



















Preview text:
           
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM 
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT                  
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ  *** 
ĐỀ TÀI 3: Đường lối xậy dựng Đảng của Đảng Cộng sản 
Việt Nam thời kỳ đổi mới             
GVHD: TS. PHÙNG THẾ ANH SVTH 
: THỨ 3 TIẾT 10-11  TÊN  MSSV      Lê Thế Dũng  2114510  Bùi Nam Khánh  21161326  Trần lê hiền lương  20151302  Ngô Minh Thiện  20146431                       
- Tp.HCM, tháng 12/2022 -                MỤC LỤC   
A. PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................3 
1.Lý do chọn đề tài.........................................................................3 
2.Mục đích nghiên cứu...............................................................4 
3. Phuơng pháp nghiên cứu.......................................................................4  B.PHẦN NỘI DUNG 
I.Nội dung............................................................................................................5 
1. Bối cảnh lịch sử... ...................................................................................6 
 1.1 Hoàn cảnh lịch sử đất nước Việt Nam..............................................6 
1.2 Những bước phát triển của ĐCSVN trước đổi mới.........................7 
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của ĐCSVN trong thời kỳ đổi mới..................7 
2.1 Sự cần thiết của việc xây dựng đường lối cho ĐCSVN trong thời kỳ đổi 
mới............................................................................................................7 
2.2 Mục tiêu và nhiệm vụ của ĐCSVN trong thời kỳ đổi mới...............8   Mục tiêu   Nhiệm vụ 
3. Tư tưởng và đường lối xây dựng ĐCSVN thời kỳ đổi mới..................9  3.1 Tư tưởng 
3.2 Đường lối 
4. Thực tiễn xây dựng đảng.........................................................................10 
 4.1 Xây dựng tổ chức đảng........................................................................10 
4.2 Đào tạo và nâng cao trình độ lý luận chính trị của cán bộ đảng......11 
 4.3 Xây dựng đại đoàn kết dân tộc và quốc tế..........................................12 
5. Thực tiễn xây dựng đát nước...................................................................13 
 5.1 Trong đổi mới kinh tế...........................................................................13 
 5.2 Đổi mới chính trị - xã hội......................................................................14 
 5.3 Bảo vệ an ninh quốc gia và xây dựng quốc phòng toàn dân..............15 
II.Vận Dụng ( Sinh viên Việt Nam cần làm gì để thấm nhuần tư tưởng của đảng, phát 
huy tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh qua đó góp phần xây dựng và phát triển đất nước 
)...................................................................................16 
1. Sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh...........16 
 1.1 Đạo đức theo quan điểm của Hồ Chí Minh...........................................16 
 1.2 Sinh viên thanh niên cần làm gì để Tu dưỡng các phẩm chất đạo đức Hồ Chí 
Minh......................................................................................................17 
2. Sinh viên cần trang bị tư tưởng đúng đắn, nền tảng chính trị vững 
vàng...............................................................................................................20 
3. Sinh viên cần phải ra sức học tập, rèn luyện ngay khi còn đang ngồi trên ghế nhà 
trường..............................................................................................23 
III.KẾT LUẬN...............................................................................................27        A.MỞ ĐẦU 
1, Lý do chọn đề tài: 
Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. 
Kể từ đó đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi vĩ 
đại. Cách mạng tháng 8 -1945 thành công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay 
là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống 
Mỹ cứu nước đem lại độc lập tự do và thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào sự nghiệp 
đổi mới và từng bước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. 
Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong 
kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường Xã Hội Chủ Nghĩa có 
quan hệ rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ 
thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền 
kinh tế nghèo nàn, lạc hậu bước vào thời kỳ đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
Trên một chặng đường dài có bao nhiêu biến cố, sự kiện phức tạp của tình hình trong nước 
và quốc tế, đất nước phải đương đầu với đủ loại kẻ thù với bao khó khăn thử thách có những 
lúc ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là 
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, con thuyền cách mạngViệt Nam vẫn cập bến vinh quang. Thực tế lịch 
sử đã chứng minh hùng hồn một điều không thể phủ nhận, đó là sự lãnh đạo của Đảng -nhân 
tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 
Bên cạnh việc chỉ đạo chiến lược để xây dựng lực lượng cách mạng,chĩa mũi nhọn đấu 
tranh vào đế quốc tay sai, giành độc lập, chính quyền cho nhân dân, Đảng cũng có những 
chuyển hướng trong chủ trương đường lối và có sự đổi mới tư duy, biện pháp để phát triển 
toàn diện mọi lĩnh vực. 
Nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp chúng ta nhận thức một cách hệ thống, cơ bản ban đầu về 
quá trình hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta. Qua đó có thể hiểu được sự đúng đắn, 
sáng tạo trong đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong từng giai đoạn để có 
thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.   
2. Mục đích nghiên cứu: 
- Tìm hiểu nội dung và làm rõ khái niệm về đường lối xây dựng đảng dưới nhiều góc độ, tìm 
hiểu được các vấn đề xã hội của Việt Nam trong nhiều thời kỳ. 
- Hiểu được bản chất của đường lối xây dựng đảng cộng sản Việt Nam. 
- Hiểu được một thực trạng xã hội Ở Việt Nam. 
- Hiểu được chủ trương, chính sách, quan điểm, dường lối của Đảng trong việc xây dựng và 
phát triển , giải quyết các vấn đề xã hội. 
- Hiểu rõ những gì Đảng và Nhà nước đang thực hiện, tránh những hiểu lầm không đáng có, 
chống các âm mưu phá hoại tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. 
- Qua bài tiểu luận này chúng tôi những thành viên của nhóm 2 cũng muốn bày tỏ lòng biết 
ơn sự dẫn dắt của Đảng Việt Nam ngay từ những ngày mới thành lập, giúp cho đời sống của 
nhân nhân dân ngày càng no ấm. Qua đây chúng tôi kêu gọi mọi người hưởng ứng, tích cực 
làm theo đường lối mà Đảng đã đề ra. 
- Chúng tôi hi vọng rằng đề tài tiểu luận này sẽ là tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các khóa  học sau.   
3. Phương pháp nghiên cứu:   
a)Cơ sở phương pháp luận 
Lấy Chủ Nghĩa Mác-Lênin và các quan điểm có tính phương pháp luận của Hồ Chí Minh và 
của Đảng Cộng Sản Việt Nam làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu quá trình 
hình thành đường lối đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam.   
b) Các phương pháp nghiên cứu cụ thể Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp 
lịch sử và phương pháp lôgic, ngoài ra có sự kết hợp các phương pháp khác như phân tích, 
tổng hợp, so sánh, quy nạp và diễn dịch, cụ thể hoá và trừu tượng hóa...thích hợp với từng nội  dung phân tích     
B.NỘI DUNG TIỂU LUẬN   
I. NỘI DUNG: 
 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG 
1.1 Đảng cầm quyền: 
"Đảng cầm quyền" là khái niệm đảng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại 
diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước 
nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Khái niệm "Đảng cầm quyền" đã từng được dùng 
phổ biến tại các nước tư bản chủ nghĩa. Ở các nước này nếu một chính đảng có đại biểu giành 
được đa số phiếu tại các cuộc bầu cử trong quốc hội thì đảng đó trở thành đảng cầm quyền. 
Về mặt thuật ngữ trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có thể bắt gặp các khái niệm cũng chỉ 
một hiện tượng Đảng lãnh đạo xã hội sau khi giành được chính quyền nhà nước: "Đảng nắm 
quyền", "Đảng lãnh đạo chính quyền". "Đảng cầm quyền" Trong đó thuật ngữ "Đảng cầm 
quyền" phản ánh rõ nhất, chính xác nhất vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 
quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. 
Cụm từ "Đảng cầm quyền" được Hồ Chí Minh ghi trong bản Di chúc của người năm 1969. 
Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là Đang tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong 
điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực nhà nước và Đảng 
trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ  và chủ nghĩa xã hội. 
Khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ chính trong các cuộc đấu tranh của dân tộc dưới sự 
lãnh đạo của Đảng là lật đổ chính quyền bè lũ thực dân và phong kiến, thiết lập chính quyền 
nhân dân. Phương thức lãnh đạo, công tác chủ yếu của Đảng là giáo dục, thuyết phục, vận 
động tổ chức quần chúng, đưa quần chúng vào đấu tranh giành chính quyền. 
Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. 
Đảng Cộng sản Việt Nam "là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". 
Xác định "người lãnh đạo" là xác định quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với toàn bộ xã 
hội và khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước. Đối tượng lãnh đạo của 
Đảng là toàn thể quần chúng nhân dân trong toàn dân tộc, nhằm đem lại độc lập cho dân tộc, 
tự do, ấm no và hạnh phúc cho nhân dân mà trước hết là quần chúng nhân dân lao động. 
Nhưng muốn lãnh đạo được nhân dân lao động, trước hết Đảng phải có tư cách, phẩm chất, 
năng lực cần thiết. Vì "Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức và "chỉ 
trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng 
đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo":. 
1.2 Tầm quan trọng của công tác xây dựng đảng: 
Trong những thập niên đầu của thế kỷ XX, hành trình bôn ba tìm đường cứu nước đã đưa 
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Người khẳng định: “Bây giờ 
học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách 
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(1). Do đó, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái 
Quốc đã ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam. Không chỉ có vậy, Người còn 
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin bằng cách vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh của 
Việt Nam trong mỗi giai đoạn lịch nhất định. Bằng cách đó, Người đã đưa ra những tư tưởng 
chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Do đó, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh 
đã trở thành “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của cách mạng nước ta. 
 trong thời gian qua, nhất là từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta đã luôn kiên trì, kiên định và nêu 
cao chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội VI (12/1986), Đảng ta nhấn 
mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của 
chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch 
Hồ Chí Minh”(2). Đến Đại hội VII (6/1991), Đảng bổ sung điểm mới: “Nêu cao tư tưởng Hồ 
Chí Minh”(3); đồng thời khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo 
chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và tư tưởng của Người đã trở 
thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta. Từ đây, chủ nghĩa Mác - Lênin 
cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động 
của Đảng , trên cơ sở kế thừa quan điểm của các kỳ Đại hội qua, tại Hội nghị Trung ương 4 
khóa XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đến việc lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí 
Minh là tư tưởng chỉ đạo quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện 
nay. Do đó, cần phải “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp tục 
nghiên cứu phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù 
hợp với thực tiễn Việt Nam”(9). Có thể nhận thấy, ở Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta 
đã nêu rõ quan điểm, thái độ với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là kiên 
định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù 
hợp với thực tiễn Việt Nam. 
CHƯƠNG II : ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG ĐẢNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT 
NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI   2.1 bối cảnh: 
Sau chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975 đất nước ta bắt đầu bước vào quá trình khôi phục 
và phát triển đất nước. Tuy nhiên chúng ta vấp phải rất nhiều khó khăn và mâu thuẫn trong 
kinh tế. Nến kinh tế tăng trưởng chậm, lạm phát nghiêm trọng. Nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế 
hoạch 5 năm lần thứ 2 và 3 không thực hiện được. Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém, thiếu đồng 
bộ, trình độ kĩ thuật lạc hậu. Đại bộ phận vẫn là lao động thủ công, nền kinh tế chủ yếu là sản 
xuất nhỏ, phân công lao động xã hội kém phát triển, năng suất lao động rất thấp. Sản xuất phát 
triển chậm chạp, không đủ cho tiêu dùng, làm không đủ ăn phải dựa vào bên ngoài rất 
lớn. Phân phối lưu thông rối ren. Thị trường, tài chính tiền tệ không ổn định. Ngân sách nhà 
nước bội chi liên tục. Giá cả thì leo thang từng ngày. Ví dụ chỉ số giá năm 1975 là 1 lần thì 
1980 là 2,5 lần và 1985 đã là 38,5 lần. Nhận thức được yêu cầu cấp thiết đó. Đại hội VI 
(12/1986) của Đảng đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn 
diện và sâu sắc ở nước ta. Đại hội là điểm khởi đầu cho quá trình đổi mới. Và từ sau đó Đại 
hội VII (6/1991); Đại hội VIII (6/1996); Đại hội IX (4/2001) và gần đây nhất là Đại hội X 
(4/2006) đã tiếp tục khẳng định, bổ xung và hoàn thiện các chủ trương, chính sách đổi mới. 
Trong từng thời kì, từng giai đoạn các biện pháp cụ thể có thể khác nhau. Tuy nhiên trong suốt 
quá trình Đổi mới, Đảng luôn giữ quan điểm : “Đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời 
phải đổi mới cả chính trị và các mặt khác của xã hội”.  * Tình hình thế giới: 
- Xu hướng cải cách đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới: 
+ Từ cuối những năm 50 - đầu những năm 60 của thế kỉ XX, mô hình xã hội chủ nghĩa theo 
kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp, kế hoạch hóa cao độ đã bắt đầu bộc lộ một số hạn chế. 
Trước tình hình đó, tại một số nước xã hội chủ nghĩa, tư tưởng cải cách đã bắt đầu xuất hiện 
và bước đầu được triển khai. Ví dụ như: Ở Liên Xô, dưới thời kì cầm quyền của Nikita 
Sergeyevich Khrushchyov (1953-1964) và Leonid Ilyich Brezhnev (1964 - 1982), Liên Xô đã 
tiến hành hạch toán trong một số doanh nghiệp quốc doanh; cải tiến kế hoạch, điều chỉnh các 
chi tiêu của kế hoạch pháp lệnh; tăng cường nguyên tắc phân phối theo lao động và sự kích 
thích vật chất đối với việc tăng năng suất lao động; Ở Nam Tư, chính phủ thực hiện mở cửa cả 
với các nước tư bản; bãi bỏ kế hoạch pháp 1ệnh, mở rộng quyền tự chủ của các xí nghiệp..... 
+ Cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973, đã gây những ảnh hưởng nghiêm trọng tới 
nền kinh tế, chính trị, xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Để thích nghi với hoàn cảnh, 
thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, suy yếu và trì trệ, các nước tư bản phát triển như : Mĩ, Anh, 
Pháp... đã nhanh chóng thực hiện những điều chỉnh chiến lược về kinh tế - chính trị - xã hội... 
Nhờ vậy, các nước này đã vượt qua khủng hoảng và tiếp tục phát triển. Đến giữa những năm 
70 của thế kỉ XX, hầu hết các nước trong khu vực Mĩ Latinh như Chilê, Urugoay, Achentina 
đã đề ra và tiến hành những chiến lược cải cách, học tập theo mô hình Mĩ. 
- Tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ: những phát triển phi thường của cuộc 
cách mạng khoa học - công nghệ do và sự xuất hiện của xu thế quốc tế hóa, khu vực hóa trong 
mọi lĩnh vực nhất là kinh tế, đã mở ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia, nhưng cũng 
đồng thời đòi hỏi các nước phải tiến hành mở cửa, giao lưu hợp tác với nhau; đẩy mạnh 
nghiên cứu và ứng dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất và kinh doanh, biến 
khoa học - công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế. 
- Nền kinh tế Liên Xô bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu của sự suy giảm, từ 1976 - 1978 tốc độ 
tăng trưởng kinh tế của Liên Xô chỉ đạt 3.9%/năm. Do nhiều bước đi trong công cuộc xây 
dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc có sự học tập, vận dụng một cách máy móc, giáo điều 
kinh nghiệm của Liên Xô. Vì vậy, trước sự trì trệ của kinh tế Liên Xô, các nhà lãnh đạo Trung 
Quốc nhận thấy cần phải xem xét, suy tính lại con đường xây dựng và phát triển đất nước của  mình. 
- Các quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực Châu Á tiêu biểu như: Hàn Quốc, Đài Loan, 
Hồng Kông, Singapo... cũng đạt được sự phát triển với nhịp độ cao Trung Quốc đứng trước 
nguy cơ bị tụt hậu so với các nước này.  2.2 quá trình: 
Là đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự ý thức được sứ mệnh, trọng trách 
trước giai cấp, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Để hoàn thành sứ mệnh, trọng trách lớn 
lao đó, trong quá trình lãnh đạo, Đảng luôn coi trọng tự đổi mới và tự chỉnh đốn. Sau 35 năm 
đổi mới, nhận thức của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã có những bước phát triển quan 
trọng, minh chứng cho năng lực, trí tuệ, bản lĩnh và trách nhiệm của Đảng ta đối với giai cấp, 
nhân dân và dân tộc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
 Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng Đảng ta trong 91 năm qua cho thấy, xây dựng Đảng 
phải luôn được xem là công việc cơ bản, thường xuyên; chỉnh đốn Đảng là công việc được đặt 
ra khi xuất hiện tình hình đặc biệt, cấp bách. Chỉnh đốn Đảng không có mục tiêu tự thân mà 
nhằm góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. 
 Nhận thức được vấn đề đó, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây 
dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với 
Đảng và chế độ ta. Các văn kiện Đại hội, Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị trong 35 năm đổi 
mới đã cho thấy rõ những bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về công tác 
xây dựng, chỉnh đốn Đảng.  2.3 nội dung: 
a) Thời kỳ từ năm 1986 đến 1996 
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986): 
Đại hội đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước và bầu ông Nguyễn Văn Linh  là Tổng Bí thư Đảng. 
Đại hội nhận định, 5 năm qua cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong 
nước có những thuận lợi nhưng có nhiều khó khăn phức tạp. Nhân dân ta khắc phục khó khăn 
đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó  khăn gay gắt. 
Nguyên nhân chủ quan của tình hình khủng hoảng là do những sai lầm, khuyết điểm về 
chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư 
tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh 
chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội. Những sai lầm và khuyết 
điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, 
tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. 
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã tổng kết bốn bài học kinh 
nghiệm là: Một là, trong mọi hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm 
gốc”. Hai là, Đảng luôn phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách 
quan. Ba là, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, chăm 
lo công tác xây dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mới. 
Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên 
là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho 
việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. 
Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước, quyết đánh 
thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống  để bảo vệ Tổ quốc. 
- Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ VII (6/1991): 
Đại hội họp trong bối cảnh công cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu rơi vào khủng hoảng 
và sụp đổ, tác động mạnh mẽ đối với cách mạng Việt Nam. 
Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 
hội (Cương lĩnh năm 1991), Chiến lược, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; 
phương hướng phát triển kinh tế xã hội 5 năm (1991 - 1995), bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng 
và bầu ông Đỗ Mười là Tổng Bí thư. 
+ Nội dung cơ bản Cương lĩnh năm 1991: 
Tổng kết cách mạng Việt Nam và chỉ ra 5 bài học của kinh nghiệm: Một là, nắm vững 
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do 
nhân dân và vì nhân dân. Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn 
Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc 
với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Năm là, sự lãnh đạo đúng 
đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 
+ Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là xã hội gồm 6 đặc trưng cơ bản: 
Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản 
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, 
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo 
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển 
toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; 
có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. 
+Bảy phương hướng cơ bản xây dựng đất nước: 
(1) Xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (2) Phát triển lực lượng sản 
xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông 
nghiệp toàn diện; (3) Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước 
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao; (4) Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa 
trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá; (5) Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và 
mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; (6) Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai 
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; (7) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về 
chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo cách mạng xã 
hội chủ nghĩa ở nước ta. 
+Chiến lược, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 xác định: 
Mục tiêu tổng quát là đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, 
phấn đấu vượt qua tình trạng nghèo và kém phát triển. 
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, áp dụng cơ chế thị 
trường có sự quản lý của Nhà nước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. 
Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu, 
Đổi mới hệ thống chính trị, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; giữ vững 
vai trò lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn 
với tập trung, kỷ cương và kỷ luật. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng thật sự vững 
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. 
+Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (1/1994): 
Sau khi Liên Xô sụp đổ (12/1991), các loại kẻ thù quyết liệt chống phá, âm mưu làm sụp 
đổ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Lần đầu tiên Đảng ta tổ chức Hội nghị đại biểu toàn quốc 
giữa nhiệm kỳ. Điểm mới của Hội nghị là chỉ rõ cơ hội lớn và thách thức lớn cùa cách mạng  nước ta. 
Những cơ hội lớn là Đảng ta có đường lối đúng đắn, đoàn kết nhất trí, nhân dân ta cần cù 
và thông minh, giàu lòng yêu nước, có bản lĩnh và ý chí cách mạng kiên cường, tin tưởng vào 
Đảng, lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với cách mạng, những thành tựu của công cuộc 
đổi mới đang tạo ra thế và lực mới, sự phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật, xu thế 
mở rộng quan hệ hợp tác phát triển trên thế giới và trong khu vực. 
Những thách thức lớn là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu 
vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những 
lệch lạc trong quá trình thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ "diễn 
biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó liên quan mật thiết với nhau, tác động 
lẫn nhau. Quyết tâm của Đảng là nắm vững thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, tiếp tục đẩy mạnh công  cuộc đổi mới. 
b )Thời kỳ từ 1996 đến nay 
- Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996): 
Đại hội đã thông qua đường lối phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000; đường lối 
xây dựng Đảng, sửa đổi Điều lệ Đảng và tiếp tục bầu Đỗ Mười là Tổng Bí thư Đảng. Đại hội  khẳng định: 
Sau 10 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng một số 
mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị 
tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy 
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
Căn cứ vào Cương lĩnh của Đảng, Đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ 
chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện  đại hoá. 
Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công  nghiệp. 
Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển 
kinh tế - xã hội năm 1996 - 2000, nêu nhiệm vụ tổng quát, những tư tưởng chỉ đạo, các 
chương trình và lĩnh vực phát triển. 
Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là "quốc sách hàng đầu". Xây dựng 
và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đả bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của 
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. 
 Tăng tưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và 
trong suốt quá trình phát triển. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói  giảm nghèo. 
-Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001): 
Đại hội họp trong bối cảnh đất nước qua 15 năm đổi mới. Nhân loại bước vào năm đầu 
của thế kỷ XXI, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá  diễn ra mạnh mẽ. 
Đại hội thông đã tổng kết thế kỷ XX, thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 
năm 2010. đường lối phát triển kinh tế - xã hội 2001-2005; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu 
ông Nông Đức Mạnh là Tổng Bí thư Đảng. 
Báo cáo chính trị của Đại hội đã tổng kêt Việt Nam trong thế kỷ XX và triển vọng trong 
thế kỷ XXI; đánh giá tình hình đất nước 5 năm qua và những bài học chủ yếu của 15 năm đổi 
mới; làm rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đường lối và chính sách phát triển 
kinh tế - xã hội; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nên văn hoá 
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tăng cường quốc phòng và an ninh; mở rộng quan hệ đối 
ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy 
mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế; 
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. 
+ Nội dung cơ bản Báo cáo chính trị tại Đại hội: 
Tổng kết thế kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài người những dấu ấn sâu sắc: khoa học và 
công nghệ tiến nhanh chưa từng thấy; kinh tế phát triển mạnh mẽ xen lẫn những cuộc khủng 
hoảng lớn của chủ nghĩa tư bản; diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu cùng hàng trăm 
cuộc xung đột vũ trang; là thế kỷ chứng kiến phong trào cách mạng sâu rộng trên phạm vi 
toàn thế giới, dù vào thập niên cuối, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào. 
Đổi với nước ta, thế kỷ XX có những biến đổi to lớn với những thắng lợi có ý nghĩa lịch 
sử và thời đại. Từ một nước thuộc địa nửa phong kiên, nước ta đã trở thành một quốc gia độc 
lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế 
ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở 
thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc 
hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
Tuy nhiên, cách mạng nước ta đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn. Từ thực tiễn lịch 
sử cách mạng, Đại hội nêu ra bốn bài học chủ yếu: Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên 
trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư 
tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp 
với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh 
thời đại. Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyểt định thành công của sự nghiệp  đổi mới. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ 
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quà của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa 
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt 
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tường về giải phóng dân tộc, giải 
phóng giai cấp, giài phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết 
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết 
dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; 
về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn 
hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách 
mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời 
sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa 
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... 
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là 
tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. 
Con đường đi lên của Việt Nam là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ 
tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc 
thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu về khoa học - công 
nghệ mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. 
Trong thời kỳ quá độ có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần giai 
cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ 
hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài vì mục tiêu chung là 
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân  chủ, văn minh. 
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa,khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát 
triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục 
những tư tưởng và hành động tiêu cực; làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của 
các thế lực thù địch; thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. 
-Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4/2006): 
Đại hội họp trong xu thế hoà bình, hợp tác, toàn cầu hoá trên thế giới mở rộng; khoa học 
và công nghệ, kinh tế tri thức phát triển có những đột phá. Công cuộc đổi mới ở nước ta 20 
năm qua đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. 
Đại hội X đề ra đường lối phát triển kinh tế - xã hội (2006 - 2010), quyết tâm đưa nước ta 
ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một 
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và bầu ông 
Nông Đức Mạnh là Tổng Bí thư Đảng. 
+Nội dung chủ yếu của Báo cáo chính trị: 
Tổng kết 20 năm đổi mới, nêu 5 bài học lớn: Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên 
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư 
tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và 
cách làm phù hợp. Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai 
trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Bốn là, phát 
huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức 
mạnh thời đại trong điều kiện mới. Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của 
Đảng, không ngừng đối mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân 
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. 
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng gồm 8 đặc trưng: Một là, dân giàu, nước 
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; Hai là, do nhân dân làm chủ; Ba là, có nền kinh tế phát 
triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát 
triển của lực lượng sản xuất; Bốn là, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Năm là, 
con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát 
triển toàn diện; Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ 
và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Bảy là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, 
do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; Tám là, có quan hệ hữu nghị 
và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. 
-Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1/2011): 
Đại hội họp khi nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; thủ đô Hà Nội vừa kỷ niệm 
1000 năm tuổi. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011 - 
2020); đề ra đường lối phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2020; bổ sung, sửa đổi Điều lệ 
Đảng; bầu ông Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư Đảng. 
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011) đã 
tổng kết những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam và nêu 5 bài học kinh nghiệm của 
cách mạng nước ta: Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, sự 
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Ba là, không ngừng cung cố, 
tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc 
tế. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức 
mạnh quốc tế. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng 
lợi của cách mạng Việt Nam. 
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dán ta xây dựng là một xã hội gồm tám đặc trưng cơ bản: 
Một là, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Hai là, do nhân dân làm chủ; Ba 
là, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến 
bộ phù hợp; Bốn là, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Năm là, con người có 
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; Sáu là, các dân tộc trong 
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; Bảy là, có 
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng 
sản lãnh đạo; Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. 
+Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta: 
Xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng 
về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ 
nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ thứ XXI, toàn Đảng, toàn dân 
ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. 
+Tám phương hướng cơ bản xây dựng đất nước: 
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri 
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. 
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng 
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. 
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. 
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát 
triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. 
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng 
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. 
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì  nhân dân. 
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. 
Quan hệ giữa đổi mói, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; 
giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa phát triển lực lượng sản xuất và 
xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế 
và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội 
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh 
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. 
-Từ Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ XI đến nay (8/2013): 
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (gọi tắt 
là Hội nghị Trung ương) đề ra kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015; Quy 
định thi hành Điều lệ Đảng và hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám 
sát và kỷ luật của Đảng; Quy định những điều đảng viên không được làm. 
Hội nghị Trung ương 4 (1/2012) chủ trương giải quyết một số vấn đề cấp bách về xây 
dựng Đảng; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành 
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. 
Hội nghị Trung ương 5 (5/2012) chủ trương sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; tiếp 
tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai; tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với 
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; một số vấn đề về chính sách xã hội thời kỳ 2012 
- 2020; về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công. 
Hội nghị lần thứ 6 (10/2012) chủ trương tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả 
doanh nghiệp nhà nước; đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai; đổi mới căn bản, toàn diện 
giáo dục và đào tạo phát triển khoa học và công nghệ; quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, 
Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh chủ chốt của Đảng và Nhà nước. 
Hội nghị Trung ương 7 (5/2013) chủ trương tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị 
từ Trung ương đến cơ sở; tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân 
vận; dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường 
công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. 
 2.3 Một số kết quả đạt được: 
Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu 
của kế hoạch 5 năm: 
Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hăng năm về tổng sản phẩm trong nước 
(GDP) đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5%), về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông 
nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi: tỉ trọng công 
nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 đến 29,1% năm 1995; dịch vụ từ 39,6% 
lên 41,9%. Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 
chiếm 15,8% GDP; năm 1995 là 27,4% (trong đó nguồn đầu tư trong nước chiếm 16,7% 
GDP). Đến cuối năm 1995, tổng vốn đăng ký của các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài 
đạt trên 19 tỉ USD, gần 1/3 đã được thực hiện. Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991 giảm xuống 
còn 12,7% năm 1995. Hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển 
kinh tế - xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường.Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù 
hợp hơn với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần 
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa 
tiếp tục được xây dựng. 
 Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội: 
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung bình và 
số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu lao động có việc làm. Nhiều 
nhà ở và đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở cả nông thôn và thành thị. 
Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo 
dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, thông 
tin đại chúng, công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có những mặt 
phát triển và tiến bộ. 
Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy 
được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tăng thu 
nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội. 
Chủ trương đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước được toàn dân hưởng ứng, 
phong trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày càng mở rộng, đang trở thành 
một nét đẹp mới trong xã hội ta. 
Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đát nước, vào Đảng và Nhà nước được  nâng lên. 
Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh: 
Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa bình của đất 
nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới. 
Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc 
trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an 
ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống lực lượng vũ trang được 
đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và công an được nâng lên. Thế 
trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Công tác bảo vệ an ninh chính trị 
và trật tự an toàn xã hội được tăng cường. 
Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị: