-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Giá trị thặng dư trong nền kinh tế - Kinh tế chính trị Mác Lênin | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Lý luận giá trị thặng dư (GTTD) của C. Mác được trình bày cô đọng nhất trong tác phẩm “Tư bản”, có nội dung rộng lớn và luận giải khoa học về điều kiện hình thành, quy luật vận động. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Kinh tế chính trị Mác Lênin (K2021) 44 tài liệu
Đại học Thủ đô Hà Nội 603 tài liệu
Giá trị thặng dư trong nền kinh tế - Kinh tế chính trị Mác Lênin | Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Lý luận giá trị thặng dư (GTTD) của C. Mác được trình bày cô đọng nhất trong tác phẩm “Tư bản”, có nội dung rộng lớn và luận giải khoa học về điều kiện hình thành, quy luật vận động. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác Lênin (K2021) 44 tài liệu
Trường: Đại học Thủ đô Hà Nội 603 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Thủ đô Hà Nội
Preview text:
NHÓM 3
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. Lý luận của C. Mác về giá trị thặng dư
Lý luận giá trị thặng dư (GTTD) của C. Mác được trình bày cô đọng nhất trong
tác phẩm “Tư bản”, có nội dung rộng lớn và luận giải khoa học về điều kiện
hình thành, quy luật vận động, xu hướng phát triển của nền KTTT tư bản chủ
nghĩa (TBCN); trong đó, vẫn đề quan trọng hàng đầu là bàn về nguồn gốc và bản chất của GTTD.
1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư
* Công thức chung của tư bản
- Để tìm ra công thức chung của tư bản. C. Mác so sánh quan hệ lưu thông hàng
hóa trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn và quan hệ lưu thông hàng hóa trong nền KTTT TBCN.
- Quan hệ lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức: H-T-H
+ Quan hệ lưu thông hàng hóa trong nền KTTT TBCN vận động theo công thức:
T-H-T' (Trong đó: T' = T + AT)
+ Theo C. Mác, việc mua, bán hàng hóa với giá cả thấp giá trị thì chắc chắn
không có giá trị tăng thêm. Còn với các trường hợp rẻ (giá cả đất (giá cả > giá trị) thì sẽ dẫn đến câu chuyện : cái lợi của người này sẽ là phần
thiệt hại của người kia.
=> Như vậy, lưu thông (mua, bản hàng hóa) không tạo ra giá trị tăng thêm do
đó không tạo ra GTTD, xét trên phạm vi xã hội.
- C. Mác khẳng định, sở dĩ tồn tại GTTD là do nhà tư bản đã mua đ một loại
hàng hóa đặc biệt nào đó, mà trong quá trình sử dụng loại hàng này, giá trị của
nó không những được bảo tồn mà còn tạo ra được giá trị mà lớn hơn giá trị của
bản thân nó. Đó chính là hàng hóa sức lao động (SID)
* Hàng hóa sức lao động
- Khái niệm: Sức lao động là năng lực (bao gồm thế lực và trí lực) của con
người được sử dụng trong quá trình sản xuất.
- Điều kiện lịch sử để SLĐ trở thành hàng hóa: NHÓM 3
+ Người lao động được tự do về thân thể
+ Người lao động không có tư liệu sản xuất, do đó phải bán sức lao động của mình để kiếm sống
- Hai thuộc tính của hàng hóa SLĐ
+ Giá trị của hàng hóa SLĐ
Giống hàng hóa thông thường, giá trị của hàng hóa sức lao động do hao
phi lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra SLĐ quyết định.
Người lao động muốn có được khả năng lao động và duy trì khả năng đó
trong tương lai, đòi hỏi phải được thỏa mãn các nhu cầu nhất định như ăn,
mặc, ở, đi lại, học nghề. Do đó, giá trị SLĐ được đo lường gián tiếp
thông qua giá trị của tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công
nhân và con cái của họ, cộng với phí tổn đào tạo người công nhân đạt đến
một trình độ nhất định.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa SLĐ
Cũng như hàng hóa thông thường, giá trị sử dụng của hàng hóa SLĐ
cũng được thể hiện ở tính có ích của nó, tức là việc người công nhân sử
dụng SLĐ của mình kết hợp với TLSX để tạo ra sản phẩm.
Bằng lao động của mình, người công nhân đã góp phần chuyển nguyên
vẹn giá trị TLSX vào thành phẩm, đồng thời sáng tạo ra một lượng giá trị
mới cho thành phẩm đó. Về mặt lượng, phần giá trị mới này phải lớn hơn
giá trị SLĐ để một phần đảm bảo bù đắp tiền công, phần còn lại chính là
giá trị thặng dư thuộc về nhà tư bản.
→ Giá trị sử dụng của hàng hóa SLĐ có điểm đặc biệt, đó là có thể tạo ra một
lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó.
* Quá trình sản xuất ra GTTD
- Quá trình sản xuất GTTD là sự thống nhất của quá trình tạo ra và làm tăng giá
trị. Để có được GTTD, nền sản xuất xã hội phải đạt đến một trình độ nhất định. Ví dụ:
Khi một người lao động làm việc trong một ngày, giá trị sản phẩm mà họ tạo
ra là 1 đồng. Tuy nhiên, từ ngày thứ hai trở đi, với cùng một lượng sức lao động
đã bỏ ra vào ngày trước đó, người lao động này sẽ sản xuất ra 3 đồng. Chênh
lệch giữa giá trị sản phẩm (3 đồng) và số tiền nhà tư bản trả cho công nhân (1
đồng) là giá trị thặng dư sức lao động. NHÓM 3 Lưu ý:
- Thứ nhất, khi khẳng định nguồn gốc của GTTD là do lao động hao phí của
người công nhân làm thuê tạo ra thì không có nghĩa là sau quá trình sản xuất,
thu về thành phẩm, người mua hàng hóa SLĐ đã thu được ngay GTTD dưới
hình thái tiền. Để có được GTTD dưới hình thái tiền (mà C. Mác gọi là quá
trình thực hiện GTTD) thì thành phẩm đó phải được đem bản và được thị
trường chấp nhận. Nếu hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được, nhà tư bản
không những không thu được GTTD mà còn không thu hồi được vốn, dẫn đến phá sản.
- Thứ hai, trong trường hợp người mua SLĐ, đồng thời là người quản lý thì
ngoài GTTD, anh ta còn được hưởng một phần giá trị mới nhờ sự đóng góp
của lao động quản lý, với tư cách là lao động phức tạp.
* Tư bản bản bất biến - Khái niệm:
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được lao
động cụ thể của công nhân làm thuê bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào
giá trị sản phẩm, tức giá trị không biến đổi trong quá trình sản xuất,
C.Mác gọi là tư bản bất biến( kí hiệu c)
Gồm 2 phần: Máy móc thiết bị nhà xưởng ( c1) và nguyên liệu nhiên liệu
vật liệu ( c2). ( C=C1+C2) Loại 1 và loại 2 khác nhau ở cách thức dịch
chuyển giá trị vào sản phẩm. Ví dụ: máy móc nhà xưởng dịch chuyển dần
dần giá trị và sản phẩm thông qua hao mòn trong nhiều chu kỳ sản xuất,
còn nguyên nhiên liệu vật liệu thì thường dịch chuyển hết qua quá trình
sản xuất. Điểm chung của hai loại này là C1 và C2 được không làm gia
tăng giá trị tư bản bất biến chỉ là điều kiện cần thiết cho quá trình sản
xuất và tăng năng suất lao động. - Điều kiện tồn tại
Là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị không biến
đổi trong quá trình sản xuất. - Đặc điểm
+ Tư liệu sản xuất có loại được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản xuất,
nhưng chỉ bị hao mòn dần theo thời gian, chuyển đổi từng phần giá trị của nó
vào sản phẩm ( máy móc, trang thiết bị,…)
+ Tư liệu sản xuất khi đưa vào quá trình sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị
của nó vào chu kỳ sản xuất (nguyên, nhiên, vật liệu,…) NHÓM 3
+ Các tư liệu sản xuất đều do lao động cụ thể của công nhân bảo toàn và di
chuyển vào sản phẩm nên giá trị của tư liệu sản xuất không lớn hơn giá trị của
tư liệu sản xuất đã tiêu dùng để tạo sản phẩm( cái bị tiêu dùng là giá trị sử dụng
của tư liệu sản phẩm, kết quả của việc tiêu dùng là tạo ra giá trị sử dụng mới).
- Ý nghĩa: Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư.
- Ví dụ: Một nhà máy sản xuất vải bỏ ra một số lượng tư bản để mua tư liệu sản
xuất là tơ sợi và máy dệt. Tơ sợi (giá trị sử dụng là làm thành vải) qua quá trình
sản xuất sẽ biến thành vải có giá trị sử dụng mới là may quần áo,..). Máy dệt sẽ
chỉ đóng góp một phần giá trị thúc đẩy quá trình sản xuất diễn ra nhanh hơn,
giảm thiểu hao phí lao động cá biệt, nâng cao năng suất lao động. Điều này sẽ
tác động đến việc tạo ra giá trị thặng dư.
* Tư bản khả biến
- Khái niệm: Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái sức lao động không tái hiện
ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên,
tức là biến đổi về số lượng trong quá trình sản xuất, được Mác gọi là tư bản khả biến( kí hiệu là v) G= C+V+M G: Giá trị hàng hóa C: Tư bản bất biến M: Giá trị thặng dư V: Tư bản khả biến
- Điều kiện: Là bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, thông
qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên. - Đặc điểm:
+ Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động không ngừng chuyển hóa từ đại
lượng bất biến sang đại lượng khả biến , tức tăng lên về lượng trong quá trình sản xuất.
+ Một phần giá trị của tư liệu sản xuất biến thành tư liệu sinh hoạt của công
nhân và biến đi trong tiêu dùng của công nhân.
+ Một phần, trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng, công nhân
tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân sức lao động( giá trị sức lao động cộng
thêm giá trị thặng dư).
- Ý nghĩa: Tư bản khả biến là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư. NHÓM 3 - Ví dụ:
Để sản xuất ra vải, công nhân phải bỏ ra hao phí lao động (lao động trừu tượng),
sau khi tạo ra sản phẩm, sau khi đem ra trao đổi trên thị trường, giá trị thu về
lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu (giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư).
Số tiền bằng đúng giá trị bỏ ra sẽ được chi trả cho công nhân, biến thành tư liệu
sinh hoạt và tiêu dùng của công nhân. Phần dư thừa là giá trị thặng dư, phần lợi của tư bản. * Tiền công
- Khái niệm: Tiền công là số tiền mà một người nhận được trong khoảng thời
gian nhất định để thực hiện một công việc. Tiền công thường được trả theo giờ
làm việc hoặc theo số lượng sản phẩm hoàn thành. Tiền công là một phần quan
trọng của việc thu hút đầu vào của một người lao động và được sử dụng để đánh
giá giá trị lao động của một người trong một công việc cụ thể - Đặc điểm:
+ Được trả theo thời gian làm việc hoặc số lượng sản phẩm hoàn thành:
Khoản tiền công phụ thuộc vào số giờ làm việc hoặc số lượng sản phẩm hoàn
thành của người lao động.
+ Phụ thuộc vào hợp đồng lao động: Khoản tiền công cũng phụ thuộc vào
hình thức hợp đồng lao động mà người lao động ký kết với nhà tuyển dụng.
Tính cạnh tranh: Mức tiền công có thể bị ảnh hưởng bởi sự cạnh tranh giữa các công ty hoặc ngành.
+ Có thể thay đổi theo thời gian: Mức tiền công có thể thay đổi theo thời gian
do nhiều yếu tố khác nhau như sử dụng, sự cạnh tranh trong ngành và yêu cầu của nhà tuyển dụng.
+ Ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn công việc: Khoản tiền công cũng có
thể ảnh hưởng đến quyết định của người lao động khi lựa chọn công việc. Phụ
thuộc vào từng khu vực: Mức tiền công có thể khác nhau ở từng khu vực, từ đất
nước đến thành phố hoặc khu vực nhỏ hơn.
+ Được tính vào chi phí sản xuất: Khoản tiền công cũng là một trong những
khoản chi phí sản xuất quan trọng mà các công ty phải tính toán để đưa ra quyết định kinh doanh hợp lý.
+ Có thể được tăng lương: Mức lương công ty cũng có thể được tăng lương
theo thời gian, tùy thuộc vào sự phát triển của công ty hoặc sự cải thiện của
ngành nghề. Đây là một phần khuyến khích để người lao động có động lực làm
việc tốt hơn và ổn định công việc của họ. NHÓM 3
+ Được tính theo đầu vào trung bình: Mức tiền công cũng thường được tính
theo đầu vào trung bình của một khu vực hoặc một ngành cụ thể. Điều này giúp
nhà tuyển dụng có thể đưa ra quyết định hợp lý về tiền lương của nhân viên,
đồng thời giúp người lao động đánh giá xem mức lương của họ là đúng với
trung bình của ngành hay không.
+ Ảnh hưởng đến động lực làm việc: Mức tiền công có thể ảnh hưởng đến
động lực làm việc của người lao động. Nếu mức lương thấp, người lao động
không thể cảm thấy có động lực để làm việc tốt hơn, trong khi nếu mức lương
cao hơn, họ có thể cảm thấy được động lực cao hơn để làm việc chăm chỉ hơn.
+ Phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm và chuyên môn: Khoản tiền công cũng
phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm và chuyên môn của người lao động. Những
người có trình độ, kinh nghiệm và chuyên môn cao hơn bình thường có mức
tiền công cao hơn so với những người không có.
- Ví dụ: Các khoản bảo hiểm xã hội và y tế, thuế thu nhập cá nhân, các khoản
phụ cấp, tiền thưởng và các khoản chi phí khác được thỏa thuận trong hợp đồng
lao động. Có thể thấy, tiền công là một vấn đề quan trọng đối với cả người lao
động và nhà tuyển dụng. Vì vậy, việc làm tốt nhất và thực hiện đầy đủ các điều
khoản liên quan đến tiền công là rất cần thiết để đảm bảo quyền lợi của cả hai bên.
* Tuần hoàn của tư bản và chu chuyển của tư bản
- Tư bản công nghiệp (với nghĩa các ngành sản xuất vật chất), trong quá trình
tuần hoàn đều vận động theo công thức:
- Sự vận động này trải qua ba giai đoạn: hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất.
-Giai đoạn thứ nhất - giai đoạn lưu thông:
Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường các yếu tố sản xuất để mua tư liệu sản xuất và sức lao động.
Quá trình lưu thông đó được biểu thị như sau: NHÓM 3
- Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ, chức năng giai đoạn
này là mua các yếu tố cho quá trình sản xuất, tức là biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.
- Giai đoạn thứ hai - giai đoạn sản xuất:
- Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất (TBSX), có
chức năng thực hiện sự kết hợp hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động để
sản xuất ra hàng hóa là trong giá trị của nó có giá trị thặng dư. Trong các giai
đoạn tuần hoàn của tư bản thì giai đoạn sản xuất có ý nghĩa quyết định nhất, vì
nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Kết thúc của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản hàng hóa.
- Giai đoạn thứ ba - giai đoạn lưu thông: H' - T'
- Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa, chức năng
là thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất ra trong đó đã bao hàm
một lượng giá trị thặng dư. Trong giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường
với tư cách là người bán hàng. Hàng hóa của nhà tư bản được chuyển hóa thành tiền.
- Kết thúc giai đoạn thứ ba, tư bản hàng hóa chuyển hóa thành tư bản tiền tệ.
Đến đây, mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản quay trở lại hình
thái ban đầu trong tay chủ của nó nhưng với số lượng lớn hơn trước.
- Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn nói trên là sự vận động có tinh tuần
hoàn: tư bản ứng ra dưới hình thái tiền và rồi đến khi quay trở về cũng dưới
hình thái tiền có kèm theo giá trị thặng dư. Quá trình đó tiếp tục được lặp đi, lặp
lại không ngừng gọi là sự vận động tuần hoàn của tư bản.
- Vậy, tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai
đoạn, lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năng khác nhau
để rồi lại quay trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
- Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường trong điều kiện các giai
đoạn khác nhau của nó không ngừng được chuyển tiếp. Mặc khác, tư bản phải
nằm lại ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Hay nói cách
khác, tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành một cách bình thường khi hai điều kiện
sau đây được thỏa mãn: một là, các giai đoạn của chúng diễn ra liên tục; hai là,
các hình thái tư bản cùng tồn tại và được chuyển hóa một cách đều đặn. Vì vậy, NHÓM 3
tư bản là một sự vận động tuần hoàn của tư bản, là sư vận động liên tục không ngừng.
- Phù hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản có ba hình thái của tư bản công
nghiệp: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa.
- Để tái sản xuất diễn ra một cách bình thường thì tư bản xã hội cũng như từng
tư bản cá biệt đều tồn tại cùng một lúc dưới cả ba hình thái. Ba hình thái của tư
bản không phải là ba loại tư bản khác nhau, mà là ba hình thái của một tư bản
công nghiệp biểu hiện trong quá trình vận động của nó. Song cũng trong quá
trình vận động ấy đã chứa đựng khả năng tách rời của ba hình thái tư bản. Trong
quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, khả năng tách rời đó đã làm xuất hiện
tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay, hình thành các tập đoàn khác trong giai
cấp tư bản: chủ công nghiệp, nhà buôn, chủ ngân hàng, v.v. chia nhau giá trị thặng dư.
- Nghiên cứu tuần hoàn của tư bản là nghiên cứu mặt chất trong sự vận động
của tư bản, còn mặt lượng của sự vận động được nghiên cứu ở chu chuyển của tư bản.
* Chu chuyển của tư bản
- Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó với tư cách là một quá trình định kỳ đổi
mới và thường xuyên lặp đi lặp lại thì gọi là chu chuyển của tư bản. Những tư
bản khác nhau chu chuyển với vận tốc khác nhau tùy theo thời gian sản xuất và
lưu thông của hàng hóa. Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản
xuất và thời gian lưu thông.
- Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản xuất.
+ Thời gian sản xuất bao gồm: thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao
động và thời gian dự trữ sản xuất. Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là
do tác động của nhiều nhân tố như: tính chất của ngành sản xuất; quy mô hoặc
chất lượng các sản phẩm: sự tác động của quá trình tự nhiên đối với sản xuất;
năng suất lao động và tình trạng dự trữ các yếu tố sản xuất.
- Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong
thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất
ra hàng hóa, cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông gồm
có thời gian mua và thời gian bán hàng hóa. Thời gian lưu thông dài hay ngắn
phụ thuộc các nhân tố sau đây: thị trường xa hay gần, tình hình thị trường xấu
hay tốt, trình độ phát triển của vận tải và giao thông.
- Thời gian chu chuyển của tư bản càng rút ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá
trị thặng dư được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn. NHÓM 3
- Các loại tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số
vòng chu chuyển không giống nhau. Để so sánh tốc độ vận động của các tư bản
khác nhau, người ta tính số vòng chu chuyển của các loại tư bản đó trong một thời gian nhất định.
- Tốc độ chu chuyển của tư bản là số vòng (lần) chu chuyển của tư bản trong
một năm. Ta có công thức số vòng chu chuyển của tư bản như sau: n = CH/ch
Trong đó: (n) là số vòng (hay lần) chu chuyển của tư bản; (CH) là thời gian
trong năm; (ch) là thời gian cho 1 vòng chu chuyển của tư bản.
Ví dụ: Một tư bản có thời gian 1 vòng chu chuyển là 6 tháng thì tốc độ chu chuyển trong năm là:
n = 12 tháng / 6 tháng = 2 vòng
- Như vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản tỷ lệ nghịch với thời gian 1 vòng chu
chuyển của tư bản. Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian
sản xuất và thời gian lưu thông của nó.
* Tư bản cố định và tư bản lưu động
- Các bộ phận khác nhau của tư bản sản xuất không chu chuyển giống nhau.
Căn cứ vào phương thức chu chuyển khác nhau của từng bộ phận tư bản, người
ta chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
+ Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết
bị, nhà xưởng, v.v. về hiện vật tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng
giá trị của nó bị khấu hao từng phần và được chuyển dần vào sản phẩm mới được sản xuất ra.
- Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và nó bị hao
mòn dần trong quá trình sản xuất. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình:
+ Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận
thấy. Hao mòn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm
cho các bộ phận của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ hỏng và phải được thay thế.
+ Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị. Hao mòn vô hình
xảy ra ngay cả khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy móc
hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương nhưng công suất cao hơn. Để
tránh hao mòn vô hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng NHÓM 3
cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc, v.v. nhằm tận dụng công suất của máy
móc trong thời gian càng ngắn càng tốt.
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để tăng
quỹ khấu hao tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên, tránh được
thiệt hại hao mòn hữu hình do tự nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ
đó mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh.
- Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu,
nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động, V.V., giá trị của nó lưu thông toàn bộ
cùng với sản phẩm và được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển
của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng
trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và khối
lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên. - Ý nghĩa:
+ Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để
tăng quỹ khấu hao tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên tránh
được thiệt hại hao mòn hữu hình do tự nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây
ra. Nhờ đó, mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh, nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.
+ Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển
của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng
trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và khối
lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên. 2.
Bản chất của giá trị thặng dư
- Nghiên cứu về nguồn gốc của giá trị thặng dư cho thấy giá trị thặng dư là kết
quả của sự hao phí sức lao động trong sự thống nhất của quá trình tạo ra và làm
tăng thêm giá trị.Quá trình đó được diễn ra trong quan hệ xã hội giữa người mua
hàng hóa sức lao động với người bán hàng hóa sức lao động. Do đó nếu xã hội
chỉ có 2 giai cấp là giai cấp tư sản và giai cấp công nhân thì giá trị thặng dư
trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mang bản chất kinh tế-xã hội là NHÓM 3
quan hệ giai cấp. Ttrong đó giai cấp các nhà tư bản làm giàu dựa trên cơ sở thuê
mướn lao động của giai cấp công nhân.
- Các nhà tư bản làm giàu, thu lợi nhuận dựa trên cơ sở thuê mướn người lao
động. Lúc này, người lao động làm thuê để bán sức lao động của mình đổi lấy tiền công.
- Dưới sự kiểm soát chặt chẽ của các nhà tư bản, các ông chủ, người lao động
cũng được xem như những yếu tố sản xuất khác. Và nhà sử dụng lao động luôn
tìm cách sử dụng sao cho tạo ra nhiều sản phẩm nhất có thể. Người lao động có
thể phải làm thêm giờ, họ có thể phải làm tăng lên về sản lượng hơn so với mức quy định,…
- Ở xã hội đương thời chứng kiến cảnh người lao động bị áp bức với tiền công
rẻ mạt trong khi nhà tư bản thì không ngừng trở nên giàu có, C. Mác nhận thấy
có một sự bất công sâu sắc về mặt xã hội. C. Mác gọi đó là quan hệ bóc lột mặc
dù về mặt kinh tế nhà tư bản không vi phạm quy luật kinh tế về trao đổi ngang giá.
- Sự luận giải khoa học của C.Mác ở đây đã vượt hẳn so với các nhà khoa học
trước đó ở chỗ C.Mác đã mô tả được một thực tế nhà tư bản mặc dù không vi
phạm quy luật kinh tế về trao đổi ngang giá thông qua ký hợp đồng thỏa thuận
với người lao động làm thuê, xong giá trị thặng dư vẫn được tạo ra cho nhà tư
bản bằng lao động sống chứ không phải do máy móc sinh ra.
- Trong điều kiện ngày nay quan hệ đó vẫn diễn ra nhưng với trình độ và mức
độ tinh vi hơn và dưới hình thức văn minh hơn so với cách mà nhà tư bản đã
từng thực hiện trong thế kỷ 19
- Các hàng hóa, sản phẩm được tạo ra trong quá trình người lao động sản xuất,
thuộc toàn quyền sở hữu của nhà tư bản, của các ông chủ; chứ không phải của
người công nhân. Người công nhân trước khi tham gia vào quá trình sản xuất,
họ được nhà tư bản giao ước, và trả công đúng bằng giá trị hàng hóa sức lao động.
- Vì vậy tất cả hàng hóa mà người lao động tạo đều là của nhà tư bản, và phần
giá trị thặng dư sẽ bị nhà tư bản chiếm đoạt.
- Trong xã hội tư bản trước đây, người lao động bị áp bức, và được trả tiền công
rất rẻ mạt; trong khi đó nhà tư bản thì không ngừng giàu có do giá trị thặng dư.
Điều này hình thành nên quan hệ bóc lột, và sự bất công sâu sắc trong xã hội.
- Nhà tư bản bóc lột sức lao động của người lao động cho bản thân họ. Sự bóc
lột càng diễn ra nhiều, thì giá trị thặng dư được tạo ra càng tăng cao. Tạo nên sự
phân hóa giữa giàu và nghèo vô cùng sâu sắc trong xã hội. Người giàu ngày NHÓM 3
càng giàu lên vì họ chiếm đoạt được nhiều giá trị thặng dư , còn người nghèo
vẫn hoàn nghèo vì công sức lao động của họ quá đỗi rẻ mạt.
- Để hiểu rõ về giá trị thặng dư C.Mác làm rõ 2 phạm trù: tỷ suất và khối lượng
giá trị thặng dư, các thước đo giá trị thặng dư về mặt lượng
- Tỷ suất giá trị thặng dư ký hiệu m là tỷ lệ% giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến
- Công thức tính: m’=m/v x100% hoặc m’=t’/t x 100% trong đó m’ là tỉ suất giá
trị thặng dư, m là giá trị thặng dư, v là tư bản khả biến, t là thời gian lao động tất
yếu, t’ là thời gian lao động thặng dư
- Khối lượng giá trị thặng dư kí hiệu là M là lượng giá trị thặng dư bằng tiền mà nhà tư bản thu được
- Ví dụ: 1 ngày công nhân làm 8h, thời gian alo đông tất yếu =4h, thời gian lao động thặng dư =4h m’= m/v x 100% = 4/4 x 100%
3. Các phương pháp sx GTTD trong nền KTTT:
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các
nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng
dư. Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
* Sx GTTD tuyệt đối:
- GTTD tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt
quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị SLĐ và thời
gian lao động tất yếu không thay đổi.
VD: Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất
yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:
Do đó, tỉ suất giá trị thặng dư là: NHÓM 3
- Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu
không thay đổi, vẫn là 4 gịờ. Khi đó ngày lao động được chia như sau:
Do đó, tỉ suất giá trị thặng dư mới là:
- Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao
động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ
suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 150%.
* Sx GTTD tương đối:
- GTTD tương đối là GTTD thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu
bằng cách hạ thấp giá trị SLĐ, do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong
khi độ dài ngày lao động không thay đổi, hoặc thậm chí bị rút ngắn.
VD: Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian
lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn như sau:
Do đó, tý suất giá trị thặng dư là: NHÓM 3
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3
giờ lao động đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động
của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian
lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được biểu diễn như sau:
Do đó, tỉ suất giá trị thặng dư bây giờ sẽ là:
Như vậy, tỉ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.
* Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất
tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giám giá trị
cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của háng hóa, nhờ đó thu được giá
trị thặng dư siêu ngạch.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng
năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị củ biệt của hàng hóa thấp hơn
giá trị thị trường của nó.
- Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời,
nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã
hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên.
Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực
mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng
năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng.
Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tứơng của giá trị thặng dư
tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối dều dựa
trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất
lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao dộng xã hội).
- Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối
còn thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản
thu được. Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp các
nhà tư bản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu
ngạch chỉ do một số nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó
không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực
tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản. NHÓM 3
- Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất
thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất,
hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động,
giảm giá trị của hàng hóa.
II. Tích lũy tư bản:
1. Bản chất của tích lũy tư bản:
- Bản chất của tích lũy tư bản nằm trong việc chuyển đổi một phần của giá trị
thặng dư thành tư bản phụ thêm, tạo ra tư bản mới thông qua hoạt động đầu tư.
Khái niệm này xuất phát từ lợi ích cơ bản của giai cấp nhà tư bản, hướng đến
việc tăng gia tài sản và quyền kiểm soát trong nền kinh tế. Dưới đây là các khía
cạnh chi tiết về bản chất của tích lũy tư bản:
Chuyển đổi Giá trị Thặng Dư: Giá trị thặng dư là phần còn lại sau khi
trừ đi tất cả các chi phí sản xuất, bao gồm cả tiền lương cho lao động.
Thay vì phân phối toàn bộ giá trị thặng dư cho công nhân, nhà tư bản lựa
chọn giữ lại một phần và đầu tư nó để tạo ra tư bản mới. Điều này dẫn
đến sự tích lũy và tăng trưởng của tư bản.
Tạo Ra Tư Bản Phụ Thêm (Tư Bản Mới): Việc đầu tư giá trị thặng dư
tạo ra tư bản phụ thêm, tức là tư bản mới. Ban đầu, khi tư bản mới này
được tạo ra, nó có thể được coi là tư bản mới. Tuy nhiên, khi nó được sử
dụng để thực hiện đầu tư khác, nó chuyển từ vai trò của tư bản mới sang
vai trò của tích lũy tư bản.
Quá Trình Liên Tục và Tái Sản Xuất: Tích lũy tư bản không phải là
quá trình đơn lẻ mà diễn ra liên tục và tái sản xuất. Nhà tư bản không
ngừng tái sản xuất để duy trì và mở rộng quy mô sản xuất. Điều này bao
gồm việc tối ưu hóa sử dụng lao động thông qua sự thay thế bằng máy
móc và công nghệ hiện đại.
Tối Ưu Hóa Lợi Nhuận: Mục tiêu chính của tích lũy tư bản là tạo ra lợi
nhuận tối đa từ các hoạt động kinh doanh. Nhà tư bản tìm cách tối ưu hóa
sử dụng nguồn lực, tăng cường năng suất và giảm chi phí để đảm bảo
rằng giá trị thặng dư sản xuất ra đủ lớn để đảm bảo tư bản tăng thêm.
Mở Rộng Quy Mô Sản Xuất và Đầu Tư: Mục tiêu cuối cùng của tích
lũy tư bản là mở rộng quy mô sản xuất và đầu tư. Nhà tư bản luôn tìm
kiếm cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh và tăng cường sức mạnh kinh
tế. Điều này thường liên quan đến việc sử dụng tư bản để mua thêm thiết
bị, công nghệ và nhân lực. NHÓM 3
- Tóm lại, bản chất của tích lũy tư bản nằm trong việc chuyển đổi giá trị
thặng dư thành tư bản phụ thêm, tạo ra tư bản mới thông qua đầu tư và liên
tục tái sản xuất để tối ưu hóa lợi nhuận và mở rộng quy mô sản xuất và đầu
tư. Đây là quá trình cốt lõi trong hệ thống kinh tế của giai cấp nhà tư bản.
2.Những nhân tố góp phần làm tăng quy mô tích lũy. - Thứ nhất tăng ,
khai thác thặng dư (trình bóc lột sức lao động).
+ Nếu khối lượng giá trị thặng dư không đổi, quy mô tích do tỷ lệ phân chia
khối lượng giá trị thặng dư thành tích lũy và tiêu dùng của nhà tư bản. Nó thể
hiện mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Điều này lý giải vì
sao các nhà tư bản luôn tiết kiệm tiêu dùng cá nhân.
+ Theo tư tưởng của Marx, giá trị thặng dư suất phát từ giá trị mà sức lao
động tạo ra. Ở thời kì trước, nhà tư bản chọn cách tăng thời gian ngày lao động,
chính là một cách tăng thời gian lao động thặng dư để tăng giá trị thặng dư. Tuy
nhiên, nó không kéo dài được lâu bởi gặp nhiều giới hạn như độ dài của ngày,
thể lực công nhân và sự đấu tranh của họ. Bên cạnh đó, nhà tư bản còn tăng
cường độ lao động. Tăng cường độ lao động là hoàn toàn khác so với việc tăng
năng suất lao động. Ví dụ như vẫn công nghệ đó, thời gian đó, nhưng người lao
động thay vì làm việc đúng với công suất của mình lại bị quản lý thúc đẩy làm
nhanh hơn, gấp nhiều lần sức lực củamình bằng cách tăng giám sát, thuê đốc
công, trả lương theo sản phẩm… Hai cách trên thuộc phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư tuyệt đối.
+ Ngoài ra, nhà tư bản còn sử dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tương đối bằng việc giữ nguyên thời gian ngày lao động và giảm thời gian lao
động tất yếu. Từ đó thời gian lao động thặng dư sẽ tặng lên. Đây là phương
pháp được sử dụng rộng rãi ở thời đại hiện nay.
+ Tuy nhiên trên thực tế, để thu được giá trị thặng dư lớn nhất, công nhân bị
nhà tư bản chiếm đoạt không chỉ thời gian lao động thặng dư mà còn bị chiếm
đoạt một phần lao động tất yếu, cắt xén tiền công để tăng trình độ bóc lột sức lao động.
- Thứ hai, năng suất lao động xã hội.
+ Khi năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ làm giảm giá trị hàng hóa tư liệu
sản xuất và tư liệu sinh hoạt, dẫn đến hai hệ quả cho tích lũy.
(1) Nếu nhà tư bản có khối lượng giá trị tặng dư không đổi, nhà tư bản vẫn có
thể tiêu dùng khối lượng của cải như trước nhưng có nhiều thặng dư hơn trước để tích lũy. NHÓM 3
(2) Vẫn một lượng giá trị thặng dư tích lũy như trước nhà tư bản có thể mua
được nhiều tư liệu sản xuất và sức lao động hơn.
- Thứ ba, sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng.
+ Nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc, nâng cao sự chênh lệch giữa tư bản sử
dụng và tư bản tiêu dùng qua đó sử dụng được lao động quá khứ như lực lượng
tự nhiên phục vụ không công và sử dụng quỹ khấu hao để mở rộng sản xuất.
Máy móc, trong quá trình hoạt động chúng mất dần giá trị nhưng vẫn có
tác dụng như khi còn đủ giá trị, nếu không kể đến phần giá trị của máy
móc chuyển vào sản phẩm thì chúng phục vụ không công chẳng khác gì
lao động thặng dư bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Kỹ thuật càng hiện đại, chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu
dùng càng lớn thì sự phục vụ không công của tư liệu lao động ngày càng lớn. - Thứ tư quy ,
mô của tư bản ứng trước.
+ Nếu tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tích lũy và tiêu dùng không đổi
thì quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được.
+ Ta biết M = m’.V, vì thế quy mô tích lũy do m’ và V quyết định. Điều này
lý giải vì sao các nhà tư bản không ngừng tìm cách nâng cao tỷ suất giá trị thặng
dư (kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng năng suất lao động,
tăng ca kíp, cắt xén tiền công của công nhân), mở rộng quy mô, tăng tư bản ứng
trước để bóc lột nhiều công nhân hơn.
3.Một số hệ quả của tích lũy.
- Thứ nhất, tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản.
+ Cấu tạo của tư bản có thể được xem xét về mặt hiện vật và mặt giá trị.
+ Nếu xem xét về mặt hiện vật, cấu tạo của tư bản gồm tư liệu sản xuất và sức
lao động. Tỷ lệ giữa số tư liệu sản xuất và số sức lao động do trình độ kỹ thuật
của sản xuất quyết định. Tỷ lệ này được gọi là cấu tạo kỹ thuật.
Ví dụ: 1000 kw điện/1 công nhân, 5 máy dệt/1 công nhân
+ Nếu xem xét về mặt giá trị thì cấu tạo của sản tư bản gồm tư bản bất biến và
tư bản khả biến. Tỷ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến được gọi là cấu tạo giá trị. NHÓM 3
Ví dụ: C: 12.000 USD, V: 2000 USD thì cấu tạo giá trị là 5/1
+ Giữa cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị luôn có quan hệ tác động qua lại với
nhau, trong đó cấu tạo kỹ thuật quyết định cấu tạo giá trị và cấu tạo giá trị phản
ánh cấu tạo kỹ thuật. C.Mác đưa ra phạm trù cấu tạo hữu cơ để chỉ mối quan hệ
giữa cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị.
+ Cấu tạo hữu cơ là cấu tạo giá trị do cấu tạo kỹ thuật quyết định
ánh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật.(Ký hiệu C/V)
+ Trong sản xuất tư bản chủ nghĩa cấu tạo hữu cơ luôn có xu hướng tăng lên
cùng với quá trình tích lũy tư bản. Điều đó có nghĩa là cùng với sự gia tăng của
nền sản xuất, sẽ có một số người lao động bị thất nghiệp do máy móc thay thế.
- Thứ hai, Tích lũy tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản.
+ Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt bằng cách
giá trị thặng dư, nó là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản. Tích tụ tư bản cũ
đồng thời làm tăng quy mô tư bản xã hội, nó phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội
giữa người công nhân và nhà tư bản, giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.
+ Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt do h
các tư bản cá biệt thành một tư bản cá biệt lớn hơn. Tập trung tư bản không là
tăng quy mô của tư bản xã hội, nó phản ánh quan hệ giữa các nhà tư bản, là sự
phân phối lại tư bản giữa các nhà tư bản.
+ Tích tụ và tập trung tư bản có sự tác động tương hỗ với nhau và đều góp
phần tạo tiền đề để đẩy nhanh tích lũy.
- Thứ ba, tích lũy tư bản làm bần cùng hóa người lao động làm thuê. Bần cùng
hóa là tích lũy sự giầu có về phía giai cấp tư sản, đồng thời tích lũy sự nghèo
khổ về phía những người lao động làm thuê. Bần cùng hóa thể hiện dưới hai
hình thức là bần cùng hóa tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối.
III. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường
Nghiên cứu về hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư, thực chất là phân tích về
các quan hệ lợi ích giữa những nhà tư bản với nhau, giữa nhà tư bản với địa chủ
trong việc phân chia giá trị thặng dư trên cơ sở hao phí sức lao động của người lao động làm thuê. 1. Lợi nhuận NHÓM 3
* Chi phí sản xuất
- Đối với nhà tư bản, điều quan trọng là phải thu hồi được giá trị tư bản đã ứng
ra từ giá trị hàng hóa đã bán được. Khái niệm chi phí sản xuất hiện trong mối quan hệ đó.
- Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (kí hiệu: k) là phần giá trị của hàng
lại giá cả của những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và giá cả của sức lao
đã được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa đó. - Về mặt lượng: k =c+v
- Khi xuất hiện khái niệm chi phí sản xuất thì giá trị hàng hóa G = c +(v + m) biểu hiện thành: G=k+m
Ví dụ: Một doanh nghiệp sản xuất bánh mì có thể phải chi trả các khoản chi phí
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: $5.000 (bột mì, men, nước, đường, muối,...)
Chi phí nhân công trực tiếp: $3.000 (tiền lương cho người làm bánh, người đóng gói,...)
Chi phí sản xuất chung: $2.000 (tiền thuê nhà xưởng, điện nước, bảo dưỡng máy móc, ...)
* Bản chất của lợi nhuận
- Trong thực tế sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất có
một khoản chênh lệch. Cho nên sau khi bán hàng hóa, theo tắc ngang giá (giá cả
= giá trị), nhà tư bản không những bù đắp được số chi phi đã ứng ra mà con thu
được số chênh lệch bằng giá trị thặng . Số chênh lệnh này được C. Mác gọi là
lợi nhuận (kí hiệu: p).
- Khi đó công thức tính giá trị hàng hóa được viết là: G=k + p => p= G - k
- Với hình thức như vậy, người ta chỉ quan tâm tới khoản chênh lệnh giữa giá trị
hàng hóa bán được với chi phí phải bỏ ra mà không quan tâm đến nguồn gốc
sâu xa của khoản chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư. Thậm chí, với nhà tư
bản, lợi nhuận còn được quan niệm là do tư bản ứng trước sinh ra.
- Do đó, C. Mác khái quát: Giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn
bộ tư bản ứng trước, mang hình thái chuyển hóa là lợi nhuận. NHÓM 3
- Điều này có nghĩa, về mặt chất, lợi nhuận chẳng qua là hình thái biểu hiện của
giá trị thặng dư trên bề mặt nền kinh tế thị trường. Về mặt lượng, nếu xét một
nhà tư bản cá biệt: Mối quan hệ về lượng giữa p và m được thể hiện ở 3 trường hợp sau đây:
p=m nếu giá cả = giá trị
p>m nếu giá cả > giá trị
pCòn xét trên phạm vi xã hội, tổng lợi nhuận luôn bằng tổng giá trị thặng dư.
* Tỉ suất lợi nhuận
- Tỉ suất lợi nhuận (kí hiệu: p’) là tỉ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn
trị của tư bản ứng trước.
- Tỉ suất lợi nhuận được ký hiệu là p và được tính theo công thức: p’ = p × 100 % (c +v)
- Ti suất lợi nhuận hàng năm là thước đo cụ thể, phản ánh đầy đủ hơn mức độ
hiệu quả kinh doanh, vì vậy đã trở thành động cơ quan trọng nhất của hoạt động
cạnh tranh tư bản chủ nghĩa.
- Như vậy, lợi nhuận, tỉ suất lợi nhuận là những phạm trù thể hiện lợi ích kinh tế
của nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, từ đó các nhà tư
bản muốn làm giàu và làm giàu nhanh cần phải tìm ra cách thức để có được tỉ suất cao nhất.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến tỉ suất lợi nhuận
1. Tỷ suất giá trị thặng dư: Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa
giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Ví dụ, nếu cơ cấu giá trị hàng hóa là
800c + 200v + 200m thì m’ = 100%, p’ = 20%. Nếu cơ cấu giá trị hàng
hóa là 800c + 200v + 400m thì m’ = 200%, p’ = 40%
2. Cấu tạo hữu cơ của tư bản: Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu trúc và tổ
chức của các yếu tố tư bản bao gồm: trình độ kỹ thuật, công nghệ, cơ sở
hạ tầng và quy mô sản xuất. Ví dụ, nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 70c +
30v + 20m thì p’ = 30%. Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 80c + 20v + 20m thì p’ = 20%