Giao kết hợp đồng trong Luật hợp đồng | Trường Đại học Kinh tế – Luật

Thực tiễn ký kết hợp đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại ở Việt Nam trong thời gian vừa qua cho thấy rằng, hợp đồng được ký kết chủ yếu theo thói quen mà không phải theo kỹ năng pháp lý. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
6 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Giao kết hợp đồng trong Luật hợp đồng | Trường Đại học Kinh tế – Luật

Thực tiễn ký kết hợp đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại ở Việt Nam trong thời gian vừa qua cho thấy rằng, hợp đồng được ký kết chủ yếu theo thói quen mà không phải theo kỹ năng pháp lý. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

37 19 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45943468
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 VỀ ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG VÀ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
LUẬT HỌC SO SÁNH TS. Dương Anh Sơn-Khoa Kinh tế, Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Đặt vấn đề: Thực tiễn ký kết hợp đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại Việt
Nam trong thời gian vừa qua cho thấy rằng, hợp đồng được ký kết chủ yếu theo thói quen
không phải theo kỹ năng pháp lý. Cũng chính vậy những vấn đề liên quan đến
giá trị pháp lý của đề nghị giao kết hợp đồng-chào hàng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng không mấy được quan tâm. Thực tiễn này ít nhiều tác động đến việc thiết kế các quy
định liên quan trong pháp luật hợp đồng Việt Nam. Thưc vậy, trước thời điểm 1.1.2006 tồn
tại đồng thời 3 văn bản pháp luật cùng điều chỉnh việc ký kết và thực hiện hợp đồng, đó là
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, Bộ luật dân sự 1995 Luật thương mại 1997, điều
đáng nói khá nhiều điểm không thống nhất trong ba văn bản này, tuy nhiên chúng ít
được quan tâm nghiên cứu. Hiện nay các nhà làm luật của chúng ta đã có sự cố gắng trong
việc thống nhất các quy định pháp luật về kết hợp đồng, cụ thể chúng được gom vào
trong Bộ luật dân sự 2005. Điều này vừa đảm bảo được tính hệ thống, tính thống nhất của
pháp luật, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế. Sự cố gắng của những người soạn thảo Bộ
luật dân sự thật đáng được ghi nhận. Tuy nhiên khi xem xét, nghiên cứu nhiều quy định
của đạo luật quan trọng nói trên, tôi vẫn thấy còn nhiều vấn đề cần phải được làm sáng
hơn. Trong phạm vi của bài viết tôi này không có ý định phân tích tất cả các quy định liên
quan đến đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mà chỉ muốn
phân tích, giải một số quy định trong mối liên hệ với thực tiễn so sánh với các quy
định của pháp luật một số nước.
2. Trước hết tôi muốn nói đến cách sử dụng thuật ngữ. Điều 390 Bộ luật dân sự 2005
quy định, i) đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu
sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể; ii) trong
trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng nêu thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao
kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi
thường thiệt hại cho n được đề nghị không được giao kết hợp đồng nếu thiệt hại
phát sinh. Như vậy pháp luật Việt Nam hiện hành không sử dụng thuật ngữ chào hàng”
như pháp luật của hầu hết các nước, Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Tôi cho rằng, việc pháp luật Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “chào hàng”
lại sử dụng thuật ngữ “đề nghị giao kết hợp đồng”sẽ gây rất nhiều khó khăn cho người áp
dụng cũng như người ký kết hợp đồng rất khó thể phân biệt đề nghị giao kết hợp đồng
với quảng cáo đặc biệt với lời mời đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng, bởi theo
nguyên tắc, quảng cáo, lời mời chào hàng bản thân chào hàng đều được coi đề nghị
giao kết hợp đồng, tuy nhiên trị pháp lý của chúng lại hoàn toàn khác nhau.
Khác với quảng cáo hay lời mời chào hàng, chào hàng giá trị pháp ràng buộc.
Một đề nghị giao kết hợp đồng, để được coi là chào hàng, phải thỏa mãn các dấu hiệu sau
đây:
Thứ nhất, đề nghị đó phải được xác định cụ thể. Điều này có nghĩa là xuất phát từ nội
dung của bên được chào hàng khả năng hiểu được ý chí của bên chào hàng. Thông
lOMoARcPSD| 45943468
2
thương một đề nghị được coi là xác định nếu có chứa các nội dung của hợp đồng tương lai.
Bất kỳ sự không xác định nào liên quan đến nội dung của hợp đồng ơng lai, quyền
nghĩa vụ cũng như đối tượng của hợp đồng đều có thể dẫn đến các cách hiểu khác nhau về
nội dung của đề nghị gia kết hợp đồng điều này thể làm cho đề nghị giao kết hợp
đồng mất đi chức năng, mục đích của một chào hàng. Quảng cáo hay lời mời chào hàng
thường không xác định, bởi lẽ chúng không không các nội dung của một hợp đồng
tương lai.
Thứ hai, đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện được sự ràng buộc của bên chào hàng
với lời đề nghị của mình trong trường hợp chào được bên được chào hàng chấp nhận. Yêu
cầu nói trênnghĩa là chào hàng phải được lập như thế nào đó để cho phép bên được đề
nghị biết được rằng, để hết hợp đồng chỉ cần họ thể hiện sự đồng ý của mình với chào
hàng. Dấu hiệu này cùng với dấu hiệu thứ nhất cho phép phân biệt chào hàng với lời mời
để đối tác đưa ra chào hàng.
Thứ ba, chào hàng phải được gửi cho một người hay một số người cụ thể, tức phải
địa chỉ gửi đến phải được xác định ràng. Lời mời chào hàng mặc được gửi cho một
hay một số người xác định, tuy nhiên nó không thể hiện được sự ràng buộc của bên đưa ra
đề nghị. Quảng cáo thường không được gửi cho một người xác định nào mà nó chỉ có mục
đích thông báo, giới thiệu cho tất cả những người quan tâm về một loại sản phẩm nào đó
của người đưa ra quảng cáo.
Từ sự phân tích nói trên, tôi cho rằng, pháp luật Việt Nam nên sử dụng thuật ngữ “chào
hàng” khoản 1 Điều 390 Bluật dân sự cần phải được sửa đổi như sau: Đề nghị giao
kết hợp đồng được gửi cho một hay một số người xác định được coi chào hàng nếu đề
nghị đó được xác định thể hiện được ý định của người chào hàng chịu sự ràng buộc
trong trường hợp đề nghị được chấp nhận. Chào hàng phải các điều khoản chủ yếu của
hợp đồng.
3. Vấn đề tiếp theo chúng tôi muốn nói đến là giá trị pháp lý của một đề nghị giaokết
hợp đồng được coi chào hàng. thuyết về kết hợp đồng chỉ ra rằng, có hai loại chào
hàng: thứ nhất, chào hàng quy định thời hạn trả lời và; thứ hai, chào hàng không quy
định thời hạn trả lời. Khi xem xét khoản 1 Điều 390 Bộ luật dân sự 2005 có thể nhận thấy
pháp luật Việt Nam quy định chào hàng không quy định thời hạn trả lời, tuy nhiên giá
trị pháp của lại không được nói đến
1
. Thực vậy, điểm a, khoản 1 Điều 392 Bộ luật
dân sự quy định rằng, bên đề nghị giao kết hợp đồng thể thay đổi, rút lại đề nghị giao
kết hợp đồng nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề
nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị. Theo tôi thì điểm a khoản 1 Điều
392 chỉ quy định giá trị pháp của chào hàng quy định thời hạn trả lời. Bởi vì quy định
này có thể hiểu trong khoảng thời gian từ thời điểm bên được đề nghị nhận được đề nghị
đến khi kết thúc thời hạn trong đề nghị, bên đề nghị không được t lại hay hủy đề nghị
của mình. Mặt khác sẽ hết sức nếu quy định trên được áp dụng cho cả đề nghị giao
kết hợp đồng không quy định thời hạn trả lời bởi vì không quy đinh khoảng thời gian hiệu
1
Khác với Bộ luật dân sự 1995 và Bộ luật dân sự 2005, Luật Thương mại 1997 có sự điều chỉnh đối với trường hợp này.
Trong trường hợp không xác định được thời hạn chấp nhận chào hàng thì thời hạn trách nhiệm của bên chào hàng ba
mươi (30) ngày kể từ ngày chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng (Điểm 2 khoản 1 Điều 53). Tôi cho rằng,
quy định của Luật thương mại 1997, trong một mức độ nào đó, gần giống với quy định của pháp luật một số nước.
lOMoARcPSD| 45943468
lực của nó. Vậy thì đối với chào hàng không quy định thời hạn trả lời bên đề nghị thể
rút lại hoăc hủy lời đề nghị của mình khi nào? Hay nói cách khác là bên được đề nghị giao
kết hợp đồng phải trả lời trong thời hạn nào thì trả lời đó mới được coi chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng.
Khác với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nhiều nước, kể cả Công ước Viên 1980 về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không những chỉ sự điều chỉnh đối với đề nghị giao
kết hợp đồng được coi chào hàng quy định thời hạn trả lời còn sự điều chỉnh
đối với chào hàng không quy định thời hạn trả lời. Công ước Vn 1980 (khoản 1 Điều 16)
quy định, bên đề nghị có thể rút lại đề nghị nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về
việc rút lại chào hàng trước khi trả lời chấp nhận. Điều 145 Bộ luật dân sự của Đức quy
định, trong trường hợp chào hàng không quy định thời hạn trả lời thì bên chào hàng chịu
sự ràng buộc trong thời hạn hợp
2
, tức là trong thời hạn hợp lý đó bên chào hàng không
được thay đổi hay hủy lời đề nghị của mình. Điều này nghĩa nếu bên được đề nghị
đưa ra sự chấp nhận trong thời hạn hợp lý đó thì hợp đồng sẽ được kết. Khoản 1 Điều
441 Bộ luật dân sự Liên bang Nga quy định rằng, khi chào hàng bằng văn bản không quy
định thời hạn trả lời, hợp đồng được coi đã kết nếu bên chào hàng nhận được sự trả
lời chấp nhận của bên kia trước thời hạn do pháp luật quy định, nếu pháp luật không quy
định thì trong thời hạn hợp lý cần thiết cho việc chấp nhận. Thời hạn hợp được quy định
trong pháp luật của Đức, Liên bang nga trong từng trường hợp cụ thể phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: khoảng cách giữa các bên, phương tiện thông tin, tính chất của hợp đồng tương
lai…Theo nguyên tắc, thời hạn hợp này được xác định bởi khoảng thời gian giữa ngày
bên được đề nghị nhận được chào hàng và ngày bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận.
Từ những gì được nói ở trên, tôi nghĩ rằng, trong Bộ luật dân sự Việt Nam nên chăng
cũng cần phải quy định cụ thể hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng không quy
định thời hạn trả lời.
4. Một trong những vấn đề liên quan đến việc ký kết hợp đồng cần phải được quantâm
đó là sự im lặng có được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng hay không. Theo quy
định của Công ước Viên 1980 (Khoản 1 Điều 18), sự im lặng hay việc không hành động
không được coi chấp nhận chào hàng. Trong pháp luật của các nước khác nhau vấn đề
này được giải quyết không giống nhau. Pháp luật Việt Nam, về mặt nguyên tắc cũng không
coi im lặng sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên khoản 2 Điều 404 Bộ
luật dân sự 2005 quy định rằng, hợp đồng cũng được xem nđược giao kết khi hết thời
hạn trả lời bên nhận đề nghị vẫn im lặng, nếu thỏa thuận im lặng sự trả lời chấp
nhận giao kết. Liên quan đến quy định này, một câu hỏi thể được đặt ra: trong trường
hợp hợp đồng được ký kết bằng cách trao đổi chào hàng và chấp nhận chào hàng giữa các
bên vắng mặt thì sự thỏa thuận nói trên được hiểu như thế nào? Khi việc đàm phán thương
thảo ký kết hợp đồng được thực hiện giữa những người vắng mặt thì rõ ràng họ khó có thể
thỏa thuận được. Hay là có thể nói rằng, trong chào hàng, bên đề nghị có quy định rằng, sự
im lặng của bên được đề nghị được coi sự đồng ý của họ. Tôi cho rằng, nếu hiểu như
vậy lại càng không được. Hợp đồng sự thỏa thuận của các bên nhưng trong trường hợp
này hoàn toàn không có sự thỏa thuận mà là sự áp đặt ý chí của bên đề nghị. Nếu cho rằng,
trong các cuộc gặp gỡ trước đó các bên đã sự thỏa thuận với nhau rằng, im lặng được
2
Xem: Luật so sánh trong lĩnh vực tư pháp, tập 2, NXB. Quan hệ quốc tế, Matxcơva 1998, tr.58
lOMoARcPSD| 45943468
4
coi là chấp nhận chào hàng, cách lập luận này có vẻ thuyết phục hơn cả. Tuy nhiên tôi cho
rằng, trường hợp này nên coi là thực tiễn thương mại giữa các bên có vẽ hợp lý hơn. Điều
này được ghi nhận trong pháp luật của một số ớc. Ví dụ, Điều 438 Bộ luật dân sự Liên
bang Nga quy định rằng, im lặng không được coi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
nếu điều này không xuất phát từ pháp luật, tập quán hay thực tiễn quan hệ giữa các bên.
Pháp luật của Anh cũng có cách tiếp cận tương tự như Bộ luật dân sự Liên bang Nga
3
. Tôi
cho rằng quy định như vậy sẽ phù hợp hơn, bởi thực tiễn quan hệ giữa các bên, đặc biệt là
quan hệ thương mại giữa các bên trong nhiều trường hợp cũng được sử dụng như một
cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Đây cũng là xu thế mà pháp
luật quốc tế thừa nhận.
5. Theo nguyên tắc, một trong những điều kiện để sự trả lời của bên được đề nghịđược
coi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng bên đề nghị nhận được chấp đề nghị trong
thời hạn hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên trong thực tiễn có nhiều trường
hợp mặc bên được đề nghị gửi chấp nhận sớm theo điều kiện thương mại thông
thường nó phải đến tay người đề nghị sớm, tức là trong thời hạn hiệu lực của đề nghị giao
kết hợp đồng, tuy nhiên do khách quan chấp nhận đến trễ. Hiệu lực pháp luật của chấp
nhận đến trễ này được quy định giống nhau trong Pháp luật Việt Nam, Công ước Viên
1980, pháp luật của một số nước
4
tức vẫn giá trị pháp nmột chấp nhận chào
hàng nếu bên đề nghị không phản đối ngay khi nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng đó. Tôi cho rằng, quy định này của Bộ luật dân sự Việt Nam, của pháp luật các nước
cả Công ước Viên 1980 nghiêng về việc bảo vệ được quyền lợi của bên đề nghị không
bảo vệ được lợi ích của bên được đề nghị. ràng như vậy, ví dụ, khi người bán nhận được
sự chấp nhận trễ của người mua, nếu còn hàng thì người bán sẽ coi chấp nhận đó hiệu
lực, nếu hàng đã bán rồi thì họ sẽ trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó. Trong trường
hợp này rất có thể người mua sẽ phải chịu thiệt hại liên quan đến sự chuẩn bị cho việc thực
hiện hợp đồng bởi họ tin rằng, hợp đồng đã được ký kết vì sự trả lời của họ đến đúng hạn.
Như vậy thiệt hại này của người mua-người được đề sẽ được giải quyết như thế nào? Theo
quy định của khoản 1 Điều 397 Bộ luật dân sthì người mua phải gánh chịu thiệt hại đó.
Điều này có vẻ không công bằng với người mua, bởi vì họ phải chịu sự thiệt hại hoàn toàn
không do lỗi của họ. Theo quan điểm của tôi, để giải quyết trường hợp này nên chăng
chúng ta cách tiếp cận khác, tức phải làm thế nào đó để bên được đề không bị thiệt
hại. dụ, pháp luật có thể quy định rằng, khi hết thời hạn được quy định trong đề ngh
giao kết hợp đồng mà bên đề nghị không nhận được sự trả lời thì phải thông báo ngay cho
bên kia biết về điều đó. Có thể coi đây là sự thể hiện một cách rõ ràng nhất của nguyên tắc
thiện chí khi ký kết hợp đồng, mặt khác, so với bên được đề nghị thì người đề nghị chính
là người quan tâm hơn đến việc thành công của giao dịch.
6. Điều 398 Bộ luật dân sự quy định, trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợpđồng
chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được mời giao kết hợp đồng trả lời chấp
nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn giá trị. Điều này có nghĩa
hợp đồng đã được kết. Cũng tương tự, Điều 399 quy định, trong trường hợp bên được
mời giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi trả lời chấp nhận
3
Xem: V. Anson. Law of Contract. Clarendon Press Oxford 1979. p. 35.
4
dụ: Điều 21
Công ước Viên 1980, Điều 442 Bộ luật dân sự Liên bang Nga
lOMoARcPSD| 45943468
giao kết hợp đồng thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị. Và điều này
cũng có nghĩa là hợp đồng đã được ký kết. Đây là hai quy định rất mới của Bộ luật dân sự
2005, chúng không trong Bộ luật dân sự 1995, cũng như trong Luật thương mại 1997,
và trong pháp luật của nhiều nước các quy định nói trên không được tìm thấy.
Trước hết tôi muốn bình luận Điều 398. Đề nghị giao kết hợp đồng có giá trị pháp lý
nghĩa nếu được chấp nhận thì hợp đồng được kết. Tôi cho rằng quy định của
Điều 398 cũng có thể hiểu là đối với đề nghị giao kết hợp đồng có quy định thời hạn trả lời
thì nó vẫn có giá trị pháp lý ngay cả khi bên đề nghị chết hay mất năng lực hành vi dân sự
trong trong thời hạn đó. Để xem xét tính phù hợp của quy định này chúng ta thể xem
xét một dụ sau đây: Ông A kiến trúc danh tiếng. Ông ta gửi cho công ty B một đề
nghị giao kết hợp đồng, theo đó ông A sẽ thiết kế cho công ty B một công trình kiến trúc
tầm cỡ. Nhận được lời đề nghị của ông A, công ty B xem xét và chấp nhận lời đề nghị đó.
Sau khi nhận được sự trả lời chấp nhận của công ty B, ông A chết. Trong trường hợp này,
theo quy định tại Điều 398 Bộ luật dân sự thì lời đề nghị của ông A vẫn có giá trị ràng buộc,
điều này cũng nghĩa hợp đồng giữa ông A với công ty B đã được kết hiệu
lực và nếu ông A chết thì người thừa kế- người thế nghĩa vụ - của ông A phải thực hiện hợp
đồng nói trên. Tuy nhiên trong trường hợp cụ thể nói trên chỉ ông A người mới thể
thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng chứ không phải một người nào khác bởi người thừa
kế của ông A không phải kiến trúc sư, cho kiến trúc đi nữa thì cũng không
thể thực hiện được nghĩa vụ thiết kế theo hợp đồng. Mặt khác điều này lại mâu thuẫn với
khoản 3 Điều 424 Bộ luật dân sự, theo đó, hợp đồng chấm dứt trong trường hợp nhân
giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc các chủ thể khác chấm dứt hợp đồng phải do
chính nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể đó thực hiện. Như vậy, bên đề nghị giao kết hợp
đồng chết hoặc mất ng lực hành vi dân sự sau khi bên được mời giao kết hợp đồng trả
lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị theo quy định
tại Điều 398 và ngay lập tức bị chấm dứt hiệu lực theo quy định của khoản 3 Điều 424 Bộ
luật dân sự. Hậu quả pháp của Điều 399 cũng tương tự trong trường hợp công ty B
bên đề nghị và ông A-kiến trúc sư là bên được đề nghị.
Cũng có thể các nhà làm luật cho rằng, trong trường hợp khi bên đề nghị giao kết hợp
đồng chết hoặc mất ng lực hành vi dân sự sau khi bên được mời giao kết hợp đồng trả
lời chấp nhận giao kết hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng sau này phải do chính người
đó hoặc trong trường hợp bên được mời giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi
dân sự sau khi trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng nếu việc thực hiện hợp đồng sau này phải do chính người đó thì không áp dụng quy
định của hai Điều 398 và 399 mà áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 424. Còn quy định tại
hai Điều 398 399 chỉ được áp dụng cho những trường hợp khác ngoài trường hợp nói
trên, tức là khi hợp đồng không do chính người đề nghị hay người được đề nghị thực hiện.
Cách lập luận y (nếu có) tôi thấy cũng không thuyết phục. Trong trường hợp bên đề nghị
giao kết hợp đồng hoặc bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành
vi dân sự mà hợp đồng thể do người thừa kế- người thế nghĩa vụ thực hiện thì ngay cả
khi không quy định của Điều 398 Điều 399 thì người thừa kế - người thế nghĩa vụ
vẫn phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của họ. Bộ luật dân sự không quy định trực tiếp
vấn đề này mà nó được quy định trong một số văn bản văn bản pháp luật khác. Ví dụ, pháp
nhân – doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại của mình bằng việc sáp nhập, hợp nhất hay chia,
lOMoARcPSD| 45943468
6
tách. Trong trường hợp pháp nhân sáp nhập vào một pháp nhân khác thì nghĩa vụ của pháp
nhân được sáp nhập sẽ được pháp nhân sáp nhập thực hiện.
Từ những lập luận nói trên, tôi cho rằng, quy định tại các Điều 398 và 399 Bộ luật dân
sự 2005 thực sự không cần thiết, không cần thiết không những thừa còn mâu
thuẫn với một quy định khác của Bộ luật dân sự-khoản 3 Điều 424 và sẽ gây rất nhiều khó
khăn cho việc áp dụng, vì vậy có lẽ tốt nhất là nên loại chúng ra khỏi Bộ luật dân sự 2005.
Trên đây một số ý kiến của tôi về một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 liên quan
đến việc kết hợp đồng. Tôi cho rằng, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới, quan hệ thương mại với đối tác nước ngoài của doanh nghiệp Việt
Nam ngày càng tăng lên, vậy một trong những nhiệm vụ của chúng ta phải làm thế
nào để pháp luật hợp đồng nói chung, các quy định về kết hợp đồng nói riêng phải
sự tương thích với pháp luật quốc tế. như vậy mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
Việt Nam trong việc ký hết và thực hiện các loại hợp đồng thương mại quốc tế.
| 1/6

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45943468
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 VỀ ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG VÀ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
LUẬT HỌC SO SÁNH TS. Dương Anh Sơn-Khoa Kinh tế, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Đặt vấn đề: Thực tiễn ký kết hợp đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại ở Việt
Nam trong thời gian vừa qua cho thấy rằng, hợp đồng được ký kết chủ yếu theo thói quen
mà không phải theo kỹ năng pháp lý. Cũng chính vì vậy mà những vấn đề liên quan đến
giá trị pháp lý của đề nghị giao kết hợp đồng-chào hàng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng không mấy được quan tâm. Thực tiễn này ít nhiều tác động đến việc thiết kế các quy
định liên quan trong pháp luật hợp đồng Việt Nam. Thưc vậy, trước thời điểm 1.1.2006 tồn
tại đồng thời 3 văn bản pháp luật cùng điều chỉnh việc ký kết và thực hiện hợp đồng, đó là
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, Bộ luật dân sự 1995 và Luật thương mại 1997, và điều
đáng nói là có khá nhiều điểm không thống nhất trong ba văn bản này, tuy nhiên chúng ít
được quan tâm nghiên cứu. Hiện nay các nhà làm luật của chúng ta đã có sự cố gắng trong
việc thống nhất các quy định pháp luật về ký kết hợp đồng, cụ thể chúng được gom vào
trong Bộ luật dân sự 2005. Điều này vừa đảm bảo được tính hệ thống, tính thống nhất của
pháp luật, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế. Sự cố gắng của những người soạn thảo Bộ
luật dân sự thật đáng được ghi nhận. Tuy nhiên khi xem xét, nghiên cứu nhiều quy định
của đạo luật quan trọng nói trên, tôi vẫn thấy còn nhiều vấn đề cần phải được làm sáng rõ
hơn. Trong phạm vi của bài viết tôi này không có ý định phân tích tất cả các quy định liên
quan đến đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mà chỉ muốn
phân tích, lý giải một số quy định trong mối liên hệ với thực tiễn và so sánh với các quy
định của pháp luật một số nước.
2. Trước hết tôi muốn nói đến cách sử dụng thuật ngữ. Điều 390 Bộ luật dân sự 2005
quy định, i) đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu
sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể; ii) trong
trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao
kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi
thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại
phát sinh. Như vậy pháp luật Việt Nam hiện hành không sử dụng thuật ngữ “chào hàng”
như pháp luật của hầu hết các nước, Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Tôi cho rằng, việc pháp luật Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “chào hàng” mà
lại sử dụng thuật ngữ “đề nghị giao kết hợp đồng”sẽ gây rất nhiều khó khăn cho người áp
dụng cũng như người ký kết hợp đồng vì rất khó có thể phân biệt đề nghị giao kết hợp đồng
với quảng cáo và đặc biệt là với lời mời đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng, bởi vì theo
nguyên tắc, quảng cáo, lời mời chào hàng và bản thân chào hàng đều được coi là đề nghị
giao kết hợp đồng, tuy nhiên trị pháp lý của chúng lại hoàn toàn khác nhau.
Khác với quảng cáo hay lời mời chào hàng, chào hàng có giá trị pháp lý ràng buộc.
Một đề nghị giao kết hợp đồng, để được coi là chào hàng, phải thỏa mãn các dấu hiệu sau đây:
Thứ nhất, đề nghị đó phải được xác định cụ thể. Điều này có nghĩa là xuất phát từ nội
dung của nó bên được chào hàng có khả năng hiểu được ý chí của bên chào hàng. Thông lOMoAR cPSD| 45943468
thương một đề nghị được coi là xác định nếu có chứa các nội dung của hợp đồng tương lai.
Bất kỳ sự không xác định nào liên quan đến nội dung của hợp đồng tương lai, quyền và
nghĩa vụ cũng như đối tượng của hợp đồng đều có thể dẫn đến các cách hiểu khác nhau về
nội dung của đề nghị gia kết hợp đồng và điều này có thể làm cho đề nghị giao kết hợp
đồng mất đi chức năng, mục đích của một chào hàng. Quảng cáo hay lời mời chào hàng
thường là không xác định, bởi lẽ chúng không không có các nội dung của một hợp đồng tương lai.
Thứ hai, đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện được sự ràng buộc của bên chào hàng
với lời đề nghị của mình trong trường hợp chào được bên được chào hàng chấp nhận. Yêu
cầu nói trên có nghĩa là chào hàng phải được lập như thế nào đó để cho phép bên được đề
nghị biết được rằng, để ký hết hợp đồng chỉ cần họ thể hiện sự đồng ý của mình với chào
hàng. Dấu hiệu này cùng với dấu hiệu thứ nhất cho phép phân biệt chào hàng với lời mời
để đối tác đưa ra chào hàng.
Thứ ba, chào hàng phải được gửi cho một người hay một số người cụ thể, tức là phải
địa chỉ gửi đến phải được xác định rõ ràng. Lời mời chào hàng mặc dù được gửi cho một
hay một số người xác định, tuy nhiên nó không thể hiện được sự ràng buộc của bên đưa ra
đề nghị. Quảng cáo thường không được gửi cho một người xác định nào mà nó chỉ có mục
đích thông báo, giới thiệu cho tất cả những người quan tâm về một loại sản phẩm nào đó
của người đưa ra quảng cáo.
Từ sự phân tích nói trên, tôi cho rằng, pháp luật Việt Nam nên sử dụng thuật ngữ “chào
hàng” và khoản 1 Điều 390 Bộ luật dân sự cần phải được sửa đổi như sau: Đề nghị giao
kết hợp đồng được gửi cho một hay một số người xác định được coi là chào hàng nếu đề
nghị đó được xác định và thể hiện được ý định của người chào hàng chịu sự ràng buộc
trong trường hợp đề nghị được chấp nhận. Chào hàng phải có các điều khoản chủ yếu của hợp đồng
.
3. Vấn đề tiếp theo chúng tôi muốn nói đến là giá trị pháp lý của một đề nghị giaokết
hợp đồng được coi là chào hàng. Lý thuyết về ký kết hợp đồng chỉ ra rằng, có hai loại chào
hàng: thứ nhất, chào hàng có quy định thời hạn trả lời và; thứ hai, chào hàng không quy
định thời hạn trả lời. Khi xem xét khoản 1 Điều 390 Bộ luật dân sự 2005 có thể nhận thấy
pháp luật Việt Nam có quy định chào hàng không quy định thời hạn trả lời, tuy nhiên giá
trị pháp lý của nó lại không được nói đến1. Thực vậy, điểm a, khoản 1 Điều 392 Bộ luật
dân sự quy định rằng, bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao
kết hợp đồng nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề
nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị. Theo tôi thì điểm a khoản 1 Điều
392 chỉ quy định giá trị pháp lý của chào hàng có quy định thời hạn trả lời. Bởi vì quy định
này có thể hiểu là trong khoảng thời gian từ thời điểm bên được đề nghị nhận được đề nghị
đến khi kết thúc thời hạn trong đề nghị, bên đề nghị không được rút lại hay hủy đề nghị
của mình. Mặt khác sẽ hết sức vô lý nếu quy định trên được áp dụng cho cả đề nghị giao
kết hợp đồng không quy định thời hạn trả lời bởi vì không quy đinh khoảng thời gian hiệu
1 Khác với Bộ luật dân sự 1995 và Bộ luật dân sự 2005, Luật Thương mại 1997 có sự điều chỉnh đối với trường hợp này.
Trong trường hợp không xác định được thời hạn chấp nhận chào hàng thì thời hạn trách nhiệm của bên chào hàng là ba
mươi (30) ngày kể từ ngày chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng (Điểm 2 khoản 1 Điều 53). Tôi cho rằng,
quy định của Luật thương mại 1997, trong một mức độ nào đó, gần giống với quy định của pháp luật một số nước. 2 lOMoAR cPSD| 45943468
lực của nó. Vậy thì đối với chào hàng không quy định thời hạn trả lời bên đề nghị có thể
rút lại hoăc hủy lời đề nghị của mình khi nào? Hay nói cách khác là bên được đề nghị giao
kết hợp đồng phải trả lời trong thời hạn nào thì trả lời đó mới được coi là chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng.
Khác với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nhiều nước, kể cả Công ước Viên 1980 về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không những chỉ có sự điều chỉnh đối với đề nghị giao
kết hợp đồng được coi là chào hàng có quy định thời hạn trả lời mà còn có sự điều chỉnh
đối với chào hàng không quy định thời hạn trả lời. Công ước Viên 1980 (khoản 1 Điều 16)
quy định, bên đề nghị có thể rút lại đề nghị nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về
việc rút lại chào hàng trước khi trả lời chấp nhận. Điều 145 Bộ luật dân sự của Đức quy
định, trong trường hợp chào hàng không quy định thời hạn trả lời thì bên chào hàng chịu
sự ràng buộc trong thời hạn hợp lý 2, tức là trong thời hạn hợp lý đó bên chào hàng không
được thay đổi hay hủy lời đề nghị của mình. Điều này có nghĩa là nếu bên được đề nghị
đưa ra sự chấp nhận trong thời hạn hợp lý đó thì hợp đồng sẽ được ký kết. Khoản 1 Điều
441 Bộ luật dân sự Liên bang Nga quy định rằng, khi chào hàng bằng văn bản không quy
định thời hạn trả lời, hợp đồng được coi là đã ký kết nếu bên chào hàng nhận được sự trả
lời chấp nhận của bên kia trước thời hạn do pháp luật quy định, nếu pháp luật không quy
định thì trong thời hạn hợp lý cần thiết cho việc chấp nhận. Thời hạn hợp lý được quy định
trong pháp luật của Đức, Liên bang nga trong từng trường hợp cụ thể phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: khoảng cách giữa các bên, phương tiện thông tin, tính chất của hợp đồng tương
lai…Theo nguyên tắc, thời hạn hợp lý này được xác định bởi khoảng thời gian giữa ngày
bên được đề nghị nhận được chào hàng và ngày bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận.
Từ những gì được nói ở trên, tôi nghĩ rằng, trong Bộ luật dân sự Việt Nam nên chăng
cũng cần phải có quy định cụ thể hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng không có quy
định thời hạn trả lời.
4. Một trong những vấn đề liên quan đến việc ký kết hợp đồng cần phải được quantâm
đó là sự im lặng có được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng hay không. Theo quy
định của Công ước Viên 1980 (Khoản 1 Điều 18), sự im lặng hay việc không hành động
không được coi là chấp nhận chào hàng. Trong pháp luật của các nước khác nhau vấn đề
này được giải quyết không giống nhau. Pháp luật Việt Nam, về mặt nguyên tắc cũng không
coi im lặng là sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên khoản 2 Điều 404 Bộ
luật dân sự 2005 quy định rằng, hợp đồng cũng được xem như được giao kết khi hết thời
hạn trả lời mà bên nhận đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp
nhận giao kết. Liên quan đến quy định này, một câu hỏi có thể được đặt ra: trong trường
hợp hợp đồng được ký kết bằng cách trao đổi chào hàng và chấp nhận chào hàng giữa các
bên vắng mặt thì sự thỏa thuận nói trên được hiểu như thế nào? Khi việc đàm phán thương
thảo ký kết hợp đồng được thực hiện giữa những người vắng mặt thì rõ ràng họ khó có thể
thỏa thuận được. Hay là có thể nói rằng, trong chào hàng, bên đề nghị có quy định rằng, sự
im lặng của bên được đề nghị được coi là sự đồng ý của họ. Tôi cho rằng, nếu hiểu như
vậy lại càng không được. Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên nhưng trong trường hợp
này hoàn toàn không có sự thỏa thuận mà là sự áp đặt ý chí của bên đề nghị. Nếu cho rằng,
trong các cuộc gặp gỡ trước đó các bên đã có sự thỏa thuận với nhau rằng, im lặng được
2 Xem: Luật so sánh trong lĩnh vực tư pháp, tập 2, NXB. Quan hệ quốc tế, Matxcơva 1998, tr.58 lOMoAR cPSD| 45943468
coi là chấp nhận chào hàng, cách lập luận này có vẻ thuyết phục hơn cả. Tuy nhiên tôi cho
rằng, trường hợp này nên coi là thực tiễn thương mại giữa các bên có vẽ hợp lý hơn. Điều
này được ghi nhận trong pháp luật của một số nước. Ví dụ, Điều 438 Bộ luật dân sự Liên
bang Nga quy định rằng, im lặng không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
nếu điều này không xuất phát từ pháp luật, tập quán hay thực tiễn quan hệ giữa các bên.
Pháp luật của Anh cũng có cách tiếp cận tương tự như Bộ luật dân sự Liên bang Nga3. Tôi
cho rằng quy định như vậy sẽ phù hợp hơn, bởi thực tiễn quan hệ giữa các bên, đặc biệt là
quan hệ thương mại giữa các bên trong nhiều trường hợp cũng được sử dụng như là một
cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Đây cũng là xu thế mà pháp
luật quốc tế thừa nhận.
5. Theo nguyên tắc, một trong những điều kiện để sự trả lời của bên được đề nghịđược
coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là bên đề nghị nhận được chấp đề nghị trong
thời hạn hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên trong thực tiễn có nhiều trường
hợp mặc dù bên được đề nghị gửi chấp nhận sớm và theo điều kiện thương mại thông
thường nó phải đến tay người đề nghị sớm, tức là trong thời hạn hiệu lực của đề nghị giao
kết hợp đồng, tuy nhiên vì lý do khách quan chấp nhận đến trễ. Hiệu lực pháp luật của chấp
nhận đến trễ này được quy định giống nhau trong Pháp luật Việt Nam, Công ước Viên
1980, pháp luật của một số nước4 tức là vẫn có giá trị pháp lý như một chấp nhận chào
hàng nếu bên đề nghị không phản đối ngay khi nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng đó. Tôi cho rằng, quy định này của Bộ luật dân sự Việt Nam, của pháp luật các nước
và cả Công ước Viên 1980 nghiêng về việc bảo vệ được quyền lợi của bên đề nghị và không
bảo vệ được lợi ích của bên được đề nghị. Rõ ràng như vậy, ví dụ, khi người bán nhận được
sự chấp nhận trễ của người mua, nếu còn hàng thì người bán sẽ coi chấp nhận đó có hiệu
lực, nếu hàng đã bán rồi thì họ sẽ trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó. Trong trường
hợp này rất có thể người mua sẽ phải chịu thiệt hại liên quan đến sự chuẩn bị cho việc thực
hiện hợp đồng bởi họ tin rằng, hợp đồng đã được ký kết vì sự trả lời của họ đến đúng hạn.
Như vậy thiệt hại này của người mua-người được đề sẽ được giải quyết như thế nào? Theo
quy định của khoản 1 Điều 397 Bộ luật dân sự thì người mua phải gánh chịu thiệt hại đó.
Điều này có vẻ không công bằng với người mua, bởi vì họ phải chịu sự thiệt hại hoàn toàn
không do lỗi của họ. Theo quan điểm của tôi, để giải quyết trường hợp này nên chăng
chúng ta có cách tiếp cận khác, tức là phải làm thế nào đó để bên được đề không bị thiệt
hại. Ví dụ, pháp luật có thể quy định rằng, khi hết thời hạn được quy định trong đề nghị
giao kết hợp đồng mà bên đề nghị không nhận được sự trả lời thì phải thông báo ngay cho
bên kia biết về điều đó. Có thể coi đây là sự thể hiện một cách rõ ràng nhất của nguyên tắc
thiện chí khi ký kết hợp đồng, mặt khác, so với bên được đề nghị thì người đề nghị chính
là người quan tâm hơn đến việc thành công của giao dịch.
6. Điều 398 Bộ luật dân sự quy định, trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợpđồng
chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được mời giao kết hợp đồng trả lời chấp
nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị. Điều này có nghĩa là
hợp đồng đã được ký kết. Cũng tương tự, Điều 399 quy định, trong trường hợp bên được
mời giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi trả lời chấp nhận
3 Xem: V. Anson. Law of Contract. Clarendon Press Oxford 1979. p. 35. 4 Ví dụ: Điều 21
Công ước Viên 1980, Điều 442 Bộ luật dân sự Liên bang Nga 4 lOMoAR cPSD| 45943468
giao kết hợp đồng thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị. Và điều này
cũng có nghĩa là hợp đồng đã được ký kết. Đây là hai quy định rất mới của Bộ luật dân sự
2005, chúng không có trong Bộ luật dân sự 1995, cũng như trong Luật thương mại 1997,
và trong pháp luật của nhiều nước các quy định nói trên không được tìm thấy.
Trước hết tôi muốn bình luận Điều 398. Đề nghị giao kết hợp đồng có giá trị pháp lý
có nghĩa là nếu nó được chấp nhận thì hợp đồng được ký kết. Tôi cho rằng quy định của
Điều 398 cũng có thể hiểu là đối với đề nghị giao kết hợp đồng có quy định thời hạn trả lời
thì nó vẫn có giá trị pháp lý ngay cả khi bên đề nghị chết hay mất năng lực hành vi dân sự
trong trong thời hạn đó. Để xem xét tính phù hợp của quy định này chúng ta có thể xem
xét một ví dụ sau đây: Ông A là kiến trúc sư danh tiếng. Ông ta gửi cho công ty B một đề
nghị giao kết hợp đồng, theo đó ông A sẽ thiết kế cho công ty B một công trình kiến trúc
tầm cỡ. Nhận được lời đề nghị của ông A, công ty B xem xét và chấp nhận lời đề nghị đó.
Sau khi nhận được sự trả lời chấp nhận của công ty B, ông A chết. Trong trường hợp này,
theo quy định tại Điều 398 Bộ luật dân sự thì lời đề nghị của ông A vẫn có giá trị ràng buộc,
điều này cũng có nghĩa là hợp đồng giữa ông A với công ty B đã được ký kết và có hiệu
lực và nếu ông A chết thì người thừa kế- người thế nghĩa vụ - của ông A phải thực hiện hợp
đồng nói trên. Tuy nhiên trong trường hợp cụ thể nói trên chỉ ông A là người mới có thể
thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng chứ không phải là một người nào khác bởi vì người thừa
kế của ông A không phải là kiến trúc sư, mà cho dù là kiến trúc sư đi nữa thì cũng không
thể thực hiện được nghĩa vụ thiết kế theo hợp đồng. Mặt khác điều này lại mâu thuẫn với
khoản 3 Điều 424 Bộ luật dân sự, theo đó, hợp đồng chấm dứt trong trường hợp cá nhân
giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc các chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do
chính cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể đó thực hiện. Như vậy, bên đề nghị giao kết hợp
đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được mời giao kết hợp đồng trả
lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị theo quy định
tại Điều 398 và ngay lập tức bị chấm dứt hiệu lực theo quy định của khoản 3 Điều 424 Bộ
luật dân sự. Hậu quả pháp lý của Điều 399 cũng tương tự trong trường hợp công ty B là
bên đề nghị và ông A-kiến trúc sư là bên được đề nghị.
Cũng có thể các nhà làm luật cho rằng, trong trường hợp khi bên đề nghị giao kết hợp
đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được mời giao kết hợp đồng trả
lời chấp nhận giao kết hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng sau này phải do chính người
đó hoặc trong trường hợp bên được mời giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi
dân sự sau khi trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng nếu việc thực hiện hợp đồng sau này phải do chính người đó thì không áp dụng quy
định của hai Điều 398 và 399 mà áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 424. Còn quy định tại
hai Điều 398 và 399 chỉ được áp dụng cho những trường hợp khác ngoài trường hợp nói
trên, tức là khi hợp đồng không do chính người đề nghị hay người được đề nghị thực hiện.
Cách lập luận này (nếu có) tôi thấy cũng không thuyết phục. Trong trường hợp bên đề nghị
giao kết hợp đồng hoặc bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành
vi dân sự mà hợp đồng có thể do người thừa kế- người thế nghĩa vụ thực hiện thì ngay cả
khi không có quy định của Điều 398 và Điều 399 thì người thừa kế - người thế nghĩa vụ
vẫn phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của họ. Bộ luật dân sự không có quy định trực tiếp
vấn đề này mà nó được quy định trong một số văn bản văn bản pháp luật khác. Ví dụ, pháp
nhân – doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại của mình bằng việc sáp nhập, hợp nhất hay chia, lOMoAR cPSD| 45943468
tách. Trong trường hợp pháp nhân sáp nhập vào một pháp nhân khác thì nghĩa vụ của pháp
nhân được sáp nhập sẽ được pháp nhân sáp nhập thực hiện.
Từ những lập luận nói trên, tôi cho rằng, quy định tại các Điều 398 và 399 Bộ luật dân
sự 2005 thực sự là không cần thiết, không cần thiết vì không những nó thừa mà còn mâu
thuẫn với một quy định khác của Bộ luật dân sự-khoản 3 Điều 424 và sẽ gây rất nhiều khó
khăn cho việc áp dụng, vì vậy có lẽ tốt nhất là nên loại chúng ra khỏi Bộ luật dân sự 2005.
Trên đây là một số ý kiến của tôi về một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 liên quan
đến việc ký kết hợp đồng. Tôi cho rằng, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới, quan hệ thương mại với đối tác nước ngoài của doanh nghiệp Việt
Nam ngày càng tăng lên, vì vậy một trong những nhiệm vụ của chúng ta là phải làm thế
nào để pháp luật hợp đồng nói chung, các quy định về ký kết hợp đồng nói riêng phải có
sự tương thích với pháp luật quốc tế. Có như vậy mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
Việt Nam trong việc ký hết và thực hiện các loại hợp đồng thương mại quốc tế. 6