kháng chiến nhất định
thắng lợi, là do anh Trường Chinh. Trên cương vị Tổng Bí thư, anh Trường
Chinh không chỉ chú trọng chỉ đạo những công tác chung mà còn rất coi
trọng chỉ đạo công tác quân sự. Có nhiều hội nghị quân sự anh Trường Chinh
trực tiếp chủ trì với cương vị thay mặt Ban Chấp hành Trung ương lúc bấy giờ.”(7) 9
4. Xác đ*nh ch" trương tác chi)n trong chi)n lược Đông Xu n 1953 - 1954
Tháng 9-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp dưới sự chủ tọa của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định phương hướng chiến lược đúng đắn do
Hội nghị Trung ương 4 Đảng đề ra từ đầu năm 1953. Bộ Chính trị đã phê
chuẩn phương án tác chiến do Tổng quân ủy trình bày với hướng tiến công
chiến lược: Tây Bắc Việt Nam, Tây Nguyên và vùng Trung - Hạ Lào là
những nơi địch yếu nhưng chúng không thể bỏ. Đưa bộ đội chủ lực lên
hướng đó, tuy có nhiều khó khăn về tiếp tế, vận tải nhưng ta buộc địch phải
phân tán lực lượng để đối phó, tranh thủ tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đẩy
mạnh hoạt động ở vùng sau lưng địch, tạo điều kiện giải phóng đồng bằng
Bắc Bộ mà không phải đưa lực lượng đánh vào đồng bằng.
Bộ Chính trị đề ra phương châm hoạt động cho bộ đội ta là: Tích cực, chủ
động, cơ động, linh hoạt, sẵn sàng đánh địch trong mọi tình huống.
Tháng 01-1953, bộ đội ta tiến lên Tây Bắc nhằm tiêu diệt địch, giải phóng
Lai Châu, vượt biên giới Việt Nam - Lào, phối hợp với Quân giải phóng Pa-
thét Lào đánh địch ở Trung - Hạ Lào.
Bị uy hiếp ở chỗ sở hở nhất, ngày 20-11-1953, Na-va cho đổ quân xuống
Điện Biên Phủ, chủ lực ta được lệnh bao vây Điện Biên Phủ. Ngày 03-12-
1953, Na-va quyết định tiếp nhận cuộc chiến tại Điện Biên Phủ, tập trung xây
dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có ở Đông Dương.
Ngày 06-12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến
dịch chiến lược Điện Biên Phủ. Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ được
thành lập do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng, kiêm Bí thư Đảng ủy mặt trận. 10
Đảng chỉ đạo các mặt trận khác trong cả nước cùng tích cực hoạt động
phối hợp, nhân dân cả nước hăng hái phục vụ chiến dịch. Nhân dịp kỷ niệm
lần thứ chín Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1953), Chủ
tịch Hồ Chí Minh quyết định: “cho mỗi Đại đoàn và mỗi Liên khu một lá cờ
“Quyết chiến, quyết thắng” để làm giải thưởng luân lưu”(8).
Cùng với cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, Trung ương
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định cho mở chiến dịch ngoại giao.
Tháng 12-1953, báo Nhân dân và Đài Tiếng nói Việt Nam công bố những
câu trả lời phỏng vấn của Hồ Chủ tịch với phóng viên báo Expressen (Thụy
Điển) và bài nói của Người nhân dịp kỷ niệm 7 năm Ngày toàn quốc kháng
chiến. Người tuyên bố: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Chính phủ Pháp
gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu bảy, tám
năm nay chống kẻ xâm lược chính để bảo vệ nền độc lập và quyền tự do
được sống hòa bình… Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong
cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng
cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân
dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”(9).
Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của nhân dân ta tiến đến giai đoạn
quyết định, ngọn cờ hòa bình của Đảng và nhân dân ta giương cao cùng với
ngọn cờ quyết chiến, quyết thắng.
Ngày 06-12-1953, Bộ Chính trị họp xem xét Phương án tác chiến mùa
Xuân năm 1954, do Tổng Quân ủy báo cáo. Tổng Quân ủy dự kiến: Muốn
bảo đảm thực hiện được quyết tâm của Trung ương là tiêu diệt và giải phóng
Lai Châu - Phong Sa Lỳ cho đến Luông Pha Băng (Lào) trong Đông Xuân thì
phải nhìn trường hợp địch tăng cường Điện Biên Phủ thành lập tập đoàn cứ
điểm mà chuẩn bị. Phương án cũng dự kiến, nếu tiến công Điện Biên Phủ,
thời gian có thể kéo dài 45 ngày và nhấn mạnh: Ta có nhiều điều kiện thuận
lợi để thực hiện chủ trương của Trung ương, nhưng đồng thời cũng có nhiều
khó khăn, khó khăn lớn nhất vẫn là vấn đề cung cấp, mà chủ yếu là vấn đề 11
đường sá; có nhiều khó khăn cần ráo riết tập trung lực lượng mới làm kịp,
nhưng nếu kiên quyết khắc phục khó khăn, hoàn thành được chiến dịch thì
thắng lợi này sẽ là một thắng lợi rất lớn.
Ngày 20-12-1953, Bộ Chính trị họp nghe Tổng Quân ủy Trung ương báo
cáo tình hình chiến sự và tình hình Điện Biên Phủ, thông qua chủ trương, kế
hoạch quân sự và chính thức hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ. Như vậy, từ chỗ tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu đến chỗ chọn Điện
Biên Phủ - nơi mạnh nhất của địch lúc đó - để tiêu diệt là một quyết định
đúng đắn, đầy bản lĩnh của Đảng ta, mở ra bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến.
Công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ được xúc tiến rất khẩn
trương và dồn dập. Trước lúc các đơn vị bộ đội tham gia chiến dịch Điện
Biên Phủ ra mặt trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư động viên cán bộ, chiến
sĩ mặt trận Điện Biên Phủ (tháng 12-1953) phải: “chiến đấu anh dũng hơn,
chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh”(10).
Ngày 05-01-1954, Sở chỉ huy tiền phương lên đường ra mặt trận, Chủ tịch
Hồ Chí Minh căn dặn Tư lệnh: “Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng,
chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”(11). Thấu triệt quyết tâm
chiến lược và phương châm đánh chắc thắng của Đảng, căn cứ vào thực tế
chiến trường, sau 11 ngày đêm suy nghĩ, ngày 26-01-1954, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã quyết định chuyển từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang
phương án “đánh chắc, tiến chắc”. Quyết định trên đã được Đảng ủy mặt trận
trao đổi, đồng ý và ngày 30-01- 1954, được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí
thư Trường Chinh và Bộ Chính trị phê chuẩn.
Thực hiện phương châm đánh chắc, tiến chắc trong chiến dịch Điện Biên
Phủ, Trung ương Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm chỉ đạo các ngành,
các địa phương hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến dịch. Trong
tháng 02-1954, Bộ Chính trị đã có những Chỉ thị quan trọng, tập trung cao độ 12
sức mạnh về mọi mặt để hoàn thành mục tiêu của chiến dịch.
Ngày 15-3-1954, tức 2 ngày sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu,
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện động viên các chiến sĩ
ngoài mặt trận: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta
đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng… Ta
phải cố gắng, chiến đấu kéo dài, bền bỉ, chớ chủ quan khinh địch, quyết
giành toàn thắng cho chiến dịch này”(12). Ngày 19-4-1954, Bộ Chính trị ra
Nghị quyết “Về tiếp tục thấu triệt phương châm đánh chắc, đề cao quyết tâm
tích cực giành toàn thắng cho chiến dịch Điện Biên Phủ”.
Những sự kiện nổi bật trên đây cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng là hết sức
toàn diện, sâu sát, đúng đắn và sáng tạo trong cuộc chiến đấu tổng lực với kẻ
thù. Nhờ vậy, Đảng ta đã khơi dậy và nhân lên gấp bội sức mạnh của lòng
quả cảm và ý thức tự giải phóng của dân tộc ta, tạo nên sức mạnh vô địch tại
Điện Biên Phủ, sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố
quyết định đưa đến thắng lợi Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện
Biên Phủ. Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ “được ghi vào lịch sử dân
tộc như một Bạch-đằng, một Chi-lăng, hay một Đống-đa trong thế kỷ 20 và
đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ
thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”(13). 13 C.TỔNG KẾT
Chiến thắng Điện Biên Phủ là tượng đài hùng vĩ của phẩm giá, trí tuệ, bản
lĩnh và tinh thần con người Việt Nam. Điện Biên Phủ tạo nên lực lượng, ý
chí và niềm tin để nhân dân ta đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ, đưa nước ta đi vào kỷ nguyên độc lập, tự do và từng bước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã nâng cao vị thế Việt Nam
trên trường quốc tế. Điện Biên Phủ trở thành biểu tượng sức mạnh Việt Nam
trong thế kỷ XX, có tác động to lớn vào lịch sử nhân loại, cổ vũ các dân tộc
thuộc địa đứng lên đấu tranh thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân,
góp phần làm thay đổi cục diện chính trị thế giới trong thế kỷ XX. 14 PHỤ LỤC
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t. 14, tr. 24
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t. 14, tr. 21 – 23
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 7, tr. 12
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 7, tr. 13,15
(5) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001, t. 14, tr. 59
(6) Trường Chinh: Tuyển tập, I (1937-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2007, tr. 906-907 (đồng chí Hưng là Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
đồng chí Thận là Tổng Bí thư Trường Chinh)
(7) Trường Chinh: Một nhân cách lớn - Một lãnh tụ kiệt xuất của cách mạng
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 31
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t. 7, tr. 196
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t. 7, tr. 168
(10)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t. 7, tr. 198
(11) Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nxb. Thông tấn, H, 2007, tr. 163
(12) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t. 15, tr. 53
(13) Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa
xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, H, 1976, tr. 55 - 56