Gáo trình phần 1 | Tâm lý học xã hội | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cung cấp nhiều môn học phong phú như Ngôn ngữ học đối chiếu, Phong cách học, Kinh tế học Vi mô, Lịch sử Việt Nam, Xã hội học, Tâm lý học, Văn hóa học và Ngữ văn Trung Quốc. Các môn học này giúp sinh viên phát triển kiến thức chuyên môn, kỹ năng phân tích và nghiên cứu, chuẩn bịa tốt cho công việc và nghiên cứu sau khi ra trường.
Môn: Tâm lý xã hội học
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
Tác giả: TRẦN QUỐC THÀNH - NGUYỄN ĐỨC SƠN LỜI NÓI ĐẦU
Tâm lý học xã hội là một ngành của Tâm lý học và mang đậm hơi thở của đời sống xã hội.
Lịch sử Tâm lý học xã hội cho thấy, những vấn đề nổi bật của các giai đoạn xã hội lịch sử đều
được phản ánh trong Tâm lý học xã hội ở các mức độ khác nhau. Không ít những vấn đề
mang tính cấp thiết của xã hội được tiến hành nghiên cứu trong Tâm lý học xã hội ngay từ khi
chúng bắt đầu xuất hiện. Những nghiên cứu về phong cách lãnh đạo và công bằng xã hội
những năm 1930 - 1940; về sự a dua vào những năm 1950, về sự xâm kích những năm 1960;
về giới tính, về dân tộc những năm 1960 - 1970; về chủng tộc những năm 1980 và về những
vấn đề Tâm lý xã hội xuyên văn hóa vào những năm 1990 đến nay là sự phản ánh sắc nét
những diễn biến và sự kiện lịch sử xã hội. Đồng thời với tính thời sự, những vấn đề mang tính
cơ bản và ổn định của Tâm lý học xã hội như vấn đề nguồn gốc của các hành vi xã hội, các
quy luật và các cơ chế của sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội, bản thân các hiện
tượng tâm lý xã hội với các đặc điểm và diễn biến của nó ngày càng được quan tâm. Như một
quy luật, xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng được mở rộng và
nâng cao thì nhu cầu tìm hiểu bản chất của các quá trình xã hội mà con người tham gia vừa là
chủ thể và khách thể càng lớn. Chính vì những lý do như vậy mà sự quan tâm đến Tâm lý học
xã hội ngày càng nhiều hơn.
Đối với những người làm công tác giảng dạy, việc tiếp cận những vấn đề của Tâm lý học xã
hội là hết sức có ý nghĩa. Bởi vì, dù là có ý thức hay không có ý thức, công việc của họ gắn
liền với các hiện tượng tâm lý xã hội, chịu sự chi phối của các quy luật tâm lý xã hội. Hơn
nữa, nhiều khi chính người làm công tác giảng dạy lại phải chủ động để tạo ra một số hiện
tượng tâm lý xã hội trong công việc của mình như làm việc với nhóm sinh viên, đồng nghiệp
hay phải đối diện với các hiện tượng tâm lý xã hội cần giải quyết như dư luận xã hội, bầu không khí tập thể...
Tuy vậy, đây là công việc khó khăn vì chính sự đa dạng và da chiều của các hiện tượng tâm
lý xã hội không cho phép có được các khái quát khoa học dễ dàng. Bên cạnh lOMoAR cPSD| 42619430
đó, việc thiếu vắng các nghiên cứu trong lĩnh vực này ở Việt Nam, cũng như sự non trẻ của
bộ môn khoa học này ở nước ta chắc chắn làm cho việc biên soạn khó đáp ứng được đòi hỏi
của người đọc. Tài liệu khó tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế. Vì vậy, các tác giả rất
mong được sự đóng góp ý kiến để có thể chỉnh sửa, bổ sung giúp tài liệu trở nên có ích và đầy đủ hơn. Các tác giả
Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC Chương
2. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI Chương 3. NHÓM XÃ HỘI
Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA TẬP THỂ
Chương 5. ẢNH HƯỞNG XÃ HỘI, ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI VÀ SỰ XÂM KÍCH Chương
6. NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chương 1. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC Nội dung cơ bản:
- Bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội: hiện tượng tâm lý xã hội, bản chất, chức
năng, phân biệt các hiện tượng tâm lý xã hội với các hiện tượng xã hội;
- Đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội: các quan điểm về đối tượng của Tâm
lý học xã hội, đối tượng của Tâm lý học xã hội, nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội; Lịch sử
hình thành của Tâm lý học xã hội: các tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học xã hội, Tâm lý
học xã hội ra đời như là khoa học độc lập, các hình thái đầu tiên của Tâm lý học xã hội;
Tâm lý học xã hội trong hệ thống các khoa học: quan hệ của Tâm lý học xã hội với các khoa học khác;
- Phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học xã hội.
I. BẢN CHẤT CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ XÃ HỘI
1. Các hiện tượng tâm lý xã hội là gì?
Khi nói tới đời sống tâm lý của con người, người ta thường đề cập đến các hiện tượng xúc
cảm, tình cảm, đến các quá trình nhận thức như tư duy, tưởng tượng đến ý chí, nhu cầu, động
cơ thúc đẩy con người thực hiện các hoạt động này hay hoạt động khác. Các lOMoAR cPSD| 42619430
hiện tượng tâm lý đó gọi là tâm lý cá nhân, tức là các hiện tượng tâm lý thuộc về từng cá
nhân, mang sắc thái riêng của mỗi cá nhân. Các hiện tượng tâm lý đó là sự phản ánh nội dung
đời sống xã hội, là sự phản ánh mang tính chất cá nhân riêng lẻ. Các hiện tượng tâm lý cá
nhân đó được nghiên cứu một cách tương đối độc lập với nhóm xã hội có cá nhân đó. Tuy
vậy, trong đời sống, con người liên tục tham gia vào các nhóm xã hội: gia đình, trường học,
bạn bè, đồng nghiệp... Trong quá trình đó, cá nhân tác động qua lại với những cá nhân khác,
biểu lộ thái độ đánh giá, mong muốn của bản thân và của người khác, nhận biết người khác,
ảnh hưởng và bị ảnh hưởng của người khác. Tâm lý của cá nhân khi đó một mặt chịu sự quy
định của nhóm xã hội và sự tương tác xã hội, mặt khác điều chỉnh hành vi của bản thân cho
phù hợp với yêu cầu và tình huống tương tác. Hệ quả tất yếu là làm nảy sinh các hiện tượng
tâm lý chung ở nhiều cá nhân trong một nhóm trong một cộng đồng, trong cả một dân tộc,
thậm chí trong nhiều dân tộc. Đó là các hiện tượng tâm lý xã hội.
Như vậy, tâm lý xã hội không phải là tổng đơn giản, cơ học của các hiện tượng tâm lý cá
nhân. Nó là các hiện tượng tâm lý chung của nhiều người diễn ra trong các nhóm xã hội, khi
con người hoạt động, giao tiếp, tác động qua lại với nhau, được quy định bởi sự tác động qua
lại và nhóm xã hội. Tâm lý học xã hội là khoa học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội đó.
Một cách đơn giản, có thể hình dung các hiện tượng tâm lý xã hội là các hiện tượng tâm lý
nảy sinh khi cá nhân tác động qua lại với các đối tượng xã hội khác:
Cá nhân <-> Nhóm xã hội.
Cá nhân <-> Cá nhân (trong nhóm xã hội). Nhóm <-> Nhóm.
Trong các quá trình tương tác đó, cá nhân nhận biết, đánh giá hành vi của mình và người khác
như thế nào, cá nhân chịu sự chi phối và chi phối các cá nhân khác ra sao, các mối quan hệ
như quan hệ liên nhân cách, sự hấp dẫn lẫn nhau và sự xung đột diễn ra như thế nào trong các
nhóm... Các hiện tượng tâm lý xã hội đó diễn ra không phải một cách ngẫu nhiên mà theo các
quy luật nhất định. Tâm lý học xã hội chịu trách nhiệm phát hiện các quy luật chi phối hành vi
và hoạt động của con người khi con người tham gia vào nhóm xã hội cũng như các đặc trưng
tâm lý của chính các nhóm xã hội đó. lOMoAR cPSD| 42619430
Như vậy, Tâm lý học xã hội nghiên cứu các quy luật và cơ chế của các hiện tượng tâm lý xã
hội nảy sinh trong các tương tác xã hội.
2. Bản chất và chức năng của các hiện tượng Tâm lý xã hội
Trước khi đề cập đến bản chất của hiện tượng tâm lý xã hội, điều đầu tiên chúng ta phải khẳng
định rằng: cá nhân không tồn tại tự nó, tách rời với những cá nhân khác. Cá nhân tồn tại phát triển
trong các mối quan hệ xã hội và chính vì thế mỗi cá nhân là “tổng hòa của các mối quan hệ xã
hội” (C. Mác). Tham gia vào hệ thống các mối quan hệ xã hội khác nhau tức là cá nhân tham gia
vào các nhóm xã hội. Các nhóm đó hiện diện mọi nơi và chính là môi trường xã hội của cá nhân.
Đó có thể là gia đình - một dạng nhóm đặc biệt, lớp học, cơ quan, bạn bè...
Tâm lý học xã hội gọi chung đó là các nhóm xã hội. Hoạt động trong các nhóm xã hội đó cá
nhân tác động đến các cá nhân khác đồng thời chịu sự tác động của các cá nhân khác. Sự tác
động qua lại đó ảnh hưởng đến hành vi cá nhân và làm nảy sinh những hiện tượng tâm lý
chung. Đó là các hiện tượng tâm lý nhóm, rộng hơn gọi là các hiện tượng tâm lý xã hội. Nói
như vậy để thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trong môi trường xã hội, trong sự
tác động qua lại giữa các thành viên. Do vậy bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội phải
gắn liền với sự tác động qua lại này.
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng tâm lý xã hội là những hiện tượng tâm lý chung của
một nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong quá trình tác động qua lại, giao tiếp và hoạt động cùng
nhau của các cá nhân trong nhóm. Các hiện tượng tâm lý xã hội đó điều chỉnh, điều khiển
hoạt động cùng nhau của các thành viên và của nhóm xã hội. Mặt khác cũng phải thấy rằng
các hiện tượng tâm lý xã hội có quan hệ đặc biệt và khó có thể tách rời với các hiện tượng tâm
lý cá nhân. Các hiện tượng tâm lý xã hội không tồn tại lơ lửng đâu đó ngoài cá nhân mà
chúng hiện diện ở cá nhân, thúc đẩy cá nhân hành động, ví dụ sự a dua, sự hoảng loạn, các
trào lưu, thị hiếu... Việc nhận biết các hiện tượng tâm lý xã hội cũng chỉ có thể diễn ra trên cơ
sở của nhiều cá nhân. Tuy vậy các hiện tượng tâm lý đó không hoàn toàn là các hiện tượng
tâm lý cá nhân có thể kiểm soát mà nó từ “bên ngoài” thâm nhập vào cá nhân, vừa được biểu
hiện với sắc thái của cá nhân vừa có tính tương đồng với các cá nhân khác trong cùng mối
quan hệ tương tác. Có thể coi mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý cá nhân và tâm lý xã
hội là mối quan hệ giữa cái chung và riêng.
Các hiện tượng tâm lý xã hội hiện diện trong đời sống hàng ngày của chúng ta nhưng không
phải lúc nào chúng cũng được nhận biết. Cá nhân có thể bị chi phối bởi các lOMoAR cPSD| 42619430
hiện tượng tâm lý xã hội một cách vô thức hay có ý thức. Học tập, rèn luyện để phát huy
truyền thống đó là hành động có ý thức, nhưng bắt chước hành vi của người khác, theo trào
lưu nhiều khi lại là vô thức. Bị ảnh hưởng của định kiến xã hội trong khi nhìn nhận đánh giá
người khác, dân tộc khác mà nhiều khi cá nhân không nhận biết, trong khi hoàn toàn có ý
thức thuyết phục người khác làm theo điều mình mong muốn. Nói cách khác, các hiện tượng
tâm lý xã hội chi phối tâm lý của cá nhân và qua đó chi phối hoạt động sống của cá nhân.
Ở phạm vi lớn hơn, các hiện tượng tâm lý xã hội chi phối các mối quan hệ xã hội trong các
nhóm, các cộng đồng hay các dân tộc và cả xã hội loài người. Từ sự thân thiện hay xung đột
giữa các cá nhân trong một nhóm xã hội, từ sự định kiến hay đồng nhất hóa với một dân tộc
hay một cộng đồng, cá nhân thiết lập quan hệ với các cá nhân khác, nhóm thiết lập quan hệ
với nhóm khác. Chính vì vậy mà các nhà nghiên cứu tập trung nghiên cứu khía cạnh tâm lý xã
hội của các tầng lớp, các dân tộc nhằm tạo ra các cơ sở cho việc thiết lập và vận hành các mối
quan hệ giữa các nhóm đó một cách hiệu quả. Rõ ràng, các hiện tượng tâm lý xã hội đóng vai
trò chi phối, ảnh hưởng đến các mối quan hệ đó.
Như vậy, có thể thấy các hiện tượng tâm lý xã hội có chức năng định hướng, thúc đẩy và điều
khiển, điều chỉnh hoạt động của cá nhân. Hoạt động của các nhóm xã hội, thông qua đó tác
động đến các quá trình xã hội.
3. Phân biệt các hiện tượng tâm lý xã hội với các hiện tượng xã hội
Các hiện tượng xã hội và các hiện tượng tâm lý xã hội không đồng nhất, nhưng cũng không
tồn tại độc lập, tách rời.
Hiện tượng xã hội: bất kì hiện tượng nào nảy sinh trong đời sống xã hội của con người, liên
quan đến đời sống xã hội của con người đều được gọi là các hiện tượng xã hội. Đó có thể là
các hiện tượng tôn giáo, giáo dục, văn hóa, khoa học, đạo đức, chính trị, giai cấp, giới tính...
Có những hiện tượng xã hội có ở mọi thời kì trong lịch sử của loài người, cũng có những hiện
tượng xã hội chỉ có ở một giai đoạn xã hội nhất định. Các hiện tượng xã hội nảy sinh, biến đổi
và chuyển hóa theo những quy luật nhất định. Có những quy luật phổ quát cho nhiều hiện
tượng xã hội, nhưng cũng có những quy luật mang tính đặc thù cho một lĩnh vực xã hội nào
đó. Do vậy nghiên cứu các hiện tượng xã hội đòi hỏi sự tham gia của nhiều khoa học khác
nhau. Mỗi khoa học tập trung nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể lOMoAR cPSD| 42619430
nhưng sự giao thoa là điều tất yếu Tâm lý xã hội chính là minh chứng cho sự giao thoa của
các hiện tượng xã hội và tâm lý xã hội.
Các hiện tượng xã hội chính là nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý xã hội, ví dụ chiến tranh,
khủng hoảng, khủng bố... sẽ tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội nhất định như tâm trạng lo
lắng của xã hội, tâm trạng phản đối chiến tranh. Như vậy, các hiện tượng tâm lý xã hội là sự
phản ánh các hiện tượng xã hội. Các hiện tượng xã hội diễn ra theo các quy luật xã hội, nhưng
bất kì một hiện tượng xã hội nào cũng có mặt tâm lý xã hội của nó, bởi lẽ chủ thể của các hiện
tượng xã hội chính là con người với ý thức, tinh thần của mình. Đó cũng là điều mà V.Wundt
trong tác phẩm Tâm lý học dân tộc - một tác phẩm sớm trong lịch sử của Tâm lý học xã hội
đã khẳng định: Một góc nhìn quan trọng mà nhờ đó có thể xem xét tất cả các hiện tượng liên
quan đến đời sống cùng nhau của con người đó là góc nhìn Tâm lý học.
Cũng cần thấy rằng các hiện tượng tâm lý xã hội có tính độc lập tương đối với các hiện tượng
xã hội. Với tư cách là các hiện tượng thứ phát, các hiện tượng tâm lý xã hội có thể tồn tại lâu
hơn và tương đối bền vững, trong khi các hiện tượng xã hội lại dễ thay đổi. Các hiện tượng
tâm lý xã hội diễn ra trong cộng đồng lại có tác động điều chỉnh hành vi của các cá nhân
trong cộng đồng đó và thông qua đó tác động ngược trở lại đến các hiện tượng xã hội.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
1. Các quan điểm về đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội
Giống như mọi khoa học. Tâm lý học xã hội cần phải xác định rõ đối tượng nghiên cứu của
mình. Cũng không phải là ngoại lệ, khi trong lịch sử phát triển của Tâm lý học xã hội, vấn đề
đối tượng của khoa học này đã là vấn đề của nhiều cuộc tranh luận. Vấn đề xác định đối
tượng của Tâm lý học xã hội lại càng trở nên khó khăn hơn bởi tính chất giao thoa và sự đa
dạng của các vấn đề mà nó nghiên cứu. Có thể điểm qua những quan điểm khác nhau về đối
tượng của Tâm lý học xã hội như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu các hiện tượng tâm lý đám
đông như tâm lý tầng lớp, cộng đồng xã hội, bao gồm: truyền thống đạo đức, tập quán; nghiên
cứu các tập thể, các quan điểm xã hội. Những nghiên cứu sớm trong lịch sử Tâm lý học xã
hội đều tập trung vào đối tượng đám đông. Các tác phẩm của G.Tard về tâm lý dân tộc, của
G.Lebon về tâm lý đám đông là minh họa cho quan điểm này. lOMoAR cPSD| 42619430
Quan điểm thứ hai cho rằng, Tâm lý học xã hội phải nghiên cứu nhân cách: đặc điểm loại
hình, vị trí, các mối quan hệ liên nhân cách trong đời sống xã hội. Quan điểm này xuất phát từ
nghiên cứu nhân cách, đặt các nhân cách trong mối quan hệ liên nhân cách. Cơ sở lý luận của
nó chính là bản chất xã hội và giá trị xã hội của nhân cách.
Quan điểm thứ ba: nghiên cứu cả các quá trình tâm lý đại chúng, cả vị trí của cá nhân trong
nhóm; những thay đổi hoạt động tâm lý của cá nhân trong nhóm do ảnh hưởng của sự tác
động qua lại, các đặc điểm nhóm, các khía cạnh tâm lý của các quá trình xã hội. Các nhà tâm
lý học xã hội theo quan điểm này tập trung vào việc nghiên cứu suy nghĩ, hành vi xã hội của
cá nhân, tri giác xã hội, sự ảnh hưởng xã hội đối với các cá nhân.
2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội
Các quan điểm nêu trên cho thấy: đối tượng của Tâm lý học xã hội là rất rộng và phải xác
định từ hai phía - cá nhân và nhóm xã hội. Từ đó, ngày nay một cách phổ biến, đối tượng của
Tâm lý học xã hội được xác định như sau:
- Các hiện tượng tâm lý chung của nhóm xã hội cụ thể nảy sinh trong quá trình giao
tiếp và tác động qua lại giữa các cá nhân.
- Cái chung, đặc trưng, cái bản chất trong tâm lý nhiều người trong các nhóm xã hội nhất định.
- Những đặc trưng tâm lý cơ bản của các loại nhóm xã hội được tạo nên từ sự tác động qua lại.
- Các quy luật nảy sinh hình thành, vận động và phát triển của các hiện tượng tâm lý
xã hội và sự tác động qua lại.
Cách xác định như vậy cho phép bao quát một diện rộng các vấn đề mà Tâm lý học xã hội cần
giải quyết. Đồng thời nó định hướng cho việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý không phải
đơn thuần của cá nhân mà là các hiện tượng tâm lý nảy sinh trong đời sống xã hội của con người.
Từ cách xác định như vậy, trong quá trình phát triển của Tâm lý học xã hội, hàng loạt các
phân ngành ra đời và tập trung sâu hơn vào các vấn đề trong từng lĩnh vực cụ thể như tâm lý
học tôn giáo, tâm lý học dân tộc, tâm lý học giới tính...
3. Nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội lOMoAR cPSD| 42619430
* Nghiên cứu lý luận: Với tư cách là một bộ môn khoa học giao thoa, sử dụng nhiều
tri thức khoa học từ các ngành khoa học liên quan, đồng thời tập trung vào việc nghiên cứu
các hiện tượng rất phức tạp, Tâm lý học xã hội muốn khẳng định được vị trí của nó trong hệ
thống các khoa học thì không thể coi nhẹ việc nghiên cứu lý luận. Nhiệm vụ nghiên cứu lý
luận tập trung vào các nội chính như sau:
- Xác lập hệ thống các khái niệm khoa học riêng của Tâm lý học xã hội, đặc biệt
thống nhất nội hàm của các khái niệm dùng trong lĩnh vực này giữa các nhà khoa học và
phân biệt các khái niệm đó với các khái niệm gần hoặc có liên quan trong các lĩnh vực
khác. Việc sử dụng các khái niệm của các khoa học giao thoa với nội hàm không xác định
làm đánh mất bản chất tâm lý xã hội của khái niệm cũng như tạo ra sự lẫn lộn trong việc
trao đổi và phản biện khoa học. Điều đó làm giảm giá trị khoa học của các nghiên cứu.
- Phát hiện các quy luật của sự nảy sinh, hình thành và phát triển của các hiện tượng
tâm lý xã hội, các quy luật của sự tác động qua lại giữa người với người trong các nhóm,
các quan hệ xã hội. Cụ thể: phát hiện những điều kiện chủ quan, khách quan của sự hình
thành các hiện tượng tâm lý xã hội, những hình thái biến động, các cơ chế diễn ra các hiện
tượng đó. Đóng góp của Tâm lý học xã hội đối với khoa học khác và đối với đời sống xã
hội chính là ở nội dung này. Trên cơ sở các quy luật được phát hiện, Tâm lý học xã hội có
thể góp phần lý giải các hiện tượng lâm lý xã hội nảy sinh, dự báo xu hướng của các hiện
tượng đó và chỉ ra cách thức tác động đến các hiện tượng tâm lý xã hội.
- Xây dựng, thiết kế các phương pháp nghiên cứu đặc thù để nghiên cứu các hiện
tượng tâm lý xã hội. Trong các phương pháp đã có, Tâm lý học xã hội khá mạnh với việc sử
dụng các phương pháp thực nghiệm để làm bộc lộ các quy luật và các cơ chế của các hiện
tượng tâm lý xã hội tuy vậy trong xu hướng nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội
ở phạm vi rộng lớn như tâm lý tộc người, tôn giáo, xuất hiện những khó khăn nhất định về phương pháp nghiên cứu.
* Nghiên cứu thực tiễn: Có thể nói những vấn đề thực tiễn ngày càng được đặt ra hết
sức đa dạng trước Tâm lý học xã hội và các chuyên ngành hẹp của nó. Việc ứng dụng các
quy luật chung của Tâm lý học xã hội vào các lĩnh vực hẹp hơn trong đời sống xã hội liên
tục làm nảy sinh các chuyên ngành mới với các vấn đề nóng hổi và phức tạp. Tâm lý học
dân tộc đang rất được chú ý trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa với các vấn đề thực
tiễn cần giải quyết: làm thế nào để gìn giữ bản sắc dân tộc, sự đồng nhất về văn hóa lOMoAR cPSD| 42619430
và tâm lý dân tộc có vai trò thế nào trong quá trình hội nhập? Tâm lý học tôn giáo với các vấn
đề về niềm tin tôn giáo, tình cảm tôn giáo trong thời kì có sự tác động qua lại mạnh mẽ của
các tôn giáo khác nhau sẽ như thế nào? Tâm lý học giới tính lại đối đầu với các vấn đề nóng
bỏng: đâu là nguyên nhân tâm lý xã hội của các hiện tượng đồng giới? Hệ quả của các phong
trào đồng giới đối với đời sống xã hội nói chung? Đặc trưng tâm lý xã hội của các nhóm đồng
giới?... Cũng như vậy, Tâm lý học quản lý, Tâm lý học tổ chức và công nghiệp cũng đang
đứng trước các vấn đề thực tiễn hết sức cấp bách. Việc giải quyết các vấn đề thực tiễn vừa là
một nhiệm vụ xã hội đặc ra với Tâm lý học xã hội nói chung và các chuyên ngành của nó nói
riêng vừa là nhiệm vụ bên ngoài, vừa là sự thúc đẩy bên trong của chính Tâm lý học xã hội.
Giải quyết được các nhiệm vụ đó sẽ tạo ra sự phát triển cho chính Tâm lý học xã hội và khẳng
định vị trí của Tâm lý học xã hội trong hệ thống các khoa học và trong đời sống xã hội.
III. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
1. Các tiền đề cho sự ra đời của Tâm lý học xã hội
Việc chỉ ra những dấu mốc cơ bản trong lịch sử của Tâm lý học xã hội nhằm tới hai mục đích.
Thứ nhất, người nghiên cứu có được bức tranh chung về tiến trình ra đời và phát triển của
Tâm lý học xã hội với tư cách là một ngành khoa học. Thứ hai, quan trọng hơn, nó giúp chỉ ra
được bản chất của Tâm lý học xã hội, về các vấn đề Tâm lý học xã hội giải quyết, về sự phát
triển trong các quan niệm về đối tượng của Tâm lý học xã hội.
Cũng giống như nhiều bộ môn khoa học khác, các tư tưởng riêng lẻ đề cập đến các hiện tượng
tâm lý xã hội đã xuất hiện từ thời kì cổ đại, dưới hình thức chung nhất là các tư tưởng và các
học thuyết triết học. Nguồn gốc của các tư tưởng đó chính là các hiện tượng tâm lý xã hội
trong cuộc sống có thể được quan sát thấy như: sự cuồng loạn hay hoảng loạn của đám đông,
sự thăng hoa trong các lễ tế thần, sự a dua theo các ý tưởng của đa số, sự tôn sùng của các
cộng đồng đối với thủ lĩnh, với tô tem... Tất cả các hiện tượng tâm lý xã hội đó trong cuộc
sống đã đặt các nhà triết học, các nhà tư tưởng trước những câu hỏi lớn: Điều gì thúc đẩy con
người cùng tiến hành các hành động như vậy? Cái gì chi phối hành vi của một nhóm, một
cộng đồng người? Trả lời các câu hỏi đó, các nhà triết học đã đưa ra những ý tưởng đầu tiên
về các hiện tượng tâm lý xã hội. Rất nhiều nhà nghiên cứu đều nhìn thấy sự tồn tại của các tư
tưởng Tâm lý học xã hội trong lòng các lý thuyết triết học cổ đại. Các ý tưởng về “tâm lý dân
tộc” - sự khác biệt trong tâm lý của dân tộc này với lOMoAR cPSD| 42619430
dân tộc khác, các “bản năng đám đông” có thể tìm thấy trong các công trình của Arixtốt hay
Platon. G.Allport cho rằng người đặt nền móng cho các vấn đề của Tâm lý học xã hội là
Platon. Nói cách khác, các mầm mống của Tâm lý học xã hội đã được gieo từ thời kì cổ đại,
trên chính mảnh đất là cuộc sống xã hội của con người.
Xã hội ngày càng phát triển hơn, các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội, việc điều chỉnh hành vi xã hội cùng ngày càng trở nên cần thiết hơn. Cùng với sự đòi hỏi
ngày càng cao, càng mang tính cấp thiết của xã hội và sự phát triển của các khoa học khác
nhau, Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập.
2. Tâm lý học xã hội trở thành một khoa học độc lập
Theo quan điểm của Anđrêeva, khi xem xét vấn đề tâm lý học trở thành một khoa học độc lập
như thế nào cần phải chú ý đến ba yếu tố: 1) Các yêu cầu đối với việc giải quyết các vấn đề
Tâm lý học xã hội, xuất hiện trong các ngành khoa học giáp ranh khác nhau mà bản thân các
khoa học đó chưa giải quyết được; 2) Các quá trình chuẩn bị phân tách các vấn đề Tâm lý học
xã hội bên trong hai bộ môn “mẹ” chủ yếu: tâm lý học và xã hội học; 3) Đặc điểm của các
dạng tri thức Tâm lý học xã hội độc lập đầu tiên - Đây là các động lực trực tiếp thúc đẩy sự ra
đời của Tâm lý học xã hội như là một ngành khoa học độc lập.
Giai đoạn giữa thế kỉ XIX là giai đoạn một loạt các bộ môn khoa học, trong đó có các bộ môn
khoa học xã hội, đạt được những tiến bộ đáng kể. Ví dụ, ngôn ngữ học đã có sự phát triển
mạnh mẽ và đạt được những thành tựu lớn lao. Năm 1859, M.Laxarus (1824 - 1903) và nhà
ngôn ngữ học G.Steinthal (1823 - 1893) sáng lập tạp chí “Tạp chí tâm lý học dân tộc và ngôn
ngữ” tại Đức. Vấn đề giao lưu ngôn ngữ và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc được quan
tâm. Thế nhưng Ngôn ngữ học không thể giải quyết được các vấn đề như sự ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các dân tộc bằng các phương tiện của mình. Cũng như vậy, các khoa học khác như
Nhân chủng học, Dân tộc học, Khảo cổ học đến thời điểm đó đã tích luỹ được rất nhiều dữ
kiện. Trong tất cả các nghiên cứu này xuất hiện một hiện thực cần được tính đến: các đặc
điểm tâm lý của một số các nhóm dân tộc, mối liên hệ của các sản phẩm văn hóa và truyền
thống, các lễ nghi... Đó chính là lý đo mà nhà tâm lý học xã hội người Mỹ T.Shibutani kết
luận rằng Tâm lý học xã hội đã trở thành một lĩnh vực độc lập một phần vì các chuyên gia
trong các lĩnh vực khoa học xã hội khác nhau không thể giải quyết được các vấn đề nảy sinh -
có liên quan đến Tâm lý học xã hội (Shibutani, lOMoAR cPSD| 42619430
1999). Như vậy, rõ ràng trong sự phát triển của khoa học xuất hiện nhu cầu tách riêng một lớp
các vấn đề mới không thuộc riêng về bất kì một bộ môn nào đang tồn tại rõ rệt hơn, nhu cầu
này thể hiện trong việc phát triển của hai bộ môn khoa học được coi là “mẹ đẻ” của Tâm lý
học xã hội: Tâm lý học và Xã hội học.
Tâm lý học giữa thế kỉ XIX tập trung chủ yếu vào các vấn đề của tâm lý học cá nhân. Trong
một số phần của nó, trước hết là trong bệnh lý tâm thần học bắt đầu xuất hiện các mầm mống
của các khái niệm tương lai đề cập đến đặc trưng của các dạng tác động qua lại lẫn nhau của
con người, các ảnh hưởng lẫn nhau của chúng... Bên cạnh đó cũng phát hiện ra sự phụ thuộc
trong việc điều chỉnh tâm lý và hành vi cá nhân vào các tác động điều khiển từ phía người
khác. Tức là sự điều chỉnh từ phía xã hội. Nói cách khác, một cách tự nhiên, xuất hiện các vấn
đề liên quan đến Tâm lý học xã hội ngay trong lòng Tâm lý học.
Các tri thức tâm lý - xã hội trong lòng lĩnh vực Xã hội học cũng dần được hình thành, nhưng
theo một cách hoàn toàn khác. Gần như ngay từ thời gian đầu tồn tại của mình (giữa thế kỉ
XIX) Xã hội học đi tìm kiếm các giải thích cho một loạt những sự kiện xã hội bằng các quy
luật từ những lĩnh vực tri thức khác. Ví dụ Spencer vận dụng các quy luật sinh học để giải
thích xã hội trong trường phái hữu sinh: quy luật đấu tranh sinh tồn hay tiến hóa xã hội. Song
việc quy giản sinh học không thể lý giải đúng đắn các quá trình xã hội và không thể giải thích
được bản chất của các quá trình xã hội đã buộc các nhà nghiên cứu phải tìm kiếm các quy luật
của Tâm lý học để giải thích cho các quá trình xã hội. Nguồn gốc của các hiện tượng xã hội
được cho là nằm trong tâm lý của con người. Khía cạnh tâm lý trong mỗi hiện tượng xã hội
trở thành sự quyết định về mặt tâm lý đối với các hiện tượng xã hội. Ví dụ, theo quan điểm
nhà xã hội học người Pháp G.Tarde thì các sự kiện xã hội cơ bản bao hàm không phải trong
phạm vi một bộ óc, mà trong sự tiếp xúc của một vài bộ óc, là đối tượng tâm lý học “liên trí
óc” phải nghiên cứu. Mô hình tổng thể của một sự kiện xã hội được vẽ ra như là mối tương
quan của hai cá nhân, trong đó một người bắt chước người khác.
Như vậy, trong quá trình phát triển của hai bộ môn khoa học: Tâm lý học và Xã hội học, hiện
rõ sự dịch chuyển theo chiều gặp nhau kết thúc bằng việc hình thành các vấn đề đã trở thành
đối tượng của một bộ môn khoa học mới.
3. Các hình thái lịch sử đầu tiên của tri thức Tâm lý học xã hội lOMoAR cPSD| 42619430
Từ những thúc đẩy trực tiếp nêu trên, sự ra đời của Tâm lý học xã hội trở thành hiện thực vào
giữa thế kỉ XIX. Các hình thái đầu tiên của riêng tri thức tâm lý - xã hội được khai sinh.
Những hình thức đầu tiên này chủ yếu là các lý thuyết trừu tượng, mang tính mô tả mà chưa
dựa trên các nghiên cứu thực tế. Tuy vậy chúng đã tạo ra hình hài của một bộ môn khoa học
mới. Từ tất cả sự da dạng của những lý thuyết Tâm lý học xã hội đầu tiên thường người ta
chọn ra ba lý thuyết đáng kể nhất: tâm lý học dân tộc, tâm lý học đám đông và lý thuyết bản
năng của hành vi xã hội.
Tâm lý học dân tộc như là một trong các dạng đầu tiên của các lý thuyết tâm lý học xã hội
được hình thành vào giữa thế kỉ XIX tại nước Đức. Những người trực tiếp sáng lập nên tâm lý
học các dân tộc là nhà triết học M.Laxarus (1824 - 1903) và nhà ngôn ngữ học G.Steinthal
(1823 - 1893). Vào năm 1859 tạp chí Tâm lý học các dân tộc và ngôn ngữ được ra mắt và
đăng bài báo “Bàn về tâm lý học các dân tộc”. Nhiệm vụ của Tâm lý học xã hội là “nhận biết
về mặt tâm lý bản chất của tinh thần dân tộc, phát hiện các quy luật diễn ra các hoạt động tinh
thần của dân tộc”. Sau đó các tư tưởng tâm lý học dân tộc được phát triển trong các quan
điểm của V.Wundt (1852 - 1920). Lần đầu tiên Wundt xây dựng lập trường của mình vào
năm 1863 trong “Các bài giảng về tâm hồn con người và động vật”. Tư tưởng được phát triển
chủ yếu vào năm 1900 trong tập đầu tiên của bộ sách mười tập Tâm lý học các dân tộc.
Wundt cho rằng Tâm lý học cần phải cấu thành từ hai phần: Tâm sinh lý học và Tâm lý học
các dân tộc. Trong đó, Tâm lý học dân tộc cần phải áp dụng các phương pháp khác, đó chính
là phân tích các sản phẩm văn hóa: ngôn ngữ, truyền thuyết, phong tục, nghệ thuật.
Các đại diện nổi bật khác của Tâm lý học xã hội thời kì đầu là G.Tard và G.Lebon với lý
thuyết về tâm lý học đám đông - một trong các lý thuyết tâm lý xã hội đầu tiên. Lý thuyết này
được sinh ra tại Pháp trong nửa cuối của thế kỉ XIX. Các cội nguồn của nó xuất phát từ quan
niệm về quy luật bắt chước của G.Tarde (1843 - 1904). Theo quan điểm của Tarde trong
“Những quy luật của sự bắt chước”, hành vi xã hội không có lời giải thích nào khác ngoài
việc sử dụng ý tưởng về sự bắt chước ông cho rằng Tâm lý học hàn lâm chính thống, định
hướng thiên về trí tuệ, đã không thành công khi bỏ qua các thành phần xúc cảm trong các giải
thích của mình. Ý tưởng về sự bắt chước tính đến các yếu tố phi lý trong hành vi xã hội, bởi
vậy nó có hiệu quả hơn. Chính hai tư tưởng này của Tarde - vai trò của các yếu tố phi lý trong
hành vi xã hội và vai trò của sự bắt chước - đã được các nhà sáng lập trực tiếp tâm lý đám
đông lĩnh hội. Đó là luật sư người ý S.Sigele (1868 - 1913) lOMoAR cPSD| 42619430
và nhà xã hội học người Pháp G.Lebon (1841 - 1931). Lebon, với tư cách của một nhà xã hội
học, chủ yếu quan tâm tới vấn đề đối lập tương phản giữa đại chúng và giới thượng lưu trong
xã hội. Vào năm 1895 xuất hiện công trình chủ yếu của ông Tâm lý học đám đông trong đó có
trình bày bản chất của lý thuyết này. Theo quan điểm của Lebon, bất kì một đám đông nào
cũng được gọi là “đại chúng”. Đặc điểm chính của nó là mất khả năng lý tính nhưng lại tồn tại
sự thống nhất tinh thần của đám đông. “Đám đông này hình thành nên một thực thể duy nhất,
phục tùng quy luật thống nhất tinh thần của những đám đông” với một số điều kiện nhất định
(G.Lebon,1905). Các đặc điểm điển hình của hành vi con người trong đám đông là: vô trách
nhiệm cá nhân (điều này dẫn đến sự thống soái của các phản ứng xung động, bản năng), vai
trò cảm xúc chiếm ưu thế đột biến so với lý trí (điều này dẫn đến việc dễ bị các ảnh hưởng
khác nhau), hoàn toàn đánh mất lý trí (điều này dẫn đến từ bỏ lôgic), đánh mất trách nhiệm
riêng (điều này dẫn đến việc không kiểm soát được các hăng hái bùng phát) (Lebon, 1995).
Kết luận suy từ việc mô tả bức tranh về hành vi của con người trong đám đông này là đám
đông theo bản chất của mình, luôn luôn lộn xộn, hỗn loạn. Bởi vậy nó cần có “thủ lĩnh”, vai
trò này có thể thực hiện bởi “giới thượng lưu”. Các kết luận này được đưa ra trên cơ sở quan
sát đám đông trong tình huống hoảng loạn. Không có bất kì khẳng định thực nghiệm nào
được đưa ra, mặc dù sau này các quan sát này được ngoại suy cho bất kì hành động của đám đông nào khác.
Ý nghĩa về mặt lý thuyết của Tâm lý học đám đông có tính chất hai mặt: một mặt, nó đưa ra
lời giải thích ở một mức độ nhất định các tương quan của cá nhân và xã hội, nhưng mặt khác,
lời giải thích này lại không có cơ sở. Trên danh nghĩa, ưu thế của cá nhân so với xã hội được
công nhận, nhưng bản thân xã hội lại bị tùy tiện quy thành đám đông và thậm chí ở dạng này
cũng rất phiến diện, vì bản thân “đám đông”, hay “đại chúng” chỉ được mô tả trong một tình
huống hành vi duy nhất của nó - tình huống hỗn loạn. Mặc dù quan niệm tâm lý học đám
đông không có ý nghĩa quan trọng đối với số phận tương lai của Tâm lý học xã hội, nhưng dù
sao thì các vấn đề được nghiên cứu trong khuôn khổ quan niệm này cũng đáng lưu ý, kể cả
vào thời điểm ngày nay.
Quan niệm thứ ba, đứng vào hàng những công trình tâm lý - xã hội độc lập đầu tiên là lý
thuyết bản năng của hành vi xã hội của nhà tâm lý học người Anh Mc.Dougall (1871
- 1938), chuyển đến Mỹ vào năm 1920 và về sau làm việc ở đó. Công trình của
Mc.Dougall Nhập môn Tâm lý học xã hội ra đời vào năm 1908 và năm đó được coi là năm
khẳng định cuối cùng của Tâm lý học xã hội như là một bộ môn tồn tại độc lập. Cũng lOMoAR cPSD| 42619430
trong năm đó ở Mỹ xuất bản cuốn sách của nhà xã hội học E.Ross Tâm lý học xã hội và như
vậy, rất trùng hợp, khi cả nhà tâm lý học và nhà xã hội học trong cùng một năm xuất bản giáo
trình hệ thống đầu tiên của cùng một bộ môn. Song, năm đó chỉ có thể rất tượng trưng được
coi là khởi đầu của thời kì mới trong Tâm lý học xã hội vì ngay từ năm 1897 J.Bolđuin đã
đăng công trình Những nghiên cứu về Tâm lý học xã hội mà cũng có thể coi như cuốn sách
chỉ dẫn hệ thống đầu tiên.
Luận điểm đầu tiên của lý thuyết Mc.Dougall là các bản năng bẩm sinh được coi là nguyên
nhân của hành vi xã hội. Tư tưởng này là hiện thực hóa nguyên tắc chung hơn: sự hướng tới
mục đích là thuộc tính của cả loài vật và con người. Chính nguyên tắc này đặc biệt có ý nghĩa
trong quan niệm của Mc.Dougall, đối trọng với chủ nghĩa hành vi (giải thích hành vi như là
phản xạ đơn giản với kích thích bên ngoài). Ông cho là tâm lý “hướng đích” hay “hormic” (từ
Hi Lạp horme - hướng tới, khát vọng, khí thế). Các bản năng của mỗi người xuất hiện nhờ kết
quả của một sự chuẩn bị tâm sinh lý nào đó - sự có mặt của các kênh nạp năng lượng thần
kinh gắn theo di truyền. Các bản năng bao gồm các phần kích thích (dây thần kinh), trung tâm
(xúc cảm) và li tâm (vận động). Như vậy, tất cả những gì diễn ra trong phạm vi ý thức đều
phụ thuộc trực tiếp vào sự khởi đầu vô thức. Thể hiện bên trong của bản năng chủ yếu là các
cảm xúc. Mối liên hệ giữa các bản năng và các cảm xúc mang tính chất hệ thống và được xác
định. Mc.Dougall đã liệt kê một số cặp bản năng và cảm xúc có liên quan với nhau: bản năng
đấu tranh và tương ứng với nó là sự tức giận, sợ hãi; bản năng bỏ chạy và ý thức tự vệ; bản
năng duy trì nòi giống và ghen tương; bản năng tìm kiếm và cảm giác sở hữu; bản năng xây
dựng và cảm giác sáng tạo; bản năng bầy đàn và cảm giác thuộc một tổ chức nào đó. Từ các
bản năng xuất phát tất cả các tổ chức xã hội: gia đình, buôn bán, các quá trình xã hội khác
nhau mà trước hết là chiến tranh. Dù các tư tưởng của Mc.Dougall rất phổ biến, chúng đóng
vai trò tiêu cực trong lịch sử khoa học: việc diễn giải hành vi xã hội theo quan điểm của một
sự hướng tới mục đích bột phát nào đó hơn thực hóa ý nghĩa của những ảnh hưởng phi lý, vô
thức như là động lực không chỉ của cá nhân mà còn của cả loài người. Bởi vậy, cũng như
trong Tâm lý học nói chung, vượt qua được các tư tưởng của lý thuyết bản năng là một mốc
quan trọng sau này trong sự phát triển của Tâm lý học xã hội khoa học.
Những quan niệm đầu tiên của Tân lý học xã hội có những ý nghĩa nhất định. Trước hết, ý
nghĩa tích cực của chúng là đã tách biệt và đặt ra rõ ràng các vấn đề thực sự quan trọng, cần
phải giải quyết: về tương quan của ý thức cá nhân và ý thức của nhóm, về các lOMoAR cPSD| 42619430
động lực của hành vi xã hội... Các quan niệm tâm lý - xã hội đầu tiên hãy còn yếu bởi việc
chúng không dựa trên thực tế nghiên cứu nào, chúng hoàn toàn không dựa trên các công trình
nghiên cứu. Song điều cơ bản đã hoàn thành: Tâm lý học xã hội đã được tuyên bố như là một
bộ môn khoa học độc lập có quyền tồn tại. Bây giờ nó cần phải tạo ra cơ sở thực nghiệm cho
mình vì nói chung tâm lý học đến thời điểm này đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sử dụng
phương pháp thực nghiệm. Giai đoạn trưởng thành sau đó của Tâm lý học xã hội như là một
bộ môn khoa học chỉ có thể là giai đoạn thực nghiệm trong lịch sử phát triển của nó
IV. TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG CÁC KHOA HỌC
1. Tâm lý học xã hội với Xã hội học và Tâm lý học
Đến nay đã có được sự đồng thuận tương đối về đối tượng của Tâm lý học xã hội. Nhưng sự
đồng thuận trong quan niệm về phạm vi các nhiệm vụ được giải quyết bởi Tâm lý học xã hội
không có nghĩa là đã có sự thống nhất trong cách hiểu về các quan hệ của nó với Tâm lý học
và Xã hội học. Bởi vậy cuộc tranh luận về vấn đề “ranh giới” của Tâm lý học xã hội vẫn diễn
ra khá độc lập. Ở đây có thể nêu ra ba lập trường: 1) Tâm lý học xã hội là một phần của Xã
hội học; 2) Tâm lý học xã hội là một phần của Tâm lý học; 3) Tâm lý học xã hội - đó là khoa
học ở vị trí tiếp giáp của Tâm lý học và Xã hội học, trong đó bản thân “chỗ tiếp giáp” được
hiểu theo hai cách: a) Tâm lý học xã hội chiếm một phần nào đó của Tâm lý học và một phần
nào đó của Xã hội học; bị nó chiếm phần “vô chủ” - lĩnh vực không thuộc cả Xã hội học cũng như Tâm lý học.
Nếu theo đề xuất của các nhà tâm lý học xã hội Mỹ Mc.Dougall và G.Harary, thì tất cả các
lập trường nói trên có thể đưa về hai quan điểm: nội ngành và liên ngành. Nói cách khác, vị
trí của Tâm lý học xã hội có thể tìm ở bên trong một lĩnh vực “mẹ” hay trên ranh giới giữa
chúng. Điều này có thể biểu diễn qua sơ đồ sau:
Hình 1. Các phương án xác định vị trí của Tâm lý học xã hội (“ranh giới” với Xã
hội học và Tâm lý học)
Mặc dù có những khác biệt dường như rất cơ bản, tất cả các quan điểm được đưa ra về bản
chất đều dừng lại trước một vấn đề: “ranh giới” nào phân chia Tâm lý học xã hội với Tâm lý
học và với Xã hội học. Vì có đặt Tâm lý học xã hội ở đâu thì trong mọi hoàn cảnh nó cũng
tiếp xúc với hai bộ môn này. lOMoAR cPSD| 42619430
2. Tâm lý học xã hội với các khoa học khác
Là bộ môn khoa học “giao thoa” giữa Tâm lý học xã hội và Xã hội học, đương nhiên Tâm lý
học xã hội có quan hệ chặt chẽ không chỉ với hai khoa học mẹ mà còn có mối quan hệ chặt
chẽ với nhiều ngành khoa học khác, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Khoa học tự nhiên, đặc biệt là khoa học Sinh lý thần kinh và Sinh học có vai trò to lớn đối với
Tâm lý học xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu Tâm lý học xã hội sử dụng các tri thức về hoạt động
của hệ thần kinh nhằm lý giải các hiện tượng tâm lý đám đông như sự hoảng loạn, sự ám thị,
sự lây lan xúc cảm, tình cảm, hay đi tìm các cơ chế hoạt động của não bộ để lý giải hiện
tượng đồng cảm giữa con người với con người. Một loạt các lý thuyết của sinh học đã từng
được sử dụng để giải thích các hiện tượng tâm lý xã hội như khái niệm “tâm lý bầy đàn”, “sự
hấp dẫn bầy đàn”. Ngay cả việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội liên quan đến các
nhóm giới tính: sự hấp dẫn giới tính, các hành vi của các giới khác nhau, cũng không hiếm
khi các nhà nghiên cứu phải xuất phát từ các hiểu biết về cơ sở sinh học của chúng. Các kiến
thức toán học cũng ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn với hai xu hướng: dùng để mô hình
hóa các hiện tượng tâm lý xã hội (mặc dù hướng này còn rất hạn chế) và hữu dụng hơn là xu
hướng sử dụng các phép toán thống kê để phân tích sâu các hiện tượng tâm lý xã hội. Các
phép tính tương quan, phân tích nhân tố, các kiểm định... được sử dụng rất phổ biến.
Với tư cách là khoa học về các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy con người,
triết học cung cấp các cơ sở phương pháp luận cho Tâm lý học xã hội. Từ việc lựa chọn đối
tượng nghiên cứu, cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu đến việc phân tích, giải thích và khái
quát kết quả nghiên cứu, các nhà Tâm lý học xã hội đều dựa trên lập trường triết học nhất
định. Vấn đề đã và vẫn đang là trung tâm của các cuộc tranh luận liên quan đến vấn đề
phương pháp luận là ảnh hưởng (tích cực hay tiêu cực) của việc một nhà Tâm lý học xã hội
đứng trên một lập trường triết học nào đó để giải quyết một vấn đề tâm lý xã hội. Vấn đề này
được gọi là vấn đề giá trị (tư tưởng) trong nghiên cứu Tâm lý học xã hội. Dù câu trả lời là thế
nào đi nữa, không thể có nhà tâm lý học xã hội nào lại không đứng trên một lập trường triết
học nhất định để giải quyết vấn đề tâm lý xã hội.
Để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, Tâm lý học xã hội sử dụng rất nhiều những
thành tựu của các khoa học xã hội và nhân văn. Muốn chỉ ra các đặc điểm tâm lý lOMoAR cPSD| 42619430
của nhóm lớn như dân tộc chẳng hạn, không thể thiếu các kiến thức của dân tộc học, lịch sử
dân tộc, văn hóa học. Khá nhiều vấn đề mang tính giao thoa trong Tâm lý học xã hội và các
khoa học xã hội nhân văn kể trên như vấn đề nhóm gia đình, vấn đề truyền thống của một
cộng đồng hay vấn đề giới... Muốn làm rõ các hiện tượng tâm lý xã hội như dư luận xã hội,
tâm trạng xã hội, không thể bỏ qua các vấn đề kinh tế học, chính trị học, quản trị học. Các
khoa học xã hội nhân văn cung cấp các tư liệu đa dạng và nhiều chiều về con người trong các
mối quan hệ xã hội khác nhau.
Ngược lại, các tri thức mà Tâm lý học xã hội phát hiện ra lại đóng vai trò quan trọng đối với
các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Chính việc ra đời của Tâm lý học xã hội là minh
chứng cho sự cần thiết của nó trong việc giải quyết những vấn đề mà một số khoa học khác
chưa giải quyết được một cách đầy đủ.
Tóm lại, Tâm lý học xã hội luôn bị đặt trước những đòi hỏi của đời sống xã hội trong việc giải
quyết hàng loạt các vấn đề phức tạp và đa diện. Do vậy chỉ khi sử dụng các kiến thức của các
khoa học khác có liên quan, Tâm lý học xã hội mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Đồng thời nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, Tâm lý học xã hội cung cấp cho các khoa
học khác những kiến thức để làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của các hiện tượng xã hội. Đây
cũng chính là cơ sở của mối quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa Tâm lý học xã hội và các khoa học khác.
V. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
1. Các nguyên tắc phương pháp luận
a) Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng
Nguyên tắc này nhấn mạnh vai trò quyết định của các điều kiện vật chất, của các điều kiện
thực tiễn đối với các hiện tượng tâm lý xã hội. Các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trên cơ
sở của các điều kiện sống, điều kiện hoạt động của nhóm, của cộng đồng. Nguồn gốc của các
hiện tượng tâm lý xã hội phải được tìm kiếm trong đời sống thực. Các hiện tượng tâm lý xã
hội không phải nảy sinh một cách “tự nó”, tồn tại lơ lửng đâu đó không có chủ thể. Do vậy, lý
giải các hiện tượng tâm lý xã hội phải xuất phát từ các hiện tượng cụ thể trong đời sống xã
hội, tìm tòi các nguyên nhân làm nảy sinh các hiện tượng tâm lý xã hội trong đời sống xã hội
hiện thực của con người, trong nhóm người, cộng đồng người cụ thể. Đó chính là nguyên tắc
duy vật trong nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội. Ngược lại, các hiện tượng tâm lý xã
hội khi đã hình thành lại có được sự độc lập lOMoAR cPSD| 42619430
tương đối đối với tồn tại xã hội và có sức mạnh riêng của nó. Nó có thể chi phối ngược lại đến
các điều kiện xã hội tạo ra những thay đổi, những vận động nhất định. Các hiện tượng tâm lý
xã hội như dư luận xã hội, truyền thống xã hội, tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo... có những sức
mạnh to lớn trong việc điều chỉnh hành vi của con người, của cộng đồng, thậm chí nó có thể
tạo ra những sức mạnh làm thay đổi tiến trình của lịch sử trong những thời điểm nhất định.
Đó hình là lập trường biện chứng khi nhìn nhận, đánh giá, nghiên cứu các hiện tượng tâm lý
xã hội. Như vậy, nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng chỉ ra cách thức tiếp cận, lý
giải và đánh giá các hiện tượng tâm lý xã hội một cách đầy đủ và toàn diện.
b) Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan
Nguyên tắc này đòi hỏi khi nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, phải nghiên cứu như nó
vốn có, vốn tồn tại trong đời sống hiện thực. Các dữ liệu thu được không được bóp méo, hoặc
bị làm sai lệch. Khi lý giải các hiện tượng không được áp đặt chủ quan. Để thực hiện được
điều đó, người nghiên cứu cần có khả năng phát hiện các hiện tượng tâm lý xã hội, có khả
năng lựa chọn, sử dụng các phương pháp, công cụ thu thập dữ liệu phù hợp, cho độ tin cậy và
chính xác cao. Bên cạnh đó, bản thân người nghiên cứu có thái độ trung thực, khoa học trong
khi thu thập và xử lý dữ liệu. Nguyên tắc khách quan làm tăng giá trị của các kết quả nghiên
cứu và giúp các nghiên cứu ngày càng tiến gần hơn đến bản chất của các hiện tượng tâm lý xã hội cần nghiên cứu.
c) Nguyên tắc nghiên cứu các hiện tượng Tâm lý xã hội trong mối liên hệ với các
hiện tượng xã hội và trong mối liên hệ với các hiện tượng tâm lý xã hội khác
Nguyên tắc này được đề ra trên cơ sở coi mọi hiện tượng tâm lý xã hội đều nảy sinh trên các
điều kiện sống xã hội, nói cách khác các hiện tượng tâm lý xã hội là sự phản ánh các điều kiện
xã hội của nhóm, của cộng đồng. Để chỉ ra nguồn gốc của các hiện tượng tâm lý xã hội người
nghiên cứu phải tìm hiểu các hiện tượng xã hội có liên quan. Ví dụ: Một chính sách xã hội
một sự kiện xã hội là những nhân tố xã hội tạo ra tâm trạng hay dư luận xã hội. Tất nhiên
ở đây không đơn giản là mối quan hệ nhân quả, sự kiện nào tâm lý xã hội ấy mà có hàng loạt
các yếu tố khác trong đời sống của cá nhân, nhóm và cộng đồng xã hội tác động đến sự phản
ánh các sự kiện xã hội đó. Đặt các hiện tượng tâm lý xã hội cần nghiên cứu trong mối liên hệ
với các hiện tượng xã hội cho phép thấy rõ hơn nội dung, mức độ, diễn biến của các hiện
tượng tâm lý xã hội. Cũng chính vì thế, các hiện tượng tâm lOMoAR cPSD| 42619430
lý xã hội khác nhau có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau như bản thân các điều kiện xã
hội mà nó phản ánh. Mỗi hiện tượng tâm lý xã hội có vai trò, vị trí nhất định trong đời sống
xã hội. Ví dụ: dư luận xã hội tồn tại trong thời gian tương đối ngắn, có chức năng thúc đẩy
hoặc kìm hãm những hành vi xã hội nào đó vào thời điểm nhất định, trong khi đó truyền
thống của nhóm lớn lại đóng vai trò điều chỉnh hành vi trong thời gian dài hơn, tạo ra sự
thống nhất cả thái độ, hành vi, giá trị cho các thế hệ khác nhau. Mặt khác dư luận xã hội lại
được hình thành trên cơ sở những giá trị đã ổn định của nhóm, của xã hội - đó chính là nhân
tố thuộc về truyền thống. Nói cách khác, ở đây hai hiện tượng tâm lý xã hội mặc dù có những
sự khác biệt nhưng có quan hệ chặt chẽ và có thể chuyển hóa lẫn nhau.
d) Nguyên tắc phát triển
Nguyên tắc này nhấn mạnh đến việc tiếp cận, nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội trong
sự vận động, biến đổi và phát triển của nó. Theo quan điểm biện chứng, sự vật hiện tượng
luôn vận động biến đổi, không có sự vật hiện tượng nào là bất biến. Coi sự vật hiện tượng là
bất biến tức là rơi vào quan điểm siêu hình. Sự vật hiện tượng tồn tại ổn định tương đối, vận
động và biến đổi là tuyệt đối. Xã hội cũng vậy, nó cũng vận động, biến đổi và phát triển theo
các quy luật, các chiều hướng nhất định. Với tư cách là sự phản ánh đời sống xã hội, các hiện
tượng tâm lý xã hội cũng không thể là bất biến. Các hiện tượng tâm lý xã hội cũng nảy sinh,
hình thành và phát triển theo những quy luật, những chiều hướng nhất định. Với sự độc lập
tương đối của chúng, các hiện tượng tâm lý xã hội có thể chuyển hóa lẫn nhau, tác động qua
lại làm nảy sinh các hiện tượng tâm lý xã hội mới. Hội chứng “tâm lý đám đông” trong lĩnh
vực chứng khóan gần đây là ví dụ điển hình cho sự tác động qua lại và chuyển hóa này. Từ
việc bắt chước hành vi của người khác, cá nhân có hành vi giống người khác, sự giống nhau
về hành vi lại trở thành kích thích làm nảy sinh tâm trạng chung tạo điều kiện cho sự bắt
chước thuận lợi hơn. Sự tác động qua lại đó làm cho hành vi của đám đông không kiểm soát
được. Chỉ khi có một tác động lớn nào đó làm cho vòng xoáy tác động đó đột ngột bị dừng
lại, hiệu lực của sự tác động qua lại đó mới giảm đi. Như vậy, với tư cách là sự phản ánh đời
sống xã hội, các hiện tượng tâm lý xã hội luôn vận động, phát triển, với tư cách là các hiện
tượng tinh thần của nhóm, của cộng đồng xã hội có sự độc lập tương đối, các hiện tượng tâm
lý xã hội cũng luôn vận động và phát triển không ngừng. Do vậy, cách tiếp cận đúng đắn
chính là tiếp cận phát triển. lOMoAR cPSD| 42619430
Trên đây là các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản đối với việc nghiên cứu các hiện tượng
tâm lý xã hội. Các nguyên tắc đó chỉ đạo việc tiếp cận, thu thập, phân tích và khái quát kết
quả nghiên cứu. Để có được các dữ liệu về các hiện tượng tâm lý xã hội, người nghiên cứu
cần lựa chọn và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau cho phù hợp với mục
đích và đối tượng nghiên cứu. Sau đây là một số các phương pháp nghiên cứu cụ thể thường
được sử dụng trong các nghiên cứu Tâm lý học xã hội.
2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu các tài liệu có ý nghĩa lớn, vì nhờ phương pháp này có thể hệ thống hóa, phân
tích và xây dựng được bức tranh chung về vấn đề cần nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu
tài liệu, nhà nghiên cứu có thể xác định được những vấn đề đã được giải quyết, mức độ giải
quyết một vấn đề vấn đề cần làm rõ thêm, các vấn đề chưa được giải quyết... Qua đó, nó cho
phép định hướng nghiên cứu. Việc nghiên cứu tài liệu đóng vai trò quan trọng trong việc xác
định hoặc xây dựng hệ thống các khái niệm mà nhờ đó nghiên cứu có thể được tiến hành. Một
cách ví von, nghiên cứu tài liệu chính là tìm cách “đứng trên vai những người khổng lồ” để
tiến xa hơn trong nghiên cứu và tiến gần hơn đến bản chất của đối tượng nghiên cứu. Thực
hiện phương pháp này để thu thập thông tin, nhà nghiên cứu cần thiết lập danh mục tài liệu
nghiên cứu, ghi lại các nội dung có liên quan, phân tích, phê phán và khái quát các kết quả nghiên cứu đã có.
Một vấn đề đặc biệt xuất hiện ở đây liên quan đến việc nhà nghiên cứu lựa chọn, trình bày tài
liệu như thế nào. Nhà nghiên cứu cũng là con người với những đặc điểm tâm lý cá nhân có
sẵn của riêng mình với các lựa chọn chủ quan, do vậy việc nghiên cứu tài liệu phải phải ánh
đúng và đầy đủ các quan điểm khác nhau. Để tránh dạng “chủ quan” (việc trình bày tài liệu
theo cách của nhà nghiên cứu) mới này, một thủ pháp đặc biệt có tên gọi là “phân tích nội
dung” được đưa vào (Bôgômôlôva, Xtêphanenko, 1992). Đây là phương pháp phân tích tài
liệu đặc biệt, dựa trên hình thức của tài liệu: đoạn văn bản được tách riêng ra “các đơn vị”,
sau đó tính toán tần suất được sử dụng của chúng. Phương pháp phân tích nội dung chỉ có ý
nghĩa sử dụng trong các trường hợp, khi nhà nghiên cứu phải làm việc với các khối thông tin
lớn, cho nên phải phân tích rất nhiều văn bản.
b) Phương pháp quan sát lOMoAR cPSD| 42619430
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, trong
đó có Tâm lý học xã hội. Trong Tâm lý học xã hội, quan sát là tri giác các hiện tượng tâm lý
xã hội cần nghiên cứu một cách có chủ định, có kế hoạch nhằm phát hiện những dữ kiện cần
thiết cho các nghiên cứu. Phương pháp quan sát có thể được sử dụng độc lập hoặc cũng có thể
được sử dụng như là một phương pháp bổ sung cho một phương pháp khác. Có nhiều loại
quan sát khác nhau: quan sát tự nhiên hay quan sát trong phòng thí nghiệm, quan sát phát hiện
hay quan sát kiểm định, quan sát ngắn hạn hay quan sát dài hạn. Trong Tâm lý học xã hội
hiện đại có mối quan tâm đặc biệt với một dạng của quan sát là quan sát tham gia, khi nhà
nghiên cứu (giấu mặt) trở thành một thành viên của nhóm đang được nghiên cứu. Việc lựa
chọn các hình thức quan sát phụ thuộc vào ý đồ, mục đích và điều kiện cụ thể của người
nghiên cứu. Hiện nay, nhà nghiên cứu có thể sử dụng nhiều thiết bị hiện đại để hỗ trợ và lưu
giữ các biểu hiện của hiện tượng cần nghiên cứu như các phương tiện ghi âm, ghi hình, các
camera quan sát... ưu điểm cơ bản của phương pháp quan sát là dễ tiến hành, chi phí thấp, linh
hoạt. Đặc biệt đối với việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, thường diễn ra nhanh
chóng, không lặp lại, việc sử dụng phương pháp quan sát có lợi thế lớn vì tính linh hoạt của
nó. Bên cạnh các ưu điểm, phương pháp quan sát cũng có những hạn chế nhất định. Hạn chế
lớn nhất là nó phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và tính chủ quan của nhà quan sát. Một người
nghiên cứu ít kinh nghiệm có thể bỏ qua những biểu hiện có vẻ không quan trọng nhưng lại là
dấu hiệu bản chất của hiện tượng, hay người nghiên cứu có thể bỏ qua những dấu hiệu ít liên
quan đến đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra, phương pháp này còn đòi hỏi sự chú ý liên tục và
lâu dài của người nghiên cứu bởi vì các hiện tượng cần nghiên cứu có thể diễn ra bất kì lúc
nào có thể làm người nghiên cứu bị động. Một khía cạnh khác cũng cần lưu ý là phương pháp
quán sát chủ yếu cung cấp các dữ liệu trực quan, cảm tính. Nó cũng cấp các dữ liệu chủ yếu
về các hành vi “bên ngoài” - được bộc lộ ra bên ngoài của cá nhân hay nhóm xã hội, mà ít cho
thấy những cấu trúc nhận thức bên trong. Do vậy để sử dụng các dữ liệu này một cách hiệu
quả cần kết hợp với các dữ liệu thu được từ các phương pháp khác.
c) Điều tra (Thăm dò ý kiến)
Đây là phương pháp rất được phổ biến trong các nghiên cứu Tâm lý học xã hội. Trong số rất
nhiều dạng thăm dò ý kiến, phổ biến nhất trong Tâm lý học xã hội là phỏng vấn và điều tra
bằng bảng hỏi. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được sử dụng phổ biến trong Tâm lý học
xã hội, đặc biệt trong việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội của lOMoAR cPSD| 42619430
các nhóm lớn như nghiên cứu dư luận xã hội, các đặc trưng tâm lý của các nhóm lớn. Phương
pháp này cho phép nghiên cứu trên lượng khách thể lớn, với thời gian ngắn và có khả năng
khái quát kết quả cao. Tất nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định. Để thực
hiện phương pháp này, điều quan trọng nhất là xây dựng, thiết kế các câu hỏi. Việc xây dựng
bảng câu hỏi để kê khai đòi hỏi nghệ thuật của nhà nghiên cứu. Lôgic của việc xây dựng câu
hỏi, thứ tự các câu hỏi, kiểu của chúng (mở - đóng) cần phải được suy tính kĩ càng. Người lập
bảng điền kê khai cần phải có “chìa khóa”, nhờ đó các câu trả lời câu hỏi có thể được trình
bày một cách thích hợp. Để có được bảng câu hỏi đáp ứng được các tiêu chí đo lường tâm lý
như: độ ứng nghiệm (hay còn gọi là độ hiệu lực), độ tin cậy... người thiết kế cần được đào tạo
về kĩ thuật thiết kế các bảng hỏi và phải thực hiện một quy trình đầy đủ. Có nhiều quy tắc xây
dựng cho mỗi bảng câu hỏi, phân bố chúng theo một trật tự nhất định, nhóm lại thành các khối riêng biệt...
d) Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm là một trong những phương pháp nghiên cứu quan trọng trong Tâm lý học xã
hội. Trong Tâm lý học xã hội người ta phân biệt hai dạng thực nghiệm chủ yếu: trong phòng
thí nghiệm và tự nhiên. Đối với cả hai dạng, tồn tại một số quy tắc chung thể hiện bản chất
của phương pháp, đó là: người làm thực nghiệm tự do đưa ra những biến số độc lập và kiểm
soát chúng cũng như kiểm soát cả những thay đổi của các biến số phụ thuộc. Trong đó, yêu
cầu tách riêng các nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm để các kết quả do đặc có thể được
so sánh với một chuẩn mực nào đó. Để thực hiện phương pháp này, đòi hỏi nhà nghiên cứu
phải tuân thủ một loạt các yêu cầu một cách nghiêm ngặt như xác định mục đích thực nghiệm,
thiết kế thực nghiệm, kiểm soát các biến số, tiến hành thực nghiệm đúng với thiết kế... Đặc
biệt trong thực nghiệm Tâm lý học xã hội nhà nghiên cứu được yêu cầu phải tuân thủ đầy đủ
các chuẩn mực đạo đức nghiên cứu vì các nghiên cứu liên quan đến khách thể là con người.
Trong lịch sử Tâm lý học xã hội đã có những nghiên cứu thực nghiệm nổi tiếng. Đó là những
nghiên cứu về áp lực của nhóm đối với cá nhân, nghiên cứu về việc bắt chước các hành vi xã
hội của người khác, nghiên cứu về vai xã hội...
e) Trắc đạc xã hội
Trắc đạc xã hội là phương pháp nghiên cứu nổi tiếng của trường phái Trắc đạc xã hội gắn liền
với tên tuổi của J.Moreno. J.Moreno cho rằng: trong nhóm nhỏ tồn tại hai cấu lOMoAR cPSD| 42619430
trúc các mối quan hệ - cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô. Cấu trúc vĩ mô là các mối quan hệ
qua lại về mặt công việc, hoạt động sống và chức năng của các cá nhân. Cấu trúc vi mô là cấu
trúc quan hệ tâm lý của cá nhân với những người xung quanh thể hiện chủ yếu ở sự thiện cảm
ác cảm hay thờ ơ giữa các thành viên. Nguyên nhân của sự không trùng khớp là ở chỗ: những
người cùng hoạt động trong một không gian có thể là những người không có được sự thân
thiện về mặt tâm lý. Do vậy, sử dụng phương pháp này có thể “làm bộc lộ các cấu trúc ẩn dấu,
những vị trí cá nhân trong nhóm”, chỉ ra các tiếp xúc xúc cảm, vị thế của cá nhân trong các
quan hệ xúc cảm, ảnh hưởng của các mức độ quan hệ xúc cảm đến tính hiệu quả hay đến sự
hình thành các chuẩn mực nhóm, đến hiện tượng áp lực nhóm... Để nghiên cứu các vấn đề đó,
J.Moreno đã đưa ra phương pháp Trắc đạc xã hội. Phương pháp này được sử dụng phổ biến
để xác định các mối liên hệ liên nhân cách trong nhóm, dựa trên sự lựa chọn, khước từ hoặc
bỏ mặc của các thành viên trong nhóm với các thành viên khác của nhóm trong hoạt động
chung. Nó còn được sử dụng để nghiên cứu các cấu trúc không chính thức của nhóm, đo
lường vị thế của cá nhân trong nhóm, khả năng hoà nhập của cá nhân trong nhóm. Phương
pháp này cho phép xác định các quan hệ xúc cảm qua lại giữa các thành viên trong nhóm, từ
đó có thể xây dựng được một sơ đồ về cấu trúc vi mô, đồng thời xác định cách phân nhóm tối
ưu, làm cho cấu trúc vĩ mô phù hợp với cấu trúc vi mô, góp phần làm cho các nhóm trở nên
gắn kết và có hiệu quả hơn. Trắc đạc xã hội được thực hiện dưới dạng điều tra. Nhà nghiên
cứu lựa chọn các tiêu chí trắc đạc cần quan tâm, sau đó điều tra sự lựa chọn của các cá nhân
theo tiêu chí trắc đạc đó. Ví dụ: để nghiên cứu mối quan hệ về mặt xúc cảm của các cá nhân
đối với cá nhân khác trong nhóm, người nghiên cứu có thể lựa chọn tiêu chí trắc đặc: nếu
được lựa chọn ai đó trong nhóm để đi du lịch cùng, anh (chị) sẽ lựa chọn ai?". Dựa trên sự lựa
chọn của các cá nhân trong nhóm có thể mô tả được cấu trúc không chính thức của nhóm dưới
dạng họa đồ xã hội (sociogram) hoặc tính các chỉ số vị thế xã hội (sociostatus) hoặc chỉ số cố
kết nhóm (group cohension).
f) Phương pháp đánh giá của nhóm về cá nhân
Phương pháp này thường được sử dụng trong việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nhân
cách xã hội. Ví dụ, tìm hiểu những phẩm chất hay năng lực cần có ở người lãnh đạo nhóm
hoặc tập thể, để từ đó xây dựng mô hình nhân cách của các cá nhân trong một vị trí xã hội nào
đó hoặc để đánh giá các mức độ phát triển của các phẩm chất, năng lực đó ở cá nhân cụ thể
dưới con mắt của các thành viên khác trong nhóm. Để thực hiện việc này, lOMoAR cPSD| 42619430
người nghiên cứu có thể hình thành trước một danh sách bao gồm nhiều phẩm chất tâm lý xã
hội mà cá nhân cần có ở một vị trí nhất định (dựa vào việc phân tích nội dung, tính chất công
việc... hoặc dựa vào các điều tra sơ bộ) sau đó đề nghị các cá nhân của nhóm đánh giá mức độ
phát triển các phẩm chất đó ở một cá nhân cụ thể cần nghiên cứu. Kết quả cho biết cá nhân có
được các phẩm chất, năng lực ở mức độ nào theo sự nhận biết, đánh giá của cá nhân khác
hoặc một cá nhân cần có những phẩm chất hay năng lực nào tương ứng với vị trí và vai xã hội nhất định.
NHỮNG HƯỚNG ỨNG DỤNG CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI:
Tâm lý học xã hội ngày càng được chú ý hơn trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong các lĩnh vực ứng dụng của nó.
- Quản lý và phát triển tổ chức: Hướng vận dụng này đang trở thành phổ biến trong
xã hội hiện đại ở các tổ chức thuộc mọi lĩnh vực: sản xuất, kinh doanh, giáo dục. Những
khía cạnh cơ bản gồm: các phương thức quản lý, các phẩm chất tâm lý của người quản lý,
giao tiếp công việc, phát triển tổ chức, tư vấn tổ chức, quản trị nhân sự, xây dựng và phát triển nhóm làm việc.
- Thông tin đại chúng và quảng cáo: Hướng vận dụng này tập trung vào các vấn đề
như người truyền tin, thông điệp, sự giải mã thông tin, tự giác các thông điệp, kênh thông
tin, qua đó đưa ra các cách thức tổ chức thông tin và tác động hiệu quả nhất đến công chúng.
- Gia đình và nhà trường: Lĩnh vực này bao gồm các nội dung cơ bản như: phổ biến
kiến thức tâm lý xã hội, tham vấn tâm lý, tư liệu những lệch lạc tâm lý xã hội, tư vấn chuẩn
bị hôn nhân, điều chỉnh các quan hệ gia đình...
- Luật pháp và chính trị: Các vấn đề được tập trung giải quyết bao gồm: trẻ phạm
pháp vị thành niên, cảnh báo tội phạm xã hội, các nhóm nhỏ tội phạm, đồng giới tham vấn
các vấn đề chính trị hình thành hình ảnh chính trị, uy tín chính trị...
- Tổ chức hoạt động của các tập thể trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
- Trong lĩnh vực giáo dục đại học, hầu hết các vấn đề cơ bản của Tâm lý học xã hội
đều hiện diện: từ việc tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục sinh viên trong nhóm, tập thể
đến việc thiết lập, vận hành các quan hệ xã hội và liên nhân cách: giảng viên - sinh viên; từ
những hiện tượng tâm lý xã hội đơn giản như sự tương tác qua lại giữa các cá nhân đến lOMoAR cPSD| 42619430
những hiện tượng tâm lý xã hội phức tạp như sự đồng nhất hóa, hay sự cố kết, đoàn kết trong
tập thể... Do vậy, những tri thức tâm lý học xã hội góp phần đáng kể trong việc phát hiện, lý
giải và hình thành các tác động đối với các hiện tượng tâm lý xã hội, từ đó giúp việc tổ chức
dạy học diễn ra thuận lợi và có hiệu quả hơn.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I
1. Phân biệt hiện tượng tâm lý xã hội với hiện tượng xã hội, hiện tượng Tâm lý
xã hội với tâm lý cá nhân.
2. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội là gì? Mối quan hệ của Tâm lý
học xã hội nói các khoa học khác?
3. Có những phương pháp nào được sử dụng trong các nghiên cứu Tâm lý học
xã hội? Mô tả sơ lược các phương pháp đó.
Chương 2. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI
I. CÁC QUY LUẬT TÂM LÝ XÃ HỘI
1. Quy luật kế thừa
Để tồn tại và phát triển, con người phải tiếp thu những yếu tố có sẵn, từ đó cải biến chúng
cho phù hợp với các điều kiện hiện tại. Nếu không có sự kế thừa thì sẽ không có sự phát triển.
Xã hội loài người cũng vậy, có được những thành tựu như ngày nay, xã hội loài người phải
“đứng trên vai” những thành tựu của hàng ngàn năm phát triển khoa học, công nghệ, văn hóa
và xã hội. Sau này cũng vậy, những thành tựu của xã hội hiện tại lại được tiếp thu cải biến
cho các giai đoạn xã hội mai sau. Phản ánh đời sống xã hội, các hiện tượng tâm lý xã hội cũng
diễn ra theo quy luật này. Các hiện tượng tâm lý xã hội không phát triển theo con đường sinh
học, bằng di truyền sinh học mà bằng con đường “di sản xã hội”. Đặc biệt, đối với các hiện
tượng tâm lý xã hội liên quan đến các nhóm lớn xã hội như dân tộc, giai tầng xã hội, cộng
đồng xã hội, quy luật kế thừa được vận hành một cách phổ biến.
Kế thừa được hiểu là sự chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác các giá trị vật chất
(công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt, công trình văn hóa nghệ thuật...) và các giá trị tinh thần
(kinh nghiệm sản xuất, truyền thống, phong tục tập quán...). lOMoAR cPSD| 42619430
Nhờ quy luật kế thừa, một cá nhân không cần phải trải qua toàn bộ các giai đoạn phát triển
của loài trong kinh nghiệm của bản thân mà chỉ cần kế thừa cái đã có để có được sự phát triển
tương ứng trong hiện tại. Một nhóm xã hội không cần lặp lại toàn bộ các giai đoạn mà xã hội
đã trải qua mà có thể dựa trên nền tảng đã có để phát triển nhanh hơn, mạnh hơn. Một dân tộc
với các truyền thống của mình, có thể bảo tồn, duy trì và tiếp tục phát triển chúng trong thời
kì mới mà không cần phải xây dựng lại từ đầu. Trong quá trình phát triển của dân tộc, các
truyền thống khác lại dần được hình thành. Việc kế thừa, một mặt giúp rút ngắn thời gian phát
triển, mặt khác tạo điều kiện để sàng lọc, loại bỏ các giá trị không phù hợp. Như vậy nó tạo ra
sự phát triển ổn định, không đứt quãng cho xã hội.
Kế thừa tâm lý xã hội diễn ra theo nhiều con đường khác nhau. Có thể đó là con đường
của “vô thức tập thể”, tức là cá nhân sống trong một môi trường nhóm, cộng đồng xã hội nào
đó với các đặc điểm tâm lý riêng, ở cá nhân dần có sự kế thừa các đặc điểm tâm lý đó mà bản
thân cá nhân không ý thức được điều đó. Các thế hệ sau nối tiếp các thế hệ trước và tiếp tục
duy trì các nét tâm lý đó. Tính cách dân tộc, lòng tự hào dân tộc, cách thức ứng xử với người
khác, thậm chí cách thức nhìn nhận, đánh giá và tư duy của cả một cộng đồng là minh chứng
rõ ràng về con đường kế thừa này. Nói đến cách tư duy của các dân tộc, các nhà nghiên cứu
đều nhắc đến hai kiểu tu duy có sự phân biệt tương đối rõ rệt. Mỗi kiểu tư duy gắn với các
cộng đồng người ở các khu vực và các nền văn hóa khác nhau. Đó là kiểu tư duy biện chứng
nhìn nhận sự vật luôn vận động và biến đổi liên tục thậm chí không thấy được sự ổn định
tương đối của nó trong các xã hội phương Đông mà thuyết “vô thường - sắc không” của Phật
giáo là ví dụ. Ngược lại là kiểu tư duy lôgic chặt chẽ coi trọng sự ổn định của sự vật đến mức
siêu hình của phương Tây. Các hiện tượng tâm lý xã hội đó được kế thừa một cách “tự
nhiên”. Chúng ngấm vào từng cá nhân trong cộng đồng xã hội thông qua giao tiếp tương tác
của cá nhân với các cá nhân khác trong các nhóm xã hội. Theo cách nói của Mác: “sự phát
triển của mỗi cá nhân phụ thuộc vào các cá nhân mà nó giao tiếp trực tiếp hay gián tiếp". Bên
cạnh con đường kế thừa tự nhiên là kế thừa một cách có ý thức, thông qua các tác động giáo
dục của xã hội. Bất kì một thể chế xã hội nào cũng đề cao các giá trị truyền thống nào đó phù
hợp với tính chất và xu hướng phát triển của nó. Do vậy, việc giáo dục các giá trị, các chuẩn
mực trở thành công việc được tổ chức một cách có ý thức trong các hoạt động của xã hội đó
như giáo dục, truyền thông. Đồng thời, mỗi cá nhân ở mức độ phát triển nhất định, có khả
năng lựa chọn những giá trị phù hợp với bản thân để kế thừa. lOMoAR cPSD| 42619430
Sự kế thừa tâm lý xã hội diễn ra rất phức tạp. Nó là sự kế thừa những nét tâm lý chung của
cộng đồng xã hội nhưng lại tồn tại trong tâm lý riêng của cá nhân và được thể hiện với màu
sắc riêng của mỗi chủ thể. Biểu tượng dân tộc “con Rồng cháu Tiên” của người Việt chẳng
hạn. Đây là biểu tượng tâm lý xã hội của cả dân tộc, được bảo lưu, gìn giữ từ thế hệ này sang
thế hệ khác, nhưng độ sắc nét và đặc biệt ý nghĩa của nó được các cá nhân cảm nhận ở các
mức độ và các tầng bậc khác nhau. Hơn nữa, từ biểu tượng chung đến sự thống nhất các hành
vi xã hội cùng còn những khoảng cách không nhỏ.
Quy luật kế thừa cũng quy định sự phát triển của các cá nhân phụ thuộc vào sự tiếp xúc
với các cá nhân khác. Trong quá trình tiếp xúc các giá trị được chuyển giao và được tiếp nhận
bởi các thế hệ mới. Các giá trị đó tạo điều kiện cho thế hệ mới phát triển.
Có nhiều hình thức kế thừa khác nhau. Trong đó có hai loại kế thừa được đề cập đến
nhiều, đó là kế thừa có chọn lọc và kế thừa nguyên si. Kế thừa có chọn lọc là loại kế thừa có
phê phán, có tính đến sự phù hợp của các yếu tố được kế thừa với điều kiện hiện tại. Hình
thức kế thừa này được coi là rất tích cực, nó tạo điều kiện cho cái được kế thừa có sức mạnh
phát triển mới, đồng thời tạo điều kiện cho cái mới có cơ sở vững chắc. Kế thừa nguyên si là
dạng kế thừa y nguyên không có sự thay đổi, là tiếp nhận cái cũ một cách vô điều kiện. Dạng
kế thừa này nhiều khi tạo ra sự trì trệ, kìm hãm sự phát triển của cái mới và làm các yếu tố
được kế thừa trở nên lạc lõng và suy yếu đi. Truyền thống phong tục, tập quán là sự thể hiện
sinh động của quy luật này. Bên cạnh phong tục, tập quán có ý nghĩa tích cực với hiện tại, tồn
tại những hủ tục, những tập quán đóng vai trò cản trở, kìm hãm cái mới. Như vậy, quy luật kế
thừa cho thấy trong đời sống xã hội, các hiện tượng tâm lý xã hội không tự chủ tiêu mà nó có
thể được gìn giữ, bảo lưu từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Vấn đề là lựa chọn con đường
nào và làm thế nào để các hiện tượng tâm lý xã hội tích cực có thể được kế thừa một cách hiệu quả.
2. Quy luật về sự quyết định của các điều kiện kinh tế - xã hội đối với tâm lý xã hội.
Quy luật này là sự thể hiện của quy luật chung về sự quyết định của tồn tại xã hội đối với
ý thức xã hội. Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng sự ra đời của các thiết chế xã hội,
chính trị, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... đều xuất phát từ tồn tại xã hội. Các hiện tượng tâm
lý xã hội với tư các là các hiện tượng tinh thần của xã hội cũng chịu sự chi phối của quy luật
này. Biểu hiện cụ thể của quy luật này trong các hiện tượng tâm lý xã hội có thể thấy như sau: lOMoAR cPSD| 42619430
Các nguyện vọng, tâm trạng, nhu cầu của xã hội bắt nguồn chính từ các điều kiện xã hội,
trong đó con người đang sống và hoạt động. Tâm trạng xã hội tích cực, hưng phấn (được các
nhà nghiên cứu đánh giá, ví dụ: chỉ số lạc quan cao, chỉ số hạnh phúc cao...) bắt nguồn từ sự
đi lên của kinh tế từ sự đầy đủ hơn của các điều kiện sống. Sự xuất hiện và đặc biệt sự ý thức
về các nhu cầu xã hội (với tư cách là một hiện tượng tâm lý xã hội) ở bậc cao hơn chỉ có thể
diễn ra khi các điều kiện xã hội đã phần nào giúp thỏa mãn các nhu cầu xã hội cấp thấp hơn.
Ví dụ các vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc, vấn đề thay đổi khí hậu các vấn đề môi trường...
Như vậy, muốn nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội phải chỉ ra được các điều kiện xã
hội quy định nó. Ngược lại muốn tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội nào đó, phải chuẩn bị
các điều kiện xã hội tương ứng, nếu muốn các hiện tượng tâm lý xã hội do diễn ra có hiệu quả.
Các quan hệ xã hội trong cộng đồng: trong nhóm xã hội quy định các hiện tượng tâm lý xã
hội. Các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trên cơ sở tương tác giữa các cá nhân trong nhóm,
trong cộng đồng, đồng thời các tương tác đó diễn ra chính trong các quan hệ xã hội. Các mối
quan hệ được vận hành hợp lý: quan hệ lợi ích, quan hệ trách nhiệm... sẽ làm nảy sinh bầu
không khí xã hội tích cực cởi mở, ngược lại có thể làm nảy sinh xung đột, tạo ra bầu không
khí căng thẳng tiêu cực. Do vậy, muốn tác động đến các hiện tượng tâm lý xã hội, một trong
số các con đường cơ bản đó là cải tạo các quan hệ xã hội cho hợp lý hơn.
Bên cạnh việc khẳng định tính quyết định của các điều kiện kinh tế - xã hội đối với các
hiện tượng tâm lý xã hội, cũng cần thấy được tính độc lập tương đối và tác động ngược lại
của các hiện tượng tâm lý xã hội đối với các điều kiện kinh tế - xã hội. Sự tác động ngược lại
cũng có thể tạo ra những động lực làm biến đổi các điều kiện kinh tế - xã hội trong những
thời điểm nhất định đặc biệt khi sự tác động ngược đó được tổ chức và tập hợp một cách hợp
lý. Việc cởi bỏ nếp tư duy bao cấp, máy móc và giáo điều đã tạo ra sự chuyển biến vô cùng
mạnh mẽ trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta những năm qua là một minh chứng rõ
ràng cho tác động ngược lại đó.
3. Quy luật bắt chước
Quy luật bắt chước là quy luật được chỉ ra sớm nhất trong Tâm lý học xã hội. Nó đã được
đề cập đến trong tác phẩm Những quy luật của sự bắt chước năm 1890 của G.Tarde. lOMoAR cPSD| 42619430
Ông đã dùng quy luật này để giải thích hành vi của con người, đặc biệt là những hành vi
giống nhau giữa các cá nhân trong quá trình tác động qua lại.
Theo G.Tarde: Bắt chước là sự cụ thể hóa của “quy luật lặp lại của thế giới”. Thế giới vận
động và phát triển theo con đường lặp lại. Di truyền sinh học là lặp lại, phủ định của phủ định
là lặp lại. Trong xã hội loài người, sự lặp lại chính là bắt chước. Đây là nền tảng để xã hội tồn
tại và phát triển. Nhờ bắt chước mà các phát minh, sáng chế, các hành vi có ích của xã hội
được duy trì, trên cơ sở đó được khai thác lại.
Bắt chước có tính chất vô thức. Do là sự sao chép máy móc các hành vi bề ngoài của
những người khác. Bắt chước người khác chính là “sao, chụp” lại người khác.
G. Tarde cũng chỉ ra một số kiểu bắt chước khác nhau: bắt chước lôgic (trí tuệ ý thức) - bắt
chước phi lôgic (cảm tính, phi lý); bắt chước nhất thời và bắt chước lâu dài; bắt chước hình
thức và bắt chước bản chất; bắt chước giữa các thế hệ, giữa các giai cấp.
Thực chất việc Tarde đề ra quy luật bắt chước chủ yếu dựa vào quan sát chứ chưa có các
nghiên cứu thực nghiệm cụ thể. Tuy vậy, sự bắt chước rõ ràng diễn ra phổ biến trong đời sống
xã hội và tạo ra một loạt các hiện tượng tâm lý xã hội như thị hiếu, mốt thời trang, trào lưu, xu hướng, làn sóng.
Việc đề cao thái quá quy luật bắt chước như là một quy luật tổng hợp để giải thích các hiện
tượng tâm lý xã hội đương nhiên là không hợp lý. Tuy vậy những phát hiện của Tarde đã
được các nhà nghiên cứu tâm lý học xã hội tiếp thu - chính xác hóa và coi như một trong số
các quy luật chi phối sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội.
Có thể hiểu bắt chước như là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại những hành vi, cách suy nghĩ, các
tâm trạng của các cá nhân khác trong đời sống xã hội. Quy luật này có vai trò chính trong
việc tạo ra sự đồng nhất giữa các cá nhân trong các nhóm xã hội, nhờ đó nó có thể tạo ra các
đặc trưng của các nhóm xã hội khác nhau. Sự bắt chước trong cách ăn mặc, cách nói năng của
nhóm lứa tuổi như thiếu niên chẳng hạn, tạo ra sự khác biệt với các nhóm lứa tuổi khác.
4. Quy luật tác động qua lại giữa con người với con người
Tác động qua lại là quy luật phổ biến chi phối sự hình thành các hiện tượng tâm lý xã hội.
Tham gia vào các nhóm xã hội, các cá nhân liên tục tác động ảnh hưởng đến các cá nhân khác
và ngược lại chịu sự tác động của các cá nhân khác. Sở dĩ các hiện tượng tâm lý xã lOMoAR cPSD| 42619430
hội nảy sinh là do sự tác động qua lại này. Sự tác động qua lại giữa các cá nhân diễn ra thông
qua hoạt động cùng nhau và giao tiếp. Tần suất hoạt động cùng nhau và giao tiếp là chỉ báo
cho mức độ tương tác giữa các cá nhân.
Sự tác động qua lại giữa các cá nhân có thể mang tính chất tích cực hay tiêu cực. Sự tác động
qua lại theo kiểu hợp tác là điều kiện cho sự phát triển các mối quan hệ cá nhân. Ngược lại:
sự tác động qua lại theo kiểu cạnh tranh có thể trở thành nhân tố kìm hãm các mối quan hệ.
Sự tác động qua lại có thể dẫn tới sự thay đổi về thái độ, tình cảm hay hành vi ở các cá nhân
và tạo ra các hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm như bầu không khí nhóm, tâm trạng nhóm.
Sự thống nhất các ý kiến sự thống nhất hành vi của các thành viên cũng có thể coi là kết quả
của sự tác động qua lại. Các mức độ tác động qua lại giữa các cá nhân phụ thuộc vào sự thống
nhất, đồng nhất giữa các cá nhân trong nhóm. Sự thống nhất càng cao, hiệu quả của sự tác
động qua lại càng lớn. Bên cạnh đó các đặc điểm chủ quan của cá nhân, phương thức tổ chức
thông tin cũng là những nhân tố quan trọng chi phối mức độ tương tác giữa các cá nhân.
Sự tác động qua lại giữa các cá nhân, trong Tâm lý học xã hội còn được biểu đạt bằng khái
niệm tương tác. Khái niệm tương tác dùng để chỉ không phải sự tương tác bất kì mà để chỉ
“sự tác động qua lại xã hội”, tức là sự tác động qua lại giữa con người trong giao tiếp, trong
nhóm, trong xã hội. Bản thân quá trình tương tác xã hội cần được phân tích để có thể hiểu
được các hành vi xã hội của cá nhân. Sự tác động qua lại được hiểu như là các kích thích hai
chiều để tạo ra các phản ứng từ các chủ thể tham gia vào quá trình tương tác. Mặt khác các
nhà nghiên cứu phải tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi: quá trình tương tác xã hội được thực
hiện và điều chỉnh bởi các phương tiện đặc trưng nào? Các yếu tố nào? Từ đây xuất hiện mối
quan tâm đối với một loạt các vấn đề: giao tiếp với sự trợ giúp của các biểu tượng, ngôn ngữ,
việc diễn giải các tình huống; vấn đề cấu trúc của nhân cách, hành vi của các vai trò xã hội,
nhóm quy chiếu; các yếu tố nguồn gốc của sự hình thành các chuẩn mực của sự tương tác xã
hội và các thái độ xã hội.
Trong quá trình tương tác, các cá nhân diễn giải các cử chỉ điệu bộ của nhau, các tình huống
giao tiếp và hành động trên cơ sở các ý nghĩa nhận được trong quá trình giao tiếp. Vì vậy để
thực hiện hiệu quả việc giao tiếp, cá nhân cần có khả năng đặt mình vào vị trí của người khác
hay “tiếp nhận vai trò của người khác” và nhìn nhận bản thân bằng con lOMoAR cPSD| 42619430
mắt của người khác. Chỉ có như vậy, cá nhân mới trở thành nhân cách, thành thực thể xã hội
có khả năng ứng xử với bản thân như là với một đối tượng, tức là ý thức được các ý nghĩa của
lời nói hành vi của mình, như là người khác tri giác chúng. Trong trường hợp tương tác phức
tạp hơn, như trong một nhóm, để thực hiện một cách có hiệu quả cần sự khái quát hóa lập
trường của đa số các thành viên trong nhóm. Hành vi của mỗi cá nhân trong nhóm là kết quả
của sự chấp nhận của cá nhân các thái độ của các cá nhân khác đối với bản thân và sự thống
nhất các thái độ đó vào một thái độ chung gọi là “thái độ khái quát”.
Trong tương tác, hành vi của cá nhân được xác định bởi ba biến số: cấu trúc nhân cách, vai xã
hội và nhóm tham chiếu. Cấu trúc nhân cách quy định xu hướng ổn định của hành vi, vai xã
hội quy định các hành vi được xã hội yêu cầu và kì vọng, các nhóm tham chiếu lôi kéo và tạo
ra cơ sở cho sự so sánh đối chiếu các hệ vi. Tùy thuộc vào ý nghĩa của các biến số ở mỗi cá
nhân mà các hành vi xã hội trong tương tác diễn ra theo hướng này hay hướng khác.
Sự tác động qua lại giữa các cá nhân trong nhóm xã hội hết sức đa dạng và phức tạp. Trên cơ
sở của sự tương tác giữa các cá nhân nảy sinh các hiện tượng tâm lý xã hội và các hiện tượng
xã hội. Trong nhiều thời điểm, sự tương tác đặc biệt giữa số đông các cá nhân có thể tạo ra
những biến đổi xã hội hết sức to lớn. Do vậy, nghiên cứu sự tương tác xã hội luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm.
II. CÁC CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI
II. CÁC CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI à Chương 2. CÁC QUY LUẬT VÀ CƠ CHẾ TÂM LÝ XÃ HỘI 1. Cơ chế lây lan
Trong đời sống xã hội, không ít khi chúng ta gặp các hiện tượng tâm lý xã hội như tâm trạng
căng thẳng lo âu, thậm chí hoảng loạn hay ngược lại, sự hưng phấn, quá khích của các nhóm
người. Sở dĩ ở nhóm người cùng xuất hiện một dạng xúc cảm nhất định là do sự lây lan của
các cảm xúc từ một số cá nhân này sang những cá nhân khác. Cơ chế hình thành các hiện
tượng xúc cảm chung đó gọi là cơ chế lây lan. lOMoAR cPSD| 42619430
Lây lan được hiểu là sự lan truyền xúc cảm từ cá nhân này sang cá nhân khác trong nhóm xã
hội một cách mạnh mẽ ở cấp độ tâm sinh lý ngoài những tác động ở cấp độ ý thức nhóm.
Sự lây lan đã từ lâu được nghiên cứu như là một phương thức đặc biệt của sự tác động, bằng
một cách nào đó tạo ra sự hòa nhập đông đảo của đám đông, đặc biệt trong mối liên hệ với sự
xuất hiện các hiện tượng như xuất thần tôn giáo, loạn thần đại chúng và... Hiện tượng lây lan
đã được biết ngay trong những giai đoạn sơ khai của lịch sử loài người và có nhiều kiểu biểu
hiện như các trạng thái bột phát xúc cảm mang tính đại chúng xuất hiện trong khi nhảy các
điệu nhảy nghi lễ, sự hăng say thể thao, các tình huống hoảng loạn. Trong hình thức chung
nhất, sự lây lan có thể xác định như là tính dễ bị nhiễm một cách vô thức trạng thái tâm lý nào
đó. Nó được bộc lộ không phải qua sự thừa nhận có ý thức một thông tin nào đó hay hình mẫu
hành vi mà qua việc lan truyền trạng thái xúc cảm hay trạng thái tâm lý. Khi trạng thái xúc
cảm đó xuất hiện trong đám đông cơ chế tăng cường nhiều lần sự tác động xúc cảm lẫn nhau
của những người giao tiếp bắt đầu hoạt động. Cá nhân ở đây không chịu áp lực trước tổ chức
mang tính chủ định mà đơn giản lĩnh hội một cách vô thức hình mẫu của cách ứng xử nào đó
bằng cách tuân phục nó. Nhiều nhà nghiên cứu phân tích sự có mặt của một phản ứng lây lan
đặc biệt xuất hiện trong các nhóm khán giả mở và có số lượng lớn, khi mà trạng thái xúc cảm
được tăng cường bằng con đường phản ánh lặp lại nhiều lần theo mô hình của phản ứng chuỗi
thông thường. Hiệu ứng có thể xảy ra trước hết trong tập hợp không được tổ chức, thường
xuyên hơn cả là trong đám đông, thể hiện như một dạng củng cố nhằm xua đuổi một trạng
thái xúc cảm khác nào đó.
Tình huống hoảng loạn là một tình huống đặc biệt trong quá trình tác động qua lại, sự lây lan
được tăng cường. Hoảng loạn xuất hiện trong đám đông như một trạng thái xúc cảm xác định,
là hậu quả của sự thiếu hụt thông tin về điều gì đó đang đe doạ hoặc điều gì đó khó hiểu hay
là ngược lại sự thừa thãi của thông tin về sự đe doạ này. Bản thân thuật ngữ có nguồn gốc từ
tên của một vị thần Hi Lạp Pana - người che chở cho những người chăn súc vật tránh được sự
nổi giận phi lý của của bầy đàn. Nguyên cớ trực tiếp của sự hoảng loạn là sự xuất hiện của tin
tức nào đó có khả năng tạo ra một dạng sốc nhất định. Sau đó sự hoảng loạn tăng thêm sức
sức mạnh khi tham gia vào hành động, do cơ chế phản ánh lặp lại. Sự lây lan xuất hiện khi có
hoảng loạn khó có thể đánh giá đúng ngay trong cả xã hội hiện đại. Ví dụ rất nổi tiếng về sự
xuất hiện sự hoảng loạn quần chúng ở lOMoAR cPSD| 42619430
Mỹ ngày 30/10/1938 sau chương trình phát thanh của đài phát thanh ABC về quyển sách của
H.Yell Chiến tranh của các thế giới. Dân chúng - thính giả thuộc các lứa tuổi hoàn toàn khác
nhau và các tầng lớp học vấn khác nhau (theo số liệu chính thức gần 1.000.000 người) đã trải
qua trạng thái giống như loạn thần đại chúng, tin vào sự tấn công của người sao Hỏa vào Trái
Đất. Mặc dù nhiều người trong số họ biết chính xác rằng đang truyền thanh một kịch bản của
một tác phẩm văn học (người phát thanh đã nhắc lại 3 lần) gần
400.000 người nói rằng đã “tận mắt” chứng kiến sự xuất hiện của người sao hoả. Hiện tượng
này đã được các nhà tâm lý học Mỹ phân tích một cách chuyên biệt.
Sự hoảng loạn là hiện tượng vô cùng khó nghiên cứu. Không thể quan sát được chúng một
cách trực tiếp. Bởi vì: thứ nhất, không bao giờ biết được thời điểm xuất hiện của nó; thứ hai,
trong tình huống hoảng loạn khó có thể vững vàng để trở thành người quan sát. Chính ở đó sự
hoảng loạn thể hiện sức mạnh của nó. Một người bất kì khi nằm trong trạng thái hoảng loạn
dù ở mức độ này hay mức độ khác đều bị nó khuất phục. Do vậy, các nghiên cứu hoảng loạn
vẫn chỉ ở trình độ mô tả sau khi hoảng loạn đã qua đỉnh điểm. Các mô tả này cho phép chia ra
các chu kì cơ bản đặc trưng cho toàn bộ quá trình tổng thể. Hiểu các chu kì này rất quan trọng
cho việc chấm dứt hoảng loạn. Điều đó là có thể thực hiện với điều kiện có thể có các sức
mạnh có khả năng đưa đến các yếu tố của sự sáng suốt vào tình huống hoảng loạn, bằng cách
nhất định chiếm lĩnh được tình huống này. Ngoài việc hiểu biết về chu kì, cần phải hiểu cả cơ
chế tâm lý học của hoảng loạn.
Các đặc điểm của sự lây lan như là sự chấp nhận một cách vô thức những hình mẫu nhất định
của hành vi. Nếu con người trong tình huống hoảng loạn này có thể đưa ra hình mẫu nhất
định của hành vi, có khả năng khôi phục lại trạng thái xúc cần bình thường của đám đông, sẽ
có khả năng chấm dứt hoảng loạn.
Vấn đề quan trọng trong nghiên cứu sự lây lan là vấn đề vai trò của mức độ thống nhất trong
đánh giá và tâm thế mà quần chúng (những người bị lây lan tâm lý) có được. Mặc dù vấn đề
này vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ trong khoa học, nhưng trong thực tiễn người ta đã tìm
ra các hình thức sử dụng các đặc trưng này trong tình huống lây lan. Như trong các điều kiện
lây lan đại chúng bởi kích thích, bao gồm cả sự lây lan trước đó sự đồng nhất các đánh giá ví
như đối với một nghệ sĩ nổi tiếng là sự cổ vũ, chúng có thể đóng vai các xung lực, tiếp sau đó
tình huống sẽ phát triển theo các quy luật của sự lây lan. Sự hiểu biết về cơ chế này được sử
dụng trong việc tuyên truyền, trong đó đã đưa ra một lOMoAR cPSD| 42619430
lý thuyết đặc biệt nâng cao tính hiệu quả của tác động đến thính giả mở bằng con đường mang
họ tới trạng thái hưng phấn mở tới trạng thái xuất thần, không hiếm khi cả các thủ lĩnh chính
trị khác cũng dùng tới thủ thuật này.
Mức độ lây lan mà các thính giả khác nhau có thể bị rơi vào phụ thuộc vào mức độ phát triển
chung của các nhân cách tạo ra nhóm thính giả và cụ thể hơn - vào mức độ phát triển tự ý
thức của họ. Trong ý nghĩa này có thể khẳng định xác đáng rằng: trong xã hội hiện đại, sự lây
lan có vai trò ít hơn so với những giai đoạn đầu trong lịch sử loài người. Có thể nhận thấy
rằng trình độ phát triển xã hội càng cao thì các thái độ phê phán của con người càng cao hơn
đối với các sức mạnh có tác động lôi kéo họ tới việc thực hiện hành động hay trải nghiệm này
khác, dẫn tới kết quả là hiệu quả của cơ chế lây lan càng yếu hơn. (Porsnhiev, 1968).
Theo truyền thống đã hình thành trong Tâm lý học xã hội thường xem xét hiện tượng lây lan
trong các điều kiện của các hành vi chống đối xã hội và không có tổ chức (các thảm hoạ thiên
nhiên khác nhau). Tuy nhiên kiểu hành vi này có thể thể hiện trong các hành động xã hội có
ý thức đại chúng, ví dụ trong tiến trình của các cuộc mít tinh khác nhau hay các cuộc biểu tình
hoặc trong các tình huống thảm hoạ khác nhau...
Như vậy không thể nói rằng trong các điều kiện hiện đại, vấn đề lây lan đã tuyệt đối cũ kĩ.
Không có sự trưởng thành nào của tự ý thức gỡ bỏ những hình thức này của sự lây lan tâm lý
xuất hiện trong các phong trào xã hội quần chúng đặc biệt trong những thời gian không ổn
định của xã hội ví như trong điều kiện tái cơ cấu xã hội mạnh mẽ. Tâm lý học xã hội có trách
nhiệm to lớn trước xã hội khi nghiên cứu vấn đề này. Ở đây hiện tại chỉ tồn tại những mô tả
và quan sát rời rạc về bản chất, chưa có các nghiên cứu nghiêm túc.
Cơ chế lây lan được coi là có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự liên kết số đông cá nhân ở
phương diện xúc cảm. Nhờ có chế này, trong đời sống xã hội có hiện tượng “cộng cảm”, là
điều kiện thuận lợi cho sự gắn bó giữa các cá nhân trong nhóm và cộng đồng.
Cơ chế này được các nhà nghiên cứu giải thích theo các cách khác nhau. Mikhailôvxki cho
rằng lây lan được truyền theo nguyên tắc cộng hưởng, tỉ lệ thuận với đám đông và cường độ
xúc cảm được truyền đi. G.Allport lại cho rằng lây lan diễn ra theo “phản ứng vòng tròn”. Cá
nhân này kích thích cá nhân khác bằng các biểu hiện xúc cảm của mình, đến lượt họ khi thấy
biểu hiện của người khác sẽ tăng thêm phần hứng khởi. lOMoAR cPSD| 42619430
Các xúc cảm tiêu cực và tích cực đều có thể được lây lan. Do vậy, có thể chủ động tạo ra sự
lây lan các xúc cảm tích cực và ngăn chặn sự lây lan các xúc cảm tiêu cực trong nhóm, cộng đồng.
2. Cơ chế đồng nhất hóa
- Có nhiều cách quan niệm khác nhau về sự đồng nhất hóa. Có quan điểm coi đồng nhất hóa
như một quá trình so sánh, đối chiếu một đối tượng này với đối tượng khác theo một điểm hay
tiêu chí nhất định, từ đó khái quát, xác lập sự tương đồng giữa chúng. Ví dụ, khi cá nhân nhận
biết các phẩm chất của một số cá nhân khác sẽ tiến hành việc xếp các cá nhân đó theo các
kiểu loại khác nhau và sau đó có thể bắt chước, phỏng theo một kiểu nào đó. Như vậy theo
cách hiểu này, đồng hóa chính là việc cá nhân lựa chọn và đồng nhất bản thân với các chủ thể
khác hay với nhóm nào đó.
Cách hiểu chung trong tâm lý học hiện đại cho rằng: đồng nhất hóa là quá trình chủ thể thống
nhất bản thân với các cá nhân khác dựa trên các liên hệ cảm xúc, đồng thời nội tâm hóa các
chuẩn mực các giá trị của họ. Trong khi đồng nhất hóa, chủ thể nhìn nhận người khác như là
sự kéo dài của bản thân, gán cho người khác những đặc điểm, tình cảm, mong muốn của bản
thân. Đồng thời cá nhân đặt mình vào vị trí của người khác, dịch chuyển bản thân vào vị trí
không gian, phạm vi của người khác và thậm chí đồng nhất hóa ý nghĩ với người khác.
Trong Tâm lý học xã hội, đồng nhất hóa được coi là quá trình cá nhân tiếp nhận vai trò xã hội
khi gia nhập nhóm. Cá nhân ý thức được vai trò, vị trí của mình trong nhóm và thực hiện tốt
vai trò xã hội của mình. Nói cách khác, đồng nhất hóa chính là quá trình cá nhân đồng nhất
bản thân với một vai trò xã hội nhất định.
Từ các cách hiểu rất rộng và nhiều khía cạnh như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất về cơ
chế đồng nhất hóa như sau: Đồng nhất hóa là quá trình cá nhân điều chỉnh bản thân nhằm
thích ứng với các vai xã hội hay với các cá nhân khác trong nhóm xã hội trên những phương
diện nhất định của đời sống tâm lý.
- Vai trò của cơ chế đồng nhất hóa như sau:
Cá nhân có thể thực hiện tốt vai trò xã hội của bản thân, từ đó các quan hệ xã hội được vận
hành một cách có hiệu quả. lOMoAR cPSD| 42619430
Các cá nhân trong nhóm có được những điểm chung: sự đồng nhất về cảm xúc, sự đồng nhất
về cách giải quyết nhìn nhận vấn đề. Trong các nhóm lớn xã hội, cơ chế đồng nhất hóa có thể
diễn ra một cách ẩn tàng để tạo ra những hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm dân tộc, giai cấp
như ý thức tự hào dân tộc, nếp suy nghĩ dân tộc, tình cảm dân tộc...
Tuy nhiên, mặt tiêu cực của cơ chế đồng nhất hóa sẽ xuất hiện khi các cá nhân trong nhóm xã
hội bị đồng nhất hóa quá mức. Các cá nhân sẽ trở nên bị động, đánh mất cái riêng và bản sắc riêng. 3. Cơ chế ám thị
Trong quá trình giao tiếp, tương tác giữa các cá nhân, có trường hợp cá nhân chịu sự tác động
của cá nhân khác và có hành vi phục tùng yêu cầu của cá nhân khác một cách không ý thức
được gọi là hiện tượng ám thị.
Để hiểu hơn về ám thị, có thể đặt nó trong mối quan hệ với một hiện tượng khác gọi là thôi
miên. Trạng thái bị thôi miên là trạng thái “mất tỉnh táo”, “mất khả năng ý thức” của chủ thể.
Một người bị thôi miên sẽ không ý thức được các hành vi của bản thân và rơi vào trạng thái bị
người khác điều khiển. Ám thị là mức độ nhẹ hơn so với thôi miên, người bị ám thị không
mất ý thức nhưng mất khả năng suy xét, phê phán do vậy dễ bị thuyết phục và dễ bị điều khiển.
Ám thị là tác động tâm lý có mục tiêu nhưng vô căn cứ từ một người đến người khác hoặc
nhóm, dẫn tới sự thay đổi hành vi ứng xử của cá nhân do phục tùng mệnh lệnh đến từ một uy quyền hợp pháp.
Quá trình diễn ra ám thị có một số đặc điểm: Sự chuyển giao thông tin dựa vào việc tiếp nhận
thông tin một cách không phê phán. Trong quá trình đó, não chỉ giữ liên hệ với một nguồn
kích thích, các nguồn kích thích khác bị ngắt.
Ám thị là một kiểu tác động đặc biệt có mục đích, sự tác động phi luận cứ của một người lên
người khác hay lên một nhóm. Trong ám thị quá trình truyền thông tin được thực hiện trên cơ
sở tri giác chúng một cách không có phê phán. Thông thường toàn bộ thông tin được truyền
từ người này sang người khác được phân loại căn cứ vào mức độ tính tích cực trong lập
trường của người truyền thông tin, phân biệt trong đó các thông báo, thuyết phục và ám thị.
Chính hình thức thông tin thứ ba này liên quan đến sự tri giác không phê phán, cho rằng
người tiếp nhận thông tin trong trường hợp ám thị không có khả lOMoAR cPSD| 42619430
năng đánh giá chúng một cách phê phán. Một cách tự nhiên, trong các tình huống khác nhau
và đối với các nhóm người khác nhau mức độ phi luận cứ, cho phép tiếp nhận không phê
phán thông tin trở nên rất khác nhau.
Hiện tượng ám thị được nghiên cứu trong Tâm lý học từ trước đây rất lâu trên thực tế: trong
thực tiễn y học hay với một số các hình thức dạy học cụ thể. Ám thị như một hiện tượng tâm
lý học xã hội có đặc trưng rõ rệt: do vậy có quyền nói về hiện tượng đặc biệt “ám thị xã hội”.
Trong các nghiên cứu của Tâm lý học xã hội vẫn duy trì hệ thống thuật ngữ, được sử dụng
trong các phần khác nhau của khoa học tâm lý nghiên cứu hiện tượng này: người thực hiện
việc ám thị gọi là nhà ám thị, đối tượng của ám thị gọi là “người bị ám thị”. Hiện tượng chống
đối lại ám thị gọi là “phản ám thị”. Trong tài liệu ở Nga, lần đầu tiên vấn đề ý nghĩa của ám
thị được đặt ra trong tác phẩm của V.M.Becheriev Ám thị và vai trò của nó trong đời sống xã hội (1903).
Khi phân tích ám thị như là phương tiện tác động đặc biệt, vấn đề về tương quan giữa ám thị
và lây lan được đặt ra và vẫn chưa có câu trả lời thống nhất. Đối với một số tác giả ám thị là
một trong các loại lây lan bên cạnh bắt chước, những người khác lại nhấn mạnh sự khác biệt
của ám thị với lây lan, có thể khái quát như sau: Trong lây lan diễn ra sự đồng cảm của trạng
thái tâm lý đám quần chúng lớn. Ám thị không có “sự bình đẳng” - ngược lại, trong đó không
có sự đồng cảm, và đồng nhất xúc cảm. Nhà ám thị không rơi vào trạng thái của người bị ám
thị. Quá trình ám thị có tính một chiều mà không phải là sự tăng lên bột phát của trạng thái
nhóm ám thị. Nó là sự tác động tích cực của một người đến một người khác hoặc nhóm. Ám
thị, thông thường, mang tính ngôn ngữ, trong khi đó, trong lây lan ngoài tác động ngôn ngữ
còn sử dụng cả các phương tiện khác (nhịp điệu, cảm thán...).
Mặt khác ám thị khác với thuyết phục ở chỗ nó trực tiếp gây ra những trạng thái tâm lý nhất
định không cần có lôgic và chứng cứ. Thuyết phục, ngược lại, được xây dựng trên cơ sở sự
trợ giúp của các cấu tạo lôgic để đạt tới sự đồng ý của người khác của người tiếp nhận thông
tin. Trong ám thị không đạt tới sự đồng ý mà còn phải là tiếp nhận thông tin dưới dạng kết
luận có sẵn. Trong khi đó, trường hợp thuyết phục, kết luận cần phải được đưa ra một cách
độc lập bởi người tiếp nhận. Do vậy thuyết phục là tác động chủ yếu mang tính trí tuệ còn ám
thị tác động chủ yếu mang tính xúc cảm ý chí. lOMoAR cPSD| 42619430
Chính vì vậy khi nghiên cứu ám thị đã xác nhận một số quy luật liên quan đến vấn đề: trong
những tình huống nào và trong những tình trạng nào hiệu quả ám thị được nâng cao. Những
trường hợp ám thị xã hội đã chứng minh sự phụ thuộc của hiệu ứng ám thị vào lứa tuổi: trẻ
em nhìn chung dễ bị ám thị hơn người lớn. Cũng đúng như vậy, trong đa số các thường hợp,
những người bị ám thị là những người mệt mỏi, yếu về mặt thể chất hơn là những người khỏe
mạnh. Nhưng điều quan trọng nhất là ở chỗ ám thị có các nhân tố tâm lý xã hội đặc biệt tác
động. Nhiều nghiên cứu cho thấy: điều kiện quyết định tính hiệu quả của ám thị là uy tín của
người ám thị, uy tín sẽ tạo ra nhân tố bổ sung đặc biệt của tác động - sự tin tưởng vào nguồn
thông tin. “Hiệu ứng niềm tin” này được thể hiện trong quan hệ với nhân cách của người ám
thị cũng như trong thái độ đối với nhóm xã hội mà anh ta đại diện. Uy tín của nhà ám thị cả
trong trường hợp này và trong trường hợp khác thực hiện chức năng được gọi là “luận cứ gián
tiếp” một dạng bù trừ sự thiếu hụt các chứng cứ trực tiếp - là nét đặc trưng của ám thị.
Trong ám thị, kết quả phụ thuộc vào cả tính cách cá nhân của người ám thị. Hiện tượng phản
ám thị minh chứng cho mức độ chống lại ám thị mà cá nhân riêng biệt có được. Trong thực tế,
ám thị xã hội đã nghiên cứu những phương thức, nhờ đó có thể ở một mức độ nhất định cô lập
sự “tự vệ tâm lý” này. Tổ hợp các biện pháp như vậy được gọi là “chống phản ám thị”
(Porsnhiev.1968). Hiện tượng phản ám thị có thể được sử dụng không chỉ cho việc bảo vệ cá
nhân khỏi sự tác động ám thị mà còn cho việc loại bỏ sự tự vệ này. Ví dụ, nếu với tư cách là
một phương tiện phản ám thị - sự không tin tưởng vào nhà ám thị, thì bằng cách đưa thêm các
thông tin bổ sung về người ám thị có thể đạt tới việc loại bỏ sự không tin tưởng này và tổ hợp
các biện pháp đó sẽ là chống phản ám thị. Một cách lôgic, có đề xuất đáp lại những cố gắng
bổ sung đó cá nhân cố gắng tạo ra một loạt những biện pháp tự vệ mới. Nhưng đến nay các
nghiên cứu thực tế chưa vượt qua được lớp thứ nhất của chống phản ám thị. Trong phương
diện nghiên cứu ứng dụng, ám thị có ý nghĩa lớn đối với các lĩnh vực như tuyên truyền và
quảng cáo. Vai trò của ám thị được đưa vào hệ thống các phương tiện tác động tuyên truyền
là khác nhau, phụ thuộc vào loại tuyên truyền, mục đích và nội dung của tuyên truyền. Dù nét
cơ bản của tuyên truyền là dựa vào lôgic và có ý thức còn phương tiện đang được nói đến chủ
yếu là phương tiện thuyết phục. Tất cả những điều đó không loại bỏ sự có mặt của một số
nhân tố của ám thị. Phương pháp ám thị thể hiện ở đây như là phương pháp dưới dạng chương trình hóa tâm lOMoAR cPSD| 42619430
lý khán giả, tức là liên quan đến các phương pháp tác động điều khiển, điều này đặc biệt
rõ ràng trong lĩnh vực quảng cáo.
4. Cơ chế thỏa hiệp
Thỏa hiệp là sự nhân nhượng của cá nhân trước áp lực nhóm thể hiện ở việc cá nhân thay đổi
cách ứng xử và thái độ của mình cho phù hợp với đa số.
Thỏa hiệp là một cơ chế tạo ra sự thống nhất giữa các cá nhân trong nhóm mặc dù còn có sự
khác biệt nhất định. Nó đảm bảo cho việc xác định mục đích chung hay ra quyết định chung
của nhóm, đồng thời tránh tạo ra sự xung đột trong một khoảng thời gian. Như vậy, với tư
cách là một cơ chế tâm lý xã hội giúp giảm bớt xung đột trong một số tình huống, thỏa hiệp
có vai trò tích cực nhất định khác với hiểu đơn giản thiên về tiêu cực của hiện tượng này.
Trong nhóm xã hội, với các vị trí, lợi ích khác nhau khó có thể có sự thống nhất hoàn toàn.
Cơ chế này có thể coi như một sự “tạm dừng” để có thể tiến tới sự thống nhất hơn khi được trao đổi, thảo luận.
Có các loại thỏa hiệp như sau: Thỏa hiệp bên ngoài (thỏa hiệp hình thức) là sự tiếp nhận ý
kiến nhóm một cách hình thức; Thỏa hiệp bên trong (thỏa hiệp thực tâm) là sự biến đổi thực
sự thái độ của cá nhân cho phù hợp với đa số và loại thứ ba là lập trường độc lập, thực chất là
dạng phụ thuộc ngược với ý kiến đa số.
Có một loạt các yếu tố ảnh hưởng tới sự thỏa hiệp. Các yếu tố đó thuộc hai nhóm cơ bản: các
yếu tố cá nhân và các yếu tố tâm lý xã hội. Các yếu tố cá nhân như đặc trưng tâm lý của cá
nhân phải chịu áp lực thỏa hiệp, giới tính, lứa tuổi, trí tuệ, trình độ nhận thức. Các cá nhân có
tính độc lập có xu hướng ít thỏa hiệp hơn và ngược lại. Nữ giới có khả năng thỏa hiệp cao hơn
nam giới. Các yếu tố tâm lý xã hội như: quy mô nhóm, trình độ phát triển của nhóm, tính chất
của các mối quan hệ trong nhóm, vị trí của cá nhân, mức độ phụ thuộc lẫn nhau trong nhóm,
hoàn cảnh đặc thù như nội dung cần thỏa hiệp, các nhiệm vụ chung. Thỏa hiệp cũng được coi
là một cơ chế mang màu sắc văn hóa, bởi lẽ trong một số nền văn hóa, cơ chế thỏa hiệp chi
phối một cách phổ biến các quan hệ xã hội, trong nền văn hóa khác cơ chế này lại ít phát huy tác dụng.
NHỮNG HƯỚNG ỨNG DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:
Các quy luật nêu trên chi phối mạnh mẽ sự nảy sinh, hình thành và biến đổi của các hiện
tượng tâm lý xã hội trong đời sống của con người. Hoạt động dạy học và giáo dục lOMoAR cPSD| 42619430
trong các nhà trường về bản chất là hoạt động xã hội. Trong các hoạt động đó, các hiện tượng
tâm lý xã hội nảy sinh. Đến lượt nó, các hiện tượng tâm lý xã hội lại chi phối chính hoạt động
của các chủ thể: giảng viên và sinh viên. Do vậy, việc nắm vững các quy luật cơ bản nêu trên
có thể giúp người giảng viên có được sự chủ động nhất định trong việc tổ chức hoạt động dạy
học, giáo dục và trong việc dự đoán các hiện tượng tâm lý xã hội có thể xảy ra để có những
cách xử lý khoa học. Từ đó tác động đến sinh viên một cách có hiệu quả. Có thể có các hướng vận dụng như sau:
- Khai thác quy luật bắt chước trong việc hình thành nếp sống, lối sống, thái độ,
hành vi đúng đắn hay phổ biến những kinh nghiệm tích cực trong giáo dục sinh viên bằng
cách xây dựng các hình mẫu, các tấm gương điển hình, những nhóm hạt nhân. Gắn nội
dung cần phổ biến với các nhân vật có uy tín, những người cùng thời... có ảnh hưởng đối
với sinh viên. Các hình mẫu của sự bắt chước phải có tính hấp dẫn đối với sinh viên. Ngược
lại, có thể dự đoán trước các xu hướng bắt chước để ngăn chặn sự phổ biến những hành vi
tiêu cực, bằng cách lôi cuốn sinh viên vào các hành vi tích cực hoặc làm gián đoạn các
kênh tiếp xúc với hình mẫu.
- Khai thác quy luật về sự tác động qua lại một cách triệt để trong việc thay đổi nhận
thức, thái độ và hành vi. Sinh viên luôn tham gia vào các nhóm nhất định. Không phải sự
thuyết giáo mà sự tác động qua lại giữa các cá nhân được định hướng có thể làm thay đổi
mỗi cá nhân một cách tích cực. Tăng cường giao tiếp, trao đổi thông tin, tiếp xúc giữa sinh
viên với nhau, giữa giảng viên với sinh viên để có được sự thấu hiểu lẫn nhau và tạo ra sự
đồng thuận trong việc thực hiện các nhiệm vụ, công việc chung.
- Khuyến khích việc tìm hiểu các truyền thống, thành tựu của nhà trường. Động viên
sự phát triển một cách sáng tạo của sinh viên trên cơ sở truyền thống, thành tựu của nhà trường.
- Sử dụng cơ chế lây lan để tạo ra các trạng thái tâm lý nhóm, tâm lý tập thể tích cực,
ngược lại ngăn chặn các trạng thái tâm lý tiêu cực. Muốn tạo ra sự lây lan cần chú ý tới
“mồi xúc cảm”. Các xúc cảm tích cực như sự lạc quan, phấn khởi, sự hăng hái... cần được
tạo điều kiện để chúng lây lan làm cho hoạt động của nhóm, tập thể có hiệu quả hơn. Đặc
biệt lưu ý đến việc sử dụng cơ chế lây lan để tạo ra sự thống nhất trong các trạng thái xúc
cảm, hình thành tình cảm “chúng ta”. lOMoAR cPSD| 42619430
- Nhận biết, dự đoán ảnh hưởng của các hiện tượng tâm lý xã hội trong phạm vi vĩ
mô đến các nhóm sinh viên.
- Trong các hoạt động với sinh viên, muốn sinh viên thực hiện tốt các chức năng,
nhiệm vụ của mình, một mặt khuyến khích sinh viên nhận thức về các vai trò xã hội của
mình: sinh viên - người học, người nghiên cứu, người tiên phong trong các phong trào xã
hội... tạo điều kiện để sinh viên đồng nhất hóa thành công, mặt khác khuyến khích sự bộc lộ
tính sáng tạo, cái riêng của sinh viên trong công việc.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II
1. Vai trò và nội dung của quy luật kế thừa? Phân tích một hiện tượng tâm lý xã
hội để làm rõ sự thể hiện của quy luật kế thừa.
2. Vai trò của quy luật bắt chước trong xã hội? Có thể vận dụng quy luật này như
thế nào trong dạy học, giáo dục?
3. Các cơ chế lây lan, đồng nhất hóa, ám thị được thể hiện như thế nào trong
đời sống xã hội? Hướng vận dụng các cơ chế đó trong dạy học và giáo dục?
Chương 3: NHÓM XÃ HỘI
I. KHÁT NIỆM NHÓM XÃ HỘI VÀ PHÂN LOẠI
NHÓM 1. Khái niệm nhóm
Vấn đề các nhóm, trong đó con người liên kết với nhau trong quá trình sống của mình - vấn
đề quan trọng nhất không chỉ của Tâm lý học xã hội mà còn của xã hội học. Trong các khoa
học xã hội: về nguyên tắc có thể có hai cách sử dụng khái niệm “nhóm”.
Cách thứ nhất, trong thống kê thường đề cập đến các nhóm mang tính điều kiện: sự phân
nhóm có chủ định con người theo một dấu hiệu chung nào đó cần thiết cho hệ thống phân tích
cụ thể. Cách hiểu như vậy phổ biến trong thống kê. Khi cần thiết các nhóm người được phân
chia theo tiêu chí nào đó. Ví dụ: nhóm người với một trình độ học vấn nhất định, nhóm người
bị bệnh tim mạch, nhóm người đang cần có nhà ở... Đôi khi với cách hiểu như vậy thuật ngữ
“nhóm” được sử dụng trong cả Tâm lý học. Ví dụ: trong trường hợp phân tích kết quả của các
trắc nghiệm của một nhóm nghiệm thể: nhóm này cho các chỉ số này, còn nhóm khác cho chỉ số khác... lOMoAR cPSD| 42619430
Cách thứ hai: trong một loạt các khoa học, xã hội nhóm được hiểu như là một thực thể xã hội
tồn tại hiện thực: trong đó con người tập hợp lại, được liên kết lại bằng những dấu hiệu nhất
định như bằng sự đa dạng của các hoạt động cùng nhau hay bằng những điều kiện đồng nhất
nào đó trong những hoàn cảnh sống của họ. Những con người này ý thức được theo một cách
nhất định sự thâu thuộc của mình vào cơ cấu này mặc dù mức độ và trình độ ý thức có thể rất khác nhau.
Chính trong phạm vi của cách hiệu thứ hai, Tâm lý học xã hội sẽ đề cập tới vấn đề nhóm.
Thực hiện các vai trò xã hội khác nhau, con người là thành viên của nhiều nhóm xã hội, con
người được hình thành dường như trong sự giao cắt của các nhóm đó, như là một điểm bao
hàm trong đó các ảnh hưởng của các nhóm giao cắt nhau. Điều đó có hai hệ quả quan trọng
đối với cá nhân: một mặt, xác định vị trí khách quan của cá nhân trong hệ thông hoạt động xã
hội, mặt khác ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức cá nhân. Cá nhân được tham gia vào hệ
thống các quan điểm, các chuẩn mực của nhiều nhóm. Do vậy một công việc vô cùng có ý
nghĩa là xác định “sự tác động tổng lực” của các ảnh hưởng của các nhóm khác nhau đến cá
nhân sẽ như thế nào, sự tác động đó sẽ quy định nội dung ý thức của cá nhân ra sao. Nhưng
để thực hiện nhiệm vụ này cũng cần phải xem xét nhóm không chỉ đơn giản là một tập hợp
mà như là một đơn vị hiện thực của xã hội, nhóm tham gia vào bối cảnh rộng lớn hơn của
hoạt động xã hội, với tư cách là nhân tố hội nhập cơ bản và dấu hiệu cơ bản của nhóm xã hội.
Sự tham gia chung của các thành viên nhóm trong hoạt động cùng nhau của nhóm quy định
sự hình thành chỉnh thể tâm lý giữa họ và như vậy trong điều kiện đó nhóm thực sự trở thành
hiện tượng tâm lý xã hội, tức là đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội. Từ đó có thể chỉ
ra các dấu hiệu cơ bản của một nhóm xã hội: có hoạt động chung của nhiều người được quy
định bởi các mục đích, nhiệm vụ, quan hệ (cộng đồng về lợi ích, nhu cầu, chuẩn mực xã hội.,
chính kiến...), ý thức của các thành viên và của nhóm về sự đồng nhất các dấu hiệu duy trì sự
tồn tại và phát triển của nhóm.
Với cách lý giải đó “nhóm” có thể được định nghĩa như là “cộng đồng những cá nhân tác
động qua lại vì mục đích đã được ý thức, cộng đồng như là chủ thể của hành động” (Sercôvin, 1975. 50).
Hay J.P.Chaplin: “Nhóm là sự tập hợp các cá nhân mà ở đó họ có một số đặc điểm chung
hoặc cùng theo đuổi một số mục đích giống nhau”.
Hoặc “Nhóm là một tập hợp của hai hoặc nhiều người, giữa các thành viên có sự tương tác và
ảnh hưởng lẫn nhau về hành vi. Nhóm là một đơn vị tồn tại một cách có tổ chức, các thành
viên nhóm có cùng chung những lợi ích và các mục đích” John.C. Bringham, R. Schlenker. lOMoAR cPSD| 42619430
Như vậy, có nhiều khái niệm về nhóm, nhưng khái niệm sau đây là một khái niệm
tương đối phổ quát cho các nhóm xã hội (bao gồm cả nhóm xã hội có quy mô lớn như dân
tộc, giai cấp và cả các nhóm nhỏ như một nhóm học tập, kinh doanh): Nhóm xã hội là
những cộng đồng người được hình thành trong quá trình phát triển lịch sự xã hội, giữ vị trí
nhất định trong hệ thống các quan hệ xã hội, do đó chúng ổn định trong những thời kì phát
triển lâu dài trong xã hội (dân tộc, nghề nghiệp, lứa tuổi...). 2. Phân loại nhóm
Trong lịch sử Tâm lý học xã hội đã có nhiều cố gắng xây dựng một cách phân loại nhóm, đưa
ra các nguyên tắc khác nhau, trên cơ sở đó đã xây dựng các phân loại như: trình độ phát triển
văn hóa, loại cấu trúc, nhiệm vụ và chức năng, kiểu tiếp xúc chủ yếu trong nhóm... Thường
bổ sung thêm các cơ sở như thời gian tồn tại của nhóm, nguyên tắc hình thành nhóm, các
nguyên tắc trở thành thành viên nhóm vào việc phân loại nhóm. Tất cả các phân loại đó đều có quyền tồn tại.
Tuy nhiên nét chung của chúng là chỉ xác định hình thức hoạt động sống của nhóm. Nếu thừa
nhận nguyên tắc xem xét các nhóm xã hội hiện thực với tư cách là chủ thể của hoạt động xã
hội thì ở đây đòi hỏi phải có nguyên tắc phân loại khác. Sự phân loại xã hội học về nhóm
tương ứng với vị trí của chúng trong hệ thống các quan hệ xã hội cần phải là cơ sở. Nhưng
trước khi đưa ra sự phân loại cần phải đưa vào hệ thống những cách sử dụng khái niệm nhóm
đã được nói đến ở trên. Theo cách phân loại của Anđrêeva có thể có sơ đồ như sau: Các nhóm Nhóm ước lệ Nhóm thực hiện
Nhóm trong phòng thực nghiệm Nhóm tự nhiên Nhóm lớn Nhóm nhỏ Nhóm tự phát Nhóm phát triển Nhóm tự phát Nhóm phát triển lOMoAR cPSD| 42619430
Trước tiên đối với Tâm lý học xã hội, việc phân chia nhóm thành nhóm ước lệ và
nhóm hiện thực là có ý nghĩa. Cách phân chia này tập trung việc nghiên cứu vào nhóm hiện
thực. Nhưng trong số những nhóm hiện thực đó, tồn tại cả những nhóm có hình hài trong
nghiên cứu tâm lý học đại cương - nhóm trong phòng thí nghiệm hiện thực. Khác với chúng là
các nhóm tự nhiên hiện thực. Sự phân tích Tâm lý học xã hội có thể có tương ứng với hình
thức này khác của nhóm hiện thực. Tuy nhiên các nhóm tự nhiên hiện thực được tách ra trong
các phân tích xã hội học có ý nghĩa lớn hơn. Đến lượt nó, các nhóm tự nhiên này lại được chia
thành các “nhóm lớn” và “nhóm nhỏ”. Các nhóm nhỏ - trường sinh sống của Tâm lý học xã
hội. Vấn đề liên quan đến việc nghiên cứu nhóm lớn phức tạp hơn và đòi hỏi được xem xét
riêng biệt. Điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng nhóm lớn hiện diện trong Tâm lý học xã
hội không giống nhau: một số nhóm lớn có được truyền thống nghiên cứu lâu dài (các nhóm
lớn xuất hiện không có tổ chức, tự phát, bản thân thuật ngữ “nhóm” được dùng chỉ các nhóm
này cũng mang tính tương đối), những nhóm khác - những nhóm tồn tại lâu dài và có tổ chức
như giai cấp, dân tộc, ít hiện diện hơn trong tâm lý học với tư cách đối tượng nghiên cứu.
II. Cấu trúc của nhóm xã hội
1. Cấu trúc chính thức
Khi các cá nhân gia nhập nhóm và nhóm được hình thành, các cá nhân sẽ tương tác qua lại
để cùng thực hiện mục đích và hoạt động cùng nhau của nhóm. Mỗi cá nhân có những năng
lực riêng, có những nhu cầu và kì vọng riêng. Các yếu tố này được thể hiện và ảnh hưởng đến
quá trình tương tác. Nhưng để nhóm có thể tồn tại và thực hiện được hoạt động của nó thì các
cá nhân phải nằm trong những mối liên hệ và quan hệ nhất định. Mối quan hệ tương đối ổn
định, tương đối bền vững giữa các cá nhân để tạo thành một nhóm toàn vẹn gọi là cấu trúc
nhóm. Về nguyên tắc, các cá nhân có thể khác nhau, có thể thay đổi, nhưng các liên hệ đó sẽ
tương đối ổn định. Một khi cấu trúc nhóm thay đổi nó sẽ làm nhóm biến đổi về chất và hình
thành một loại nhóm khác. Như vậy, các thành phần nằm ở “đầu mối” của mỗi quan hệ đó gọi
là các vị trí. Có thể hình dung: các liên hệ giữa các vị trí trong nhóm tạo ra một cấu trúc - bộ
xương của nhóm, trên cơ sở đó “con người” nhóm có được hình dạng cụ thể và có những hoạt động cụ thể. lOMoAR cPSD| 42619430
Từ cách hiểu đó, cấu trúc chính thức của nhóm là những mối quan hệ mang tính chất công
việc được quy định trước, phụ thuộc vào chức năng xã hội mà nhóm phải thực hiện, trong đó
các vị trí được quy định một cách rõ ràng. Nhóm chỉ thực hiện tốt chức năng của nó khi các vị
trí đó hoạt động một cách hiệu quả và có sự liên hệ chặt chẽ với các vị trí khác.
Trong Tâm lý học xã hội, vị trí trong cấu trúc nhóm bao gồm hai thành tố: vị thế và chức
năng của vị trí (cá nhân) trong nhóm. Vị thế có thể coi như quyền tự quyết của cá nhân khi cá
nhân chiếm giữ một vị trí trong các quan hệ trong nhóm từ khi bắt đầu và trong suốt quá trình
duy trì vị trí đó. Như vậy, giữa các cá nhân trong nhóm có mối quan hệ theo thứ bậc thì vị thế
của họ cùng khác nhau. Vị thế của cá nhân chỉ có thể được xác định trong mối quan hệ với vị
thế của cá nhân khác trong toàn bộ cấu trúc nhóm. Trong thực tế vị thế thường được hiểu là
biểu hiện các quyền lực, các quyền lợi, các đặc quyền gắn với một vị trí.
Thành tố thứ hai của vị trí là chức năng của cá nhân khi chiếm giữ vị trí đó đóng góp cho
hoạt động của nhóm. Các vị trí có thể có các chức năng khác nhau. Cá nhân chiếm giữ một vị
trí cần thực hiện các chức năng tương ứng. Các chức năng đó có thể là chức năng thực hiện,
giám sát hay lên kế hoạch...
Như vậy, cấu trúc chính thức của nhóm được xác định chủ yếu trên cơ sở công việc của
nhóm. Nó đảm bảo cho hoạt động của nhóm trong việc thực hiện các chức năng xã hội của nhóm.
2. Cấu trúc không chính thức
Trong bất kì nhóm nào cũng tồn tại hai loại quan hệ cơ bản: quan hệ công việc nhằm thực
hiện các chức năng của nhóm và quan hệ liên nhân cách giữa các thành viên. Quan hệ liên
nhân cách là quan hệ dựa trên xúc cảm giữa các thành viên. Cơ sở của quan hệ này không
phải là vị trí (bao gồm vị thế và chức năng như trình bày ở trên) mà là xúc cảm và sự gắn bó
xúc cảm giữa các cá nhân. Trong mỗi nhóm, một số cá nhân có sự liên hệ chặt chẽ hơn về mặt
xúc cảm so với các cá nhân khác. Đây là hiện tượng mang tính quy luật. Bên trong bất kì một
nhóm nào, sự gắn bó (về mặt xúc cảm) cũng phân bố không đồng đều. Chính các mối liên hệ
về mặt xúc cảm giữa các thành viên trong nhóm tạo ra cấu trúc không chính thức của nhóm.
Từ đó có thể coi cấu trúc không chính thức của nhóm là những mối quan hệ giữa các thành
viên mang tính xúc cảm được quy định bởi các đặc lOMoAR cPSD| 42619430
điểm tâm lý xã hội của các thành viên. Cấu trúc không chính thức góp phần quan trọng trong
việc tạo ra bầu không khí tâm lý của nhóm.
Do tính chất của hai loại quan hệ trong nhóm là khác nhau, nên cấu trúc không chính thức
và cấu trúc chính thức có nhiều điểm khác biệt. Cấu trúc không chính thức không được quy
định từ trước. Sự hình thành của cấu trúc này chủ yếu dựa trên các tiếp xúc xúc cảm trực tiếp
của các thành viên. Nó hình thành một cách tự phát dựa trên sự thân thiện, thiện cảm hay
không thiện cảm giữa các thành viên. Do đó, cấu trúc không chính thức khó có thể được mô
tá một cách rõ ràng với các vị trí trong các mối quan hệ cụ thể giống như ở cấu trúc chính
thức. Đồng thời các cá nhân trong cấu trúc không chính thức không có các thứ bậc rõ ràng,
chức năng của các cá nhân cũng không được quy định rõ. Vị trí tương đối nổi bật trong cấu
trúc không chính thức là thủ lĩnh. Cấu trúc không chính thức có thể không trùng với cấu trúc
chính thức và trong đa số trường hợp là như vậy. Để phát hiện được cấu trúc này cần sử dụng
phương pháp đặc trưng - đó là trắc đạc xã hội.
Tuy vậy, trong thực tế không tồn tại cấu trúc chính thức thuần túy mà nó luôn tồn tại song
hành với cấu trúc không chính thức. Cấu trúc không chính thức xuất hiện một cách tự phát.
Cấu trúc này thường được hình thành dựa trên sự liên kết các thành viên bởi các hứng thú
chung, các liên hệ thân tình hay các mối quan tâm nào đó. Sự tồn tại của các cấu trúc không
chính thức trong lòng cấu trúc chính thức đặc biệt được quan tâm vì nó có tác động mạnh đến nhóm. 3. Chuẩn mực nhóm
Các chuẩn mực nhóm và sự hình thành các chuẩn mực nhóm là một trong số các hiện
tượng nhóm có được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
- Chuẩn mực nhóm là hệ thống các quy tắc và đòi hỏi của cộng đồng đối với mỗi một
thành viên, đóng vai trò phương tiện quan trọng nhất điều chỉnh hành vi của các thành viên
trong quan hệ và tác động tương hỗ, trong giao tiếp của nhóm. Chuẩn mực nhóm có vai trò
quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nhóm: Chuẩn mực nhóm là cơ sở để thống nhất
hành vi của các cá nhân trong nhóm và hướng cá nhân tới việc thực hiện các mục tiêu của nhóm.
- Chuẩn mực nhóm tạo ra sự ràng buộc giữa các thành viên với nhóm.
- Chuẩn mực nhóm đảm bảo cho sự ổn định của trật tự nhóm. lOMoAR cPSD| 42619430
Sự hình thành của chuẩn mực nhóm có thể được coi là sản phẩm của sự tác động xã hội qua
lại giữa các cá nhân trong đời sống nhóm và phản ánh những đòi hỏi từ cộng đồng xã hội lớn
hơn đối với nhóm. Do vậy quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm không phải là quá trình
thuần tuý nội nhóm. Một vấn đề khác cũng cần được lưu ý là nhóm chỉ hình thành các chuẩn
mực liên quan đến các tình huống và hành động có ý nghĩa đối với nhóm chứ không phải tất
cả các chuẩn mực cho mọi tình huống. Các chuẩn mực nhóm đã được hình thành có thể được
chấp nhận và tuân thủ ở các mức độ khác nhau.
Có các hướng nghiên cứu chuẩn mực nhóm khác nhau, mỗi hướng tạo thành các nhánh trong
nghiên cứu chuẩn mực nhóm. Hướng thứ nhất, nghiên cứu việc tiếp nhận những chuẩn mực
đang tồn tại trong nhóm của những cá nhân mới tham gia vào nhóm. Đây không phải là vấn
đề về sự gia nhập của thành viên mới vào nhóm. Trong trường hợp này, có thể quy về việc
nghiên cứu hiện tượng áp lực nhóm đối với cá nhân, sự tuân thủ của cá nhân trước nhóm.
Hướng thứ hai nghiên cứu quá trình hình thành các chuẩn mực nhóm và các giá trị nhóm
trong điều kiện cùng một lúc có nhiều cá nhân tham gia vào nhóm và sự tiếp nhận đầy đủ hơn
sau đó những chuẩn mực, sự chia sẻ mục đích nhóm của toàn bộ các thành viên.
Hướng thứ nhất nổi bật với các nghiên cứu sự lệ thuộc, thực chất là hiện tượng áp lực nhóm -
trong Tâm lý học xã hội được gọi là hiện tượng lệ thuộc (a dua). Bản thân từ “a dua” trong
ngôn ngữ đời thường đã có một nội dung hoàn toàn xác định: sự hùa theo người khác. Ở mức
độ nhận thức thông thường, hiện tượng a dua đã được xác định từ trước. Trong ngôn ngữ
thường ngày khái niệm này mang sắc thái tiêu cực. Điều này ảnh hưởng xấu đến việc nghiên
cứu, đặc biệt nếu nghiên cứu được tiến hành trong lĩnh vực ứng dụng. Vấn đề còn ở chỗ khái
niệm sự a dua có ý nghĩa đặc biệt xấu trong chính trị như là biểu tượng của sự thỏa hiệp và dễ
đãi. Để phân biệt rõ những ý nghĩa này, trong các tài liệu Tâm lý học xã hội thường không nói
đến sau a dua mà nói tới tính lệ thuộc hay là các hành vi lệ thuộc (phụ thuộc) với ý nghĩa đơn
thuần là đặc trưng tâm lý về vị trí của cá nhân tương ứng với vị trí của nhóm là mức độ tuân
thủ của cá nhân trước các áp lực nhóm. Trong các công trình nghiên cứu gần đây thường sử
dụng thuật ngữ “ảnh hưởng xã hội”.
Tính lệ thuộc xuất hiện khi có sự mâu thuẫn giữa ý kiến của cá nhân và ý kiến của nhóm. Mâu
thuẫn được giải quyết theo hướng vì lợi ích của nhóm. Mức độ lệ thuộc - đó là mức độ tuân
thủ nhóm trong trường hợp khi sự mâu thuẫn ý kiến được cá nhân tiếp nhận như là lOMoAR cPSD| 42619430
một xung đột. Những khái niệm như “đồng thuận”, “tính có điều kiện” có thể là những khái
niệm tương đồng mặc dù trong những khái niệm này có sắc thái khác. Ví dụ, sự đồng thuận
biểu thị việc chấp nhận những chuẩn mực nhất định nhưng sự chấp nhận các chuẩn mực
không phải là do áp lực. Khái niệm ngược với khái niệm lệ thuộc là “độc lập”, “lập trường
kiên định”, “vững vàng trước áp lực nhóm”... Đôi khi khái niệm “tiêu cực” cũng được sử
dụng như một khái niệm đối lập với sự lệ thuộc - sự chống đối lại áp lực nhóm, phủ nhận các
chuẩn mực nhóm thể hiện sự độc lập thái quá. Tuy nhiên tính tiêu cực giống như một hình
thức phủ nhận sự lệ thuộc chỉ là vẻ bề ngoài. Thực tế, tính tiêu cực không phải là sự độc lập
thực sự. Ngược lại có thể cho rằng đó là một trường hợp đặc biệt của sự lệ thuộc, một dạng
“lệ thuộc ngây thơ”: nếu cá nhân đặt ra cho mình mục đích chống đối lại ý kiến của nhóm
bằng mọi cách thì thực tế cá nhân đó lại phụ thuộc vào nhóm. Bởi lẽ mỗi cá nhân buộc phải
xây dựng hành vi chống đối nhóm của mình, phải xác lập một vị trí đối lập với nhóm hay với
các chuẩn mực tức là cá nhân đó bị phụ thuộc vào ý kiến nhóm chỉ có điều là với các dấu hiệu
ngược lại (Có nhiều ví dụ về tính tiêu cực, như cách ứng xử của thiếu niên). Do vậy lập
trường ngược lại với tính lệ thuộc không phải là tiêu cực mà là độc lập và không phụ thuộc. Ảnh hưởng xã hội Thông tin (thiểu số) Cơ sở “quyền lực” Chuẩn mực (đa số) Sự giảm định luật
Khen thưởng- cưỡng chế
Thay đổi trong hành vi cá nhân Thay đổi (bên trong) Đồng thuận
Sơ đồ các kiểu ảnh hưởng xã hội
Sau này M.Douch và Djepard đưa ra “lý thuyết thông tin về tính lệ thuộc” với 2 loại ảnh
hưởng nhóm: chuẩn mực (khi mà áp lực từ đa số và các thành viên tiếp nhận nó như là lOMoAR cPSD| 42619430
chuẩn mực) và thông tin (khi áp lực tạo ra từ thiểu số và các thành viên tiếp nhận nó như là
thông tin, trên cơ sở đó tự thực hiện sự lựa chọn của mình).
Cơ chế ảnh hưởng trong hai trường hợp này là khác nhau: đa số theo nghĩa đầy đủ tạo ra
“chuẩn mực”, chi phối ý kiến của cá nhân. Trong trường hợp này cá nhân thay đổi hành vi của
mình để thể hiện sự đồng ý, nhưng vẫn giữ ý kiến riêng cho bản thân. Chính điều này là sự lệ
thuộc bên ngoài. Thiểu số chỉ đưa ra cho các cá nhân thông tin và nếu cá nhân tin tưởng vào
thông tin, anh ta sẽ thay đổi ý kiến của mình... tức là dường như diễn ra sự đổi chiều, chấp
nhận bằng một quan điểm khác. Trường hợp này thể hiện sự lệ thuộc bên trong. Trong nhiều
trường hợp khác nhau mức độ ảnh hưởng tương ứng của hai loại này là khác nhau, nhưng từ
góc độ hình thành nhóm, cơ chế ảnh hưởng xã hội thể hiện như là áp lực của nhóm đối với
việc tuân thủ các chuẩn mực của nó. III.
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA NHÓM
LỚN 1. Những vấn đề chung về nhóm lớn
Việc nghiên cứu của Tâm lý học xã hội về các nhóm lớn gặp phải hàng loạt các khó khăn.
Do vậy, trong truyền thống nghiên cứu tâm lý học nhóm lớn xã hội đã có một số phận tương
đối phức tạp và kì lạ. Một mặt Tâm lý học xã hội bắt đầu chính từ việc nghiên cứu các nhóm
lớn xã hội, nhưng trong nửa đầu thế kỉ thứ XX, Tâm lý học xã hội thực nghiệm phát triển
mạnh mẽ và sự tập trung chính lại là nghiên cứu nhóm nhỏ. Vấn đề nhóm lớn lại trở thành
“đứa con ghẻ” chủ yếu vì có sự suy yếu của mối quan tâm tới các nghiên cứu lý luận trong
Tâm lý học xã hội, cũng như vì tính phức tạp của việc nghiên cứu các nhóm lớn bằng phương pháp thực nghiệm.
Có thể khẳng định một cách tự tin rằng vấn đề nhóm lớn đang được sinh ra lần thứ hai. Về
bản chất, nếu Tâm lý học xã hội không có phần về tâm lý học nhóm lớn thì nói chung không
thể trở thành Tâm lý học xã hội theo đúng nghĩa của từ này. Theo khẳng định của
G.Điligenxki, việc xem xét tâm lý của nhóm lớn không phải là một trong số các vấn đề của
Tâm lý học xã hội mà là vấn đề quan trọng nhất của nó.
Có hàng loạt các vấn đề liên quan đến nhóm lớn. Trước tiên đó là vấn đề: những nhóm nào
cần được xem là nhóm lớn? Thứ hai, tâm lý của nhóm lớn có cấu trúc như thế nào? Các yếu
tố cơ bản và sự phụ thuộc lẫn nhau, tính chất mối liên hệ lẫn nhau giữa chúng ra sao? Thứ ba
là vấn đề về mối quan hệ lẫn nhau giữa tâm lý của các cá nhân riêng lẻ tham lOMoAR cPSD| 42619430
gia vào nhóm và các yếu tố tâm lý nhóm. Cuối cùng, thứ tư, những phương pháp nào có thể
sử dụng trong việc nghiên cứu tất cả các hiện tượng đó?
- Vậy “nhóm lớn xã hội” là gì? Xuất phát từ những nguyên tắc chung trong cách hiểu về
nhóm, tất nhiên không thể đưa ra một định nghĩa đơn thuần về số lượng cho khái niệm này.
Theo sơ đồ được nêu ra ở phần trên đã chỉ ra rằng: những tập hợp người lớn về số lượng
được chia ra thành hai loại: loại thứ nhất là các nhóm ngẫu nhiên và tự phát. Đó là các tập
hợp tồn tại trong khoảng thời gian tương đối ngắn như đám đông, thính giả (cử toạ), công
chúng và loại thứ hai là các nhóm xã hội - theo đúng nghĩa của từ này, tức là những nhóm
hình thành trong tiến trình xã hội lịch sử, chiếm một vị trí nhất định trong hệ thống các
quan hệ xã hội của mỗi kiểu xã hội cụ thể và do vậy tồn tại lâu dài và bền vững. Loại thứ
hai này bao gồm các nhóm như giai cấp xã hội, tầng lớp xã hội và các nhóm tộc người (với
hình thức chính là các dân tộc), các nhóm nghề nghiệp, nhóm giới tính, lứa tuổi (theo quan
điểm này với tư cách là nhóm có thể xem xét các nhóm như: nhóm thanh niên, phụ nữ
những người trưởng thành và trung niên...).
- Tâm lý nhóm lớn có cấu trúc như thế nào? Hầu như tất cả các nhà nghiên cứu
(G.G.Điligenxki, A.I.Goriachieva, Iu.V.Brômlei...) đều phân chia thành hai phần cấu thành
trong nội dung của nó: 1. Nếp tâm lý như là cấu tạo tâm lý ổn định hơn (bao gồm tính cách
xã hội hay tính cách dân tộc, nếp sống, truyền thống, thị hiếu...); 2. Phương diện xúc cảm
như một cấu tạo tương đối biến động hơn (nhu cầu, hứng thú, tâm trạng). Mỗi yếu tố cần
trở thành đối tượng phân tích Tâm lý học xã hội một cách đặc biệt.
- Vấn đề thứ ba - vấn đề mối quan hệ qua lại giữa các đặc trưng tâm lý của nhóm lớn và
ý thức của mỗi cá nhân tham gia vào nhóm. Trong dạng chung nhất, vấn đề này được giải
quyết như sau: Các đặc trưng tâm lý nhóm là những gì mang tính đặc thù (cho nhóm)
nhưng lại chung cho tất cả các cá nhân và do vậy hoàn toàn không phải là tổng các nét có ở
mỗi cá nhân: Rõ ràng, cái phần tâm lý của các cá nhân tạo ra nhóm, thuộc về nhóm là cái có
thể gọi là “tâm lý nhóm”. Nói cách khác: tâm lý nhóm là cái có chung ở tất cả các đại diện
nhóm ở mức độ này hay mức độ khác, tức là đặc thù cho họ, được sinh ra bởi các điều kiện
tồn tại chung. Cái đặc thù đó không phải là như nhau đối với tất cả các cá nhân mà chỉ là cái
chung. Các nét chung của các đại diện của một nhóm xã hội nào đó tồn tại một cách khách
quan, bởi lẽ chúng thể hiện trong hoạt động hiện thực của nhóm. Theo mối quan hệ với “ý
thức” riêng lẻ, tâm lý nhóm như là một hiện thực xã hội nào đó vượt ra lOMoAR cPSD| 42619430
khỏi phạm vi ý thức của cá nhân riêng lẻ và tác động đến cá nhân cùng với các điều kiện
khách quan của cuộc sống, theo cách nói của Valông, dẫn tới “sự nhân đôi môi trường” trong
đó con người hoạt động.
Bằng các phương pháp nào có thể nghiên cứu tâm lý nhóm lớn xã hội? Trong chừng mực
các nét điển hình được củng cố trong đạo đức, truyền thống và nếp sống, Tâm lý học xã hội -
trong trường hợp này - cần sử dụng các phương pháp của các khoa học khác, như Dân tộc học
để phân tích các sản phẩm văn hóa. W.Wundt đề xuất về việc nghiên cứu ngôn ngữ, huyền
thoại và nếp sống để tìm hiểu tâm lý dân tộc. Một trong các hình thức hiện đại trong việc sử
dụng các phương pháp đó là các nghiên cứu so sánh hay liên văn hóa. Ở đây thuật ngữ “liên
văn hóa” được sử dụng mang tính truyền thống khi nói đến các nguồn gốc văn hóa khác nhau.
Trong thực tế thì không nhất thiết chỉ so sánh các văn hóa khác nhau mà còn so sánh các nhóm xã hội khác nhau.
Trong việc nghiên cứu tâm lý nhóm lớn còn có thể áp dụng cả các phương pháp truyền
thống của xã hội học bao gồm cả các phương pháp phân tích thống kê khác nhau. Các kết quả
nghiên cứu được thực hiện nhờ sự trợ giúp của các phương pháp đó không phải luôn phát hiện
ra được các liên hệ nhân quả; trong đó trước tiên mô tả một số những liên hệ phụ thuộc chức
năng nào đó cho phép có được các tương quan có ý nghĩa, điều chấp nhận được đổi với
nghiên cứu tương quan, phổ biến trong việc nghiên cứu đặc trưng tâm lý của nhóm lớn. Ngoài
các phương pháp nghiên cứu nêu trên, trong khi nghiên cứu nhóm lớn, Tâm lý học xã hội sử
dụng cả các phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học.
Lý thuyết “Biểu tượng xã hội” được đưa ra trong trường phái Tâm lý học Pháp
(X.Moscovisi) đã có đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Tâm lý học xã hội nhóm lớn. Lý
thuyết này ở một mức độ có ý nghĩa đồng thời đề ra phương pháp nghiên cứu nhóm lớn. Biểu
tượng xã hội trong lý thuyết này được hiểu là các biểu tượng đời thường của một nhóm nào
đó về hiện tượng xã hội này hay hiện tượng xã hội khác, tức là phương thức lý giải và thấu
hiểu hiện thực đời sống. Nhờ sự trợ giúp của các biểu tượng xã hội, mỗi nhóm xây dựng hình
ảnh thế giới xã hội, các thiết chế của nó, chính quyền, luật pháp, chuẩn mực. Các biểu tượng
xã hội - công cụ không phải của cá nhân mà của chính nhận thức xã hội của nhóm. Bởi lẽ
“biểu tượng” được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm, hoạt động của nhóm, hướng tới cách lý
giải đời thường được nhấn mạnh trong kinh nghiệm này. Về bản lOMoAR cPSD| 42619430
chất, thông qua sự phân tích các biểu tượng xã hội của các nhóm lớn, bộ mặt tâm lý của
chúng được nhận thức. (Đônxôp, Emelianôva, 1987).
Các biểu tượng xã hội được nhóm tạo ra thể hiện dưới dạng: một mặt nhóm định hình một
số khía cạnh của hiện thực xã hội, tạo ra ảnh hưởng trong việc đánh giá các khía cạnh đó, sau
đó sử dụng biểu tượng của mình về hiện tượng xã hội trong việc xác định thái độ đối với
chúng. Mặt khác, biểu tượng xã hội nhóm được đặt ra tạo khả năng hoà nhập nhóm, dường
như thực hiện chức năng “giáo dục” nhận thức cho các thành viên, mang đến cho họ những
cách lý giải đặc thù, quen thuộc (đối với nhóm) về các sự kiện, tức là tạo khả năng hình thành
sự đồng nhất nhóm (Anđrêeva, 2000). Như vậy phân tích các biểu tượng xã hội là chìa khóa
cho việc hiểu tâm lý nhóm. Lý thuyết này giúp xác định khái niệm “khuôn mẫu xã hội” của
nhóm lớn xã hội chính xác hơn. Trong đó phản ánh “góc nhìn” và “cách hiểu” thế giới của
các thành viên của một nhóm, phản ánh câu trả lời đặc thù của họ đối với bức tranh thế giới.
Các thành viên của một nền văn hóa nhất định lĩnh hội các phương thức tri giác giống nhau
hình thành các hình ảnh giống nhau thể hiện trong các hình mẫu ứng xử đặc thù. Tập hợp các
biểu tượng xã hội độc đáo của nhóm và tương ứng với nó là các hình mẫu hành vi nhất định
xác định khuôn mẫu của nhóm. Không phải ngẫu nhiên trong ngôn ngữ đời thường nhắc tới
“hình mẫu trí thức”, “hình mẫu doanh nhân”...
2. Đặc điểm Tâm lý dân tộc
Các nhóm tộc người là ví dụ về nhóm lớn xã hội có ý nghĩa trong quá trình xã hội lịch sử.
Khác với tâm lý học giai cấp, các đặc điểm của các nhóm tộc người, trước hết là dân tộc được
nghiên cứu nhiều hơn. Một nhánh đặc biệt của khoa học giao thoa giữa Tâm lý học xã hội và
Dân tộc học - Tâm lý học tộc người, nghiên cứu riêng biệt những vấn đề nêu trên (Xtêphanhencô, 1999).
Truyền thống nghiên cứu Tâm lý học nhóm tộc người trong Tâm lý học xã hội bắt đầu từ
các công trình của W.Wundt trong “Tâm lý học dân tộc”. Sự thâu thuộc về tộc người của cá
nhân là nhân tố đặc biệt có ý nghĩa đối với Tâm lý xã hội học. Bởi lẽ nó xác định những đặc
trưng nhất định của môi trường vi mô. Trong các điều kiện của môi trường đó, nhân cách
được hình thành. Đặc trưng tộc người ở một mức độ nhất định tập trung trong kinh nghiệm
lịch sử của mỗi tộc người và việc lĩnh hội các kinh nghiệm này là nội dung quan trọng nhất
của quá trình xã hội hóa. Thông qua môi trường xung quanh gần gũi nhất lOMoAR cPSD| 42619430
trước tiên là gia đình, nhà trường, cá nhân theo từng mức độ phát triển tiếp cận với đặc trưng
văn hóa tộc người, tập quán truyền thống, phương thức, ý thức về sự thâu thuộc vào tộc người
phụ thuộc vào các điều kiện xã hội lịch sử cụ thể của sự tồn tại của tộc người đó.
Tương ứng với truyền thống được hình thành trong Tâm lý học xã hội nhóm lớn, trong tâm
lý học cộng đồng tộc người phân biệt hai mặt: 1. Tính cách dân tộc - phần ổn định hơn cả -
nếp tâm lý (bao gồm, tính cách khí chất và cả truyền thống, tập quán) của một tộc người hoặc
cả một dân tộc; 2. Phương diện xúc cảm (bao gồm tình cảm dân tộc, tộc người).
- Tính cách dân tộc: Đây là khái niệm phổ biến hơn cả để mô tả các đặc điểm của nếp
tâm lý tộc người (dân tộc). Mặc dù còn nhiều mâu thuẫn vả nhiều tranh luận liên quan đến
nội dung của tính cách dân tộc nhưng trong các nghiên cứu cụ thể vẫn có sự đồng thuận
tương đối lớn khi mô tả các nét tính cách dân tộc ở nhiều nhóm dân tộc riêng lẻ (tính dũng
cảm, yêu lao động, khả năng kiềm chế...). Liên quan đến bản chất của tính cách dân tộc thì
ở đây xuất hiện nhiều vấn đề gây tranh cãi. Trước tiên là nét tính cách dân tộc có quan hệ
như thế nào với các nét tính cách của mỗi đại diện của nó. Liệu các nét tính cách có phải
hoàn toàn chỉ có ở một dân tộc mà hoàn toàn không có ở các nhóm khác (tức là liệu có thể
nói rằng một dân tộc nào đó yêu lao động, còn dân tộc khác - cởi mở). Cuối cùng các nét
tính cách dân tộc và tính cách xã hội tác động qua lại như thế nào? Do vậy không chỉ đơn
giản nói về tập hợp các nét tính cách mà chủ yếu là về mức độ biểu hiện của nét này hay nét
khác trong tập hợp đó, về đặc trưng trong cách biểu hiện của nó: Không phải ngẫu nhiên
các tài liệu tập trung vào việc xác định một số đặc trưng nào đó. Ví dụ, đặc trưng của người
Anh là hài hước, mặc dù sự hài hước không chỉ có ở người Anh. Giải thích sự hình thành
tính cách tộc người cũng là công việc được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các nhà nghiên
cứu đã đi theo nhiều cách tiếp cận khác nhau để giải quyết vấn đề này. Từ cách tiếp cận dựa
trên các điều kiện tự nhiên, khí hậu đến tiếp cận dựa trên sự giao thoa và khuyếch tán văn
hóa; từ tiếp cận dựa trên các đặc điểm sinh học thể chất, đến tiếp cận hoạt động sống của
tộc người. Tuy vậy, câu hỏi này vẫn cần những nghiên cứu tiếp theo.
Trong nghiên cứu tính cách dân tộc, ngoài việc tìm hiểu tập quán và truyền thống, việc
phân tích ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, việc truyền lại các nét tính cách
dân tộc được thực hiện trong quá trình xã hội hóa, trước tiên là trực tiếp qua ngôn ngữ. Tính
ổn định tương đối của các nét tính cách dân tộc, dù có sự thay đổi của môi lOMoAR cPSD| 42619430
trường được giải thích bằng sự xuất hiện của sức ỳ nào đó, được đảm bảo bằng con đường
chuyển giao kinh nghiệm giữa các thế hệ.
- Phương diện xúc cảm của tộc người bao gồm sự đồng nhất tộc người và ý thức tự giác
tộc người. Các đặc trưng này liên quan đến ý thức của con người về sự thâu thuộc của bản
thân vào một nhóm tộc người nhất định và sự trải nghiệm xúc cảm về việc đó, tức là tiếp
nhận và trải nghiệm sự khác biệt văn hóa của nhóm mình với nhóm khác. Cùng với quá
trình đó là sự xuất hiện của các khuôn mẫu tộc người.
Tính cộng đồng tâm lý có ở mọi nhóm tộc người được thể hiện trong sự hình thành tình
cảm “chúng ta” nào đó. Đối với nhóm tộc người “tình cảm chúng ta” xác định ý thức về các
đặc điểm của tộc người mình khác biệt với tộc người khác. Hình ảnh của các nhóm khác,
trong đó thường bị làm tầm thường hóa, được hình thành dưới ảnh hưởng của các quan hệ liên
nhóm, các quan hệ tạo ra tâm thế đặc biệt cho các đại diện của nhóm khác. Trong đó kinh
nghiệm giao tiếp với nhóm tộc người khác có vai trò nhất định. Nếu các quan hệ này trong
quá khứ mang tính thù địch thì màu sắc đó được di chuyển sang mỗi đại diện được gặp lại của
nhóm đó và bằng cách đó hình thành tâm thế tiêu cực. Thường xuyên hơn cả, khuôn mẫu tộc
người xuất hiện vì sự hạn chế của giao tiếp liên nhóm: các nét có ở những đại diện cá biệt của
nhóm tộc người (khác) lần lượt được phổ biến ra toàn bộ nhóm (Stêphanhencô, 1999).
Khuôn mẫu được hình thành bằng cách đó sau này ảnh hưởng tới sự xuất hiện của thái độ
thiện cảm hay không thiện cảm của tộc người. Bản thân sự ý thức về các đặc điểm của tộc
người không chứa đựng định kiến trước chống lại tộc người khác. Nhưng vấn đề vẫn xảy ra
cho tới khi sự tương phản của các khác biệt được nhận thức vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên rất
dễ chuyển từ sự tương phản sang việc đánh giá nhóm tộc người khác, sang sự thân thiện hay
không thiện cảm và khi đó có thể xảy ra sự hạ thấp hình ảnh của nhóm khác. Trong các khuôn
mẫu tộc người luôn luôn có sự va chạm mạnh mẽ của những kiểu ảnh hưởng từ ngoài tộc
người, trước hết là xã hội, lịch sử, chính trị, cũng như những ảnh hưởng được quy định bởi
nội dung văn hóa... Cơ chế tiếp theo của việc biến khuôn mẫu tộc người thành định kiến và
sau đó là sự củng cố định kiến trong các học thuyết chinh trị, tư tưởng - vấn đề không phải
của Tâm lý học xã hội. Khuôn mẫu tộc người luôn được hình thành trong một vài bối cảnh xã
hội nào đó và khi đó chúng có được một hình thức bền vững - định kiến, tức là một cấu tạo có
màu sắc xúc cảm tiêu cực mang tính quy chuẩn, lOMoAR cPSD| 42619430
chúng dễ dàng được sử dụng như là vũ khí của sự thù hằn dân tộc. Cũng từ đó xuất hiện về
phương diện tâm lý học hiện tượng trung tâm tộc người (hay trung tâm luận tộc người, hay tự
kì tộc người) - đề cao nhóm tộc người mình, mong muốn tiếp nhận mọi hiện tượng cuộc sống
từ lập trường của nó, xác định một cách thống nhất các nét tính cách của tộc người.
Tính tương đối của các khác biệt tâm lý giữa các nhóm là đặc trưng quan trọng của TLH
nhóm tộc người (Kon, 1970). Những khác biệt này không thể tuyệt đối hóa và cần được xem
như là cái phải sinh từ những điều kiện lịch sử nhất định, được củng cố trong chiều dài của
hàng loạt các thế hệ (“sự chuyển giao văn hóa”). Dù cho có tính ổn định tương đối, các nét
này có thể thay đổi theo lịch sử. Tâm lý học tộc người đã tích luỹ được một số lượng tương
đối lớn những tư liệu thú vị liên quan đến những đặc điểm nếp tâm lý và hành vi của con
người, bị quy định bởi sự thâu thuộc của họ vào một tộc người. Do vậy nhiệm vụ đặt ra cho
Tâm lý học xã hội và Tâm lý học xã hội tộc người ngày nay tương đối phức tạp. Tính nóng
bỏng chính trị của vấn đề trong thế giới hiện đại buộc phải giải quyết các vấn đề này với sự
chính xác đặc biệt. Nguyên tắc bình đẳng các dân tộc, đặc trưng cho các chương trình chính
trị của các quốc gia dân chủ không biểu thị sự thừa nhận tính giống nhau giữa các dân tộc. Từ
đó chỉ ra các đặc điểm dân tộc, trong đó có sự khác biệt trong tâm lý dân tộc vẫn còn là một nhiệm vụ cấp thiết.
3. Đặc điểm Tâm lý giai cấp
Giữa sự đa dạng của các nhóm lớn các giai cấp xã hội có được sự quan tâm đặc biệt. Trong
nhiều tập sách về Tâm lý học xã hội do H.Linđcey và E.Aronson chủ biên đã chỉ ra rằng bản
thân thuật ngữ giai cấp có nội dung khác nhau đối với các nhà nghiên cứu châu âu và Mỹ. Đối
với các nhà nghiên cứu phương Tây, khái niệm “giai cấp” hiện thực hơn bởi lẽ sự đồng nhất
với giai cấp rõ ràng hơn, tương đối thường xuyên gắn với việc xác định sự thâu thuộc về
chính trị. Đối với văn hóa, nhìn chung việc thao tác hóa khái niệm “giai cấp công nhân”, “giai
cấp tư bản” là không đặc trưng nhưng họ lại quen hơn với khái niệm “giai cấp trung lưu”,
“giai cấp bần cùng”... Điều đó liên quan tới việc trong các lý thuyết xã hội học cấu trúc xã hội
được mô tả nhờ sự trợ giúp của các khái niệm như “các thiết chế kinh tế - xã hội” chứ không
phải “giai cấp xã hội”. Một cách tự nhiên, điều đó không thể không ảnh hưởng tới những sự
khác biệt trong cách hiểu cấu trúc Tâm lý học xã hội về giai cấp. Nói riêng, trong một mức độ
lớn, thay vì phân tích tâm lý học về giai cấp, người ta đề nghị phân tích tâm lý học các tầng
lớp xã hội khác nhau. Tuy vậy trong mọi lOMoAR cPSD| 42619430
tình huống cần lưu ý rằng bản chất của sự phân tích xã hội là ở chỗ làm rõ liên hệ giữa các
đặc trưng tâm lý của nhóm và hình mẫu hành vi của các thành viên nhóm.
Từ cách hiểu truyền thống của xã hội học mác xít (trong đó có cả xã hội học Nga) về giai
cấp có thể nhận thấy ba tuyến nghiên cứu tâm lý học giai cấp: Đó là chỉ ra các đặc điểm đặc
thù của các giai cấp cụ thể đã tồn tại trong lịch sử và đang tồn tại; chỉ ra đặc trưng của các giai
cấp khác nhau trong các thời đại nhất định; phân tích mối quan hệ giữa tâm lý giai cấp và tâm
lý các thành viên riêng lẻ của giai cấp như là những trường hợp riêng của vấn đề mối quan hệ
giữa tâm lý học nhóm và tâm lý học cá nhân. Đối với truyền thống này việc sử dụng thuật ngữ
“tâm lý học giai cấp” có đặc trưng là không loại trừ sự phân tích tâm lý học các tầng lớp riêng
lẻ tham gia vào giai cấp này hay giai cấp khác.
Phương diện động thái xúc cảm của tâm lý học giai cấp được nghiên cứu đầy đủ hơn cả,
bao gồm các nhu cầu giai cấp, các lợi ích giai cấp, tập hợp các vai trò xã hội. Trong chừng
mực vị trí xã hội nhất định, khối lượng và thành phần của các quyền lợi tinh thần và vật chất
mà mỗi thành viên nhóm được phân bố chừng đó. Nó tạo ra cấu trúc nhất định của các nhu
cầu, ý nghĩa tâm lý và trọng lượng của mỗi nhân tố. Bên cạnh đó vẫn còn một loạt các vấn đề
đòi hỏi sự phân tích Tâm lý học xã hội. Lợi ích được hình thành như là lợi ích của toàn nhóm,
nhưng mỗi thành viên của giai cấp không chỉ tham gia vào nhóm đó mà họ còn là thành viên
của nhiều nhóm xã hội khác: Thứ nhất, ngay trong bản thân mỗi giai cấp có nhiều tiểu nhóm
được phân biệt bằng trình độ nghề nghiệp của nó theo các phương diện công việc… Thứ hai,
mỗi thành viên của một giai cấp có thể đồng thời là thành viên của một nhóm nào đó trong
phương diện học vấn (ví dụ trong trường đại học, trường phổ thông), nơi thành viên đó tác
động qua lại trực tiếp với những thành viên của các giai cấp khác. Xuất hiện sự đan xen các
lợi ích khác nhau, mỗi lợi ích trong số đó được xác định bởi sự thâu thuộc vào một nhóm có
giá trị xã hội. Trong hệ thống các lợi ích của cá nhân có những lợi ích bền vững hơn và ngược
lại trong một số những tình huống nào đó, các lợi ích ít sâu sắc hơn bắt đầu đóng vai trò nổi
bật - có ý nghĩa mang tính nguyên tắc.
Các yếu tố tham gia vào phần biến động của tâm lý học giai cấp như tập hợp các vai trò xã
hội và định hướng xã hội tương ứng của cá nhân... cũng như tính chưa rõ ràng của các khái
niệm này trong khi áp dụng vào việc phân tích tâm lý học nhóm lớn trên thực tế chưa được
nghiên cứu. Điều này cũng đúng với một hiện tượng được gọi là “tình cảm xã hội”. Khái
niệm tình cảm xã hội không phải được thừa nhận chung trong các tài liệu. Ở một lOMoAR cPSD| 42619430
mức độ nhất định, nhiều vấn đề về tình cảm xã hội còn tranh luận. Do vậy có thể sử dụng nó
như một định nghĩa mô tả trạng thái nào đó trong phương diện xúc cảm của nhóm (Ví dụ:
“căm thù giai cấp”, xúc cảm xuất hiện trong mối liên hệ với mọi sự đồng nhất xã hội liên
quan tới sự bất bình đẳng). Do vậy tính không xác định của thuật ngữ không làm giảm ý
nghĩa của bản thân vấn đề. Nó chỉ chứng tỏ rằng trong Tâm lý học xã hội chưa có truyền
thống nghiên cứu lĩnh vực này với sự trợ giúp của một bộ máy khái niệm khoa học. Tâm lý
học xã hội buộc phải kết hợp hệ thống các thuật ngữ từ các khoa học khác như văn học nhân
văn, triết học và lịch sử.
Khi đề cập tới việc xác định các thành phần ổn định hơn trong tâm lý học giai cấp thì có
thể thấy vấn đề này ít được nghiên cứu hơn ở một mức độ đáng kể. Liên quan tới giai cấp, nếp
tâm lý thường được mô tả như là một diện mạo tâm lý thể hiện trong một phương thức đặc
biệt của hành vi và hoạt động, trên cơ sở đó có thể tái thiết kế các chuẩn mực điều chỉnh
nhóm xã hội. Diện mạo đó thể hiện trong tính cách xã hội, những định nghĩa mang tính thao
tác của cả khái niệm này cũng còn chưa được làm rõ trong các tài liệu riêng của Tâm lý học xã hội.
Thuật ngữ “tính cách xã hội” thực tế được đưa ra trong các công trình của trào lưu Phân
tâm học mới, trong đó có các công trình của E.Fromm. Theo ông, tính cách xã hội - đó là mắt
xích kết nối giữa tâm lý cá nhân và cấu trúc xã hội. Nhưng các loại tính cách xã hội ở Fromm
không gắn với một giai cấp xã hội nhất định mà tương ứng với các kiểu khác nhau của sự tự
tách biệt của con người trong các thời đại lịch sử khác nhau. Ông nêu ra các kiểu như sau: con
người thời đại tiền tư bản (loại “tích luỹ”), những năm 20 của thế kỉ XX (“loại thị trường” gắn
liền với xã hội “xa lánh hoàn toàn”). Do vậy tính cách xã hội thường xuyên hơn cả được xác
định bằng cách mô tả những cái được thể hiện trong hình mẫu hành vi ứng xử ổn định đặc thù
của các thành viên của các giai cấp khác nhau trong các tình huống trong hoạt động sống của
họ và giúp phân biệt giai cấp này với giai cấp khác. Trong việc đưa ra các tính cách xã hội,
các mô tả được chứa đựng trong lịch sử văn hóa, lịch sử quốc gia, trong các tài liệu văn học
có thể được sử dụng (có thể nói đến các tác phẩm của Banzắc, Gorki). Văn học thực chất đã
tiến hành công việc của tâm lý học trong việc thực hiện cái được gọi là chuyên khảo. Dù cho
sản phẩm của nghiên cứu loại này không tồn tại dưới dạng các lý thuyết khoa học, không dưới
dạng các khái niệm khoa học, mà dưới dạng các hình ảnh nghệ thuật, tức là dưới dạng các tài
liệu văn học phản ánh hiện thực vẫn không làm mất đi giá trị của các nghiên cứu đó. Ngoài tính cách xã hội, khuôn lOMoAR cPSD| 42619430
mẫu xã hội được tìm thấy trong các thói quen và tập quán, cũng như truyền thống giai cấp.
Tất cả các cấu tạo này đóng vai trò người điều chỉnh hành vi và hoạt động của các thành viên
trong nhóm xã hội, do vậy có ý nghĩa lớn đối với việc hiểu tâm lý học nhóm. Chúng đưa ra
đặc trưng quan trọng nhất của dấu hiệu mang tính tổ hợp của giai cấp như là lối sống của nó.
Khía cạnh Tâm lý học xã hội của các nghiên cứu lối sống, nói riêng, là sao cho trong phạm vi
vị trí khách quan của giai cấp, xác định và giải thích được hình mẫu hành vi nổi trội của đa số
quần chúng đại diện cho giai cấp đó trong các tình huống độc đáo trong đời sống hàng ngày.
Thói quen và tập quán được hình thành dưới ảnh hưởng của các điều kiện sống nhất định
nhưng sau đó được củng cố và đóng vai trò cái điều chỉnh hành vi. Phân tích thói quen và tập
quán chính là vấn đề riêng của Tâm lý học xã hội. Các phương pháp nghiên cứu vấn đề này
gần với các phương pháp nghiên cứu tâm lý học truyền thống, trong một chừng mực nhất
định ở đây có thể sử dụng phương pháp quan sát.
Như vậy chúng ta đã chỉ ra những hướng phân tích cơ bản, theo đó Tâm lý học xã hội còn
phải thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các đặc trưng tâm lý của các tầng lớp xã hội khác nhau
và các phương thức mà nhờ chúng, tâm lý nhóm được “xây dựng”, đảm bảo cho “sự lãnh hội”
hiện thực xã hội của mỗi cá nhân. Ở đây điều quan trọng là phải hiểu bằng cách nào quần
chúng với số lượng tương đối lớn - với tất cả sự đa dạng về tâm lý của họ - trong những tình
huống có ý nghĩa nào đó của cuộc sống thể hiện sự giống nhau trong các biểu tượng như thị
hiếu, hay thậm chí cả những đánh giá xúc cảm về hiện thực. Các tình huống này là các tình
huống trong điều kiện sống đặc biệt, được quy định trước hết bởi sự thâu thuộc vào một nhóm
lớn xã hội cụ thể, do vậy Tâm lý học xã hội không thể bỏ qua sự kiện này khi xây dựng các
mô hình giải thích hành vi và hoạt động của con người.
IV. KHÁT NIỆM CHUNG VỀ NHÓM
NHỎ 1. Khái niệm nhóm nhỏ
Trong suốt một thế kỉ nghiên cứu nhóm nhỏ, các nhà Tâm lý học xã hội đã đưa ra rất nhiều
những định nghĩa khác nhau về nhóm nhỏ. Mỗi định nghĩa được dưa ra dựa trên góc độ riêng,
quan niệm riêng của mỗi tác giả về nhóm. Các định nghĩa nói chung hoặc chỉ xem xét một
khía cạnh nào đó, hoặc chỉ nhấn mạnh đến một khía cạnh nào đó của nhóm được cho là bản chất.
Các định nghĩa nhóm nhỏ có thể xuất phát từ các góc độ sau: lOMoAR cPSD| 42619430
- Từ góc độ tri giác của thành viên nhóm với các thành viên khác hay với cả nhóm nói chung.
- Từ góc độ động cơ của các thành viên nhóm.
- Từ góc độ mục đích nhóm.
- Từ góc độ các đặc trưng cấu trúc nhóm.
- Từ góc độ sự phụ thuộc lẫn nhau.
- Từ góc độ tác động qua lại giữa các thành viên nhóm.
Từ góc độ tri giác lẫn nhau giữa các thành viên, M.Smith đưa ra khái niệm nhóm nhỏ “Nhóm
xã hội là một đơn vị bao gồm nhiều cá nhân có sự tri giác tập thể về tính thống nhất của nó,
có khả năng hành động với cách hành động thống nhất đối với môi trường” Theo quan niệm
này, đặc trưng cơ bản của nhóm nhỏ xã hội là sự tri giác thống nhất về sự tồn tại của nhóm, từ
đó có được hành động thống nhất. Thực tế cho thấy các thành viên trong nhóm ở một mức độ
nhất định tri giác sự tồn tại của nhóm và sự thâu thuộc của bản thân vào nhóm, nhưng tri giác
đó chỉ có được như là kết quả của một nhóm đã hình thành. Một số tác giả khác lại dựa trên
động cơ thúc đẩy các cá nhân tham gia vào nhóm để định nghĩa nhóm. Họ cho rằng cá nhân
tham gia vào nhóm vì tin rằng nhu cầu của bản thân sẽ được thỏa mãn nhờ nhóm. Chẳng hạn,
theo R.Cattell: “Nhóm là một tập hợp các cá nhân, trong đó sự có mặt của tất cả các thành
viên cần thiết để thỏa mãn nhu cầu riêng nào đó của cá nhân”. Theo quan niệm này, trước khi
tham gia vào nhóm, cá nhân phải tự xác định nhu cầu nào cần được thỏa mãn và phương thức
thỏa mãn nó. Vấn đề đặt ra là cùng một nhu cầu có thể được thỏa mãn ở nhiều nhóm khác
nhau. Vậy điều gì làm cá nhân lựa chọn nhóm này hay nhóm khác? Thực sự khi tham gia vào
nhóm cá nhân có thể và cần tính đến việc các nhu cầu của mình là gì và nó có thể thỏa mãn
nhờ nhóm hay không. Đây cũng chính là điểm mà nhóm có thể lôi cuốn và hấp dẫn cá nhân.
Nhưng xét trong các điều kiện thực tế xã hội, việc cá nhân lựa chọn nhóm không phải chỉ đơn
thuần dựa trên động cơ đó.
Bản thân M.Shaw - người đã tiến hành phân tích các khái niệm nhóm nhỏ khác nhau
- coi nhóm nhỏ là: “Hai hoặc nhiều cá nhân tác động qua lại với nhau, mỗi cá nhân ảnh
hưởng và chịu ảnh hưởng của cá nhân khác”. Với khái niệm này M.Shaw cũng chưa thoát
khỏi việc định nghĩa theo một trong các cách nói trên. lOMoAR cPSD| 42619430
Tuy vậy ông đã lưu ý rằng sự tương tác qua lại là dấu hiệu bản chất của nhóm nhỏ, dấu hiệu
này làm nhóm nhỏ khác biệt với các đám đông đơn thuần, nhưng bên cạnh đó cũng cần tính
tới các dấu hiệu rất quan trọng của nhóm nhỏ như: thời gian tồn tại lâu dài, có mục đích
chung hoặc các mục đích chung sự phát triển cấu trúc nhóm dù ở mức độ đơn giản (bao gồm
các thuộc tính nhóm như sự ý thức của các thành viên về cái “chúng ta” hay ý thức về sự thâu
thuộc của cá nhân vào một nhóm).
Xuất phát từ quan điểm khác, các nhà tâm lý học xã hội như G.M.Andrêeva, A.V.Pêtrôvxki,
P.L.Krichievxki, E.M.Dubrôvxkai dựa trên nguyên tắc hoạt động để nghiên cứu các vấn đề
của Tâm lý học xã hội nói chung và nhóm nhỏ nói riêng. Pêtrôvxki cho rằng: “Nhóm xã hội là
một tập hợp các cá nhân được liên kết trên cơ sở một số các dấu hiệu chung liên quan đến
hoạt động cùng nhau của họ, trong đó có giao tiếp”. Khái niệm này nhấn mạnh đến hoạt động
cùng nhau của nhóm, nhưng chưa làm nổi bật và khẳng định vị trí của nhóm trong các quan hệ xã hội.
Trong hàng loạt các khái niệm của Tâm lý học xã hội về nhóm nhỏ, khái niệm của
G.M.Anđrêeva về nhóm nhỏ được coi là phổ biến. Nó thể hiện rõ nhất tư tưởng và phương
pháp luận của Tâm lý học xã hội theo nguyên tắc hoạt động: “Nhóm nhỏ là nhóm trong đó
các quan hệ xã hội thể hiện dưới hình thức các tiếp xúc cá nhân trực tiếp”. Theo đó nhóm nhỏ
là một nhóm tồn tại hiện thực không phải trong chân không mà trong một hệ thống các quan
hệ xã hội. Nhóm nhỏ là chủ thể của một hoạt động xã hội nhất định, thực hiện một chức năng
xã hội nhất định. Mỗi nhóm nhỏ là một đơn vị của cấu trúc xã hội rộng lớn. Hoạt động xã hội
chung của nhóm quy định các đặc trưng của nhóm. Nhóm nhỏ xã hội bất kì là một hệ thống vi
mô trọn vẹn trong các mối quan hệ xã hội. Do vậy các mối quan hệ phải được phản ánh và cụ
thể hóa trong nhóm. Như vậy nhóm nhỏ được xem là một nhóm xã hội. Cách quan niệm này
nhấn mạnh vào bản chất xã hội của nhóm chứ không phải đơn thuần là một tập hợp các cá
nhân thực hiện các mục đích riêng nào đó. Trong hệ thống các quan hệ xã hội, mọi nhóm nhỏ
đều là đơn vị nhỏ nhất không phân chia được của hệ thống. Đây cũng chính là những nhóm
nhỏ xã hội mà xã hội hiện đại đang đặt ra yêu cầu nghiên cứu: các nhóm kinh doanh, các
nhóm lao động, nhóm nghiên cứu khoa học...
Một quan điểm, khác rất đáng lưu ý là quan điểm của A.I.Đônxôv. Ông cho rằng nhóm nhỏ là
tổ hợp hữu hạn các cá nhân tác động qua lại một cách trực tiếp với các dấu hiệu: lOMoAR cPSD| 42619430
1. Tồn tại trong một khoảng thời gian tương đối dài và thường xuyên tiếp xúc
trực tiếp với nhau, không có trung gian, trong khoảng cách ngắn nhất.
2. Có các mục đích chung mà việc thực hiện chúng cho phép thỏa mãn những
nhu cầu cá nhân và các quyền lợi bền vững.
3. Tham gia vào hệ thống chung phân bổ các chức năng và vai trò trong hoạt động sống cùng nhau...
4. Chia sẻ các các chuẩn mực và các quy định đối với các hành vi nội nhóm và liên nhóm.
Điều quan trọng trong cách hiểu về nhóm xã hội ở đây là sự gắn kết các cá nhân
trong nhóm bằng các giá trị, các mục đích chung. Theo A.I.Đônxôv một nhóm thực sự là một
tổ hợp tương đối bền vững các cá nhân có liên hệ mang tính lịch sử bởi các giá trị chung, các
mục đích, các phương tiện của đời sống xã hội. Một nhóm thực sự sẽ phải có các giá trị, các mục đích chung.
Từ những dấu hiệu nêu trên, có thể đi đến một khái niệm nhóm nhỏ như sau: Nhóm
nhỏ là một cộng đồng với số lượng ít thành viên, giữa các thành viên có mối quan hệ liên
nhân cách trực tiếp, có sự tương tác chặt chẽ, cùng hoạt động theo các giá trị chung và
những mục đích chung.
Khái niệm này nhấn mạnh quan điểm của Tâm lý học hoạt động, coi nhóm nhỏ là một đơn vị
xã hội. Do vậy nó được hình thành do yêu cầu xã hội, thực hiện những chức năng xã hội nhất
định và là một mắt xích trong hệ thống các quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, khái niệm đã đề cập
tới các thành tố khác nhau tạo nên một nhóm chỉnh thể: các quan hệ tác động qua lại trực tiếp,
sự thống nhất giá trị và thống nhất mục đích nhóm. Khái niệm cũng đề cập tới hoạt động cùng
nhau của các thành viên nhóm, bằng hoạt động và thông qua hoạt động nhóm mới trở thành một chỉnh thể tâm lý. 2. Quy mô nhóm
Quy mô nhóm là một khía cạnh gắn liền với định nghĩa nhóm nhỏ, bởi lẽ tính chất “nhỏ” hay
“lớn” về mặt số lượng phần nào thể hiện ở ngay quy mô của nó. Đề cập tới quy mô nhóm,
trong Tâm lý học nhóm nhỏ các tác giả thường đề cập tới giới hạn trên và giới hạn dưới về số
lượng các thành viên của nhóm. Đến nay còn nhiều quan niệm khác nhau về quy mô nhóm. lOMoAR cPSD| 42619430
Về giới hạn dưới: Đa số các nhà nghiên cứu cho rằng với hai thành viên là có thể tạo ra một
nhóm. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng: nhóm hai người chỉ có thể coi là một dạng đặc biệt của
nhóm nhỏ xã hội nói chung chứ không phải là một mô hình tiêu biểu của nhóm nhỏ xã hội.
Nhóm hai người không phản ánh được một cách đầy đủ sự phức tạp của các quan hệ liên nhân
cách, cũng như sự tác động qua lại đa chiều giữa các cá nhân trong nhóm. Do vậy, tồn tại
quan niệm khác khẳng định chỉ có thể nói đến một nhóm nhỏ khi có từ ba thành viên trở lên.
Đến nay giới hạn dưới của nhóm nhỏ là bao nhiêu vẫn là câu hỏi còn chưa có được câu trả lời
hoàn toàn thống nhất. Tuy vậy một cách phổ biến, nhóm nhỏ vẫn được coi là bắt đầu với hai thành viên.
Cũng giống như với giới hạn dưới, vấn đề giới hạn trên cũng có nhiều quan điểm khác nhau:
Có quan niệm cho rằng số lượng thành viên tối đa có thể là 20 (M.Shaw), hay 30, 40
(J.Moreno). Các tác giả khác lại đưa ra con số là 7 ± 2. Số lượng thành viên thuộc giới hạn
trên do các tác giả nêu ra chưa có được các cơ sở lý luận vững chắc.
Coi nhóm nhỏ là một đơn vị xã hội, các nhà tâm lý học xã hội theo quan điểm hoạt động cho
rằng: số lượng các thành viên trong một nhóm được quy định bởi chức năng mà nhóm thực
hiện trong các mối quan hệ xã hội. Nói cách khác số lượng thành viên của nhóm nhỏ không
phải được xác định một cách chủ quan mà phải dựa vào sự tồn tại thực tế của nó trong đời
sống hiện thực xã hội. Nếu nhóm nhỏ được nghiên cứu, trước tiên, cần phải là nhóm tồn tại
hiện thực và nếu nó được xem xét như là chủ thể của hoạt động thì một cách lôgic là không
đưa ra một giới hạn cứng nhắc nào đó mà chấp nhận nhóm như chính bản thân quy mô hiện
thực của nó, được quy định bởi nhu cầu hoạt động chung của nhóm. Nói cách khác, nếu nhóm
được hình thành trong một hệ thống nhất định các mối quan hệ xã hội với quy mô cụ thể nào
đó và nó đủ để thực hiện một hoạt động nhất định thì trong nghiên cứu có thể thừa nhận chính
giới hạn đó là giới hạn trên. Quan niệm này đảm bảo tính linh hoạt khi tiếp cận với nhóm nhỏ
tồn tại hiện thực trong đời sống xã hội. Quan niệm này cũng nhấn mạnh đến tính chỉnh thể
của nhóm chứ không khai thác vào khía cạnh số lượng đơn thuần của các thành viên nhóm.
3. Phân loại nhóm nhỏ
Phân loại nhóm nhỏ là bước tiếp theo mang tính lôgic trong việc nghiên cứu nhóm nhỏ. Với
sự đa dạng, muôn màu muôn vẻ của các nhóm nhỏ xã hội, việc có được một cách phân loại
hợp lý để có thể nhận diện và phần nào chỉ ra được những đặc trưng cơ bản của lOMoAR cPSD| 42619430
các loại nhóm nhỏ là một công việc vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Do vậy,
vấn đề phân loại nhóm nhỏ đã là đối tượng của nhiều cuộc tranh luận trong Tâm lý học xã
hội. Để có được cái nhìn tổng quan có thể kể tới các loại nhóm nhỏ sau: nhóm trong phòng thí
nghiệm (thực nghiệm) và nhóm tự nhiên.
Nhóm trong phòng thí nghiệm là những nhóm được tập hợp từ nhiều cá nhân khác nhau một
cách ngẫu nhiên với mục đích thực hiện các nhiệm vụ thực nghiệm đã được định trước. Thời
gian tồn tại của nhóm này ngắn, kết thúc khi thực nghiệm đã hoàn thành. Ngược lại, nhóm tự
nhiên là nhóm tồn tại thực trong cuộc sống, có lịch sử phát triển và thực hiện chức năng nhất
định. Loại nhóm này được hình thành trong điều kiện thực của cuộc sống và có sự phát triển ở
các mức độ khác nhau. Nhóm chính thức và nhóm không chính thức (hay còn gọi là nhóm tự
phát). Cách phân chia này được đưa ra bởi E.Mayo, gắn liền với thực nghiệm Hawthorne. Cả
hai loại nhóm này đều là các nhóm tự nhiên. Nhóm chính thức là đơn vị cơ bản của tổ chức xã
hội, trong đó vị trí của các thành viên được xác định. Đồng thời vai trò của các thành viên
cũng được phân chia rõ ràng. Nhóm có cấu trúc chính thức (cấu trúc chính quyền). Các mối
quan hệ trong nhóm là quan hệ theo chiều dọc, do hệ thống các vai và các vị trí quy định. Sự
xuất hiện của nhóm chính thức được quy định bởi sự cần thiết phải thực hiện một chức năng
xã hội nào đó. Do vậy, nhóm chính thức được thành lập để thực hiện một nhiệm vụ do tổ chức
xã hội giao cho. Đó cũng chính là đặc trưng cơ bản của nhóm chính thức. Đặc trưng này cho
thấy nhóm chính thức không phải được hình thành hoàn toàn do ý muốn chủ quan của con
người mà được hình thành bởi nhu cầu của hệ thống xã hội.
Nhóm không chính thức là nhóm xuất hiện một cách tự phát, các vị trí và các vai trò trong
nhóm không được quy định trước. Nhóm không chính thức có thể xuất hiện ngay trong lòng
các nhóm chính thức hay bên ngoài các nhóm chinh thức. Nhóm này thường được hình thành
dựa trên sự liên kết các thành viên bởi các hứng thú chung, các liên hệ thân tình hay các mối
quan tâm nào đó. Trong một số trường hợp nhất định, nhóm này có thể trở thành nhóm có tổ
chức. Thông thường các nhóm không chính thức trong lòng nhóm chính thức được xác định
bằng trắc đạc xã hội.
Tuy nhiên sự phân biệt này là tương đối vì hoàn toàn có khả năng nhóm không chính thức có
thể có những đặc điểm nhất định của nhóm chính thức và ở một mức độ nhất định chuyển hóa
thành nhóm chính thức. Trong thực tế rất khó có thể phân chia một cách lOMoAR cPSD| 42619430
rõ ràng nhóm chính thức và nhóm không chính thức, đặc biệt trong trường hợp nhóm không
chính thức xuất hiện trong lòng nhóm chính thức.
Với cách hiểu như vậy về nhóm chính thức và nhóm không chính thức, trong hoạt động tô
chức, quản lý xã hội, nhà quản lý trước tiên phải quan tâm tới nhóm chính thức. Hệ quả tất
yếu khi nhóm chính thức hình thành là nhóm chính thức này ngay từ đầu chưa phải là một
nhóm có được sự trùng khớp giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính thức, nói cách
khác chưa có sự cố kết cao. Chính vì vậy E.Mayo cho rằng cần làm cho cấu trúc chính thức
và không chính thức càng trùng khớp nhau càng tốt. Đây cũng là nguyên nhân của việc xuất
hiện các xu hướng nghiên cứu ứng dụng hướng tới việc tăng cường sự trùng khớp giữa cấu
trúc của nhóm không chính thức với cấu trúc nhóm chính thức hay tạo ra sự cố kết nhóm trong nhóm chính thức.
Một cách phân loại khác là cách phân loại của H.Hyman: phân chia các nhóm thành nhóm
thành viên và nhóm tham chiếu. Cơ sở của cách phân chia này là mức độ có ý nghĩa của các
giá trị, các chuẩn mực nhóm đối với các định hướng của cá nhân. Nhóm thành viên là nhóm
mà cá nhân tham gia thực tế nhưng các giá trị và mục đích nhóm không được cá nhân chia sẻ.
Cá nhân tồn tại trong một nhóm này nhưng nhóm không tạo ra được ảnh hưởng đến thái độ,
đến các định hướng giá trị của cá nhân. Trong khi đó, nhóm mà cá nhân không tham gia thực
tế nhưng các chuẩn mực, giá trị của nó lại được cá nhân tiếp nhận gọi là nhóm tham chiếu.
Theo quan điểm ban đầu của H.Hyman, nhóm tham chiếu bắt buộc nằm bên ngoài nhóm
thành viên. Sau này các dữ kiện thực nghiệm đã cho thấy đôi khi có trùng hợp nhóm tham
chiếu với nhóm thành viên. Đồng thời trong số nhiều nhóm khác nhau, chỉ có một nhóm nào
đó có vai trò là nhóm tham chiếu đối với cá nhân mà thôi. Lý thuyết nhóm tham chiếu gắn bó
chặt chẽ với 2 hướng nêu trên của định hướng tương tác. Nhóm tham chiếu được hiểu là
nhóm mà các giá trị và chuẩn mực của nó được cá nhân hướng tới. Nhóm tham chiếu như là
tiêu chí, hệ thống các cơ sở để cá nhân đánh giá bản thân và người khác cũng là nguồn gốc để
hình thành các thái độ xã hội, các định hướng giá trị của cá nhân. Các tác giả của lý thuyết
này là H.Hyman, T.Newcomb, M.Sherif, G.Kem, R.Merton.
Nhờ các công trình của các tác giả nêu trên, vấn đề nhóm tham chiếu trở thành một vấn đề
phổ biến trong Tâm lý học xã hội. Các nhà Tâm lý học xã hội tìm thấy trong vấn đề này chìa
khóa để giải thích quá trình hình thành các thái độ xã hội (tâm thế xã hội) và sự tự lOMoAR cPSD| 42619430
đánh giá, còn các nhà xã hội học xem là công cụ để phân tích chức năng các cấu trúc xã hội.
Khái niệm nhóm tham chiếu cũng được sử dụng một cách rộng rãi để giải thích các hiện
tượng như: tính không thống nhất trong hành vi của cá nhân trong các điều kiện một ngữ cảnh
xã hội mới, hiện tượng phạm tội của lứa tuổi vị thành niên, các xung đột liên quan đến nhóm,
phản ứng khác nhau của công chúng trước cùng một thông tin từ thông tin đại chúng... Cơ sở
của lý thuyết nhóm tham chiếu là ý tưởng của G.Mead về “người khác khái quát”. Theo quan
điểm của G.Mead, ý nghĩa của “người khái quát” là tương tác xã hội được thực hiện thông
qua đó, cũng qua đó diễn ra sự tác động xã hội đến cá nhân. “Cá nhân nhận thức về bản thân
không phải trực tiếp mà là gián tiếp, từ những góc độ riêng của những thành viên nhóm xã hội
mà cá nhân thuộc về” (Mead, 1934, 138). Nhóm trở thành hệ thống các thái độ khái quát đối
với các cá nhân tham gia vào nhóm.
Khái niệm này được Hyman đưa ra vào năm 1942 khi nghiên cứu biểu tượng của cá nhân về
vị trí của mình trong sự so sánh với các cá nhân khác. Ông không đưa ra định nghĩa về nhóm
tham chiếu, mà sử dụng khái niệm này để chỉ nhóm mà nghiệm thể dùng để so sánh với bản
thân để xác định vị trí của mình. Kết quả của việc so sánh với nhóm tham chiếu là sự tự đánh
giá của nghiệm thể về vị trí của mình. Sự tự đánh giá này được Hyman xem như là biến số
phụ thuộc bởi vì nó có quan hệ đối với nhóm tham chiếu.
Sau này khái niệm nhóm tham chiếu được Newcomb sử dụng để chỉ nhóm mà cá nhân hướng
tới trên phương diện tâm lý và do vậy chia sẻ các chuẩn mực các giá trị của nó cũng như dựa
vào đó để định hướng các hành vi của bản thân. Theo ông, sự hình thành các thái độ là chức
năng của quan hệ tích cực hay tiêu cực của cá nhân đối với nhóm nảy hay nhóm khác. Từ đó
Newcomb chia thành các nhóm tham chiếu tích cực hay tiêu cực. Nhóm tham chiếu tích cực
là nhóm mà các chuẩn mực và giá trị của nó được cá nhân chấp nhận và tạo ra mong muốn
được nhóm chấp nhận. Nhóm tham chiếu tiêu cực là nhóm tạo ra mong muốn chống lại ở cá
nhân và cá nhân không muốn trở thành thành viên của nhóm. Theo Newcomb, “sự nổi loạn”
của thiếu niên chính là biểu hiện của việc trẻ coi cha mẹ là nhóm tham chiếu tiêu cực của chúng.
Khái niệm này được xác nhận cuối cùng bởi M.Sherif và R.Merton. Theo Sherif, các chuẩn
mực của nhóm tham chiếu trở thành các thái độ xã hội của cá nhân và cơ sở của sự tự đánh
giá và cơ sở để giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội và để hình thành “bức tranh của
bản thân về thế giới”. Sự đa dạng của các nhóm tác động đến cá nhân, đặt lOMoAR cPSD| 42619430
cá nhân vào một tình thế khó khăn khi phải lựa chọn các chuẩn mực khác nhau của các nhóm
khác nhau. Ông đề nghị phân biệt nhóm hiện tại mà cá nhân đang là thành viên và nhóm tham
chiếu - nhóm cá nhân coi là mình thuộc về một cách có ý thức hay vô thức.
Hiện vẫn chưa có được sự phân chia rõ ràng các loại nhóm tham chiếu nhưng có sự thừa nhận
chung đối với các loại sau: nhóm bên ngoài, nhóm thành viên, nhóm hiện thực, nhóm lý
tưởng, nhóm lớn và nhóm nhỏ.
Các chức năng của nhóm tham chiếu: có hai chức năng chính: chuẩn mực và đánh giá - so
sánh. G.Kem sau khi phân tích các công trình trước đó về nhóm tham chiếu đã nhận thấy khái
niệm nhóm tham chiếu đề cập đến hai loại quan hệ khác nhau giữa cá nhân và nhóm. Đó là
quan hệ ở phương diện động cơ và phương diện các quá trình tri giác. Từ đó ông chia thành 2
chức năng: chức năng chuẩn mực và chức năng so sánh đánh giá.
- Chức năng thứ nhất: tạo lập các tiêu chuẩn nhất định cho hành vi và buộc cá nhân
tuân theo. Các chuẩn mực hành vi thường được gọi là các chuẩn mực nhóm. Do vậy ông
gọi chức năng này của nhóm tham chiếu là chức năng chuẩn mực. Theo Kelley, nhóm tham
chiếu có thể thực hiện chức năng này nếu nó có khả năng ban thưởng cho cá nhân khi tuân
theo và trừng phạt khi cá nhân không tuân theo.
- Chức năng thứ hai của nhóm tham chiếu thể hiện ở chỗ nó là cơ sở để cá nhân so
sánh và đánh giá bản thân và người khác. Hai chức năng trên có thể được thực hiện bởi
cùng một nhóm, có thể là nhóm thành viên hay nhóm bên ngoài mà cá nhân muốn trở thành
thành viên hay gắn bó về mặt tâm lý. Sự khác biệt của chức năng chuẩn mực và so sánh có
thể được hiểu như sau: Với chức năng chuẩn mực, đối với cá nhân điều quan trọng là biết
được thái độ của nhóm đối với bản thân, nhóm chấp nhận hay từ chối cá nhân. Dường như
cá nhân bị theo dõi bởi nhóm, bị đánh giá từ góc độ các chuẩn mực của nhóm, do vậy cá
nhân xây dựng các hành vi của mình theo các chuẩn mực đó; còn đối với chức năng so sánh
thì ý kiến của nhóm đối với cá nhân lại ít có ý nghĩa. Cá nhân tự đánh giá bản thân bằng
cách so sánh với các tiêu chí đã biết.
Vấn đề khác cũng được quan tâm là những nhóm nào được cá nhân chọn làm nhóm tham
chiếu. Merton đi sâu nghiên cứu vấn đề này, ông đã đề xuất một số các điều kiện, theo đó cá
nhân lựa chọn nhóm bên ngoài làm nhóm tham chiếu:
- Nếu nhóm không có đủ uy tín đối với cá nhân, cá nhân có xu hướng lựa chọn nhóm
bên ngoài có uy tín hơn làm nhóm tham chiếu. lOMoAR cPSD| 42619430
- Cá nhân càng bị cô lập, vị thế của cá nhân càng thấp trong nhóm, càng có khả năng
cá nhân lựa chọn nhóm tham chiếu bên ngoài, ở đó cá nhân có được vị thế cao hơn.
- Sự biến động xã hội càng cao, cá nhân càng có nhiều cơ hội thay đổi vị thế của
mình thì càng có khả năng cá nhân lựu chọn các nhóm tham chiếu ở đó cá nhân có được vị thế xã hội cao hơn.
- Sự lựa chọn nhóm tham chiếu cũng phụ thuộc vào tính cách cá nhân.
H. Kelley chỉ ra hai chức năng của nhóm tham chiếu: chức năng so sánh và chức năng tiêu
chuẩn. Các chuẩn mực hành vi, thái độ được thừa nhận trong nhóm trở thành “hình mẫu” để
cá nhân thực hiện các hành vi - đây là chức năng so sánh. Chức năng thứ hai - chức năng tiêu
chuẩn cho phép cá nhân đánh giá sự tương ứng của các hành vi của mình đối với các chuẩn
mực nhóm. Chức năng tiêu chuẩn góp phần điều chỉnh các hành vi của các cá nhân, đặc biệt
trong trường hợp có các hành vi lệch chuẩn.
Ngoài những cách phân chia cơ bản nêu trên, một số tác giả phân chia thành nhóm thứ cấp và
nhóm sơ cấp (Tr.Kuli). Nhóm thứ cấp là nhóm có sự tiếp xúc gián tiếp thông qua các trung
gian. Nhóm sơ cấp là nhóm có sự tiếp xúc trực tiếp.
Một loại nhóm nhỏ đặc biệt hay được đề cập đến trong Tâm lý học xã hội Xô viết là tập thể.
Loại nhóm này không được nói đến trong Tâm lý học xã hội phương Tây. Trong Tâm lý học
xã hội Việt Nam, khái niệm này được sử dựng rộng rãi. Trong lý thuyết về tập thể của
A.V.Petrôvxki và sau này các tác giả khác như G.M.Anđrêeva, A.I.Đôxôv, R.L.Krichievxki
đều cho rằng tập thể là một trạng thái chất lượng đặc biệt của nhóm nhỏ, là nhóm nhỏ đạt tới
“sự trưởng thành” tâm lý xã hội. Xét về quá trình phát triển nhóm, nhóm nhỏ phải trải qua
nhiều giai đoạn, nhiều mức độ, chỉ khi đạt tới mức độ phát triển cao nhất nhóm mới trở thành
tập thể. Đặc trưng cơ bản của nhóm khi nó trở thành tập thể là có mục đích phù hợp với mục
đích xã hội, có sự liên kết chặt chẽ và có thể tạo ra và đảm bảo những điều kiện lợi cho sự
phát triển của mỗi nhân cách. 4. Chức năng nhóm
Vấn đề chức năng của nhóm cũng được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ nhiều góc độ khác
nhau. Giải quyết vấn đề này góp phần lý giải các nguyên nhân thúc đẩy một cá nhân tham gia
vào nhóm cũng như chỉ ra chiều hướng vận động và phát triển của nhóm. Trong nhiều cách
tiếp cận vấn đề này đáng chú ý là cách tiếp cận sinh học xã hội, tiếp cận nhu lOMoAR cPSD| 42619430
cầu tâm lý và quan hệ xã hội, tiếp cận chức năng và tiếp cận mô hình 5 chức năng lớn (Big five model).
Ngay trong công trình đầu tiên - Nhập môn Tâm lý học xã hội (1908) Mc.Dougall đã đưa ra
cách tiếp cận sinh học xã hội để lý giải sự hình thành nhóm. Ông cho rằng: Bản năng bầy đàn
dẫn dắt con người tham gia vào nhóm. “Chúng ta thường nói rằng sự buồn chán của nông
thôn thúc đẩy con người vào thành phố. Nhưng cách hiểu như vậy không đúng với sự thật.
Chính đám đông trong thành phố - bầy đàn người khổng lồ lôi kéo, hấp dẫn những người
đứng ngoài nó” (Allport, 1994). Cộng đồng xã hội được coi là bầy đàn mặc dù đó là cộng
đồng xã hội. Những cái lôi cuốn cá nhân tham gia vào nhóm không có tính chất xã hội của
cộng đồng đó mà là tính chất tự nhiên, bản năng có ở mỗi cá thể. Rõ ràng cách tiếp cận này đề
cao bản năng sinh học của con người. Nó chưa chỉ ra được bản chất xã hội của nhóm xã hội,
cũng như chưa chỉ ra được chức năng của nhóm.
Cách tiếp cận thứ hai tương đối phổ biến. Đó là tiếp cận nhu cầu tâm lý và quan hệ xã hội. Cơ
sở của cách tiếp cận này là các nhu cầu tâm lý của cá nhân và phương thức thỏa mãn xã hội
của nó. H.Murray (1938) với thuyết nhu cầu tâm lý cho rằng tham gia vào hệ thống hai người
giúp các cá nhân có thể thỏa mãn được nhu cầu nào đó của mình. A.Maslow trong tháp nhu
cầu nổi tiếng của mình có đưa ra “nhu cầu thuộc về một nhóm xã hội”. Theo cách tiếp cận
này, chức năng của nhóm nhỏ xã hội là tạo điều kiện cho sự thỏa mãn các nhu cầu tâm lý của
cá nhân. Cách tiếp cận này đã chỉ ra được một khía cạnh trong các chức năng của nhóm nhỏ,
một khía cạnh tương đối nổi bật. Tuy vậy nhìn nhận nhóm xã hội chỉ từ góc độ cá nhân riêng
lẻ đồng nghĩa với việc đánh mất ngữ cảnh xã hội của nhóm. Phân tích chức năng của nhóm
không chỉ tập trung vào chức năng của nhóm đối với cá nhân mà còn cần phải chú ý đến chức
năng của nhóm như là một chủ thể xã hội.
Tiếp cận chức năng nhìn nhận vấn đề một cách khái quát hơn: nhóm là nguồn cho sự tồn tại
xã hội của con người. Nó cung cấp các nguồn lực cần thiết cho sự tồn tại và phát triển con
người xã hội. Trong cách tiếp cận này mô hình 5 chức năng lớn (Big five Function) của nhóm
do Donelson R. đề xuất rất đáng được lưu ý:
1. Nhóm tạo điều kiện cho các cá nhân có cơ hội tiếp xúc và tạo lập quan hệ với các
cá nhân khác trong một mạng lưới xã hội có tổ chức. (Belonging)
2. Nhóm tạo cơ hội cho những mối quan hệ thân thiện, gắn bó, tạo điều kiện cho sự
phát triển nhóm làm việc gắn bó. (Intimacy) lOMoAR cPSD| 42619430
3. Nhóm tạo điều kiện cho tính hiệu quả, thành công, kiểm soát nguồn lực và định
hướng công việc. (Generativity)
4. Nhóm tạo ra sự ổn định về Tâm lý, giảm lo hãi, tạo cảm giác an toàn, tăng cường
lòng tự trọng... (Stability)
5. Nhóm tạo điều kiện cho sự sáng tạo, sàng lọc các ý tưởng, tự phát triển bản thân,
hiểu bản thân và người khác, tăng cường liên hệ liên nhân cách (Adaptability) (Myer D.G. 1996).
Mô hình 5 chức năng lớn của nhóm có một số ưu điểm:
- Chỉ ra vị trí của nhóm trong mạng lưới các quan hệ xã hội, coi nhóm là một mắt
xích trong mạng lưới đó. Cá nhân tham gia vào nhóm cũng chính là tham gia vào mạng lưới các quan hệ xã hội.
- Bên cạnh chức năng tạo ra những mối quan hệ xúc cảm quan hệ tâm lý liên nhân
cách - như xu hướng chung của Tâm lý học xã hội phương Tây nhấn mạnh đến các quan hệ
xúc cảm trong nhóm - mô hình này đã đề cập tới chức năng tổ chức hoạt động của nhóm.
- Chỉ ra sự gắn kết nhóm nằm trong bản chất nhóm, xuất hiện trong cuộc sống nhóm
chứ không phải sự gắn kết có từ ban đầu, bên ngoài. Sự cố kết trong nhóm là kết quả của
quá trình hoạt động nhóm.
Tuy vậy hạn chế ở đây cũng chính là việc chưa xem nhóm là một đơn vị xã hội thực hiện một
chức năng xã hội nhất định, trên cơ sở đó nhóm thực hiện các chức năng khác của mình.
5. Quá trình ra quyết định nhóm
Quá trình ra quyết định nhóm là một trong những dấu hiệu cơ bản của nhóm nhỏ. Quá trình
này cho thấy nhóm nhỏ như là một chủ thể của hoạt động nhóm. Cũng giống như các hiện
tượng tâm lý xã hội khác của nhóm nhỏ, quá trình ra quyết định nhóm cũng được xem xét như
một quá trình được tạo bởi các thành phần cụ thể. Trong đó thành phần thứ nhất là nhiệm vụ
của nhóm. Nhiệm vụ của nhóm được xem như là nguồn gốc và đối tượng của quá trình ra quyết định nhóm.
M.Shaw khi nghiên cứu các nhiệm vụ của nhóm tập trung vào 4 vấn đề: mô tả các nhiệm vụ
mang tính chuẩn mực của nhóm, xây dựng các phân loại nhiệm vụ của nhóm, lOMoAR cPSD| 42619430
phân tích các chiều kích của nhiệm vụ nhóm và chỉ ra ảnh hưởng của các nhiệm vụ nhóm có
các tính chất khác nhau đến quá trình nhóm.
Theo M.Shaw, các nhiệm vụ mang tính chuẩn mực của nhóm được hiểu là những nhiệm vụ
có tính chất rõ ràng, giúp nghiên cứu các khía cạnh của hành vi nhóm thuận lợi. Các nhiệm vụ
này có thể ghi lại các điều kiện xuất phát, sản phẩm cuối cùng và các hành động nhất định mà
các thành viên cần thực hiện để đạt tới mục đích mong muốn. Loại nhiệm vụ này có lợi thế là
giúp người nghiên cứu dễ dàng theo dõi hành vi của các cá nhân và của nhóm một cách chính
xác, loại trừ bớt các yếu tố phụ thuộc lẫn nhau do tính chất rõ ràng của nhiệm vụ quy định.
Tuy nhiên hạn chế cơ bản là loại nhiệm vụ này chỉ cho phép nghiên cứu những hành động
mang tính cơ học chứ không cho thấy hành vi phức tạp của nhóm và các hiện tượng như thảo
luận nhóm hay quá trình phân tích trí tuệ của nhóm.
* Phân loại các nhiệm vụ nhóm là một trong các công việc phức tạp. Hiện nay có
một số phân loại như sau: nhiệm vụ phức tạp hay đơn giản; nhiệm vụ hợp tác hay cạnh
tranh. Tackman đề xuất một số loại: sáng tạo, thảo luận, vấn đề. M.Shaw đề xuất phân loại
các nhiệm vụ nhóm theo các tính chất của chúng: độ khó của nhiệm vụ, tính đa phương án
của nhiệm vụ, độ quan tâm bên trong của mỗi thành viên nhóm, yêu cầu phối hợp hành
động, mức độ yêu cầu về trí tuệ đối với nhiệm vụ và tính mới mẻ của nhiệm vụ (Shaw M. 1976).
* Ảnh hưởng của tính chất nhiệm vụ nhóm tới quá trình nhóm: Các nhiệm vụ với các
tính chất khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau tới các quá trình nhóm, tới các phương
diện khác nhau của hành vi nhóm như: sự định hướng tới hành vi của người khác; sự lạc
quan, tính mới mẻ của các quyết định; sự tham gia vào quá trình cũng như sự bền vững và
chất lượng của hành vi. Đặc biệt tính rõ ràng của mục đích cần đạt được có ảnh hưởng lớn
tới sự cố kết của các thành viên. Các thành viên thể hiện sự cố kết cao hơn và có động cơ
hoạt động mạnh hơn đối với các nhiệm vụ rõ ràng và có hành vi ngược lại đối với các
nhiệm vụ không rõ ràng.
* Quá trình ra quyết định nhóm: Quá trình ra quyết định nhóm luôn phải đối mặt với
một vấn đề chưa có câu trả lời thỏa đáng: tính hiệu quả của quyết định cá nhân và quyết
định nhóm có tương đồng hay không? Sự dịch chuyển rủi ro từ cá nhân sang nhóm và sự
phân cực nhóm như thế nào? lOMoAR cPSD| 42619430
Để ra quyết định nhóm, thảo luận nhóm có vai trò quan trọng. Trong quá trình thảo luận
nhóm diễn ra các cơ chế sau:
- Thảo luận nhóm cho phép các lập trường các quan điểm được va chạm, bằng cách
đó giúp các thành viên có thể nhìn thấy các khía cạnh khác nhau của vấn đề.
- Các kết luận được rút ra từ thảo luận nhóm sẽ có ý nghĩa hơn đối với mỗi thành
viên, nó có thể trở thành chuẩn mực nhóm và do vậy có ảnh hưởng lớn đến hành vi của các thành viên.
Thảo luận nhóm cũng được xem xét như là một giai đoạn của quá trình ra quyết định nhóm.
Đặc biệt ở lĩnh vực ứng dụng, các nhà nghiên cứu đang tìm cách đưa ra các hình thức thảo
luận nhóm khác nhau, một trong số đó là “brainstorming” do A.Osbom đề xuất hay phương
pháp “liên kết các khác biệt” của U.Golden.
* Sự dịch chuyển rủi ro: Các nghiên cứu trước đây cho thấy, khi ra quyết định, nhóm
có xu hướng dung hòa các quyết định thái quá cả về 2 phía của các cá nhân để đi đến một
quyết định “trung bình”. Hiện tượng này được gọi là “cân bằng hóa nhóm”. Tuy nhiên,
trong các trường hợp các quyết định có nhiều rủi ro thì diễn ra “sự dịch chuyển rủi ro”: có
thể có hiện tượng dịch chuyển về phía rủi ro khi có sự phân tán trách nhiệm và dịch chuyển
về phía thận trọng hơn. Các giả thuyết chưa được khẳng định.
* Sự phân cực các ý kiến trong nhóm (cũng được gọi là sự chuyển dịch ý kiến):
Trong tiến trình thảo luận nhóm, các ý kiến đối lập không chỉ xuất hiện mà chúng còn tạo ra
sự chấp nhận hay phản đối của phần lớn các thành viên. Các ý kiến trung gian dịch chuyển
dần về phía này hay phía khác làm các ý kiến thuộc 2 cực ngày một rõ ràng hơn. Có 2 cách
giải thích sự phân cực: chuẩn mực và thông tin. Chuẩn mực tức là cá nhân so sánh mình với
người khác và để khẳng định cái tôi của bản thân “người khác cũng nghĩ như tôi”. Điều này
giúp cá nhân củng cố ý kiến của bản thân. Thông tin tức là nếu thảo luận nhóm được điều
khiển bởi các chứng cứ và các chứng cứ đó có lợi cho cá nhân thì cá nhân đó càng mạnh mẽ
hơn với ý kiến của mình (tức là phân cực thay vì trung gian). Ngược lại nếu chứng cứ mâu
thuẫn với ý kiến trước đây, cá nhân đó sẽ dứt khoát dịch chuyển về phái đối lập (tức là cũng phân cực).
6. Lý thuyết về sự phát triển nhóm lOMoAR cPSD| 42619430
Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển của nhóm nhỏ. Ý tưởng về sự phát triển nhóm
đã được đưa ra trong lý thuyết Phân tâm học, trong công trình của Freud “Tâm lý học nhóm
và phân tích cái tôi”. Trong định hướng Phân tâm học của Tâm lý học xã hội xuất hiện lý
thuyết phát triển nhóm của V.Bennis và G.Shepard, được hình thành trên cơ sở phân tích thực
tiễn tâm lý trị liệu nhóm. Lý thuyết này được hình thành từ giữa những năm 1950. Nó không
hoàn toàn nằm trong định hướng phân tâm học mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều định hướng
khác. Tuy vậy theo Shaw và Costanzo, lý thuyết này có tư tưởng cơ bản liên quan đến Phân
tâm học. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở tìm hiểu những quá trình nhóm diễn ra trong
các nhóm T hay còn gọi là các nhóm huấn luyện quan hệ con người hay nhóm tự phân tích.
Các nhóm này là một hiện tượng trong đời sống xã hội phương Tây những năm 60, 70 của thế
kỉ XX. Thực hành Nhóm T - với các hình thức đa dạng của nó diễn ra dưới ảnh hưởng của
Phân tâm học. Nhóm T chính là một phương pháp huấn luyện xã hội. Huấn luyện xã hội được
hiểu theo nghĩa rộng là dạy các hiểu biết, kĩ năng, kỹ xảo giao tiếp liên nhân cách. Hoạt động
cơ bản của nhóm T là thảo luận nhóm. Chủ đề thảo luận là các mối quan hệ liên nhân cách
hiện thực của các thành viên nhóm và nhiệm vụ là tìm hiểu chính động thái nhóm qua việc
phân tích các quá trình diễn ra trong nhóm. Các quá trình đó được nghiên cứu bởi chính các
thành viên nhóm. Sự tăng lên trong hiểu biết của cá nhân về chính các động cơ của bản thân;
sự hụt hẫng, ý định, các khả năng có thể trong giao tiếp liên nhân cách của bản thân cũng như
của người khác... được gọi chung là sự thành thục xã hội. Mục đích cuối cùng của huấn luyện
xã hội là giúp những người tham gia nâng cao sự thành thục xã hội. Để đạt được mục đích
cuối cùng, cần thực biện các mục đích cụ thể được đặt ra một cách rõ ràng hay ngầm định. Ở
cấp độ nhóm, mục đích đó là tạo ra sự giao tiếp có hiệu lực, tức là: đạt được một trạng thái
nhóm mà mỗi thành viên có khả năng thể hiện các tình cảm, xúc cảm, động cơ,
ý định của mình một cách chính xác, tự do. Ở đó tri giác của mỗi thành viên về vị trí của mình
trong nhóm phù hợp với sự tri giác của các thành viên khác, mục đích được thống nhất của
nhóm và sự nỗ lực của các thành viên là tương ứng và các thành viên nhóm có khả năng chia
sẻ nhiều mức độ giao tiếp. Quy mô nhóm có thể từ 7 - 15 người. Đó có thể là nhóm hiện thực
nhưng thường xuyên hơn cả là các nhóm được hình thành từ những người không quen biết
nhau từ trước. Các thành viên chủ yếu là những người thuộc các nghề nghiệp khác nhau
nhưng có điểm chung là cần có khả năng giao tiếp. Thời hạn của các nhóm T có thể từ 2 ngày
đến 2 tháng. Mỗi nhóm có một người huấn luyện. Vai trò của người này có lOMoAR cPSD| 42619430
thể thay đổi tùy nhiệm vụ cụ thể. Nhưng trong mọi trường hợp vai trò chính của người đó là
tạo ra bầu không khí tin tưởng, sự cởi mở trong nhóm. Người huấn luyện phải thể hiện hình
mẫu của các hành vi mong muốn, tức là bộc lộ một cách chân thành và rõ ràng các tình cảm
của mình, thể hiện sự gắn bó và ủng hộ sự chân thành của người khác. Người huấn luyện khác
với vai trò của người bác sĩ trị liệu, không tập trung vào các kinh nghiệm của các thành viên
mà chỉ tập trung vào các quá trình diễn ra “ở đây” và “bây giờ” trong nhóm. Hệ thống các liên
hệ ngược cho phép mỗi cá nhân có thể hiểu được người khác và diễn giải điều mình làm và
nói, qua đó tạo ra những tiền đề cho việc suy nghĩ về hậu quả có thể có của các hành động của
mình trong nhóm. Kết quả của huấn luyện phụ thuộc vào hệ thống các liên hệ ngược được
thiết lập như thế nào. Những tiền đề đảm bảo cho nhóm có hiệu quả là tạo ra bầu không khí
tin tưởng, an toàn tâm lý trong nhóm và sự sẵn sàng thay đổi những phương thức tri giác và
tác động qua lại khi thấy được những hạn chế của chúng.
Về phương diện lý luận nhóm, T chịu ảnh hưởng của Phân tâm học truyền thống ở chỗ: cá
nhân có thể mở rộng kinh nghiệm của mình bằng cách đưa các cơ chế tự vệ của hành vi mà cá
nhân chịu chi phối mà không ý thức được đến với ý thức và đặt dưới sự kiểm soát của ý thức.
Đây chính là nguyên tắc trị liệu của Phân tâm học. Lý thuyết này được xây dựng trên việc
nghiên cứu các quá trình diễn ra trong nhóm gọi là nhóm T - các nhóm luyện tập (training
group): sự tồn tại của nhóm luyện tập chia thành 2 pha. Trong mỗi pha, nhóm giải quyết một
tập hợp nhất định các vấn đề để đạt được mục tiêu cơ bản của nó - thiết lập giao tiếp có hiệu
lực (tức là giao tiếp, trong đó loại bỏ các trở ngại đối với người tham gia giao tiếp). Con
đường để đạt tới mục đích đó chính là sự phát triển nhóm: trong pha đầu tiên giải quyết vấn
đề về thủ lĩnh và các mối quan hệ qua lại giữa mỗi thành viên nhóm và thủ lĩnh; trong pha thứ
2, mối quan hệ giữa các thành viên ngang hàng được xác lập. Trong mỗi pha, sự khó khăn
trong các mối quan hệ thường xuyên được dỡ bỏ và sự giao lưu đầy đủ hơn được phát triển.
Lý thuyết của Benis và Shepard được xây dựng dựa trên các quá trình thay đổi trong nhóm để
đạt tới mục đích giao tiếp hiệu lực với 2 vấn đề cơ bản: phân tích những khía cạnh của giao
tiếp hiệu lực và xác định các giai đoạn phát triển nhóm.
Một trong những điều kiện cơ bản để thiết lập giao tiếp hiệu lực theo các tác giả là tình huống
không xác định trong đó mỗi thành viên của nhóm rơi vào tại thời điểm bắt đầu lOMoAR cPSD| 42619430
của nhóm T. Các thành viên có xu hướng giấu các thái độ thật của mình, các phản ứng, các
xúc cảm bởi vì họ không biết họ sẽ chờ đợi điều gì từ những người khác. Do vậy, sự không
xác định liên quan đến 2 mặt của sự thực hiện chức năng nhóm: vấn đề quyền lực và vấn đề phụ thuộc lẫn nhau.
Vấn đề quyền lực - đó là vấn đề về thủ lĩnh, ai sẽ là người dẫn dắt và ai là người chịu sự điều
khiển. Lĩnh vực quan hệ liên nhân cách giữa các thành viên nhóm cũng không rõ ràng. Ở đây
sự không xác định liên quan đến vấn đề bền chặt của các liên hệ xúc cảm. Các tác giả cho
rằng vấn đề thủ lĩnh là vấn đề mang tính thứ nhất và định hướng mối quan hệ với thủ lĩnh là
thứ 2, ở mức độ nhất định quyết định hướng quan hệ của các thành viên với những thành viên
khác. Do vậy, trong quá trình phát triển nhóm, trước hết phải giải quyết vấn đề quyền lực, thủ
lĩnh và chỉ trên cơ sở giải quyết vấn đề đó mới giải quyết được vấn đề mối quan hệ giữa các
thành viên nhóm. Điểm cơ bản trong việc phân tích các “hành vi nhóm” là phân chia 2 loại
mối quan hệ trong nhóm: quan hệ thành viên với thủ lĩnh và quan hệ giữa các thành viên.
Trong đó quan hệ giữa thành viên với thủ lĩnh mang tính thứ nhất vừa ở phương diện phát
triển nhóm, vừa ở phương diện quy định các quan hệ giữa các thành viên nhóm. Theo đó có
thể chia thành 2 pha trong sự phát triển nhóm. Nội dung của pha thứ nhất giải quyết vấn đề
thủ lĩnh nhóm; trong pha thứ hai là vấn đề quan hệ qua lại giữa các thành viên nhóm. Trong
mỗi pha lại có 3 tiểu pha, tức là có 6 giai đoạn.
Trong pha đầu, nhóm gặp phải những tình huống sau: Những người tham gia chờ đợi người
huấn luyện nhận trách nhiệm nắm giữa quyền lực. Tuy nhiên với nhóm T, người huấn luyện
được chỉ định trước không nhận trách nhiệm đó và phải thông báo trước về vấn đề đó. Thông
thường trong thời điểm đó có sự căng thẳng nhất định, xuất hiện sự không hài lòng với tình
huống, tranh luận về mục đích và các nhiệm vụ của nhóm. Sự bắt đầu của tiểu pha thứ 2 liên
quan đến yêu cầu đối với người huấn luyện để bỏ lại nhóm. Xuất hiện 2 ý kiến đối lập nhau:
một số thành viên ủng hộ cấu trúc thủ lĩnh mạnh còn số khác đề nghị một bầu không khí
nhóm ít mang tính cấu trúc hơn, chống lại thủ lĩnh mạnh và những hình thức quản lý nhóm
nghiêm khắc. Tiểu pha thứ 3 liên quan đến việc giải quyết vấn đề thủ lĩnh. Việc này có thể
nhanh chóng được giải quyết hay ngược lại, khi đó nhóm nằm trong trạng thái lung lay. Cuối
cùng, nếu nhóm không tan rã thì nó sẽ chuyển sang một pha mới: pha thiết lập các mối quan
hệ liên nhân cách hay giải quyết vấn đề sự phụ thuộc lẫn nhau. lOMoAR cPSD| 42619430
Các tiểu pha của pha thứ 2 có thể có những lệch pha nhất định: nhóm có thể không đạt được
mục đích cuối cùng hoặc là trong một thời gian dài không xác định dừng lại ở một pha nào đó hoặc tan rã.
Như vậy, rõ ràng lý thuyết của Benis và Shepard được xây dựng hoàn toàn dựa vào việc quan
sát hoạt động của nhóm T. Các tác giả của nó không có tham vọng đối với tính khái quát của
lý thuyết này nhưng đôi khi có xu hướng vận dụng lý thuyết này một cách không có chỉnh sửa
vào việc giải thích sự phát triển nhóm ở phạm vi các nhóm nói chung. Lý thuyết này chưa chỉ
ra thời gian kéo dài của mỗi pha. Nó chỉ đề cập đến sự tiếp nối giữa các pha chưa chỉ ra các
biến số ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nhóm cũng như đến việc giải quyết vấn đề sự phụ
thuộc qua lại. Tính dự báo của lý thuyết này còn hạn chế.
Lý thuyết thứ 2 về sự phát triển nhóm có được cơ sở tương đối rộng rãi hơn là lý thuyết “xã
hội hóa nhóm” của R.Morlend và J.Livan. Quá trình phát triển nhóm được xem xét tương tự
với quá trình xã hội hóa cá nhân, phân tích sự tồn tại không gian, thời gian của nhóm. Mỗi
giai đoạn trong sự phát triển nhóm được đặc trưng bởi một loại quan hệ giữa nhóm với mỗi cá
nhân khi cá nhân trở thành thành viên nhóm. Các giai đoạn có thê được so sánh với nhau dựa trên 3 tiêu chí:
- Sự đánh giá (mục đích nhóm, vị trí của nhóm giữa các nhóm khác, ý nghĩa của mục
đích nhóm đối với mỗi cá nhân thành viên).
- Trách nhiệm (của nhóm trong quan hệ đối với các thành viên và của mỗi cá nhân
đối với nhóm, trong tiến trình đó bộc lộ mức độ hài lòng đối với các kì vọng lẫn nhau. Nâng
cao sự đồng thuận, các tiếp xúc xúc cảm, động cơ duy trì nhóm là kết quả của việc thực
hiện các trách nhiệm qua lại...
- Cấu trúc lại các vai của các thành viên nhóm (Mức độ tham gia nhiều hơn hay ít
hơn của các thành viên, mức độ đồng nhất với nhóm. Với mục đích này chia ra 5 loại vai
trò có thể có của thành viên nhóm: Thành viên tiềm năng, thành viên mới, thành viên đầy
đủ, thành viên cận biên, cựu thành viên).
Trên cơ sở các tiêu chí kể trên, các giai đoạn trong đời sống nhóm được xác định tương ứng
với các vị trí (vai) của các thành viên. Sự kết hợp các giai đoạn và vai được thể hiện trong
“Mô hình hệ thống quá trình” của M.Tremerse. Sự tương ứng các giai đoạn và vai trò có thể biểu diễn như sau: lOMoARcPSD|426 194 30 Vai trò Giai đoạn Thành viên tiềm năng
Tìm hiểu (thành viên tìm hiểu nhóm). Thành viên mới
Xã hội hóa thành viên (trong nhóm). Thành viên đầy đủ
Hỗ trợ (nhóm hỗ trợ thành viên). Thành viên cận biên
Tái xã hội hóa (có khả năng thành viên rời bỏ nhóm). Cựu thành viên
Nhớ lại (về nhóm mà người đó không còn là thành viên).
Như vậy trong mô hình nêu trên, điểm nhấn mạnh là ở chỗ kết hợp các giai đoạn phát triển
nhóm với quá trình xã hội hóa cá nhân trong nhóm. Rõ ràng mô hình này cho phép nhóm
ngừng tồn tại trong trường hợp nếu như việc ở trong nhóm không cần thiết đối với các thành
viên nhóm. Khái niệm “giai đoạn” phát triển nhóm được hiểu là các thời kì khác nhau với các
đặc điểm về vai trò và mức độ tham gia của các thành viên vào nhóm, các giai đoạn này được
phân biệt bởi 1 tập hợp các tiêu chí. Mỗi giai đoạn liên quan đến sự thay đổi thành phần của
nhóm: các thành viên mới tham gia vào nhóm, một số thành viên cũ rời bỏ, diễn ra quá trình
chuyển hóa thành viên tiềm năng thành thành viên đầy đủ và sau đó đôi khi thành “thành viên
cận biên” nếu như nhóm không còn thỏa mãn được nhu cầu của thành viên đó và có thể có sự
chia tay với nhóm. Mức độ chấp nhận của nhóm đối với mỗi thành viên và ngược lại của mỗi
thành viên đối với thực tế nhóm là những nhân tố của sự thay đổi các vai của các thành viên
nhóm. Quá trình xã hội hóa nhóm diễn ra không phải trong chân không: đặc trưng văn hóa và
các quan hệ xã hội mà trong phạm vi đó nhóm tồn tại ảnh hưởng đến sự thay đổi trong nhóm.
Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển của nhóm nhỏ:
- Ober Nir đưa ra mô hình phát triển nhóm nhỏ theo bốn giai đoạn: 1) Thời kì thứ
bậc dửng dưng của nhóm trên cơ sở tiêu chí biểu cảm và các vai đa năng; 2) Thời kì nhiễu
loạn: phá hủy cấu trúc phân vai và xuất hiện các bất hòa trong nhóm; 3) Thời kì hình thành
các tiêu chuẩn công cụ, 4) Thời kì thực hiện - hình thành chức năng, sự sắp đặt các tác dụng
phụ thuộc trong mối liên hệ qua lại. lOMoAR cPSD| 42619430
- Trên phương diễn giải quyết nhiệm vụ E.A.Marby chia thành các giai đoạn: Giai
đoạn tiềm ẩn (tìm kiếm nhiệm vụ), giai đoạn thích nghi, giai đoạn liên kết giai đoạn giải
quyết nhiệm vụ, đạt kết quả chung.
- B.Tacmen: Giai đoạn kiểm tra và phụ thuộc, giai đoạn xung đột nội bộ, giai đoạn
phát triển sự cố kết nhóm nhờ sự hài hòa dần các quan hệ và biến mất của xung đột nhóm
giai đoạn tương ứng chức năng vai trò, cùng với sự hình thành cấu trúc phân vai của nhóm.
- Quan điểm của A.V.Petrovxki: Nếu căn cứ vào tính tích cực của nhóm nhỏ vào ý
nghĩa xã hội của hoạt động chung, sự phát triển của nhóm nhỏ có thể coi là quá trình vận
động giữa hai cực: coi sự phát triển cao nhất của nhóm nhỏ là tập thể - tập thể là cực phát
triển cao của nhóm nhỏ, cực đối lập với tập thể là nhóm hỗn độn. Các nhóm ở giữa hai cực
này là các nhóm phân tán, trong đó thiếu vắng hoạt động cùng nhau. Có các giai đoạn khác
nhau trong quá trình phát triển đó: giai đoạn tổng hợp sơ cấp - phân hóa - hợp nhất - tập thể.
Các lý thuyết phát triển nhóm vẫn tiếp tục được xây dựng trong phạm vi nghiên cứu các định
hướng văn hóa xã hội khác nhau, cụ thể như định hướng quan hệ tập thể - cá nhân. Các
nghiên cứu chủ yếu chỉ ra thái độ của nhân cách đối với định hướng này hay định hướng khác
trong mối quan hệ tập thể cá nhân ở các môi trường văn hóa khác nhau. Các nghiên cứu được
thực hiện như là các nghiên cứu xuyên văn hóa (so sánh văn hóa).
Định hướng nghiên cứu mới liên hệ chặt chẽ với quá trình phát triển của nhóm: chuyển từ một
pha sang pha khác một phần lớn phụ thuộc vào việc phong cách nổi trội của sự định hướng,
có nghĩa là hành vi nào “chiến thắng” trong nhóm và nhờ đó tạo điều kiện hay cản trở sự
chuyển hóa sang một pha mới. Trong văn hóa cá nhân, sự phát triển nhóm đòi hỏi sự vận
động tới đỉnh cao của quyền cá nhân của nhân cách, trong văn hóa tập thể - tới sự quan tâm về
lợi ích chung. Cũng như trong các cách tiếp cận đã được phân tích ban đầu, một tư tưởng
quan trọng ngày càng được củng cố là sự phát triển nhóm phụ thuộc vào tính chất xã hội trong đó nhóm tồn tại.
HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC:
Những vấn đề liên quan đến nhóm xã hội là những vấn đề có được sự quan tâm lớn trong giai
đoạn hiện nay, trong dạy học và giáo dục mối quan tâm chủ yếu hướng tới các nhóm nhỏ. Cụ thể: lOMoAR cPSD| 42619430
- Chú ý đầy đủ đến việc tổ chức các nhóm sinh viên trong quá trình dạy học và giáo
dục. Nên coi các nhóm sinh viên là đơn vị cơ sở của hoạt động dạy học và giáo dục. Hầu
hết các hoạt động của sinh viên diễn ra trong môi trường nhóm nhỏ, các cơ chế tâm lý xã
hội cũng phát huy tác dụng trong nhóm. Đặc biệt, nhóm nhỏ là môi trường thuận lợi cho
việc phát huy tính tích cực chủ động trong học tập và nghiên cứu của sinh viên, là môi
trường cho việc rèn luyện các “kĩ năng mềm”.
- Hình thành nhóm nhỏ trong dạy học, giáo dục bằng nhóm và thông qua nhóm. Để
thực hiện điều đó cần ý thức rõ việc tổ chức nhóm và tác động để hình thành các hiện tượng
tâm lý nhóm, từ việc lựa chọn quy mô nhóm, đến việc giúp nhóm hình thành các mục tiêu,
các nguyên tắc, khuyến khích sự chủ động trong hoạt động của nhóm, quan tâm đến sự phát triển của nhóm.
- Cần đưa ra những yêu cầu chính thức khi hình thành các nhóm: đánh giá kết quả
của nhóm, của cá nhân trong nhóm trong sự tương quan với kết quả của nhóm, sự luân
chuyển các vai trò xã hội trong cấu trúc chính thức của nhóm.
- Quan tâm đến quá trình ra quyết định nhóm sự hình thành các chuẩn mực nhóm.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III
1. Nhóm xã hội là gì? Có những loại nhóm xã hội nào? Ý nghĩa của việc nghiên cứu các nhóm xã hội?
2. Phân tích sự khác biệt giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính thức
của nhóm. Cần có cách ứng xử như thế nào với cấu trúc không chính thức? Tại sao?
3. Chuẩn mức nhóm là gì? Vai trò của chuẩn mục nhóm? Làm thế nào để hình
thành các chuẩn mực nhóm?
4. Nhóm nhỏ là gì? Có các loại nhóm nhỏ nào? Trong dạy học và giáo dục theo
anh (chị) cần quan tâm tới nhóm nhỏ nào? Tại sao?
Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA TẬP THỂ
I. TẬP THỂ VÀ CẤU TRÚC QUAN HỆ CÁ NHÂN TRONG TẬP THỂ
1. Khái niệm tập thể