Giáo trình Giáo dục học đại cương | Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Tài liệu gồm 111 trang, có 4 chương chính bao gồm các kiến thức cơ bản liên quan: các khái niệm cơ bản của Giáo dục học; vai trò của giáo dục trong đời sống xã hội; nhân cách và các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách; những vấn đề cơ bản của của nền giáo dục Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,... giúp bạn ôn luyện và nắm vững kiến thức môn học Giáo dục học đại cương. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG
GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG Biên soạn:
NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG - VÕ VĂN NAM LỜI NÓI ĐẦU
Giáo dục học là một môn học trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ tác
nghiệp cho sinh viên sư phạm. Việc giảng dạy, học tập bộ môn Giáo dục học
và học phần Giáo dục học đại cương đòi hỏi sinh viên phải tham khảo nhiều
nguồn tài liệu và đối chiếu lý luận với thực tiễn giáo dục ở nhà trường. Để hỗ
trợ việc học tập của sinh viên, chúng tôi biên soạn tài liệu “Giáo dục học đại
cương” theo chương trình phần giáo dục cốt lõi chuyên nghiệp cho các
trường Đại học sư phạm và Cao đẳng sư phạm trong quyết định số 2677/GD
- ĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo.
Tài liệu gồm có 4 chương. Mỗi chương đều giới thiệu mục tiêu học tập
định hướng cho sinh viên trong việc tìm hiểu nội dung đồng thời giúp sinh viên
tự thẩm định kết quả học tập của mình. Ngoài phần trình bày lý thuyết, tài liệu
còn đưa ra những câu hỏi hướng dẫn học tập và thảo luận ở cuối chương để
sinh viên có thể tự học cùng với việc tiếp thu bài giảng trên lớp. Một vài triết lý
giáo dục được nêu lên ở đầu chương nhằm nhấn mạnh ý nghĩa bài học đồng
thời làm nổi bật tính chất sư phạm của một tài liệu thuộc lĩnh vực giáo dục.
Tài liệu đã cố gắng cập nhật tri thức và liên hệ lý luận với thực tiễn để giúp
sinh viên tiếp thu môn học thuận lợi hơn.
Tài liệu đã được điều chỉnh dựa trên nhận xét phản biện của Giáo sư
Bùi Ngọc Hồ và ý kiến của Hội đồng thẩm định gồm một số giảng viên Tổ
Giáo dục học, khoa Tâm lý Giáo dục trường Đại học Sư phạm TPHCM.
Nhóm biên soạn chân thành đón nhận và cảm ơn các ý kiến đóng góp
để tài liệu được hoàn chỉnh nhằm phục vụ tốt hơn cho việc học tập của sinh
viên trong quá trình đào tạo ở nhà trường sư phạm. Nhóm biên soạn
Võ Văn Nam và Nguyễn Thị Bích Hồng Bài mở đầu
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC HỌC
Mục tiêu: Sau bài học này, người học có khả năng 1. Về kiến thức:
a. Biết cấu trúc chương trình học
b. Xác định mục tiêu của học phần “Giáo dục học đại cương” 2. Về thái độ:
a. Khẳng định sự cần thiết của việc nghiên cứu và vận dụng tri thức
Giáo dục học đối với giáo viên trong công tác giáo dục học sinh.
b. Chủ động tìm hiểu nội dung môn học.
“Nghệ thuật giáo dục có một đặc điểm là một việc mà ai cũng có thể
hiểu được, nhận thức được, thậm chí có một số người cho là một việc dễ
dàng. Thật ra, chính những người cho giáo dục là dễ và quen thuộc lại là
những người trên thực tế cũng như trên lý luận chẳng hiểu gì về giáo dục cả”.
K. D. Usinxki (Nga; 1824 - 1870): Nội dung bài học:
I. Giáo dục học với việc giáo dục con người
Giáo dục là hoạt động nhằm rèn luyện, bồi dưỡng nhân cách cho con
người. Hoạt động này không thể tiến hành một cách tùy tiện theo những ý
muốn chủ quan hay kinh nghiệm riêng lẻ mà phải dựa trên những hướng dẫn có tính khoa học.
Giáo dục học là khoa học nghiên cứu về việc giáo dục con người.
Những ai quan tâm đến việc giáo dục con người đều có thể tìm thấy trong
Giáo dục học những chỉ dẫn cần thiết về phương hướng, biện pháp và cách
thức tổ chức giáo dục để đạt kết quả mong muốn.
Vì vậy nghiên cứu Giáo dục học có tầm quan trọng đối với mỗi người
tùy theo góc độ quan tâm của họ.
II. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Giáo dục học
a. Đối với giáo viên
Một trong những điều kiện để giáo viên có thể phát triển năng lực sư
phạm, có thể giải quyết tốt các nhiệm vụ giáo dục là phải có kiến thức, kỹ
năng, thái độ nghiêm túc trong việc nắm bắt các quy luật, các phương pháp
giáo dục..., tức là phải nắm vững khoa học giáo dục.
Giáo dục học là một môn học nghiệp vụ, trang bị tay nghề cho giáo
viên, giúp họ thực hiện tốt đẹp sứ mạng giáo dục thế hệ trẻ đã được xã hội giao phó. Cụ thể là:
- Nghiên cứu Giáo dục học giúp giáo viên có cơ sở lý luận vững chắc
để tổ chức tốt quá trình giáo dục ở nhà trường. Tri thức Giáo dục học định
hướng cho giáo viên trong việc thiết kế, tổ chức các hoạt động giảng dạy và
học tập; hoạt động giáo dục và rèn luyện cụ thể đối với học sinh. Giáo viên
biết vận dụng tri thức Giáo dục học một cách phù hợp sẽ xây dựng được
những tác động giáo dục hiệu quả và gặt hái thành công trong công tác giáo
dục, chứng tỏ được bản lĩnh nghề nghiệp của mình. Ngược lại nếu không
quan tâm nghiên cứu vận dụng Giáo dục học trong các tác động giáo dục học
sinh, giáo viên sẽ có nhiều sai sót và cho thấy trình độ nghề nghiệp còn non
yếu. Trong thực tiễn giáo dục học sinh, phần lớn những sai sót của giáo viên
đều do họ đã xa rời lý luận, không tuân thủ các nguyên tắc giáo dục cơ bản
mà Giáo dục học đã xác định.
- Nghiên cứu Giáo dục học giúp giáo viên làm tròn chức năng tham
mưu, cố vấn hướng dẫn công tác giáo dục của gia đình và xã hội. Để công
tác giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa
ba lực lượng giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội. Trong đó nhà
trường đóng vai trò chủ đạo trong sự phối hợp giáo dục học sinh là con em
của các gia đình và là công dân của xã hội. Vì vậy ngoài việc trực tiếp giáo
dục học sinh, giáo viên còn có chức năng hướng dẫn, hỗ trợ hoạt động giáo
dục của gia đình, xã hội và thống nhất các tác động giáo dục này đối với học
sinh để tạo hiệu quả giáo dục cao nhất. Tri thức Giáo dục học giúp giáo viên
có cơ sở khoa học để giải thích, hướng dẫn và tổ chức phối hợp các hoạt
động giáo dục của gia đình và xã hội theo định hướng giáo dục của nhà trường.
- Nghiên cứu Giáo dục học giúp giáo viên rèn luyện nâng cao năng lực
sư phạm, làm cho hoạt động nghề nghiệp ngày càng tinh xảo. Thực tế hoạt
động giáo dục sẽ tạo nên nhiều kinh nghiệm quý báu để mỗi giáo viên điều
chỉnh và phát huy khả năng hoạt động nghề nghiệp của bản thân. Vì vậy có
những giáo viên tuy không được trang bị tri thức Giáo dục học nhưng họ vẫn
thành công trong nghề nghiệp bằng cách tự học hỏi, tự đúc kết kinh nghiệm
để rèn luyện tay nghề thông qua hoạt động giáo dục trong thực tiễn. Tuy
nhiên, nếu giáo viên được trang bị Giáo dục học hoặc luôn chú trọng nghiên
cứu Giáo dục học thì hoạt động nghề nghiệp của họ sẽ không diễn ra một
cách mày mò với nhiều vấp váp mà sẽ nhanh chóng thành công ở đỉnh cao
của nghệ thuật giáo dục.
b. Đối với các bậc cha mẹ
Gia đình có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân cách trẻ em. Giáo
dục gia đình thành công không chỉ mang lợi ích cho từng cá nhân con người
mà còn liên quan đến hạnh phúc gia đình và sự tiến bộ của xã hội. Trên thực
tế các bậc cha mẹ thường tiến hành giáo dục con bằng những kinh nghiệm ít
ỏi vốn có, thiếu tính hệ thống nên gặp nhiều lúng túng, khó khăn. Việc nghiên
cứu Giáo dục học giúp các bậc cha mẹ có thể thực hiện việc giáo dục con
khoa học hơn và hiệu quả hơn.
Giáo dục con cái là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống chúng ta.
Con cái chúng ta là những công dân tương lai của nước ta và thế giới. Chúng
sẽ làm nên lịch sử. Con chúng ta sẽ là những người cha và người mẹ tương
lai, chúng cũng sẽ phải nuôi dạy con cái sau này. Con chúng ta phải trở thành
những công dân tốt, cha mẹ tốt. Mặt khác, tuổi già của chúng ta phụ thuộc ở
con cái. Được giáo dục tốt chúng sẽ làm cho tuổi già của chúng ta sung
sướng, không được giáo dục tốt, chúng sẽ làm cho chúng ta đau khổ và
chính chúng ta lại là người chịu trách nhiệm về chúng trước tổ quốc. (A.C. Macarenko)
c. Đối với các cán bộ xã hội và các nhà quản lý giáo dục
Hoạt động giáo dục diễn ra không chỉ trong nhà trường mà cả ở những
đơn vị, tổ chức xã hội (nhà văn hóa, cơ quan truyền thông, trại giam. Giáo dục
học giúp cho các nhà quản lý, các cán bộ chuyên trách tại các đơn vị xã hội
tiến hành các hoạt động quản lý và giáo dục một cách chủ động, hiệu quả
đồng thời phối hợp với các hoạt động giáo dục của gia đình và nhà trường
một cách đúng đắn, tối ưu hơn. Kết luận
Tất cả những người làm công tác giáo dục đều cần phải nghiên cứu
Giáo dục học - khoa học về giáo dục con người. Đối với giáo viên, nghiên cứu
Giáo dục học càng có ý nghĩa quan trọng vì giáo viên vốn được xem là những
chuyên gia giáo dục, hơn ai hết họ phải am tường khoa học giáo dục để giáo
dục học sinh ở nhà trường và giáo dục con em của họ trong gia đình. Đây là
một kết luận rút ra từ những thành công, thất bại của hoạt động giáo dục trong thực tiễn.
III. Cấu trúc chương trình học
Chương trình học bộ môn Giáo dục học dành cho sinh viên trường Đại
học Sư phạm bao gồm 2 học phần như sau: * Học phần 1: 60 tiết
- Giáo dục học đại cương - Lý luận dạy học
- Lý luận về người giáo viên trung học phổ thông - Báo cáo thực tế * Học phần 2: 60 tiết - Lý luận giáo dục;
- Lý luận về công tác chủ nhiệm lớp - Giao tiếp sư phạm - Báo cáo thực tế
- Hội thi nghiệp vụ sư phạm
IV. Giới thiệu học phần “Giáo dục học đại cương” (dành cho sinh
viên các khoa không phải chuyên ngành Tâm lý Giáo dục).
* Mục tiêu của học phần:
Sau khi học xong học phần này, người học có khả năng:
- Nhận thức khái quát và cơ bản về hoạt động giáo dục và Giáo dục học
- Xác định vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của cá nhân và của xã hội.
- Định hướng công tác giáo dục trong thực tiễn nhà trường phổ thông
thông qua việc nhận thức mục tiêu và các con đường giáo dục.
- Tìm hiểu hệ thống lý luận giáo dục một cách thuận lợi trong quá trình
tiếp thu các học phần sau.
* Nội dung của học phần gồm 4 chương:
- Chương 1: Giáo dục học là một khoa học
- Chương 2: Giáo dục và sự phát triển nhân cách
- Chương 3: Mục đích giáo dục
- Chương 4: Các con đường giáo dục
- Chương 1: Trình bày sự nảy sinh, phát triển và tác động biện chứng
của hiện tượng giáo dục đối với quá tình phát triển xã hội. Tóm tắt lịch sử ra
đời của Giáo dục học và định hướng nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện Giáo
dục học trong giai đoạn hiện nay. Phân tích những yếu tố cơ bản giúp xác
định Giáo dục học là một khoa học: đối tượng - nhiệm vụ nghiên cứu; hệ
thống khái niệm cơ bản; phương pháp nghiên cứu...
- Chương 2: Phân tích vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân
cách trong mối liên hệ với các yếu tố ảnh hưởng khác như di truyền, môi
trường, hoạt động - giao lưu của cá nhân. Trình bày nội dung và cách thức
giáo dục tương ứng với các giai đoạn phát triển nhân cách của trẻ em.
- Chương 3: Xác định các cấp độ mục đích giáo dục và nhiệm vụ của
giáo viên tương ứng với từng cấp độ. Phân tích cơ sở xác định và nội dung
của mục đích giáo dục tổng quát trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
hiện nay. Trình bày hệ thống giáo dục quốc dân và các nhiệm vụ giáo dục tổng quát.
- Chương 4: Trình bày nội dung, cách thức thực hiện và tác động của
các con đường giáo dục cơ bản trong nhà trường phổ thông.
Chương 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
Mục tiêu: Sau bài học này người học có khả năng 1. Về kiến thức a. Mức độ Biết:
i. Phát biểu được đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học
ii. Phát biểu nội dung các khái niệm: giáo dục, tự giáo dục, giáo dục lại,
giáo dưỡng, dạy học, tự học
iii. Nêu ra được thời điểm và người xây dựng Giáo dục học thành một khoa học độc lập. b. Mức độ Hiểu:
i. Trình bày các chức năng xã hội và các tính chất của giáo dục với tư
cách là một hiện tượng xã hội.
ii. Phân tích cấu trúc của quá trình giáo dục: trình bày vai trò của từng
yếu tố và phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố.
iii. Đưa ra những căn cứ để chứng minh Giáo dục học là một khoa học. c. Mức độ Vận dụng:
i. Phân tích những xu hướng cải tiến quá tình giáo dục nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục học sinh. 2. Về thái độ
i. Trân trọng thành quả xây dựng hệ thống lý luận giáo dục thành một khoa học.
ii. Quan tâm nghiên cứu vận dụng Giáo dục học vào thực tiễn công tác giáo dục.
“Chỉ có những người biết tự giáo dục mới là những người thực sự có giáo dục. ” (Bennet - Anh) Nội dung bài học:
I. GIÁO DỤC LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT
1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội
Giáo dục là một hiện tượng làm thỏa mãn nhu cầu to lớn của xã hội là
truyền kinh nghiệm của các thế hệ trước cho thế hệ sau để duy trì và phát
triển loài người. Giáo dục nảy sinh và phát triển trong lao động sản xuất và
đời sống của con người.
* Nảy sinh: Khoa học chứng minh rằng con người có nguồn gốc từ
động vật (loài vượn). Hai nhân tố chủ yếu quyết định cho sự chuyển biến từ
vượn thành người là: lao động và có tiếng nói.
Khi loài người xuất hiện trên trái đất họ đã tiến hành lao động. Hoạt
động lao động giúp con người thích ứng và cải tạo môi trường sống để tồn
tại, qua đó họ tích lũy được các kinh nghiệm và những hiểu biết về thế giới tự
nhiên, xã hội. Cuộc đấu tranh sinh tồn đòi hỏi con người phải phân công và
truyền đạt những kinh nghiệm lao động cho nhau (săn bắt, hái lượm, chăn
nuôi, trồng trọt...), kinh nghiệm tìm kiếm các phương tiện sinh sống, kinh
nghiệm chống thú dữ... Nhờ có ngôn ngữ nên con người có thể trao đổi và
truyền thụ các kinh nghiệm, sự hiểu biết từ người này sang người khác. Sự
trao đổi và truyền thụ kinh nghiệm đó chính là hiện tượng giáo dục. Lúc ban
đầu, việc truyền thụ thường do người già, người lớn tuổi có nhiều kinh
nghiệm truyền lại cho lớp trẻ một cách trực tiếp hay gián tiếp. Khi xã hội hình
thành gia đình thì việc truyền thụ kinh nghiệm do các bậc cha mẹ đảm nhận.
* Phát triển: Xã hội ngày càng tiến lên thì sự tích lũy kinh nghiệm ngày
càng nhiều, phong phú, đa dạng về nhiều lĩnh vực: từ kinh nghiệm lao động
sản xuất, đấu tranh xã hội, kinh nghiệm về đời sống xã hội (phong tục, lễ
nghi...) đến những hiểu biết về tự nhiên, thẩm mỹ, đạo đức, triết học... Nội
dung phong phú đòi hỏi hình thức truyền thụ phải thích hợp hơn. Hình thức
truyền thụ của người già và sau đó của các bậc cha mẹ trong từng gia đình
không còn thích hợp với yêu cầu của cuộc sống nữa. Từ đó, việc giáo dục bắt
đầu được giao cho những người có kinh nghiệm truyền đạt và nhiều hiểu biết
tiến hành. Trong xã hội dần dần xuất hiện đội ngũ những nhà trí thức chuyên
tiến hành việc truyền thụ kinh nghiệm và tri thức cho người khác. Từ đó dẫn
đến sự ra đời của nghề dạy học.
Như vậy thực chất của giáo dục là truyền thụ kinh nghiệm lịch sử xã hội
cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho họ bước vững vàng vào cuộc sống xã hội.
Nét đặc trưng cơ bản của giáo dục là truyền đạt và lĩnh hội những kinh
nghiệm đã tích lũy trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Nhờ lĩnh
hội được những kinh nghiệm xã hội lịch sử mà cá thể trở thành nhân cách.
Giáo dục gắn bó với tiến trình phát triển của lịch sử - xã hội làm cho nhân
cách của con người được phát triển đầy đủ và phong phú hơn.
2. Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt
2.1. Giáo dục là chức năng không thể thiếu của xã hội loài người
Muốn được duy trì và phát triển, xã hội nhất định phải thực hiện chức
năng giáo dục để tái sản xuất những nhân cách, những nhu cầu, năng lực
của con người, tái sản xuất những sức mạnh của bản chất con người. Giáo
dục chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống, bảo đảm mối liên hệ kế tục
giữa các thế hệ. Giáo dục giúp cho thế hệ trẻ thu nhận những kinh nghiệm do
thế hệ trước đã tích lũy, nhờ vậy họ không rơi vào những sai lầm hay thất bại
của người đi trước và có thể tiếp cận trình độ văn minh của xã hội để tham
gia vào đời sống hiệu quả hơn. Giáo dục còn thúc đẩy xã hội tiến lên không
ngừng thông qua việc bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những phẩm chất cần thiết để
họ giải quyết những nhiệm vụ mới nảy sinh do sự phát triển của xã hội mà
kinh nghiệm cha anh chưa từng trải.
Ví dụ: Trước đây con người đã từng bó tay trước một số bệnh nan y
như: lao phổi, bệnh phong.... Giáo dục thúc đẩy y học phát triển để phát hiện
phương thuốc chữa trị đối với các bệnh này. Ngày nay con người lại đang đối
diện với các vấn đề mới nảy sinh như: bệnh Aisd, sự bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trường...
Nhờ có giáo dục, con người sẽ tìm được cách giải quyết cho các vấn
đề đó và làm cho xã hội ngày càng văn minh tiến bộ hơn.
2.2. Nhu cầu về giáo dục không bao giờ suy giảm mà sẽ ngày càng gia tăng
Một số hiện tượng xã hội sau khi nảy sinh, phát triển sẽ có những giai
đoạn bị suy thoái như các hiện tượng về thời trang, về phong tục tập quán, về
tôn giáo... Nhưng giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt bởi vì trình độ xã
hội càng nâng cao thì nhu cầu của xã hội và con người về giáo dục không
giảm sút mà ngày càng gia tăng theo xu thế “giáo dục là cho tất cả mọi người”
trong một “xã hội học tập” như Lênin đã từng khẳng định “giáo dục là phạm
trù phổ biến và vĩnh hằng”.
3. Các chức năng xã hội của giáo dục
Chức năng trọng yếu của giáo dục đối với xã hội là hình thành và phát
triển nhân cách con người, là chuẩn bị hành trang cho cá nhân con người với
tư cách là chủ thể tham gia có hiệu quả vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do tác động đến nhân cách con người thông qua việc đào tạo một thế hệ
công dân, một đội ngũ lao động lành nghề và đội ngũ các nhà trí thức cho xã
hội, giáo dục có khả năng tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội mà con người là chủ thể.
Là một hiện tượng xã hội nên giáo dục tác động chi phối đến các quá
trình xã hội khác thông qua ba loại chức năng xã hội của giáo dục như:
3.1. Chức năng kinh tế- sản xuất
Con người là sản phẩm của giáo dục, với tư cách là một lực lượng sản
xuất quan trọng bậc nhất xã hội. Mỗi thời kỳ lịch sử đòi hỏi phải có người lao
động thích ứng. Giáo dục tái sản xuất sức lao động cho xã hội, tạo ra sức lao
động mới có chất lượng và hiệu quả hơn để thay thế cho sức lao động cũ đã
hoàn thành nhiệm vụ lao động cống hiến cho xã hội. Giáo dục trước hết giúp
cho người lao động có được thể lực khỏe mạnh, có trí tuệ phát triển kịp với
trình độ phát triển của thời đại, được đào tạo về chuyên môn để tiến hành
hoạt động nghề nghiệp hiệu quả. Ngoài ra giáo dục còn rèn luyện những
phẩm chất đạo đức để người lao động tận tâm, tận tụy công hiến sức lực cho
sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Giáo dục có tác dụng đẩy mạnh sản xuất
xã hội, phát triển kinh tế. Ngày nay giáo dục được xem là một nhân tố quan
trọng nhất thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội một cách
nhanh chóng và bền vững. Đầu tư cho giáo dục cũng là đầu tư cho nền kinh
tế xã hội, là sự đầu tư sáng suốt nhất và đem lại nhiều lợi ích nhất.
3.2. Chức năng chính trị - xã hội
Chức năng trọng yếu của giáo dục là hình thành và phát triển nhân
cách nên giáo dục tác động đến toàn bộ cấu trúc xã hội, đến các bộ phận hợp
thành của xã hội, các tầng lớp, các nhóm xã hội và tính chất các mối quan hệ
giữa các bộ phận đó. Giáo dục không chỉ tạo nên một lớp người lao động mới
cho xã hội, một lực lượng sản xuất quan trọng bậc nhất mà giáo dục còn làm
thay đổi cả bộ mặt chính trị xã hội. Giáo dục làm thay đổi cả bề ngoài và nội
dung bên trong của các nhóm xã hội, các bộ phận dân cư, các tầng lớp xã
hội, các dân tộc trong cộng đồng. Giáo dục góp phần làm cho các tầng lớp xã
hội xích lại gần nhau bằng cách nâng cao trình độ văn hóa, tạo điều kiện
thuận lợi cho mọi người được học tập, lựa chọn nghề nghiệp và thay đổi vị trí
xã hội của cá nhân. Đặc biệt là các hoạt động giáo dục bình đẳng, giáo dục
thường xuyên, giáo dục ý thức công dân của một nước, ý thức một thành viên
của nhân loại, làm cho các tầng lớp xã hội trong một nước cũng như các dân
tộc trên thế giới xích lại gần nhau hơn để tiến đến một thế giới hòa bình.
3.3. Chức năng tư tưởng - văn hóa
Giáo dục có tác động to lớn trong việc xây dựng một hệ thống tư tưởng
cho toàn xã hội, làm cơ sở xác định hệ thống giá trị và các chuẩn mực trong cuộc sống xã hội.
Ví dụ: Ngày nay, công tác giáo dục đang xây dựng tư tưởng bình đẳng
về vai trò của giới trong xã hội, làm thay đổi nhận thức “trọng nam khinh nữ”
và hình thành những giá trị và chuẩn mực xã hội mới đối với nam giới và nữ giới.
Giáo dục còn bồi dưỡng một lối sống lành mạnh, giúp con người xây
dựng cuộc sống tích cực, và mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp. Các tác động giáo
dục truyền thống trong xã hội thường xuyên nâng cao nhận thức và nhắc nhở
mọi người thực hiện những thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày như cách
dinh dưỡng, luyện tập cơ thể để bồi dưỡng sức khỏe. Hệ thống các nhà văn
hóa xây dựng các loại hình hoạt động đa dạng phục vụ cho mọi lứa tuổi,
thành phần xã hội (thiếu nhi, thanh niên, phụ nữ, lao động...) giúp con người
có một cuộc sống phong phú khi tham gia các sinh hoạt vui chơi, giải trí, mở
rộng quan hệ giao lưu, trang bị thêm những kiến thức và kỹ năng tổ chức cuộc sống cá nhân...
Ngoài ra, giáo dục xây dựng một nền văn hóa kết tinh được tinh hoa
nhân loại đồng thời mang đậm bản sắc dân tộc bằng cách phổ cập giáo dục
phổ thông ngày càng cao cho thế hệ trẻ và các tầng lớp nhân dân.
Tóm lại giáo dục thực hiện ba chức năng của mình đó là tái sản xuất
lao động xã hội, cải biến cấu trúc xã hội và hình thành ý thức hệ tư tưởng mới
trên nền tảng văn hóa mới của thời đại nhằm tạo ra con người thời đại có khả
năng hòa nhập quốc tế và khu vực nhưng không bị hòa tan.
4. Các tính chất của giáo dục
Giáo dục và các hiện tượng xã hội khác có tác động biện chứng với
nhau. Sự chi phối của các quá trình xã hội đối với hiện tượng giáo dục gây
nên những tính chất sau đây của giáo dục:
4.1. Tính lịch sử-xã hội
Giáo dục luôn vận động và biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế xã
hội của từng giai đoạn lịch sử nhất định. Lịch sử nhân loại đã có nhiều kiểu
giáo dục khác nhau thể hiện ở sự biến đổi mục đích, nội dung, phương pháp
phương tiện và hình thức tổ chức giáo dục theo sự qui định của những điều
kiện xã hội lịch sử cụ thể. Vì vậy:
- Khó có thể có sự phù hợp tuyệt đối giữa hai nền giáo dục ở hai quốc
gia có điều kiện phát triển khác nhau.
- Ngay trong cùng một nước ở những giai đoạn lịch sử khác nhau thì
trình độ phát triển giáo dục cũng có những nét khác nhau.
- Cần đổi mới liên tục hệ thống giáo dục, đảm bảo cho giáo dục thích
ứng với chiều hướng mới của quá trình phát triển xã hội.
4.2. Tính giai cấp
Giáo dục là chức năng đặc biệt của nhà nước, do giai cấp cầm quyền
chỉ đạo nhằm củng cố địa vị của tầng lớp thống trị. Trong xã hội có giai cấp,
giáo dục mang tính giai cấp thể hiện ở việc xây dựng những hệ thống giáo
dục phù hợp với các mục đích chuẩn bị khác nhau cho con em của những giai
cấp khác nhau bước vào đời sống.
4.3. Tính phổ quát
Tính phổ quát thể hiện trong sự hiện diện của giáo dục trong tất cả các
chế độ xã hội, các giai đoạn lịch sử của nhân loại. Trong đó nổi bật là sự
chăm sóc, bồi dưỡng con người ở lứa tuổi học sinh, là truyền thụ một cách có
ý thức cho thế hệ trẻ những kinh nghiệm xã hội, những giá trị văn hóa, tính
thần của loài người và dân tộc, giúp họ bước vững vàng vào cuộc sống và
góp phần phát triển xã hội.
4.4. Tính nhân văn
Giáo dục luôn hướng con người đến những cái đẹp, cái tốt, đó là
những giá trị văn hóa, đạo đức thẩm mỹ chung nhất của nhân loại và những
nét bản sắc dân tộc, truyền thống văn hóa của từng quốc gia dân tộc đồng
thời phát huy những yếu tố tích cực trong mỗi con người để giúp họ ngày
càng hoàn thiện nhân cách.
II. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA GIÁO DỤC HỌC 1. Thời cổ đại
Giáo dục học chưa hình thành mà xã hội chỉ xuất hiện nhiều tư tưởng
giáo dục nổi tiếng vẫn được coi trọng đến ngày nay.
Cách chúng ta 2.500 năm, Heraclitus (540 - 480 TCN), nhà hiền triết Hy
lạp cổ đại đã nhận định: “Giáo dục, dạy học không phải là rót kiến thức vào
đầu người học như người ta rót chất lỏng vào chai, thông qua cái phễu. Thực
chất giáo dục là thắp lên một ngọn đuốc để soi sáng, để người học nhận ra
những con đường, tự mình chọn lấy cho mình một con đường, rồi tự bước đi
trên con đường đã chọn, dưới ánh sáng của ngọn đuốc ấy"
Như vậy, giáo dục chỉ là soi sáng. Soi sáng để người học TỰ CHỌN,
rồi TỰ BƯỚC ĐI. Người dạy không áp đặt con đường, cũng không bước đi thay cho người học.
Sau Heraclitus, Socrate (470 - 399 TCN), nhà hiền triết Hy lạp Cổ đại,
đã nêu ra phương châm nổi tiếng: “Hỡi con người, hãy tự khám phá bản thân mình!”
Để người học tự khám phá mình, ông nói: “Mục đích của giáo dục
không phải là tách con người ra khỏi đám đông, càng không phải là làm cho
con người ấy mất hút trong đám đông; mục đích của giáo dục là làm cho con
người nhận ra chính mình giữa đám đông. Đó là một quan điểm giáo dục có
tính nhân văn cao. Để khám phá được bản thân con người phải biết tự bộc lộ
bản thân. Nhằm giúp cá nhân tự bộc lộ, ông đề ra phương pháp sản ý,
thường gọi là phương pháp Socrate. Thực chất đó là phương pháp đàm thoại
gợi mở bằng hệ thống câu hỏi của nhà giáo dục mà khi trả lời những câu hỏi
đó, cá nhân sẽ bộc lộ và tự khám phá năng lực của bản thân
Nối tiếp tư tưởng của Socrate, học trò ông, nhà triết học Hy lạp Cổ đại
Platon (427 - 348 TCN) cũng đã đưa ra những quan điểm giáo dục tiến bộ.
Platon cho rằng mục tiêu số một của con người là sống phù hợp với đạo đức.
Đó là hành động theo điều thiện. Thiện là cái gì phù hợp với chân lý mà chân
lý chính là sự công bằng. Xã hội công bằng khi nó được sắp xếp theo một trật
tự hoàn hảo, trong đó mỗi người và mỗi vật được đặt đúng vị trí và làm đúng
phận sự của mình, ở đây chúng ta nhận thấy Platon đã tiếp cận và kế thừa
phương châm sống của Socrate. Bởi vì chỉ khi con người tự khám phá và biết
rõ bản thân thì họ mới có thể chọn đúng vị trí và làm đúng phận sự, nhờ vậy
trở thành một cá nhân có đạo đức.
Theo Platon, một xã hội chiếm hữu nô lệ lý tưởng có các tầng lớp như
sau: nhà triết học (những người quản lý đất nước); quân nhân (người bảo vệ
quốc gia); người làm ruộng, làm nghề thủ công và buôn bán; người nô lệ (lao
động trực tiếp trong sản xuất và kinh doanh). Platon đã khẳng định sự cần
thiết của việc giáo đục đối với con người: “Mọi công dân phải được giáo dục
như nhau, ngay từ đầu. Ngay tầng lớp nông dân và binh sĩ cũng phải học ít
nhất là 30 năm trước khi hành nghề! Còn quan lại, để cai trị dân, cần được
học thêm 15 năm nữa, vị chi 45 năm học tập, thì mới có thể cai trị người khác:
Đặc biệt là người thầy, để dạy người, anh ta phải được giáo dục đến nơi đến
chốn. Bởi "người thợ giày tồi thì khách hàng có người phải xỏ chân vào chiếc
giầy không vừa vặn chút ít! Còn người thầy giáo tồi thì... hại cả ba thế hệ" Để
đạt được mục đích trên ông cũng hình dung một hệ thống giáo dục phù hợp
với kiểu xã hội tương ứng với 4 tầng lớp đã nêu. Trong đó tầng lớp nô lệ
không hề được giáo dục!
Đó là phương Tây. Còn phương Đông nơi mang nặng truyền thống
"Tôn sư trọng đạo", thì sao?
Khổng tử (551- 479 TCN), người thầy tiêu biểu của muôn đời (vạn thế
sư biểu) và không riêng của Trung Hoa, đã hết sức coi trọng sự học và đặc
biệt coi trọng người học. Ông đã để lại những câu nói bất hủ sau hơn 50 năm
dạy học. Như là: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo!" (Ngọc
- đá quý, không mài không thành vật quý, người không học không biết đạo).
Vì vậy ông chủ trương “Hữu giáo vô loại”: Quyền được đi học là quyền tự
nhiên của mọi người, không phân biệt địa vị xã hội! Đó là một tư tưởng tiến
bộ trong xã hội bấy giờ. Bởi vì ngay cả phương Tây mà mãi đến năm 1850,
có nghĩa là đến 2300 năm sau Khổng tử, người ta mới mở cửa trường học
cho mọi tầng lớp xã hội.
Khổng tử đặc biệt nhấn mạnh tính chủ động, tích cực và độc lập ở
người học. Ông nói: “Ai không biết tức giận vì tri thức hạn hẹp của mình, ta
không gợi mở cho được. Ai không biết tự mình nỗ lực bộc bạch tâm tư, ta
không giúp cho phát biểu tư tưởng được. Vật có 4 góc, ta vén cho một góc, ai
không tự mình vén 3 góc còn lại thì... là người không thể giáo dục lại được!
(Bất phẫn, bất khải; bất phỉ, bất phát. Cử nhất ngung, bất dĩ tam ngưng phản,
tắc bất phục dã! - Luận ngữ)
Đặc biệt Khổng tử đòi hỏi người học phải tích cực suy nghĩ, suy nghĩ
độc lập, để tự phát hiện vấn đề và tự đặt câu hỏi - nêu - vấn - đề ra trước để
được người dạy giải đáp. Điểm khác biệt giữa phương pháp đàm thoại của
Khổng tử với phương pháp đàm thoại Socrate là ở chỗ: Khổng tử không đặt
câu hỏi cho học trò trước mà ngược lại, ông đòi hỏi học trò phải chủ động đặt
câu hỏi trước. Nếu ai không tự đặt câu hỏi ra trước, Khổng tử sẽ không dạy
cho người ấy (bất viết như chi hà, như chi hà giả, ngô mạt như chi hà dã dĩ hỉ
- Luận ngữ). Khổng tử, ngoài việc đòi hỏi người học phải chủ động, tích cực
hỏi, còn căn cứ vào câu hỏi để biết người hỏi đang gút mắc chỗ nào, trình độ
vốn có đến đâu, để dạy tiếp. Điều này hoàn toàn phù hợp với một ngạn ngữ
phương Tây: “Hỏi một câu chỉ dốt trong chốc lát. Nhưng nếu không hỏi sẽ dốt
suốt đời”. Chính vì vậy người xưa thường học bằng cách hỏi. Và ta có từ học
- hỏi rất hay! Đấy cũng là một cách để “Sát đối tượng” trong nguyên tắc dạy học hiện đại!
Không những đòi hỏi người học phải học một cách chủ động, tích cực
và độc lập, Khổng tử còn yêu cầu người học phải học bằng cả tâm hồn - học
một cách vui thú. Ông nói “Biết mà học, không bằng thích mà học; thích mà
học không bằng vui mà học "Lạc học - Luận ngữ). 2. Thời Trung đại
Trong thời kỳ Trung đại xuất hiện hình thái xã hội mới - xã hội phong
kiến. Nhà thờ Thiên chúa giáo trở thành công cụ tư tưởng chủ yếu của chế độ
phong kiến châu Âu. Mọi sự phát triển về văn hóa và giáo dục đều bị chi phối
bởi tư tưởng của công giáo. Nhà thờ phủ nhận hầu hết những thành tựu văn
hóa thời cổ đại, ngoại trừ ngôn ngữ La tinh. Xã hội xuất hiện các trường học
giáo hội do giáo hội mở và cấp kinh phí. Nội dung giáo dục gồm 7 môn học
đáp ứng lợi ích cho nhà thờ và xã hội phong kiến. Việc dạy học mang tính
chất nhồi nhét, áp đặt, kinh viện, giáo điều và áp dụng một kỷ luật rất khắc
nghiệt. Trong trường giáo hội, việc dạy học không chia thành học kỳ, không
có thời khóa biểu. Trong cùng một phòng học, học sinh nhiều lứa tuổi, nhiều
trình độ khác nhau cùng ngồi học chung. Khi giảng dạy thầy giáo làm việc với từng học sinh.
Từ thế kỷ X giai cấp tư sản dần dần hình thành và bắt đầu tích tụ hệ tư
tưởng và văn hóa tư sản, kéo theo nhiều quan niệm mới mẻ về thế giới và
con người, mâu thuẫn với thế giới quan giáo điều tôn giáo. Nhiều nhà tư
tưởng đặc biệt chú ý nghiên cứu sự phong phú của văn hóa cổ đại vốn bị lãng
quên trong nhiều thế kỷ. Lịch sử xã hội bắt đầu bước vào thời kỳ Phục hưng,
ở đó tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa ảnh hưởng nhiều đến thực tiễn giáo dục.
Cuộc đấu tranh của các nhà theo chủ nghĩa nhân văn đã làm giảm đi nhiều
ảnh hưởng của nhà thờ đối với trường học.
* Các tư tưởng giáo dục:
1. Francois Rabelais (1494 - 1553, người Pháp):
Rabelais là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa nhân
đạo Pháp và các tư tưởng giáo dục thời kỳ Phục hưng. Ông đã phê phán lối
học kinh viện và chủ trương giáo dục nhân đạo chủ nghĩa. Ông đả phá lối
giảng dạy cũ kỹ, bắt học sinh thuộc lòng các tín điều khô khan, khó hiểu.
Rabelais coi trọng sự phát triển nhiều mặt trong nhân cách của trẻ vì vậy nội
dung giáo dục bao gồm trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục thể chất, về trí
dục ông đòi hỏi học trò phải học nhiều kiến thức, vì vậy phải theo một thời
khóa biểu tỉ mỉ và căng thẳng từ 4 giờ sáng cho đến tối. Ông đề cao những
hiểu biết thực tế, có ích và các phương pháp dạy học tích cực, trực quan. Do
đó ông có chú ý đến lao động chân tay và có sáng kiến trong việc tổ chức các
hình thức giáo dục phong phú ngoài trường học.
2. Michel de Montaigne (1533 - 1592, người Pháp):
Ông là một nhà tư tưởng lỗi lạc và là một trong các đại biểu của chủ
nghĩa hoài nghi triết học, một sản phẩm đặc sắc của chủ nghĩa nhân đạo,
quan tâm đến thế giới xung quanh và phê phán thái độ sợ sệt, sùng phục
trước uy quyền. Ông nghi ngờ các tập tục và quan điểm của xã hội đương
thời và phủ nhận lòng tin vào đấng siêu nhiên. Ông chống đối khoa học kinh
viện và ủng hộ khoa học kinh nghiệm, nghiên cứu chính xác sự vật và đi sâu
vào bản chất của chúng. Các quan điểm giáo dục của ông hình thành chính
trên cơ sở đó. Montaigne không đồng tình với lối dạy học nhồi nhét và quan
niệm thầy giáo có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh khả năng phán đoán, xây
dựng tư tưởng riêng của mình từ những điều đã học. Về nội dung giáo dục
ông quan tâm đến giáo dục trí tuệ và giáo dục thể chất, tuy nhiên còn hời hợt
và thiếu hệ thống. Ông cũng ít chú trọng việc giáo dục đối với phụ nữ. Về
phương pháp giáo dục ông phản đối cách trừng phạt thể xác đối với học sinh,
ông đã sớm nhận thấy rằng “roi vọt không có tác dụng gì khác là làm cho tâm
hồn của trẻ hèn nhát hơn hoặc bướng bĩnh một cách ranh mãnh hơn. 3. Thời cận đại
Sau đêm dài Trung cổ, nhân loại bước vào thời kỳ Phục hưng, thời kỳ
chủ nghĩa nhân văn toả sáng.
Nền giáo dục Cận đại được manh nha từ những tư tưởng tiến bộ của
J.A.Komensky (1592 - 1670). Dù sống trọn vẹn trong lòng xã hội phong kiến,
song tư tưởng của Komensky đã vượt ra ngoài khuôn khổ Trung đại để mở
màn cho nền giáo dục Cận đại. Vì vậy J.A.Komensky được mệnh danh là ông
tổ của nền giáo đục Cận đại.
Trước hết, về đối tượng giáo dục cũng như về nội dung giáo dục,
Komensky khẳng định phải “Dạy mọi điều cho mọi người”. Tuy đơn giản
nhưng cực kỳ tiến bộ, bởi trước đó, loài người còn học từ chương, sách vở,
và không phải ai cũng có quyền đi học.
Nhưng công đầu của Komensky có lẽ là công tách Lý luận giáo dục ra
khỏi triết học để hình thành một khoa học độc lập: Khoa sư phạm học
(Didaktika). Trước Komensky khoa sư phạm chỉ là một bộ phận nằm trong triết học.
Sáng kiến thứ hai mà lịch sử giáo dục thế giới trân trọng ghi nhận ở
Komensky là sáng kiến vĩ đại, sáng kiến hình thành "lớp học" mà gắn liền với
nó là bài học, tiết học... Trước Komensky, thế giới chưa có cái gọi là "Lớp
học" mà chỉ có "trường học", ngay cả trường thầy đồ giới hạn trong 4 bức
tường nhỏ hẹp cũng không thể gọi là "lớp học", vì ở đó tập hợp nhiều học
sinh ở nhiều lứa tuổi và nhiều trình độ cách biệt xa nhau. Nhờ sáng kiến
thành lập lớp học và giảng dạy theo lớp mà giáo dục có thể tăng năng suất
đào tạo lên gấp bội lần, đáp ứng đủ nguồn nhân lực cho guồng máy kinh tế
phát triển theo hướng công nghiệp hóa.
Cuối cùng, không thể không kể đến một đóng góp đặc sắc của
Komensky khi ông kêu gọi mọi nền giáo dục phải được tổ chức và hoạt động
sao cho đúng quy luật. Mà quy luật lớn nhất là quy luật của tự nhiên. Do vậy
giáo dục đúng quy luật phải được tổ chức và hoạt động sao cho thích ứng với
thiên nhiên. Bởi lẽ con người là một bộ phận của thiên nhiên, phương thức
tồn tại, vận động của thiên nhiên cũng là phương thức tồn tại và vận động của
con người, của giáo dục loài người. Mà “thiên nhiên thì không bao giờ làm
điều gì không có ích”. Vậy giáo dục theo cái chuẩn, cái mẫu của thiên nhiên là
giáo dục mang lại lợi ích cho con người và cho loài người. Đi ngược quy luật
tự nhiên thì giáo dục sẽ tàn hại con người và loài người!
Loài chim không sinh sản về mùa đông rét mướt, hoặc về mùa hạ nóng
nực hay về mùa thu khi mọi vật đã tàn tạ, mà về mùa xuân, khi ánh mặt trời
đem lại sức sống cho muôn vật. Vậy thì việc giáo dục con người ta cũng bắt
đầu từ tuổi thanh xuân của cuộc đời, cũng như giờ học tốt nhất phải là buổi sáng của một ngày.
Muốn cho chim con nở nhanh, chim mẹ không ném trứng vào lửa mà
dùng sức ấm tự nhiên sưởi nóng những quả trứng một cách từ từ... Người
kiến trúc sư cũng vậy không vội vã xây tường ngay trên móng, đặt mái ngay
trên tường, khi móng và tường chưa khô, chưa đủ chắc chắn... Người làm
vườn cũng không đòi hỏi cái cây phải lớn lên ngay trong tháng đầu, hoặc
muốn cho cây được sưởi ấm thì anh ta cũng không đốt lửa cạnh gốc, không chất vôi sống vào...
Vậy thì thật hành hạ đối với học sinh nếu hàng ngày người ra bắt chúng
phải học bài, làm bài tám, chín giờ trên lớp và về nhà làm thêm mấy giờ
nữa... Thật là khờ khạo khi một thầy giáo không dạy theo khả năng tiếp thu
của học sinh mà lại dạy theo ý muốn chủ quan của thầy. 4. Thế kỷ XIX
Nhờ sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác, Giáo dục học phát triển, chứng
minh một cách khoa học các vấn đề có tính qui luật trong giáo dục như:
- Tính quy định của kinh tế - xã hội đối với giáo dục.
- Tính lịch sử của giáo dục trong tiến trình phát triển xã hội.
- Vai trò của giáo dục trong điều kiện xã hội có giai cấp.
III. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA GIÁO DỤC HỌC
1. Đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học
Giáo dục học là khoa học về việc đào tạo, giáo dục con người, khoa
học về sự hình thành và phát triển nhân cách con người trong quá trình nhà
giáo dục và người được giáo dục hoạt động với nhau theo một sự tổ chức đặc biệt.
Việc giáo dục con người là một quá trình có sự vận động, diễn ra trong
một thời gian, không gian nhất định, có nội dung, quy luật và động lực nhất định.
Đối tượng của Giáo dục học là quá trình đào tạo con người dưới những
tác động có mục đích của xã hôi.
Trong nhà trường quá trình đào tạo con người (còn gọi là quá trình giáo
dục theo nghĩa rộng) bao gồm toàn bộ các tác động giáo dục và dạy học
được định hướng theo mục đích xác định, được tổ chức một cách hợp lý,
khoa học nhằm hình thành và phát triển nhân cách cá nhân.
QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC (rộng) = DẠY HỌC + GIÁO DỤC Có mục đích Có tổ chức
Hình thành nhân cách toàn vẹn
Giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội được nhiều ngành khoa
học nghiên cứu: Kinh tế học, Xã hội học, Đạo đức học, Tâm lý học... Kinh tế
học nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục và sự phát triển nền kinh tế xã hội.
Xã hội học xem xét quan hệ giữa quá trình giáo dục với các quá tình xã hội
khác. Đạo đức học quan tâm đến giáo dục như là một con đường quan trọng
để rèn luyện các phẩm chất đạo đức cho con người. Tâm lý học tìm hiểu vai
trò tác động của yếu tố giáo dục tới sự phát triển tâm lý, nhân cách cá nhân...
Trong phạm vi của mình Giáo dục học nghiên cứu bản chất bên trong của quá
trình giáo dục thông qua việc tìm hiểu cấu trúc và cơ chế vận động của nó
đồng thời soi sáng các qui luật của quá trình giáo dục, nghiên cứu lý luận và
phương pháp tổ chức quá trình giáo dục.
2. Cấu trúc của quá trình giáo dục
2.1. Cấu trúc tổng thể
QTGD tổng thể = QT sư phạm = QT đào tạo
Quá trình giáo dục tổng thể là sự thống nhất của hai quá trình dạy học
và giáo dục (nghĩa hẹp) trong nhiệm vụ chung là hình thành và phát triển
nhân cách toàn diện cho con người. Bên cạnh đó mỗi quá trình lại có chức năng trội riêng như:
- Chức năng trội của quá trình dạy học là giáo dưỡng: tổ chức trau dồi
học vấn, tổ chức cho học sinh tìm hiểu, lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học,
hình thành kỹ năng, kỹ xảo nhận thức và hành động.
- Chức năng trội của quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) là xây dựng một hệ
thống niềm tin, lý tưởng, động cơ, hình thành những phẩm chất và thói quen
hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội.
- Hai quá trình này gắn bó chặt chẽ với nhau. Giáo dưỡng, trau dồi học
vấn phải đi đôi với việc trau dồi đạo đức và ngược lại việc hình thành niềm tin,
phẩm chất, thói quen hành vi phải dựa trên cơ sở giáo dưỡng, học vấn.
2.2. Cấu trúc bộ phận
Quá trình giáo dục là một quá trình vận động nên cấu trúc bộ phận gồm
có hai hệ thống: hệ thống tác nhân (gây nên sự vận động của quá trình) và hệ
thống các thành tố cơ bản.
* Hệ thống các thành tố tác nhân
Trong sơ đồ trên yếu tố chính tạo nên sự vận động của quá trình giáo
dục là sự tác động qua lại và phối hợp chặt chẽ với nhau giữa chủ thể giáo
dục (CT) và khách thể giáo dục (KT). Tác động qua lại được diễn ra trong một
môi trường sư phạm (bao gồm cơ sở vật chất của trường học, những đặc
điểm tâm lý, thể chất và trình độ của chủ thể và khách thể) và trong một môi
trường xã hội với những đặc điểm kinh tế, văn hóa và chính tri xã hội, đó là
những điều kiện ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng của quá trình giáo
dục. Sự phối hợp giữa chủ thể và khách thể giáo dục diễn ra trên các mối liên
hệ thông tin, giao tiếp, tổ chức hoạt động và quản lý - tự quản lý.
* Hệ thống các thành tố cơ bản
Trên thực tế quá trình giáo dục diễn ra rất đa dạng về nội dung, thời
gian, không gian... nhưng dù diễn ra ở bất cứ dạng nào, quá trình giáo dục
cũng được thể hiện qua những thành tố cơ bản như trên.Trong hệ thống các
thành tố cơ bản, thành tố mục đích là xuất phát điểm của quá trình giáo dục
và qui định trước kết quả của toàn bộ quá trình. Thành tố nội dung là sự cụ
thể hóa của mục đích vì vậy nội dung phải có sự tương ứng phù hợp với mục
đích đặt ra. Muc đích và nội dung qui định cách thức tổ chức hoạt động qua
việc sử dụng phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức giáo dục. Từ
đó dẫn đến kết quả giáo dục là mức độ phát triển của khách thể sau quá trình
giáo dục. Cách thức tổ chức hoạt động là thành tố trực tiếp quyết định cho
chất lượng của quá trình giáo dục.
Như vậy trong từng hệ thống các yếu tố có sự liên hệ mật thiết và chi
phối lẫn nhau. Sự biến đổi của một yếu tố sẽ dẫn đến những biến đổi của
những yếu tố khác một cách tương ứng. Ngoài ra hai hệ thống tác nhân và hệ
thống các thành tố cơ bản cũng không tách rời mà chúng luôn kết hợp thống
nhất với nhau trong một quá trình giáo dục. Nếu sự tương tác giữa chủ thể
giáo dục và khách thể giáo dục không được định hướng theo mục đích giáo
dục với nội dung giáo dục tương ứng và cũng không thông qua các phương
pháp giáo dục thì sự tương tác giữa họ không phải là một quá trình giáo dục
mà chỉ là một quá trình giao tiếp, ứng xử mà thôi. Vì vậy có thể cho rằng cấu
trúc của quá trình giáo dục bao gồm các nhân tố chủ thể, khách thể, mục
đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức và kết quả giáo
dục. Trong đó hai nhân tố trọng tâm là chủ thể và khách thể, bởi vì các nhân
tố còn lại đều thể hiện qua hai nhân tố này. Có thể hình dung cấu trúc chung
của quá trình giáo dục như sau:
2. Nhiệm vụ nghiên cứu của giáo dục học
* Nhiệm vụ cơ bản:
+ Nghiên cứu bản chất của giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục với
các bộ phận khác của xã hội.
+ Nghiên cứu các qui luật của quá trình giáo dục: qui luật phát triển giáo
dục trong mối quan hệ với nền kinh tế - xã hội, qui luật hình thành và phát triển nhân cách...
+ Nghiên cứu các nhân tố của quá trình giáo dục, từ đó xác định mục
tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức... nhằm đạt chất lượng và
hiệu quả tối ưu trong những điều kiện của một xã hội nhất định.
+ Xây dựng một hệ thống lý luận để soi sáng các hoạt động giáo dục trong thực tiễn.
Giáo dục học nghiên cứu quá trình giáo dục trong tính tổng thể, toàn
vẹn. Cũng như nghiên cứu các bộ phận, các yếu tố của nó.
* Nhiệm vụ trước mắt:
- Nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề thuộc phạm trù phương pháp
luận khoa học giáo dục, làm cho Giáo dục học phát triển có định hướng, tiếp
cận với xu thế phát triển mới ở thế kỷ 21.
- Nghiên cứu góp phần giải quyết mâu thuẫn lớn giữa việc phát triển
nhanh quy mô và gấp rút nâng cao chất lượng đào tạo trong những điều kiện hạn chế.
- Nghiên cứu phát hiện các nhân tố mới mang tính quy luật trong sự
phát triển giáo dục về mặt lý luận và thực tiễn: trong nội dung như các vấn đề
về giáo dục quốc tế, giáo dục môi trường; trong phương pháp như vấn đề tự
học, phát huy nội lực của người học.
- Nghiên cứu các vấn đề về hệ thống giáo dục quốc dân trong tiến trình
đổi mới và phát triển, những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý giáo dục...
- Nghiên cứu làm rõ vấn đề giáo dục giá trị trong điều kiện xã hội hiện đai.
Các nhiệm vụ nói trên vừa có tính định hướng cho mọi hoạt động
nghiên cứu, sáng tạo trong phạm vi Giáo dục học vừa có ý nghĩa thiết thực
đối với quá trình điều chỉnh, hoàn thiện Giáo dục học.
3. Đặc trưngg của quá trình giáo dục
a) Là một dạng vận động và phát triển liên tục của các hiện tượng, tình
huống giáo dục và dạy học, được tổ chức thực hiện theo những quy trình xác định.
b) Là một dạng vận động xã hội liên quan đến các quá trình xã hội khác
(kinh tế, chính trị, văn hóa...) được tổ chức một cách chuyên biệt (theo quy luật giáo dục)
c) Chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua hoạt động của nhà giáo dục và
người được giáo dục trong sự phối hợp chặt chẽ và tác động lẫn nhau.
4. Phương hướng và phương pháp nghiên cứu Giáo dục học
* Cơ sở phương pháp luận: Việc nghiên cứu dựa trên các quan điểm
Triết học của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tức là:
+ Phải đặt các hiện tượng giáo dục trong không gian thời gian cụ thể,
trong mối quan hệ tương tác với các hiện tương khác trong xã hội.
+ Hoạt động giáo dục luôn vận động phát triển vì vậy phải nghiên cứu
nó trong sự vận động phát triển.
* Phương hướng chung:
+ Phải lấy bản sắc nền văn hóa giáo dục dân tộc Viêt Nam trong quá
khứ, hiện tại, tương lai làm cái gốc cơ bản quan trọng nhất để nghiên cứu và
phổ biến khoa học giáo dục.
+ Phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và khách quan những kinh
nghiệm và thực tiễn giáo dục của các nước khác trên thế giới để tiếp thu
những tinh hoa của nhân loại nhằm bổ sung cho nền giáo dục của dân tôc.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể: - Quan sát - Đàm thoại - Nghiên cứu sản phẩm - Thăm dò ý kiến - Thực nghiệm - Thống kê
Việc nghiên cứu giáo dục đòi hỏi xuất phát từ thực tiễn giáo dục và
hướng vào việc phục vụ cho hoạt động giáo dục ở cơ sở. Do đó cần có sự
phối hợp nhịp nhàng, cộng tác chặt chẽ giữa nhà khoa học và các giáo viên ở cơ sở.
IV. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC HỌC 1. Giáo dục
Là một khái niệm chung và rộng của Giáo dục học được giải thích qua
hai mức độ rộng và hẹp như sau:
+ Giáo dục (nghĩa rộng):
- Giáo dục là quá trình hình thành toàn vẹn nhân cách được tổ chức
một cách có mục đích, có hệ thống thông qua hai hoạt động dạy học và giáo
dục (nghĩa hẹp) để làm phát triển các sức mạnh thể chất và tinh thần của con
người, giúp họ tham gia có hiệu quả vào đời sống xã hội.
- Giáo dục là một quá trình toàn vẹn được tổ chức một cách có kế
hoạch nhằm bồi dưỡng cho người được giáo dục những kinh nghiệm xã hội
của loài người, bao gồm các quá trình giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo
dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục lao động.
Ngoài ra chúng ta cần phân biệt: quá trình hình thành con người và quá trình giáo dục.
- Quá trình hình thành con người là quá trình phát triển con người về
các mặt: sinh học, tâm lý, xã hội. Quá trình này chịu ảnh hưởng bởi các nhân
tố bên trong như tính di truyền, bẩm sinh, vốn sống kinh nghiệm, cá nhân... và
những yếu tố bên ngoài như hoàn cảnh tự nhiên, môi trường xã hội bao gồm
các quá trình kinh tế sản xuất, chính trình xã hội, tư tưởng - văn hóa, dân số
dân cư, sinh hoạt xã hội và gồm tất cả những tác động tự phát ngẫu nhiên
cùng các tác động có mục đích, có tổ chức.
- Giáo dục chỉ là một bộ phận của quá trình xã hội hình thành con
người, là quá trình hình thành nhân cách con người một cách tự giác thông
qua những nhân tố tác động có mục đích, có tổ chức của xã hội. Việc tổ chức
đó chủ yếu do những người có kinh nghiệm, có chuyên môn đảm nhận (các
nhà giáo dục, nhà sư phạm). Nơi tổ chức quá trình giáo dục một cách có hệ
thống, có kế hoạch chặt chẽ nhất là nhà trường. + Giáo dục (nghĩa hẹp):
Giáo dục là hoạt động chuyên biệt nhằm hình thành những phẩm chất,
quan điểm, niềm tin cho con người về các phương diện đạo đức, thể chất, thẩm mỹ, lao động.
2. Xã hội hóa cá nhân
Quá trình xã hội hóa là quá trình biến đứa trẻ từ một thực thể tự nhiên
thành con người xã hội. Xã hội hóa cá nhân là quá tình các cá thể tiếp thu,
học tập nền văn hóa xã hội để thích ứng được với xã hội, thực chất của xã
hội hóa là quá trình chủ thể hóa các tri thức của xã hội - là sự tiếp nhận tri
thức, kinh nghiệm xã hội thông qua lăng kính chủ quan và sự xét đoán của
mỗi cá nhân bằng hai con đường:
- Không chính thức: quá trình cá nhân học hỏi qua bắt chước, quan sát,
trải nghiệm trong tương tác với gia đình, bạn bè,...
- Chính thức: quá trình cá nhân học hỏi tiếp thu từ những tác động giáo
dục của gia đình, nhà trường và xã hội.
Vì vậy giáo dục là con đường xã hội hóa quan trọng nhất đối với cá
nhân. Giáo dục là một quá trình xã hội hóa liên tục trong cuộc đời mỗi người
và lưu ý rằng sự học hỏi từ nhà trường có thể yếu kém hơn sự học hỏi từ
những tác động không chính thức trong gia đình và ngoài cộng đồng. 3. Tự giáo dục
Quá trình cá nhân tự giác tiến hành có hệ thống những hành động có ý
thức nhằm trau dồi tính tốt khắc phục tính xấu, điều chỉnh bản thân cho phù
hợp với yêu cầu xã hội. 4. Giáo dục lại
Hoạt động giáo dục nhằm thay đổi quan điểm, ý thức tư tưởg, nhận
thức, thái độ, hành vi sai lệch với những chuẩn mực xã hội để trở thành người
tốt, có nhân cách được xã hội chấp nhận. Điều kiện tiên quyết để nhà giáo
dục tiến hành giáo dục lại cho trẻ là lòng nhân ái và lòng tin vững chắc vào
những phẩm giá tốt đẹp còn tiềm ẩn trong mỗi con người có thể làm thức dậy được.
5. Giáo dưỡng: Được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
- Giáo dưỡng là quá trình nuôi nấng, giáo dục con người một cách cân
đối về thể chất và tinh thần.
- Giáo dưỡng là quá trình và kết quả bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo đã được hệ thống hóa thành học vấn. Con đường chủ yếu tiếp thu học
vấn, giáo dưỡng là việc dạy học trong hệ thống các trường học.
- Giáo dưỡng được hiểu như là sự giáo dục lại (các trường giáo dưỡng
dành cho trẻ em phạm pháp). 6. Dạy học
Quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh được tổ chức đặc
biệt (căn cứ vào chương trình, kế hoạch, tuân theo quy trình, qui chế chặt
chẽ) nhằm trang bị hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo qua đó hình thành thế
giới quan khoa học và những phẩm chất nhân cách cho học sinh.
Dạy về bản chất là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh,
giúp cho học sinh biết cách tự học tốt.
Học là quá trình tiếp thu kinh nghiệm, phương pháp tự học để tiến hành
hoạt động nhận thức chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm biến
đổi và nâng cao giá trị bản thân, hình thành nhân cách.
Dạy và học là hai mặt của một quá trình luôn luôn tác động qua lại và
bổ sung cho nhau, trong đó, dạy phải đóng vai trò chủ đạo, còn học đóng vai
trò tích cực, chủ động, sáng tạo. 7. Tự học
Tự học là quá trình cá nhân chủ động tiến hành hoạt động nhận thức có
hệ thống để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại và biến
lĩnh vực đó thành sở hữu của riêng mình, cốt lõi của hoạt động học là tự học.
Việc tự học có thể diễn ra ở ba mức độ:
- Tự học độc lập: cá nhân tự học không có sự hướng dẫn trực tiếp của
giáo viên và sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo dục đào tạo. Chẳng hạn, tự
học qua sách, qua hoạt động thực tiễn.
- Tự học có hướng dẫn từ xa: cá nhân tự học thông qua sự hướng dẫn
của giáo viên trên các phương tiện truyền thông hoặc bằng tài liệu hướng dẫn học tập.
- Tự học có hướng dẫn trực tiếp: cá nhân tự học ngay trong quá trình
học giáp mặt với giáo viên ở trên lớp.
Xây dựng ý nguyện tự học và trang bị kỹ năng tự học cho học sinh là
vấn đề thời sự hiện nay của công tác dạy học trước sự bùng nổ thông tin và
sự mở rộng xa lộ thông tin trên thế giới.
8. Giáo dục cộng đồng
Cộng đồng là một nhóm người với nhiều thành phần giới tính, lứa tuổi
cùng sống chung trên một địa bàn, cùng có chung một truyền thống văn hóa
và những nhu cầu nguyện vọng giống nhau.
Giáo dục cộng đồng là giáo dục trong cộng đồng và có sự tham gia của
cộng đồng trong giáo dục nhằm duy trì, củng cố và phát triển cộng đồng.
Giáo dục cộng đồng là một quá trình biến đổi các loại trường học thành
các trung tâm giáo dục và câu lạc bộ văn hóa cho mọi lứa tuổi.
* Đặc trưng của giáo dục cộng đồng:
+ Giáo dục được tổ chức và phát triển ổn định cùng với các quá trình
phát triển kinh tế xã hội nhằm mục tiêu duy trì, củng cố và phát triển cộng đồng.
+ Được tổ chức một cách hệ thống mang tính phổ biến (toàn cầu)
nhưng cũng đậm nét bản sắc dân tộc, truyền thống, tinh hoa văn hóa của
từng dân tộc, từng cộng đồng.
+ Là một hệ thống mở tạo cơ hội cho mọi tầng lớp, mọi thành viên trong
cộng đồng ngày càng gắn bó với cộng đồng, xã hội. Nguyên tắc của trường
cộng đồng là giáo dục cho mọi lứa tuổi. Mục tiêu giáo dục dựa trên lợi ích và
nhu cầu của cộng đồng, nhà trường phục vụ cộng đồng và cộng đồng phục vụ lại nhà trường.
+ Cách thức tổ chức hoạt động đa dạng phong phú, nội dung, phương
pháp giáo dục mềm dẻo, linh hoạt để phù hợp với nhiều loại đối tượng.
Phương pháp áp dụng trong nhà trường cộng đồng là phương pháp chủ điểm
theo những nội dung thiết thực gắn liền với thực tiễn và nhu cầu phát triển của cộng đồng.
* Tác dụng của giáo dục cộng đồng:
- Giáo dục cộng đồng là một tư tưởng, một cách làm mới mẻ nhằm xây
dựng mối quan hệ bền vững, gắn bó giữa giáo dục với các quá trình xã hội,
với đời sống và lợi ích của cộng đồng.
- Giáo dục cộng đồng là một cách thức tốt và có hiệu quả nhằm tạo
những điều kiện, cơ hội thực hiện sự công bằng xã hội, tạo lập nền tảng cho
sự phát triển và ổn định xã hội.
9. Công nghệ giáo dục
Công nghệ được hiểu là một quy trình chặt chẽ trong khoa học kỹ thuật,
trong quá trình sản xuất. Khi các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ phát
triển người ta áp dụng vào quá trình dạy học để giảm bớt lao động nặng nhọc
và nâng cao hiệu quả dạy học như áp dụng điều khiển học để chương trình
hóa dạy học, tạo các thiết bị kỹ thuật hiện đại cho quá trình dạy học. Sau này
người ta nghiên cứu áp dụng tư tưởng công nghệ để xây dựng quy trình dạy
học với các công đoạn, thao tác, được thiết kế tương tự như quy trình kỹ thuật và công nghệ.
Gần đây các nhà khoa học đã thống nhất: công nghệ giáo dục không
chỉ là việc sử dụng các phương tiện nghe nhìn (audi- visual media) vào mục
đích dạy học mà còn là trong các lĩnh vực như tin học, viễn thông, phương
pháp đánh giá, phân tích các hệ thống khoa học nói chung. Từ đó có thể hiểu
công nghệ giáo dục là cách thức tiếp cận hệ thống trong việc thiết kế toàn bộ
quá trình dạy học và lĩnh hội tri thức có tính đến cách sử dụng các phương
tiện kỹ thuật và nguồn nhân lực trong sự tương tác giữa chúng với nhau
nhằm tối ưu hóa quá trình dạy học và đào tạo.
Công nghệ giáo dục tạo nên những cải tiến rõ rệt trong giáo dục, gia
tăng sự gắn bó chặt chẽ trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch học tập,
thi cử và đánh giá. Như vậy công nghệ giáo dục tạo sự gắn bó chặt chẽ trong
từng thành phần của quá trình giáo dục hơn là giúp đạt tới hiệu quả cao. Tuy
nhiên con ngươi cần một sự đào tạo vững vàng về nhân văn, xã hội dựa trên
những khát vọng tự do của con người do đó không thể rút gọn quá trình giáo
dục thành một quy trình cứng nhắc. Do đó không nên quá đề cao hiệu quả
của công nghệ giáo dục. Thực tế cho thấy có thể thiết kế, tổ chức quá trình
giáo dục giống nhau nhưng việc dạy học, nhất là tự giáo dục rèn luyện nhân
cách rất đa dạng, độc đáo mà không có phương pháp, hình thức hay phương
tiện giáo dục nào dù hiện đại có thể thay thế hoạt động sáng tạo của con
người (giáo viên và học sinh).
10. Giáo dục hướng nghiệp
Hướng nghiệp là hệ thống những tác động giúp cá nhân lựa chọn các
công việc hoặc nghề phù hợp với nguyện vọng và năng lực cá nhân nhằm
đáp ứng các nhu cầu về kinh tế và lao động của xã hội.
Ở nhà trường phổ thông, giáo dục hướng nghiệp được hiểu là một bộ
phận của quá trình giáo dục nói chung đòi hỏi nhà trường phải cung cấp cho học sinh nắm được:
- Hệ thống các nghề nghiệp chủ yếu hiện có trong xã hội.
- Nội dung cơ bản và các yêu cầu đối người tham gia nghề nghiệp.
- Các thông tin cần thiết về sự phân bố, tuyển chọn, sử dụng nhân lực ở các nghề nghiệp.
Ngoài ra còn phải hướng dẫn có tính chất tư vấn để học sinh đối chiếu
với năng lực, sở trường của bản thân để định hướng đúng và lựa chọn nghề sau khi tốt nghiệp.
Giáo dục hướng nghiệp được thực hiện thông qua các hoạt động giáo
dục và dạy học, kể cả nội dung giáo dục lao động kỹ thuật trong nhà trường.
11. Kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó việc vận dụng và quản lý tri
thức đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo nên sự thịnh vượng. Tri thức được
xem là nền tảng của vốn, và sự phát triển kinh tế có được là do sự tích lũy tri thức mà nên.
Như vậy kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển trên cơ sở lấy tri thức
làm nguồn tài nguyên chủ yếu. Khoa học- công nghệ trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Các ngành công nghiệp cao trở thành ngành sản xuất quan
trọng hàng đầu trong nền kinh tế xã hội. Nhân loại đã trải qua các nền kinh tế
như: nền kinh tế sức người (nông nghiệp), nền kinh tế tài nguyên (công
nghiệp) và nền kinh tế tri thức. Ngày nay người ta phân biệt rõ ba phạm trù:
dữ liệu, thông tin và tri thức.
- Dữ liệu: những khối cơ bản trong kinh tế thông tin
- Thông tin: dữ liệu được xếp thành mẫu hình có ý nghĩa
- Tri thức: áp dụng và sử dụng một cách có ích các thông tin.
(Trích theo “Kinh tế tri thức”, Viện Quản lý kinh tế Trung ương, NXB
Thống kê Hà Nội, 2000, trang 35- 36)
V. HỆ THỐNG CÁC NGÀNH THUỘC KHOA HỌC GIÁO DỤC - MỐI
QUAN HỆ GIỮA GIÁO DỤC HỌC VÀ CÁC KHOA HỌC KHÁC
1. Hệ thống các ngành thuộc khoa học giáo dục
Khoa học giáo dục là một hệ thống các bộ môn khoa học có đối tượng
nghiên cứu chung là quá trình giáo dục, có nhiệm vụ vạch ra bản chất và cấu
trúc của quá trình giáo dục, vạch ra các mối liên hệ và quan hệ có tính qui luật
chi phối sự vận động của quá trình giáo dục, từ đó xây dựng cơ sở khoa học
để tổ chức và điều khiển quá trình giáo dục một cách tối ưu.
Hệ thống các ngành thuộc khoa học giáo dục hình thành do tác động
của ba nhân tố khách quan sau:
- Những đòi hỏi mới của đời sống xã hội và thực tiễn giáo dục.
- Logic phát triển của khoa học giáo dục (sự phát hiện những khía cạnh mới cần nghiên cứu).
- Tác động qua lại giữa khoa học giáo dục và các khoa học khác.
Khoa học giáo dục là một lĩnh vực lý luận tương đối độc lập đang trong
quá trình vừa tự phân hóa thành những bộ môn khoa học giáo dục riêng biệt,
vừa hội nhập với các bộ môn khoa học khác để tạo thành hệ thống phát triển
các bộ môn khoa học giáo dục. Các bộ môn khoa học giáo dục được chia
thành 6 nhóm theo các tiêu chuẩn phân loại khác nhau:
- Nghiên cứu ở thể hoàn chỉnh về mặt cấu trúc, vận hành và phát triển
cũng như về không gian và thời gian, có nhóm các bộ môn khoa học giáo dục:
+ Cơ sở lý luận và phương pháp luận của Giáo dục học + Lý luận giáo dục + Lý luận dạy học
+ Lý luận tổ chức và quản lý giáo dục và nhà trường + Giáo dục học so sánh + Lịch sử giáo dục.
- Nghiên cứu thông qua việc chiếm lĩnh các lĩnh vực văn hóa khác nhau
và việc tham gia các loại hình hoạt động khác nhau:
+ Giáo học pháp bộ môn (lý luận dạy học bộ môn): khoa học về các quy
luật giảng dạy và nghiên cứu từng môn học cụ thể
+ Phương pháp tổ chức và hướng dẫn các hoạt động (trò chơi, thể
thao, nghiên cứu khoa học, lao động kỹ thuật...)
- Nghiên cứu trong mối liên hệ và tác động qua lại giữa giáo dục với các
quá trình khác như quá trình phát triển tâm sinh lý con người, quá trình phát
triển kinh tế - xã hội: + Tâm lý học giáo dục + Kinh tế học giáo dục + Xã hội học giáo dục + Vệ sinh trường học
+ Lý luận về cơ sở vật chất - kỹ thuật trường học
- Nghiên cứu quá trình giáo dục ở những lứa tuổi khác nhau, các thiết
chế và bậc học khác nhau: + Giáo dục học mầm non
+ Giáo dục học phổ thông
+ Giáo dục học chuyên nghiệp
+ Giáo dục học đại học
+ Giáo dục học người lớn
- Nghiên cứu trong các môi trường, phạm vi khác nhau:
+ Giáo dục học gia đình
+ Giáo dục học nhà trường
+ Giáo dục học chuyên ngành: Giáo dục học y học, Giáo dục học quân
sự, Giáo dục học thể dục - thể thao, Giáo dục học sản xuất, Giáo dục học cải tạo....
- Nghiên cứu quá trình giáo dục đối với trẻ khuyết tật:
+ Giáo dục học chuyên biệt: chuyên nghiên cứu đặc điểm dạy học, giáo
dục và chuẩn bị lao động cho trẻ em khuyết tật. Hiện nay Giáo dục học
chuyên biệt đang nghiên cứu và tổ chức hoạt động giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật.
2. Mối quan hệ giữa Giáo dục học và các khoa học khác
Giáo dục học nghiên cứu giáo dục như một hiện tượng xã hội nên nó
liên quan đến mọi khoa học về xã hội.
+ Triết học Mác Lênin: Khoa học về các quy luật phổ biến nhất của sự
phát triển tự nhiên, xã hội và tư duy con người, là nền tảng khoa học cung
cấp các quan điểm phương pháp luận cho việc xây dựng Giáo dục học.
+ Xã hội học: nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường xã hội tới con
người và tới quan hệ giữa mọi người, nghiên cứu các đặc điểm của sự phát
triển kinh tế, văn hóa và ảnh hưởng của chúng tới sự hình thành và phát triển
nhân cách con người; nó giúp Giáo dục học giải quyết nhiều nhiệm vụ xây
dựng nhà trường, cũng như tác động qua lại giữa nhà trường, gia đình và xã
hội trong việc giáo dục trẻ em. + Kinh tế học:
Đối tượng dạy học và giáo dục là con người, bởi vậy giáo dục học liên
quan chặt chẽ đến những khoa học nghiên cứu con người như sinh lý học và tâm lý học.
+ Sinh lý học: được coi là nền tảng khoa học tự nhiên của cả Tâm lý học và Giáo dục học.
Giáo dục học dựa trên tài liệu của sinh lý học về sự phát triển của hoạt
động thần kinh cao cấp và các đặc điểm loại hình của hệ thần kinh, của hệ
thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai, về sự phát triển và vận hành của các giác
quan, các cơ quan nội tạng.
Hiểu biết cơ sở sinh lý học của các hiện tượng tâm lý sẽ giúp các nhà
giáo hình dung rõ hơn một số cơ chế dạy học và giáo dục để nâng cao hiệu quả tác động.
+ Tâm lý học: trang bị cho Giáo dục học tri thức về nhiều điều kiện và
cơ chế diễn biến của quá trình hình thành nhân cách con người. Chẳng hạn
Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm có vai trò rất quan trọng đối với việc nghiên
cứu và ứng dụng Giáo dục học vì trang bị cơ sở để ứng dụng hợp lý các
phương pháp dạy học và giáo dục, còn Tâm lý học xã hội lại cần thiết cho
việc nghiên cứu các vấn đề giáo dục đạo đức, nhân cách...
Như vậy Giáo dục học tuy có đối tượng và lĩnh vực nghiên cứu riêng
nhưng vẫn liên quan chặt chẽ với nhiều khoa học khác cùng nghiên cứu về
con người. Sự liên quan thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng: cùng nghiên
cứu những vấn đề chung; Giáo dục học sử dụng những tài liệu, sự kiện của
các khoa học khác, sử dụng những thuật ngữ và luận điểm; vận dụng phương
pháp của các khoa học khác trong các công trình nghiên cứu giáo dục.
VI. ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC HỌC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Nghiên cứu hoàn thiện các vấn đề thuộc phạm trù phương pháp luận
khoa học giáo dục, đảm bảo tiếp cận với xu thế phát triển mới mẻ, đa dạng
của giáo dục và Giáo dục học: kế thừa những tư tưởng giáo dục tiến bộ, hội
nhập với xu thế phát triển giáo dục của thế giới, mở rộng và nâng cao tầm
bao quát của tư tưởng giáo dục, mở rộng hệ thống khái niệm giáo dục (đề
cao tính nhân văn, tính quốc tế...)
2. Xác định đối tượng nghiên cứu của khoa học giáo dục nói
chung và của Giáo dục học nói riêng.
Trước đây đối tượng nghiên cứu khoa học giáo dục là quá trình vận
động và phát triển giáo dục trong các nhà trường công lập. Ngày nay cần bổ
sung nghiên cứu quá trình giáo dục trong các loại hình nhà trường khác như
bán công, dân lập, nội trú, bán trú... và các loại hình giáo dục từ xa, giáo dục
thường xuyên, giáo dục tình thương...
3. Nghiên cứu hoàn thiện nội dung của Giáo dục học
- Nhiều phạm trù lý luận vốn có trở nên quá đơn giản không đáp ứng
với thực tiễn phức tạp hiện nay, không bao hàm đầy đủ các nội dung khoa
học mới, thành tựu lý luận mới của Giáo dục học như: mục đích giáo dục,
giáo dục gia đình, giáo dục trẻ chưa ngoan, công nghệ giáo dục, hệ thống giáo dục quốc dân.
- Nhiều vấn đề lý luận trong Giáo dục học đại cương cũng như trọng
Giáo dục học chuyên ngành cần được nghiên cứu tiếp tục.
4. Nghiên cứu vận dụng các phương tiện kỹ thuật mới trong dạy
học, bổ sung và hoàn thiện các phương pháp nghiên cứu Giáo dục học
Cần lưu ý áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, sử dụng những
phương tiện kỹ thuật mới, phương pháp nghiên cứu mới để nâng cao chất
lượng các công trình khoa học đồng thời đào tạo các nhà khoa học trẻ tiếp
cận với các phương pháp nghiên cứu hiện đại trên thế giới.
5. Nghiên cứu một số vấn đề nổi bật về lý luận và thực tiễn nhằm
hoàn thiện không ngừng hệ thống giáo dục quốc dân
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò, vị trí, tác dụng của giáo dục trong
giai đoạn mới. Xác định mối tương quan biện chứng giữa giáo dục với sự
phát triển kinh tế xã hội.
- Phương thức tổ chức giáo dục: từ nhà trường sang toàn xã hội, mối
liên quan giữa giáo dục phổ cập, trình độ dân trí và văn hóa...
- Vấn đề giáo dục nhân cách con người – mối liên quan giữa các chuẩn
mực, giá trị đang hình thành trong xã hội với những khuôn mẫu mà nhà
trường đang giáo dục học sinh.
- Việc kết hợp giữa giáo dục văn hóa với giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề.
Các định hướng ảnh hưởng lớn đến việc điều chỉnh, xây dựng lại cấu
trúc của hệ thống giáo dục quốc dân để bảo đảm hiệu quả giáo dục, làm cho
giáo dục thực sự gắn với quá trình kinh tế - xã hội năng động hiện nay.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Hiện tượng giáo dục xuất hiện từ khi nàơ? Vì sao nói giáo dục là hiện
tượng xã hội đặc biệt?
2. Giáo dục có những chức năng xã hội và tính chất gì?
3. Giáo dục học ra đời từ khi nào, được đánh dấu bằng sự kiện gì? Ai là
người có công tách Giáo dục học thành một khoa học độc lập?
4. Vì sao Giáo dục học được xem là một khoa học?
5. Đối tượng - nhiệm vụ nghiên cứu của Giáo dục học là gì?
6. Cấu trúc của quá trình giáo dục gồm có những hệ thống nào? (phân tích từng hệ thống)
7. Giáo dục học có những khái niệm cơ bản nào? Mỗi khái niệm có
những cách hiểu khác nhau như thế nào?
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Cấu trúc hệ thống các thành tố cơ bản của quá trình giáo dục đòi hỏi
việc cải tiến hoạt động giáo dục phải được bắt đầu từ yếu tố nào? Vì sao?
2. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục chỉ tập trung vào việc cải
tiến phương pháp giáo dục là đúng hay sai?
3. Phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố: Giáo dục và Tự giáo dục; Dạy
học và Tự học dựa trên nội hàm của các khái niệm đó.
Chương 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
Sau bài học này, người học có khả năng: 1. Về kiến thức: a. Mức độ Biết:
- Trình bày các khái niệm: Nhân cách, sự phát triển nhân cách theo nghĩa GDH
- Nêu đầy đủ những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách. b. Mức độ Hiểu:
- Phân tích vai trò của từng yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách. c. Mức độ Vận dụng:
- Nhận định về vai trò chủ đạo của giáo dục trong thực tiễn giáo dục Việt Nam hiện nay. 2. Về kỹ năng
- Đánh giá mức độ sự phù hợp hay sai lầm trong các quan niệm dân
gian về giáo dục và trong thực tế. 3. Về thái độ
- Từ bỏ, phê phán và điều chỉnh những nhận thức không đúng đắn về
các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên ” (Hồ Chí Minh) Nội dung bài học:
I. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CON NGƯỜI
1. Khái niệm con người và bản chất con người
* Một số quan niệm về con người:
- Con người thần bí: Quan niệm này có tính chất duy tâm khi cho rằng
trong con người có hai phần cơ thể và linh hồn. Phần cơ thể to lớn được nhìn
thấy rõ, còn phần linh hồn nhỏ bé, bí ẩn không hiển hiện ra ngoài nhưng có
khả năng điều khiển cái cơ thể to lớn của con người.
- Con người bản năng, sinh vật: Từ lập luận cho rằng con người khi
mới sinh ra đã phải dựa vào bản năng để tồn tại và sau đó tiếp tục cuộc sống
với những đòi hỏi của nhu cầu cơ thể nên quan niệm này cho rằng con người
như một sinh vật, hoàn toàn bị chi phối và lệ thuộc vào bản năng. Nhận định
này đã hạ thấp giá trị con người nhằm biện minh cho những lối sống thấp
hèn, thiếu lành mạnh ở con người kém ý chí vượt lên trên những cám dỗ vật
chất tầm thường trong cuộc sống.
- Con người vô cảm: Sự phát triển xã hội đôi khi làm cho con người
phải chạy theo nhịp độ căng thẳng của cuộc sống làm khô cằn, chai sạn cảm
xúc của họ. Từ đó xuất hiện kiểu người như “cái máy biết suy nghĩ” với lối tư
duy cứng nhắc và thái độ lạnh lùng, không đồng cảm được với tâm trạng của
người khác. Con người họ có nhân cách phiến diện, nhận thức và hành động
kém hiệu quả do tính nông cạn và lệch lạc. Tuy nhiên kiểu người này không
phổ biến trong toàn xã hội.
- Quan điểm khoa học cho rằng con người vừa là một thực thể tự nhiên
(con) vừa là một thực thể xã hội (người) trong đó phần xã hội quan trọng hơn.
Nhấn mạnh tính xã hội trong con người không có nghĩa là phủ nhận phần thể
xác hoặc những nhu cầu tự nhiên của con người nhưng cần lưu ý rằng, bản
năng tự nhiên của con người không hoàn toàn điều khiển được hành vi của
họ vì cái bản năng ấy đã được xã hội hóa và con người thường thỏa mãn nhu
cầu tự nhiên của mình một cách có ý thức.
* Quan niệm về bản chất con người:
- Từ xa xưa Mạnh Tử cho rằng “Nhân chi sơ tính bổn thiện”, từ đó giáo
dục phải bảo vệ, gìn giữ và phát triển cái thiện vốn có.
- Quan niệm tôn giáo: Bản chất con người vừa thiện vừa ác. Tôn giáo
giúp cho mỗi người vừa khắc phục, kềm chế cái ác vừa phát huy, thể hiện cái
thiện hoặc lấy cái thiện để lấn át cái ác trong con người mình. “Lấy hoa thơm lấn dần cỏ dại”.
- Quan điểm tiền định: Bản chất con người là có sẵn và do trời định
“Cha mẹ sinh con trời sinh tính”, do đó bản chất của con người không thể thay đổi được.
- Quan điểm định mệnh hoàn cảnh: Bản chất con người hoàn toàn do
hoàn cảnh sống tạo nên “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài“.
- Quan điểm giáo dục vạn năng: Bản chất con người hoàn toàn được
quyết định bởi sự giáo dục như sự khẳng định của Watson, nhà XHH Mỹ:
“Hãy giao cho tôi những đứa trẻ khỏe mạnh bình thường và cho phép tôi nuôi
nấng dạy dỗ chúng theo cách riêng của mình thì bạn muốn chúng trở thành kĩ
sư, bác sĩ, tổng thống hay là gì đi nữa, tôi cũng có thể làm cho chúng trở
thành như vậy được”.
Các quan điểm trên đây đều có tính phiến diện hoặc sai lầm khi cho
rằng bản chất con người là có sẵn, là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh, của
giáo dục và không thay đổi được. Dân gian thường nói: “Dò sông dò biển dễ
dò, có ai lấy thước mà đo lòng người”, với ý cho rằng bản chất của con người
không thể nhận biết được. Nhưng kinh nghiệm khác của dân gian cũng cho
rằng “Cây kim trong bọc lâu ngày cũng lồi ra” hoặc “Giấy không bọc nổi lửa”, ý
nói rằng bản chất của con người không mãi mãi bị che dấu, mà bản chất thật
của con người nhất định sẽ thể hiện ra (trong quá trình con người sống, hoạt
động và giao lưu trong các mối quan hệ xã hội). Vì vậy cần xác định đúng đắn
bản chất con người theo quan điểm của Marx: “…Bản chất con người không
phải là cái gì trừu tượng, vốn có và riêng lẻ của mỗi cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã
hội”. Con người thường tồn tại trong nhiều mối quan hệ xã hội. Bằng hoạt
động con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, chịu tác động của
chúng và tác động trở lại làm thay đổi, củng cố hay phát triển các mối quan hệ
xã hội đó. Bản chất con người luôn được bộc lộ trong chính cuộc sống và
hoạt động giao lưu đa dạng của cá nhân.
* Các tầng bậc phát triển của phạm trù người:
Con người khi đại diện loài thì đó là cá thể; khi là thành viên xã hội thì
đó là cá nhân; khi là chủ thể hoạt động thì đó là nhân cách.
2. Khái niệm “nhân cách”
Theo Tâm lý học: Nhân cách là tổ hợp các thái độ, thuộc tính riêng
trong quan hệ hành động của từng người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật
do con người sáng tạo ra, với xã hội và với bản thân. (Phạm Minh Hạc - Một
số vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục - 1986)
Nhân cách là bộ mặt tâm lý - đạo đức của mỗi người - đó là toàn bộ
những đặc điểm, phẩm chất tâm lý qui định giá trị xã hội và hành vi xã hội của người đó.
Như vậy, nhân cách của con người được phân tích trên ba bình diện
khác nhau và được đánh giá ở ba mức độ khác nhau:
- Mức độ bên trong cá nhân: nhân cách con người được thể hiện ở
dạng cá tính, ở sự khác biệt của người này với những người khác. Ở bình
diện này, nhân cách bộc lộ trong tính không đồng nhất với mọi người, với cái
chung, giá trị của nhân cách là ở tính tính cực của nó trong việc khắc phục
những sự hạn chế của hoàn cảnh và sự hạn chế tự nhiên của mình.
- Mức độ giữa các cá nhân: nhân cách được thể hiện trong mối quan
hệ và liên hệ mà nó tham gia trong quá trình hoạt động cộng đồng. Giá trị của
nhân cách được thể hiện trong các hành vi, cử chỉ xã hội của nó.
- Mức độ cao nhất, nhân cách dường như vượt ra ngoài khuôn khổ của
cá tính và ra ngoài khuôn khổ của những mối liên hệ và quan hệ thực sự với
các cá nhân khác, ở đây nhân cách được xem xét như là một chủ thể hoạt
động đang thực hiện một cách tích cực, có chủ định hay không chủ định,
những biến đổi trong những người khác (có liên quan, quen biết hoặc không
liên quan, không quen biết). Giá trị của nhân cách là ở những tác động mà
nhân cách này gây ra đối với những biến đổi của các nhân cách khác. Tất cả
những biến đổi cơ bản mà cá nhân tạo ra được ở những cá nhân khác, đặc
biệt là ở bản thân mình như là “một người khác”, đã tạo thành nét đặc trưng
đầy đủ và có giá trị nhất của cá nhân ấy như là một nhân cách.
- Như vậy nhân cách con người là mức độ phù hợp giữa thang giá trị và
thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của xã hội,
độ phù hợp càng cao thì nhân cách càng lớn.
+ Theo Giáo dục học: Nhân cách bao gồm tất cả các nét, các mặt, các
phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong một con người.
Nhân cách là toàn bộ các đặc điểm tâm sinh lý của cá nhân được xã
hội đánh giá tạo nên giá trị của cá nhân đó. Tùy theo trình độ phát triển của xã
hội mà các đặc điểm của cá nhân được nhìn nhận và đánh giá khác nhau.
Những đặc điểm của cá nhân cũng được đánh giá khác nhau tương ứng với
những vai trò khác nhau của họ.
Ví dụ: Đặc điểm ít nói của một người có khi được đánh giá là kín đáo
khi có thái độ trầm lặng ở chốn vui chơi đông người nhưng có thể bị phê bình
là ít cởi mở khi làm việc với đồng nghiệp.
+ Quan niệm truyền thống: Nhân cách là sự kết hợp thống nhất giữa
phẩm chất và năng lực của cá nhân bao gồm các phẩm chất chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tác phong và các năng lực, sở trường, năng khiếu. Người có
nhân cách phải là người thống nhất được hai mặt phẩm chất và năng lực, tức
là thống nhất giữa mặt đức và tài. Cấu trúc nhân cách Đức (phẩm chất) Tài (năng lực)
- Phẩm chất hướng về xã hội (đạo - Năng xã hội hóa: khả năng thích
đức - chính trị) thế giới quan, niềm tin, ứng, năng lực sáng tạo, cơ động,
lý tưởng, lập trường, thái độ chính trị, mềm dẻo, linh hoạt trong toàn bộ thái độ lao động... cuộc sống xã hội.
- Phẩm chất hướng về cá nhân (đạo - Năng lực chủ thể hóa: khả năng
đức tư cách): cái nết, cái thói, cái thú biểu hiện tính độc đáo, đặc sắc, biểu (ham muốn)
hiện bản lĩnh của cá nhân.
- Phẩm chất ý chí: tính kỷ luật, tính tự - Năng lực hành động: khả năng hành
chủ, tính mục đích, tính quả quyết, động có mục đích, có điều khiển, chủ tính phê phán,... động, tích cực.
- Cung cách ứng xử: tác phong, lễ - Năng lực giao tiếp: khả năng thiết tiết, tính khí...
lập, duy trì quan hệ với người khác.
+ Theo cách tiếp cận giá trị thì cốt lõi của nhân cách là hệ thống định
hướng giá trị mà mỗi cá nhân lựa chọn cho mình, bao gồm:
- Các giá trị tư tưởng: lý tưởng, niềm tin...
- Các giá trị đạo đức: lương tâm, trách nhiệm, lòng nhân ái, lòng trung thực...
- Các giá trị nhân văn: học vấn, nghề nghiệp, tình yêu, thời trang, tài năng...
Như chúng ta biết giá trị là tất cả những cái gì có ý nghĩa đối với xã hội,
tập thể và cá nhân, phản ánh những mối quan hệ chủ thể - khách thể, được
đánh giá xuất phát từ những điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể và phụ thuộc vào
trình độ phát triển của nhân cách. Khi đã được nhận thức, đánh giá và chọn
lựa, giá trị trở thành một trong những năng lực thúc đẩy con người đi theo
một xu hướng nhất định. Trong thực tế, định hướng giá trị phản ánh nhu cầu,
nguyện vọng của con người, phản ánh cái mà họ yêu thích và cho là quý giá.
Định hướng giá trị chỉ đạo hoạt động của con người, nó có ý nghĩa rất quan
trọng: biết được định hướng giá trị của con người thì biết được thái độ, hành
vi của họ. Nắm được định hướng giá trị, con người sẽ dễ dàng hơn trong việc
đối nhân xử thế và tổ chức, điều khiển hoạt động cộng đồng. Định hướng giá
trị được hình thành và củng cố bởi năng lực, nhận thức, kinh nghiệm sống
của từng cá nhân. Quá trình định hướng giá trị rất phức tạp, gắn liền với việc
giải quyết các mâu thuẫn như:
* Mâu thuẫn giữa các động cơ khác nhau:
VD: Phụ nữ thường bị giằng co giữa hai động cơ xây dựng gia đình
hạnh phúc và phấn đấu thành đạt trong sự nghiệp khi định hướng giá trị vào
các chuẩn mực về phẩm chất của người phụ nữ hiện nay: dịu dàng, đảm
đang, năng động, bản lĩnh...
* Mâu thuẫn giữa ý thức nghĩa vụ và lòng ham muốn:
VD: trong quá trình định hướng vào giá trị đạo đức như tinh thần trách
nhiệm, một sinh viên gia sư có thể bị mâu thuẫn giữa ý thức nghĩa vụ (phải đi
dạy kèm tối nay) với lòng ham muốn (nghỉ dạy để dự sinh nhật của người yêu)
* Mâu thuẫn giữa kích thích thực dụng với hành vi đạo đức:
VD: khi giá trị đạo đức là lòng trung thực chưa được định hướng rõ
ràng thì lúc làm bài thi mà bị tắt ý một sinh viên có thể bị giằng co giữa kích
thích thực dụng (giám thị không chú ý nên có thể nhìn và chép bài làm của thí
sinh ngồi gần đó) với hành vi đạo đức (không nhìn và chép lén bài làm của người khác).
3. Khái niệm “sự phát triển nhân cách”
Con người khi mới sinh ra chưa có nhân cách. Nhân cách chỉ hình
thành và phát triển trong quá trình con người sống, hoạt động và giao lưu
trong đời sống xã hội.
Sự phát triển nhân cách là quá trình tăng trưởng, tích lũy, hoàn thiện về
thể chất, tâm lý và xã hội của cá nhân.
- Thể chất: biểu hiện ở những biến đổi về chiều cao, trọng lượng, cơ
bắp, sự hoàn thiện các giác quan và sự phối hợp vận động cơ thể...
- Tâm lý: thể hiện ở những biến đổi của các quá trình nhận thức, tình
cảm, ý chí... và ở sự hình thành những thuộc tính tâm lý mới của cá nhân.
- Xã hội: thể hiện ở những biến đổi trong thái độ cư xử với người xung
quanh, ở sự tham gia tích cực vào các quan hệ và hoạt động của xã hội.
Lưu ý rằng nhân cách con người không phát triển đồng đều trên ba
phương diện mà có thể có sự phát triển vượt trội của một phương diện so với
các phương diện khác. Đặc biệt là sự phát triển nhân cách không chỉ biểu
hiện ở những biến đổi về số lượng các thuộc tính bẩm sinh di truyền sẵn có
mà điều quan trọng là sự biến đổi về chất lượng các đặc điểm cơ thể và tinh thần của con người.
Quá trình hình thành và phát triển nhân cách chịu tác động của nhiều
yếu tố như: các đặc điểm sinh học di truyền của cơ thể, môi trường sống,
hoạt động giao lưu của cá nhân và sự giáo dục. Mỗi yếu tố có những vai trò
ảnh hưởng khác nhau nhưng đều rất quan trọng đối với sự phát triển nhân cách.
Để có thể chủ động tạo nên những ảnh hưởng tích cực đến sự phát
triển nhân cách cá nhân, chúng ta cần xác định rõ vai trò ảnh hưởng của từng yếu tố.
II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
I. Vai trò của di truyền đối với sự phát triển nhân cách
a. Khái niệm về di truyền:
Di truyền là sự tái tạo lại ở thế hệ sau những thuộc tính cơ thể như của
thế hệ trước nhằm bảo đảm cho cơ thể thích ứng với những biến đổi của môi
trường và giúp cho loài người tiếp tục tồn tại. Các thuộc tính cơ thể được di
truyền bao gồm cấu tạo giải phẫu sinh lý và những đặc điểm cơ thể như màu
mắt, màu tóc, vóc dáng, thể tạng, các giác quan, tư chất của hệ thần kinh...
b. Vai trò của di truyền:
- Di truyền tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân cách. Một cơ thể
lành mạnh, các giác quan đầy đủ, hệ thần kinh ổn định sẽ tạo nhiều thuận lợi
cho sự phát triển nhân cách.
- Các đặc tính cơ thể ảnh hưởng chủ yếu đến tốc độ, mức độ và tính
chất của việc hình thành các kỹ năng, kỹ xảo, các phẩm chất, năng lực của cá
nhân chứ không quyết định sẵn cho sự phát triển nhân cách con người bởi vì:
những tư chất di truyền định hướng cho con người vào các lĩnh vực hoạt
động rộng rãi chứ không vào một lĩnh vực hoạt động cụ thể và cũng không qui
định trước năng lực cụ thể của cá nhân; những tư chất di truyền tạo khả năng
cho con người hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định, nhưng
để tư chất biến thành khả năng hiện thực còn tùy thuộc vào hoàn cảnh sống,
vào sự giáo dục và nhất là tùy thuộc vào ý chí rèn luyện của cá nhân.
Hoàn cảnh, giáo dục, hoạt động cá nhân... Tư chất -> Năng lực
c. Kết luận:
Cần chú ý đúng mức vai trò của di truyền trong sự phát triển nhân cách
để tránh những thái độ sau đây:
- Không quan tâm đến những đặc điểm tư chất của học sinh và đòi hỏi
mọi học sinh phải có khả năng hoàn thành những nhiệm vụ học tập như nhau
hoặc không chú ý phát huy những tư chất thuận lợi ở một số học sinh và
không tìm cách hỗ trợ cho những học sinh không có tư chất thuận lợi.
- Đề cao ảnh hưởng của yếu tố di truyền đến mức cho nhân cách là
bẩm sinh và phủ nhận khả năng biến đổi bản chất con người
- Hạ thấp vai trò của giáo dục qua việc tổ chức giáo dục theo mức độ
phát triển đã bị qui định bởi yếu tố di truyền.
2. Vai trò của môi trường đối với sự phát triển nhân cách
a. Khái niệm “môi trường”
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự
nhiên và xã hội tác động đến hoạt động sống và phát triển của cá nhân.
Môi trường gồm hai dạng: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Trong môi trường xã hội gồm có: môi trường xã hội lớn và môi trường xã hội nhỏ.
b. Vai trò của môi trường:
* Vai trò của môi trường tự nhiên:
Những đặc điểm về địa hình, thời tiết, khí hậu tạo điều kiện rèn luyện
hình thành những phẩm chất nhân cách của cá nhân. Thông thường tính
cách của con người liên quan đến đặc điểm địa lý của khu vực sinh sống. Tuy
nhiên môi trường không ảnh hưởng tuyệt đối hay có ý nghĩa quyết định đối
với sự phát triển nhân cách. Trên thực tế vẫn có sự khác biệt nhân cách giữa
những người cùng sống trong một điều kiện tự nhiên. Môi trường tự nhiên
ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách nhưng không mạnh mẽ và quan trọng
bằng sự ảnh hưởng của môi trường xã hội. Hơn nữa môi trường tự nhiên
thực ra cũng đã bị tác động bởi con người - yếu tố xã hội.
* Vai trò của môi trường xã hội:
Sư hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện trong một
môi trường xã hội. Cá nhân không sống trong môi trường xã hội sẽ không
phát triển nhân cách. Điều đó được chứng minh qua những trường hợp có
em bị lưu lạc trong rừng tuy được thú vật nuôi dưỡng nhưng chỉ có thể sống
theo kiểu động vật chứ không thể phát triển nhân cách cho dù sau đó đã
được con người đưa về nuôi dạy trong môi trường xã hội.
Môi trường xã hội qui định nội dung và chiều hướng của sự phát triển
nhân cách. Nội dung nhân cách con người đô thị có những đặc điểm khác
biệt và thường là phức tạp hơn so với nhân cách con người thôn quê do cuộc
sống đô thị phong phú và đa dạng hơn ở vùng thôn quê. Chiều hướng phát
triển nhân cách của người thành thị cũng rất khác với chiều hướng phát triển
nhân cách người thôn quê bởi những điều kiện phát triển khác nhau giữa hai khu vực.
* Cơ chế tác động của môi trường xã hội đến cá nhân
+ Môi trường xã hội lớn: không tác động trực tiếp đến cá nhân mà tác
động gián tiếp thông qua môi trường xã hội nhỏ. Môi trường xã hội lớn
thường là khó thay đổi nhưng nếu nó thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi tính
chất và các mối quan hệ của môi trường xã hội nhỏ.
+ Môi trường xã hội nhỏ: ảnh hưởng trực tiếp và tác động thường
xuyên, mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Mỗi cá nhân
tham gia cùng lúc vào nhiều môi trường nhỏ. Tính chất của các môi trường
nhỏ này chi phối rõ rệt đến cá nhân. Tuy nhiên môi trường xã hội nhỏ có thể
bị biến đổi dễ dàng bởi sự thay đổi của môi trường xã hội lớn và bởi hoạt
động của các thành viên.
Lưu ý rằng tác động của môi trường cũng không hoàn toàn trực tiếp chi
phối đến cá nhân mà phải thông qua sự chọn lựa của bộ lọc cá nhân (những
kinh nghiệm, vốn sống và những định hướng giá trị đã hình thành trong mỗi
cá nhân). Điều này góp phần lý giải hiện tượng những người cùng sống trong
một khu vực, một cộng đồng xã hội nhưng có nhiều sự khác biệt về nhân cách.
Ngoài ra cá nhân không chỉ là đối tượng nhận sự tác động của môi
trường mà còn là chủ thể tham gia biến cải môi trường như câu nói của Marx:
“Hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh” Kết luận
Môi trường không đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển nhân
cách. Mức độ ảnh hưởng của môi trường tùy thuộc vào lập trường, quan
điểm, thái độ, xu hướng, năng lực của cá nhân. Do đó trẻ em chịu ảnh hưởng
rất lớn của môi trường do hệ thống định hướng giá trị chưa đầy đủ và ổn định,
hoặc với những cá nhân ít có khả năng tự giáo dục thì môi trường thậm chí
có vai trò quyết định. Trong công tác giáo dục điều quan trọng là giúp cá nhân
hình thành khả năng tự giáo dục theo hệ thống định hướng giá trị phù hợp với
các chuẩn mực xã hội để họ biết chọn lựa học hỏi những điều tích cực lành
mạnh và biết loại bỏ tránh xa những điều xấu xa tiêu cực trong môi trường sống.
3. Vai trò của hoạt động giao lưu cá nhân đối với sự phát triển nhân cách
a. Hoạt động cá nhân:
Hoạt động là tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng
nhằm mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả của hoạt
động là kích thích tạo ra hoạt động và kết quả của hoạt động là sự cụ thể hóa
nhu cầu của chủ thể. Cuộc sống của con người là một chuỗi hoạt động. Con
người sống là còn hoạt động, hoạt động là phương thức tồn tại của con
người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách.
Các hoạt động của con người bao gồm các quá trình con người tác động vào
khách thể, sự vật, tri thức... và các quá trình tinh thần, trí tuệ....
Hoạt động giúp cá nhân trải nghiệm và thu thập vốn sống để trưởng
thành, phát triển. Hoạt động giúp con người thích nghi đươc với hoàn cảnh và
tự khẳng định nhân cách của mình. Thông qua hai quá trình chủ thể hóa và
khách thế hóa, nhân cách con người bộc lộ và hình thành. Thông qua hoạt
động con người dần dần hoàn chỉnh bản thân, hình thành những nét nhân
cách thích hợp với yêu cầu của hoạt động và của xã hội. Quá trình phát triển
nhân cách của trẻ em thường diễn ra trong các hoạt động cơ bản như sau:
hoạt động nhận thức, hoạt động giao tiếp, hoạt động vui chơi, hoạt động học
tập và hoạt động xã hội. Những hoạt động cơ bản này cũng là những dạng
hoạt động chủ đạo của từng thời kỳ lứa tuổi chi phối mạnh mẽ đến sự phát
triển nhân cách ở lứa tuổi đó. b. Giao lưu:
Giao lưu là sự tác động qua lại giữa người với người trong xã hội nhằm
thỏa mãn nhu cầu về người khác. Giao lưu là nhu cầu không thể thiếu của sự
phát triển nhân cách. Quá trình giao lưu giúp cá nhân gia nhập vào các quan
hệ xậ hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, từ đó tạo nên bản
chất con người, làm cho nhân cách phát triển. Trẻ em khi mới sinh ra đã có
nhu cầu giao lưu với người lớn, nhờ sự giao lưu này trẻ sơ sinh mới có thể
tồn tại và phát triển tâm lý ổn định. Nhu cầu giao lưu phát triển dần theo sự
lớn lên của con người và trở nên thôi thúc khi con người không có điều kiện
giao lưu thuận lợi (tuổi già, phụ nữ nằm cữ sau khi sinh, phạm nhân bị biệt
giam...). Những trẻ sơ sinh mồ côi được các tổ chức xã hội nuôi dưỡng
thường phát triển tâm lý chậm chap do mật độ giao lưu của trẻ với người lớn
ít hơn so với những trẻ em sơ sinh được nuôi dưỡng trong gia đình bình
thường. Đối với trẻ em các quan hệ giao lưu với bạn bè và người lớn gần gũi
có uy tín như cha mẹ, thầy cô ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách.
c. Kết luận:
Hoạt động và giao lưu là yếu tố quyết định đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách. Con người luôn sống trong một môi trường nhưng môi
trường không quyết định cho nhân cách của họ mà chính những hoạt động và
các mối quan hệ giao lưu của cá nhân trong môi trường đó mới chi phối đến
đời sống tâm lý và hình thành những tính cách của cá nhân. Như những câu
nói: “anh hãy cho tôi biết, bạn của anh là ai, thì tôi sẽ nói cho anh biết, anh là
người như thế nào” hoặc “đi một ngày đàng học một sàng khôn”... Sự phát
triển nhân cách của trẻ được thúc đẩy mạnh mẽ bởi tính chất và mật độ giao
lưu của trẻ với người lớn và bởi các hoạt động chủ đạo tương ứng với mỗi giai đoạn lứa tuổi.
4. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
Nói đến giáo dục là nói đến những tác động tự giác, có mục đích, có tổ
chức, có kế hoạch của môi trường xã hội. Những tác động này được tiến
hành bởi các nhà giáo dục: giáo viên, cha mẹ, các cán bộ xã hội...
4.1. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
Xã hội ngày càng phát triển nên hoạt động giáo dục cũng có nhiều biến
đổi phong phú nhưng đặc tính của giáo dục vẫn không thay đổi, đó là tính có
mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của hoạt động giáo dục và chủ thể giáo
dục là những nhà giáo dục được xã hội phân công chuyên trách (cha mẹ,
giáo viên, các cán bộ xã hội...)
+ Các quan điểm về vai trò của giáo dục:
- Theo thuyết sinh học hay thuyết tiền định: Giáo dục không có vai trò gì
trong sự phát triển nhân cách, sự phát triển nhân cách chủ yếu do ảnh hưởng của di truyền.
- Theo thuyết nhi đồng học: Trẻ em như tờ giấy trắng, môi trường và
giáo dục tác động như thế nào thì trẻ sẽ phát triển như thế ấy.
- Theo quan điểm mác xít: giáo dục chỉ là một trong những nhân tố ảnh
hưởng đến sự phát triển nhân cách, giáo dục không có tính vạn năng, không
có tính quyết định mà chỉ đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân
cách. Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách thể hiện qua:
4.1.1. Sự định hướng và dẫn dắt quá trình phát triển nhân cách của cá nhân
- Giáo dục chủ động đề ra mục đích, qui định phương hướng, nội dung
và mức độ phát triển nhân cách phù hợp với yêu cầu xã hội.
- Giáo dục tổ chức, dẫn dắt sự phát triển nhân cách theo mục đích đã
đề ra thông qua việc sử dụng những phương pháp, hình thức, biện pháp giáo
dục tối ưu nhằm tổ chức các hoạt động và giao lưu cho cá nhân.
Tâm lý con người là kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài người được
biến thành kinh nghiệm của cá nhân. Chức năng của giáo dục không phải chỉ
là xác nhận đánh giá mức độ phát triển tâm lý của trẻ đến đâu mà chủ yếu là
làm phát triển tâm lý của chúng theo yêu cầu của xã hội, là xây dựng con
người của xã hội mới, tạo ra năng lực cho mỗi người tự phát triển để sống và
làm việc trong xã hội. Những phẩm chất tâm lý cần thiết của con người được
hình thành dưới ảnh hưởng của kinh nghiệm xã hội con người, dưới ảnh
hưởng của những điều kiện sống có tổ chức của xã hội, nhà trường và gia đình.
4.1.2. Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự
thuận lợi cho quá trình phát triển nhân cách
Mỗi yếu tố đã được xác định vai trò ảnh hưởng cần thiết và quan trọng
đối với sự phát triển nhân cách, tuy nhiên yếu tố giáo dục lại có thể tác động
đến các yếu tố khác để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển nhân cách như: - Đối với di truyền:
Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm mống của con người
có trong chương trình gène được phát triển. Trẻ được di truyền cấu tạo cột
sống, bàn tay và thanh quản... nhưng nếu không được giáo dục thì trẻ khó có
thể đi thẳng đứng bằng hai chân, biết sử dụng công cụ hay phát triển ngôn ngữ...
Giáo dục rèn luyện thúc đẩy sự hoàn thiện của các giác quan và vận động cơ thể.
Giáo dục phát hiện những tư chất của cá nhân và tạo điều kiện để phát
huy năng khiếu thành năng lực cụ thể.
Giáo dục tìm cách khắc phục những khiếm khuyết cơ thể để hạn chế
những khó khăn của người khuyết tật trong sự phát triển nhân cách (phục hồi
chức năng hoặc hướng dẫn sử dụng công cụ hỗ trợ). Ngoài ra giáo dục còn
truyền thông tăng cường nhận thức trong xã hội về trách nhiệm của cộng
đồng đối với người khuyết tật và tổ chức cho toàn xã hội chia sẻ, hỗ trợ người
khuyết tật vượt qua khó khăn và sự bất hạnh của mình.
- Đối với môi trường:
Giáo dục tác động đến môi trường tự nhiên qua việc trang bị kiến thức
và ý thức bảo vệ môi trường của con người, làm cho môi trường tự nhiên
khắc phục được sự mất cân bằng sinh thái để trở nên trong lành, đẹp đẽ hơn.
Giáo dục tác động đến môi trường xã hội lớn thông qua các chức năng
kinh tế - xã hội, chức năng chính trị-xã hội, chức năng tư tưởng - văn hóa của giáo dục.
Giáo dục còn làm thay đổi tính chất của môi trường xã hội nhỏ như gia
đình, nhà trường và các nhóm bạn bè, khu phố..., để các môi trường nhỏ tạo
nên những tác động lành mạnh, tích cực đến sự phát triển nhân cách con
người. Hiện nay công tác giáo dục xã hội đang chú tâm xây dựng gia đình là
một mái ấm dân chủ, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc; nhà trường là một môi
trường thân thiện đối với học sinh, cộng đồng dân cư là khu vực văn hóa của
một xã hội văn minh tiến bộ.
- Đối với hoạt động giao lưu cá nhân:
Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao lưu bổ ích, lành mạnh
nhằm phát huy những phẩm chất và năng lực cá nhân (sân chơi ở các nhà
văn hóa cho mọi lứa tuổi, các câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc tại địa
phương,...); xây dựng những động cơ đúng đắn của cá nhân khi tham gia
hoạt động, giao lưu đồng thời hướng dẫn cá nhân lựa chọn các hoạt động và
giao lưu phù hợp với khả năng của bản thân. Đặc biệt công tác giáo dục luôn
xây dựng các mối quan hệ giao lưu tích cực giữa thầy trò; giữa bạn bè với
nhau đồng thời tổ chức và định hướng cho trẻ tham gia vào các hoạt động
chủ đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi để thúc đẩy sự phát triển nhân cách.
4.1.3. Giáo dục tạo tiền đề cho tự giáo dục
Tự giáo dục thể hiện tính chủ thể của cá nhân khi con người đáp ứng
hoặc tự vận động nhằm chuyển hóa các yêu cầu của giáo dục thành phẩm
chất và năng lực của bản thân. Nếu cá nhân thiếu khả năng tự giáo dục thì
các phẩm chất và năng lực của họ sẽ hình thành ở mức độ thấp hoặc thậm
chí không thể hình thành. Trình độ, khả năng tự giáo dục của cá nhân phần
lớn bắt nguồn từ sự định hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn và đầy đủ
sẽ giúp con người hình thành khả năng tự giáo dục, đề kháng trước những
tác động tiêu cực của xã hội để phát triển nhân cách mạnh mẽ.
“Chỉ có những người biết tự giáo dục mới là những người thực sự có giáo dục. ” (Bennet - Anh)
4.1.4. Giáo dục đi trước đón đầu sự phát triển
Sự định hướng của giáo dục không chỉ thích ứng với những yêu cầu
của xã hội hiện tại mà còn phải thích hợp với yêu cầu phát triển của tương lai
để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Căn cứ trên những dự báo về gia tốc phát
triển của xã hội, giáo dục thiết kế nên mô hình nhân cách của con người thời
đại với hệ thống định hướng giá trị tương ứng.
Có những quan điểm dạy học khác nhau như:
- Dạy học theo đuôi sự phát triển
- Dạy học song hành với sự phát triển
- Dạy học đi trước sự phát triển
Từ cuối thế kỷ 20, hoạt động giáo dục được xây dựng theo quan điểm
của nhà tâm lý học Nga Vưgốtxki: “dạy học hướng vào vùng phát triển gần
nhất” nhằm đón đầu sự phát triển của cá nhân. Theo Ông “dạy học tạo nên
hiệu quả to lớn nếu nó được xây dựng trên nguyên tắc phát triển”
Như vậy thông qua các tác động đón đầu sự phát triển, giáo dục không
chỉ thúc đẩy sự phát triển nhân cách cá nhân mà còn thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên giáo dục không phải là vạn năng, không thể một mình quyết
định toàn bộ tiến trình phát triển nhân cách. Giáo dục chỉ là một trong những
yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển nhân cách thông qua những
tác động có tính chủ đạo. Hơn nữa, vai trò chủ đạo của giáo dục chỉ thể hiện
đầy đủ khi có những điều kiện hỗ trợ như sau:
- Công tác dự báo về xu hướng phát triển của xã hội phải đưa ra những
định hướng đúng đắn để giáo dục thực hiện tốt chức năng đón đầu sự phát triển.
- Đội ngũ giáo viên của hệ thống giáo dục phải có khả năng tác nghiệp
vững vàng để tổ chức những tác động phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của
học sinh. Bởi vì “Không có một hệ thống giáo dục nào vươn cao quá tầm của
những giáo viên làm việc cho hệ thống đó” (Roya Roy Sings)
- Phải có sự kết hợp chặt chẽ ba lực lượng giáo dục gia đình, nhà
trường và xã hội theo phương hướng xã hội hóa giáo dục. Những yếu kém
của giáo dục thường có nguyên nhân từ sự thiếu phối hợp đồng bộ giữa ba
lực lượng giáo dục này. Cần lưu ý rằng nhà trường phải chủ động tạo sự liên
kết giữa ba lực lượng trong công tác giáo dục học sinh bởi vì nhà trường tập
trung đội ngũ giáo viên là những nhà giáo dục được đào tạo, trang bị nghiệp
vụ sư phạm cho công tác giáo dục con người.
III. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH THEO LỨA TUỔI
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hình thành và phát triển nhân
cách của con người diễn ra có tính quy luật theo từng lứa tuổi. Mỗi giai đoạn
phát triển đều có những đặc điểm riêng, đặc biệt là đều có những bước nhảy
vọt về chất và tạo tiền đề cho sự phát triển ở các giai đoạn tiếp theo. Giáo dục
bao giờ cũng hướng vào con người cụ thể với những đặc điểm tâm lý riêng
về lứa tuổi, giới tính... và những đặc trưng độc đáo trong nhân cách. Do đó
giáo dục phải xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng để đề ra
các nội dung, cách thức tác động tương ứng và phù hợp.
1. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ sơ sinh (0-1 tuổi)
a. Sự phát triển nhân cách:
Đứa trẻ khi mới sinh ra chỉ là một sinh vật mang mầm mống người,
nhân cách chưa hình thành. Thông qua sự giao lưu với những người lớn trực
tiếp chăm sóc (cha mẹ, ông bà, mẹ nuôi...) trẻ sơ sinh mới học được cách
hòa nhập với cuộc sống xã hội ở ngoài bụng mẹ. Sự phát triển của trẻ sơ sinh
chủ yếu là về mặt cơ thể được thể hiện ở những tiến bộ trong các hoạt động
của các giác quan và của vận động (nhìn, nghe, ngửi, nếm, lật, ngồi, bò,
đứng, đi, cầm nắm...) Chiều hướng phát triển của các giác quan và vận động
cơ thể trong giai đoạn này cũng nói lên tính chất và mức độ phát triển về trí
tuệ và tinh thần của đứa trẻ.
b. Nội dung giáo dục:
- Thúc đẩy nhanh sự hoàn thiện của các giác quan và vận động cơ thể.
- Cho trẻ tiếp xúc, làm quen dần với thế giới đồ vật để dần dần hình
thành thái độ và phương thức tác động vào đồ vật sau này.
c. Cách thức giáo dục:
- Người lớn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ thông qua sự
giao lưu tiếp xúc và đáp ứng các nhu cầu của trẻ. Tuỳ theo cách thức chăm
sóc, nuôi dưỡng, tùy theo thái độ cư xử của người lớn đối với trẻ mà đứa trẻ
nhận được các loại ấn tượng, hình thành các thói quen hành vi trong nếp
sống và sinh hoạt sau này (ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân...) Ngoài ra cách tiếp xúc
với trẻ em và tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thế giới cũng giúp đứa trẻ cảm
nhận, hình thành được các loại cảm xúc, các thái độ đối với đồ vật, con
người... làm nền tảng để sau này trẻ có kinh nghiệm cư xử với thế giới xung quanh.
2. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ nhà trẻ: (1-3 tuổi)
a. Sự phát triển nhân cách:
Đây là giai đoạn trẻ nhận được các tác động xã hội hóa một cách
phong phú và mạnh mẽ. Nhờ các tiến bộ về cơ thể và tâm lý, đặc biệt là với
ba thành tựu lớn: luyện tập dáng đi thẳng, hoạt động với đồ vật - công cụ, sự
phát triển ngôn ngữ đã góp phần thúc đẩy sự phát triển khả năng tự ý thức
của trẻ, một yếu tố thể hiện nhân cách con người.
b. Nội dung giáo dục:
- Giúp trẻ đạt được ba thành tựu của sự phát triển: luyện tập dáng đi
thẳng đứng; hướng dẫn, tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc, sử dụng các loại đồ
vật theo đúng chức năng và có tính sáng tạo; giúp trẻ phát triển ngôn ngữ (tập
cho trẻ nói, diễn đạt suy nghĩ và hiểu điều người khác nói)
- Bước đầu cho trẻ học tập cách thức cư xử theo những qui tắc hành vi
trong xã hội đối với người khác (người trong gia đình, cô giáo, bạn bè...)
- Kích thích trẻ phát triển khả năng tư duy ở mức độ trực quan hành hành động.
c. Cách thức giáo dục:
- Thông qua việc tiếp xúc với những người thân trong gia đình trẻ học
được các qui tắc hành vi đối với thế giới xung quanh. Người lớn cần chú ý
đến các biểu hiện của mình về lời nói, hành vi, cử chỉ, thái độ đối với trẻ để
giúp trẻ có một khuôn mẫu tốt đẹp để noi theo.
- Tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với nhiều loại đồ vật khác nhau,
hướng dẫn trẻ cách thức sử dụng, kích thích trẻ suy nghĩ, sáng tạo ra trò chơi với các đồ vật ấy.
- Xây dựng những cách thức ứng xử thích hợp với các biến chuyển tâm
lý của trẻ (sự tự ý thức, thái độ bướng bĩnh...) để sự phát triển nhân cách của trẻ được thuận lợi.
3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh mẫu giáo: (3 - 6 tuổi)
a. Sự phát triển nhân cách:
Đây là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ thể hiện ở khả năng
hành động theo động cơ gián tiếp. Sự hình thành nhân cách lệ thuộc nhiều
vào khuôn mẫu hành vi của người lớn mà trẻ em tiếp xúc (cha mẹ, cô giáo,
bạn bè, người xung quanh...). Những dấu ấn ban đầu trên nhân cách của trẻ
thường được lưu giữ lại. Sự phát triển nhân cách của trẻ trong giai đoạn này
chỉ đạt mức độ thấp nhưng diễn ra với tốc độ cao. Đặc điểm nhân cách trẻ
mẫu giáo nổi bật ở khuynh hướng muốn được độc lập hoạt động không có sự
kềm kẹp của người lớn, đặc biệt là sự cuốn hút trẻ vào trong các loại trò chơi.
Thông qua đó trẻ nắm được các phương thức hành động, định hướng và ý
thức được các chuẩn mực trong các mối quan hệ giữa người với người và với thế giới xung quanh
b. Nội dung giáo dục:
- Hình thành những nét nhân cách tốt đẹp làm cơ sở cho một nhân
cách hoàn thiện sau này thông qua sự gương mẫu trong nhân cách của nhà giáo dục.
- Phát triển các khả năng tâm lý của trẻ như: trí tưởng tượng, khả năng
tư duy, trí nhớ, các loại tình cảm cấp cao... như những phương tiện giúp trẻ
thu nhận các tác động giáo dục.
- Tiếp tục trang bị cho trẻ những qui tắc ứng xử trong cuộc sống xã hội.
- Giúp trẻ hình thành tâm thế đi học trường phổ thông vào cuối tuổi.
c. Cách thức giáo dục:
- Thông qua sự gương mẫu của các nhà giáo dục như: cha mẹ, cô giáo...
- Tổ chức cho trẻ tham gia các loại trò chơi bổ ích, thích hợp với lứa
tuổi: sắm vai, học tập, vận động...
- Đưa trẻ vào các loại quan hệ để rèn luyện cách thức cư xử phù hợp
với các chuẩn mực xã hội.
4. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ học sinh tiểu học (6 - 11 tuổi)
a. Sự phát triển nhân cách:
Đây là giai đoạn trẻ bắt đầu tham gia vào hoạt động học tập mang tính
xã hội hóa mạnh mẽ để tiếp nhận hệ thống tri thức khoa học của loài người.
Dưới ảnh hưởng của hoạt động học tập, nhân cách của trẻ có nhiều biến đổi
phong phú và sâu sắc. Đặc điểm nhân cách của học sinh tiểu học nổi bật ở những nét sau:
- Khả năng nhận thức phát triển nhanh chóng nhờ hoạt động học tập.
- Đời sống xúc cảm, tình cảm chiếm ưu thế hơn và chi phối mạnh mẽ
đến các hoạt động, nhận thức của trẻ.
- Tính hồn nhiên, vui tươi hướng về những cảm xúc tích cực.
- Hay bắt chước những người gần gũi, có uy tín với trẻ (cha mẹ, thầy cô, bạn bè...)
- Hành vi ý chí chưa cao, bản tính hiếu động, khó kềm chế, kém tự chủ
nên dễ phạm lỗi, nhất là đối với các yêu cầu có tính nghiêm ngặt, đòi hỏi sự
tập trung cao độ, gây căng thẳng.
Nhân cách của học sinh tiểu học chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: gia
đình, nhà trường, xã hội. Trong đó những ảnh hưởng từ cha mẹ, thầy cô là
rất quan trọng vào đầu tuổi và sau đó là các ảnh hưởng từ bạn bè và phương
tiện thông tin đại chúng sách báo, phim ảnh...)
b. Nội dung giáo dục:
- Phát triển khả năng nhận thức và phẩm chất trí tuệ thông qua hoạt động học tập.
- Rèn luyện tác phong và các thói quen hành vi đạo đức cơ bản của con
người theo chuẩn mực xã hội.
- Khắc phục dần các nhược điểm trong đời sống tình cảm (tính hay thay
đổi, cách biểu lộ tình cảm không phù hợp...), giúp trẻ biết cảm nhận và biểu lộ tình cảm của mình.
- Rèn luyện các phẩm chất của hành vi ý chí (tính tự chủ, độc lập, khả năng tự kềm chế...)
- Giúp trẻ biết chọn lựa thu nhận những tác động lành mạnh từ những phương tiện thông tin.
c. Cách thức giáo dục:
- Lấy sự gương mẫu của các nhà giáo dục làm phương tiện giáo dục.
- Xây dựng, hướng dẫn các nhóm bạn bè của trẻ để tạo nên những ảnh
hưởng tích cực trên nhân cách.
- Tổ chức, quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin đại chúng.
- Căn cứ trên những nhu cầu của lứa tuổi để tổ chức, hướng dẫn trẻ
tham gia các hoạt động cần thiết cho sự phát triển như: học tập, vui chơi, lao
động, hoạt động xã hội...
5. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh trung học cơ sở (11 - 15 tuổi)
a. Sự phát triển nhân cách:
Sự phát triển tâm lý, nhân cách của thiếu niên có nhiều biến động và rất
phức tạp, gây ra những khó khăn trong nội tâm thiếu niên cũng như trong mối
quan hệ giữa người lớn với các em. Cùng với những biến đổi quan trọng
trong cơ thể liên quan đến sự phát triển giới tính, đời sống tâm lý của các em
xuất hiện những nhu cầu tâm lý mới như: khuynh hướng muốn làm người lớn
(muốn sống tự lập, muốn làm những việc có ý nghĩa), nhu cầu tự khẳng định
mình (khẳng định giá trị và phẩm chất, năng lực của bản thân)... Những thúc
đẩy tâm lý này thường được thỏa mãn trong quan hệ bạn bè của thiếu niên
nên những tác động từ cha mẹ, giáo viên có khi bị giảm nhẹ trước các chi
phối của những bạn bè cùng lứa. Tuổi thiếu niên hay có những suy nghĩ
mạnh dạn nhưng có tính tuyệt đối. Các em đòi hỏi và mong muốn được đáp
ứng mà ít chịu suy xét điều kiện thỏa mãn. Tình cảm rất phức tạp, mạnh mẽ
dễ đưa đến kiểu hành động quá khích, gây hấn.
b. Nội dung giáo dục:
- Tiếp tục phát triển các khả năng trí tuệ và rèn luyện tác phong đạo đức cho thiếu niên.
- Giúp thiếu niên có những hiểu biết cần thiết về giới tính, về các chuẩn
mực trong quan hệ cư xử với người khác giới.
- Tạo điều kiện cho thiếu niên thỏa mãn các nhu cầu tâm lý một cách hợp lý và lành mạnh,
c. Cách thức giáo dục:
- Nhà giáo cần đóng vai trò là người bạn lớn tuổi, gần gũi, đáng tin cậy
của thiếu niên để có thể kịp thời giúp các em vượt qua những khó khăn trong
sự phát triển của bản thân.
- Xây dựng, hướng dẫn các nhóm bạn của thiếu niên đi vào các hoạt
động cần thiết cho sự phát triển lứa tuổi.
- Tổ chức các loại hình hoạt động đáp ứng những nhu cầu nhận thức
và vui chơi của thiếu niên.
6. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông (15 - 18)
a. Sự phát triển nhân cách:
Nhân cách đang trong giai đoạn định hình với nội dung phong phú và
có chiều sâu. So với học sinh THCS, học sinh trung học phổ thông có khả
năng nhận thức hoàn thiện hơn, các em có thể tìm hiểu sâu và nắm được bản
chất của vấn đề chứ không nhìn nhận sự việc cách nông nổi và phiến diện.
Nếu được khuyến khích sẽ có những suy nghĩ, mạnh dạn độc đáo. Xem xét
các hoạt động và sản phẩm trí tuệ của các em thể hiện trong hoạt động học
tập hoặc sinh hoạt ngoại khóa, chúng ta dễ nhận ra sự tiến bộ nhanh chóng
về mặt nhận thức của các em. Trên một bài báo tường, một học sinh lớp 11
đã viết: “Vậy đó, trong vòng tay của cha mẹ, thầy cô, bạn bè, em đã lớn, mười
sáu, mười bảy tuổi. Mười sáu hay mười bảy, cái tuổi của một thời mộng mơ
dạt dào chắp cánh cho bao kỳ vọng vươn lên. Giờ đây em đã thôi làm thơ ca
ngợi đóa hồng trước ngõ mà biết rằng con người phải đổ bao nhiêu máu
xương cho đất nở được hoa hồng; em thôi mơ làm công chúa hay hoàng tử
trên tiên giới, mà muốn rằng hôm nay, mình phải sống xứng đáng, biết cho đi
và quên mình trong hạnh phúc chung.
Đời sống nội tâm phát triển, các em ý thức rõ rệt hơn về cái tôi và thích
hình dung về hình ảnh bản thân. Nhu cầu bộc lộ bản thân để tự khẳng định
trở nên mạnh mẽ hơn, các em thích chia sẻ với bạn bè hoặc đối diện với
chính mình trên những trang nhật ký. Học sinh trung học cũng mang nhiều
suy nghĩ về kế hoạch cuộc đời và định hướng nghề nghiệp trong tương lai,
điều này bị chi phối bởi thần tượng của các em. Việc lựa chọn thần tượng lại
phụ thuộc vào khả năng xác định hình ảnh bản thân của các em. Những học
sinh không nhận thức rõ về bản thân thường định huớng vào những thần
tượng xa vời với khả năng phân đấu, do đó thường nhanh chóng thay đổi
thần tượng và càng hoang mang về bản thân. Lứa tuổi này cũng đã quan tâm
đến tình cảm giữa nam và nữ nhưng chưa đủ điều kiện để xây dựng tình yêu
đôi lứa bền vững. Hoạt động học tập vẫn là hoạt động quan trọng cho sự phát
triển nhân cách và cuộc sống tương lai của các em.
b. Nội dung giáo dục:
- Trang bị cho thanh niên những hiểu biết về tính chất và cách thức cư
xử trong tình bạn, tình yêu.
- Hướng dẫn thanh niên xây dựng kế hoạch cuộc đời phù hợp với sự
phát triển cá nhân trong xã hội.
- Giúp thanh niên xây dựng lý tưởng sống cao đẹp và biết định hướng
vào hệ thống giá trị lành mạnh, tích cực theo chuẩn mực xã hội.
- Tạo điều kiện cho thanh niên lựa chọn đúng loại nghề nghiệp của bản
thân bằng cách cung cấp thông tin về các loại nghề nghiệp trong xã hội (đặc
điểm, nhu cầu của nghề đối với người lao động). Xác định cho các em biết
những nghề nghiệp mà địa phương đang có nhu cầu phát triển. Giúp học sinh
THPT nhận ra hứng thú nghề nghiệp và khả năng tương ứng của bản thân.
c. Cách thức giáo dục:
- Xây dựng một cách đa dạng, phong phú các loại hình hoạt động sôi
nổi, hấp dẫn lôi cuốn thanh niên tham gia để phát triển nhân cách lành mạnh.
- Tăng cường các ảnh hưởng tích cực qua phương tiện thông tin đại
chúng đến lứa tuổi thanh niên (tạo nhiều phim ảnh, xuất bản những đầu sách,
phát hành các loại báo chí thích hợp)
- Xây dựng hệ thống giá trị đáp ứng yêu cầu của thời đại và tuyên
truyền, thuyết phục thanh niên có niềm tin lựa chọn các giá trị được xã hội đánh giá cao.
- Nhà giáo dục thật sự là người bạn đáng tin cậy đối với họ, có thái độ
tôn trọng, khuyến khích các khả năng sáng tạo, độc đáo của thanh niên.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Bạn hiểu như thế nào về nhân cách và sự phát triển nhân cách? Hướng dẫn:
- Khái niệm nhân cách, xác định thành phần cốt lõi của nhân cách.
- Sự phát triển nhân cách: biểu hiện và đặc tính của sự phát triển.
2. Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách? Mỗi
yếu tố có vai trò như thế nào đến sự phát triển nhân cách? Hướng dẫn:
a. Phân tích vai trò của yếu tố di truyền đối với sự phát triển nhân cách
b. Phân tích vai trò của yếu tố môi trường đối với sự phát triển nhân cách
- Các loại môi trường có ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
- Cơ chế tác động của mỗi loại môi trường đến sự phát triển nhân cách
c. Phân tích vai trò của yếu tố hoạt động giao lưu đối với sự phát triển nhân cách
d. Phân tích vai trò của yếu tố giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
- Thể hiện của tính chủ đạo của yếu tố giáo dục
- Điều kiện để giáo dục giữ vai trò chủ đạo.
- Vai trò của yếu tố tự giáo dục
Xác định vai trò của mỗi yếu tố để đi đến kết luận đúng đắn về tầm
quan trọng của chúng đối với sự phát triển nhân cách.
3. Lứa tuổi học sinh THPTcó những đặc điểm nhân cách như thế nào?
Những nội dung và cách thức giáo dục đối với lứa tuổi này là gì?
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Những câu tục ngữ, ca dao, danh ngôn...nào nói về sự ảnh hưởng
của các yếu tố di truvền, môi trường, giáo dục hoặc tự giáo dục đến sự phát triển nhân cách?
2. Một số bậc cha mẹ quan niệm rằng: “Gần mực thì đen - gần đèn thì
sáng” cho nên hiện nay cần hạn chế sự giao lưu của con cái với môi trường
bên ngoài gia đình và nhà trường để tránh những ảnh hưởng xấu đến nhân cách của trẻ.
Bạn có ý kiến như thế nào đối với quan niệm trên?
3. Trong tập thơ “Nhật ký trong tù”, Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết câu thơ sau:
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên.
Bạn giải thích như thế nào về câu thơ dựa trên sự hiểu biết về vai trò
của các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách?
Chương 3. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC
Sau bài học này người học có khả năng: 1. Về kiến thức a. Mức độ Biết
i. Định nghĩa khái niệm “Mục đích giáo dục”
ii. Nêu được những cơ sở để xác định mục đích giáo dục tổng quát. b. Mức độ Hiểu
i. Phân biệt mục đích giáo dục với mục tiêu giáo dục.
ii. Phân biệt các cấp độ của mục đích giáo dục.
iii. Phân tích nội dung mục đích giáo dục tổng quát và mục tiêu phát triển nhân cách
iv. Phân tích nội dung mục tiêu giáo dục bậc trung học phổ thông c. Mức độ Vận dụng
i. Đối chiếu với kết quả giáo dục thực tiễn ở địa phương 2. Về kỹ năng
i. Xác định mục tiêu chuyên biệt của một quá trình giáo dục cụ thể 3. Về thái độ
i. Khẳng định sự cần thiết của việc xác định mục tiêu trước khi tiến
hành một quá trình giáo dục cụ thể.
“Liệu anh sẽ nói gì với người kiến trúc sư, khi thiết kế tòa nhà mới lại
không biết trả lời cho các anh câu hỏi về việc anh ta muốn xây dựng cái gì?
ngôi đền thờ hay đơn giản chỉ là một ngôi nhà...? Anh cũng phải nói những
điều như thế về nhà giáo dục nào mà không biết xác định một cách rõ ràng và
chính xác về mục đích hoạt động giáo dục của mình. ” (K.D. Usinski) Nội dung bài học:
I. KHÁI NIỆM VỀ MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC
1. Định nghĩa và tính chất
Mục đích giáo dục là kết quả của toàn bộ hoạt động giáo dục được hình
dung trước dưới dạng mô hình con người thời đại ở một giai đoạn lịch sử của xã hội.
Mục đích giáo dục có tính khách quan: phản ánh các yếu tố xã hội về
nội dung giáo dục mà hệ thống giáo dục và hoạt động giáo dục thực tiễn phải
đạt được. Mục đích giáo dục trước hết phản ánh khách quan các yêu cầu của
xã hội hiện tại, đồng thời dự kiến xu hướng phát triển xã hội trong tương lai và
phù hợp với xu thế chung của thế giới.
Mục đích giáo dục có tính xã hội - lịch sử: Mục đích giáo dục luôn thay
đổi cho phù hợp với những chuyển biến mới trong xã hội tạo ra yêu cầu đổi mới giáo dục.
2. Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xác định mục đích giáo dục
- Mục đích giáo dục là một phạm trù cơ bản của Giáo dục học được có
tác dụng định hướng cho công tác nghiên cứu lý luận và các hoạt động giáo dục thực tiễn.
- Mục đích giáo dục là thành tố cơ bản của quá trình giáo dục qui định
tính chất và phương hướng, nội dung, phương pháp, phương tiện và hình
thức tổ chức giáo dục, qui định tiêu chuẩn kiểm tra và đánh giá kết quả quá trình giáo dục.
- Mục đích giáo dục định hướng cho hoạt động thực tiễn của người dạy,
giúp họ chủ động sáng tạo hơn trong công tác giáo dục đồng thời định hướng
cho người học nhanh chóng đạt kết quả.
- Mục đích giáo đục được khẳng định như một xuất phát điểm của mọi
hoạt động sư phạm, thiếu nó hoặc xác định nó không đủ tường minh, thì hoạt
động sư phạm có thể coi như bắn tên không có đích.
“Chúng ta sẽ không thể làm tốt một việc gì nếu như chúng ta không biết
mình sẽ phải làm gì” (Macarenko)
“Nếu bạn không biết chắc nơi bạn muốn đến, có nguy cơ bạn sẽ đến
một chỗ khác, mà bạn không biết...”; “Nếu thầy cho trò biết rõ nội dung của
mục tiêu đào tạo..., rất có thể là trong khá nhiều trường hợp, người thầy
không còn gì phải làm cả” (Mager)
“Nếu không có mục đích, anh sẽ không làm được gì cả. Anh cũng
không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường” (Didero)
* Tác hại của việc không nhận thức mục đích giáo dục
- Gây nên sự thụ động và hạn chế tính sáng tạo của nhà giáo dục.
- Không có sự thống nhất tác động giáo dục giữa các nhà giáo dục và
gây ra những lực cản vô lý trong hoạt động giáo dục.
+ Phân biệt hai khái niệm “Mục đích - Mục tiêu ” Mục đích Mục tiêu
- Có tính định hướng, lý tưởng
- Có tính cụ thể với hành động và phương tiện xác định
- Thời gian thực hiện dài
- Thời gian thực hiện ngắn, xác
- Tính rộng lớn khái quát của vấn đề định.
- Không thể đo được kết quả
- Tính xác định của vấn đề
- Cấu trúc phức tạp, được tạo thành do
nhiều mục tiêu kết hợp lại.
- Là một bộ phận của mục đích
Có thể nói mục tiêu là một bộ phận của mục đích. Mục đích có cấu trúc
phức tạp do nhiều mục tiêu tạo thành. Nhưng mục đích không phải là tổng số
các mục tiêu mà là một sự kết hợp có qui luật.
3. Các loại mục đích giáo dục: có hai loại
- Mục đích hệ thống: là kết quả dự kiến mà hệ thống giáo dục cần đạt
được sau một thời gian nhất định. Các nhà quản lý thường quan tâm đến mục đích hệ thống.
- Mục đích nhân cách: Thường được các nhà giáo quan tâm tới, bao gồm:
Mô hình con người mà mỗi cá nhân cần phấn đấu để đạt được
Mô hình con người mà xã hội cần đào tạo.
Quan hệ giữa mục đích hệ thống và mục đích nhân cách là quan hệ
giữa sự phát triển xã hội và phát triển cá nhân (con người)
4. Các cấp độ của mục đích giáo dục
* Cấp vĩ mô: Tên gọi là “Mục đích giáo dục”, do các cấp lãnh đạo, quản
lý xã hội đề ra dựa trên yêu cầu của xã hội. Mục đích giáo dục giữ vai trò định
hướng về giá trị nhân cách ở cấp toàn xã hội và áp dụng cho toàn bộ hoạt
động giáo dục trong xã hội. Mục đích giáo dục thường có tính chất lý tưởng
và ổn định tương đối.
Mục đích giáo dục hiện nay là: Nâng cao dân trí - Đào tạo nhân lực - Bồi dưỡng nhân tài.
* Cấp trung gian: tên gọi là “Mục tiêu giáo dục hay mục tiêu đào tạo” do
các cấp quản lý giáo dục từ Bộ đến trường xây dựng dựa trên mục đích giáo
dục tổng quát và yêu cầu cụ thể của hoạt động giáo dục; nêu lên mục tiêu về
nhân cách, về chất lượng đào tạo cho toàn ngành giáo dục và cho từng bậc
học, cấp học (còn có thể cho từng giai đoạn, từng năm học), chủ yếu được
thể hiện bằng ngôn ngữ, thuật ngữ tâm lý - sư phạm.
Hiện nay luật giáo dục quy định mục tiêu giáo dục theo từng bậc học như sau:
+ Mục tiêu của giáo dục bậc mầm non: giúp trẻ em phát triển về thể
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân
cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.
+ Mục tiêu của giáo dục bậc phổ thông: giúp học sinh phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và
trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc
sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Giáo dục tiểu học: giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho
sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ. Thể chất, thẩm mỹ và
các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
- Giáo dục trung học cơ sở: giúp học sinh củng cố và phát triển những
kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những
hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ
thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
- Giáo dục trung học phổ thông: giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông
và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
* Cấp vi mô: gọi là “mục tiêu chuyên biệt hay mục đích - yêu cầu”. Đó là
mục tiêu hành động của thầy và trò, do các nhà sư phạm, các giáo viên đề ra
cho từng môn học, bài học, từng hoạt động... phản ánh mục tiêu giáo dục.
* Những yêu cầu của việc xác định mục tiêu chuyên biệt
Thông thường các mục tiêu giáo dục được bày tỏ một cách chung
chung và lờ mờ nên khó hình dung được rõ ràng kết quả mong đợi của một
quá trình giáo dục cụ thể, chẳng hạn như: Mục tiêu bài giảng là “Hiểu nội
dung bài và cảm nhận được ý nghĩa; Học sinh thấy được tấm lòng yêu
thương của cô giáo...”. Thế nào là hiểu? là cảm nhận? là thấy được lòng yêu
thương? Làm sao biết được học sinh có hiểu, có cảm nhận và có thấy? Do đó
cần phải biết cách xác định mục tiêu một cách cụ thể, rõ ràng hơn để tiến
hành quá trình giáo dục một cách chủ động và tập trung vào kết quả mong
đợi qua mục tiêu đã xác định đó.
Xác định mục tiêu giáo dục là tìm cách diễn tả đơn giản nội dung giáo
dục để chỉ ra các thao tác mà người học có khả năng thực hiện nội dung đó.
Một mục tiêu được xác định tốt phải có hai tác dụng, đó là chỉ đạo tổ chức
quá trình giáo dục và làm chuẩn đánh giá kết quả đào tạo. Nếu không đạt
được hai yêu cầu này, thì mục tiêu vạch ra chỉ là một “mục tiêu tuyên bố” chỉ
nêu lên cho có, cho đủ thủ tục của một giáo án.
* Các điều kiện xây dựng mục tiêu chuyên biệt chính xác và hiệu quả
1. Mục tiêu phải được diễn tả theo chức năng người học chứ không
phải theo chức năng người dạy bởi vì chính người học là chủ thể thực hiện
mục tiêu để chiếm lĩnh một khả năng mới. Vì vậy, có thể mở đầu bằng cụm từ
“Sau bài học này, người học có khả năng...”
2. Mục tiêu phải được diễn đạt bằng một động từ đơn nghĩa, chính xác
để giáo viên và học sinh nhìn nhận kết quả mong đợi dưới cùng một dạng.
Những cách phát biểu như sau là mơ hồ, đa nghĩa dẫn đến những cách hiểu
khác nhau giữa giáo viên và học sinh: “nắm được khái niệm”; “nhận thức rõ
tình bạn”; “nhận thấy trẻ em được quyền kết giao bạn bè”; “thấy tác hại của
bệnh răng miệng” “nắm vững qui tắc”
3. Mục tiêu phải được diễn tả dưới dạng hành vi có thể quan sát được.
VD: “Viết một bài không có lỗi chính tả” (thay vì phát biểu: “nắm vững luật chính tả”)
4. Xác định hoàn cảnh, điều kiện, thời gian hành vi nói trên sẽ diễn ra.
VD: “Nghe đọc để viết một bài không có lỗi chính tả.“
5. Xác định tiêu chí thừa nhận mức độ đạt được mục tiêu
VD: Nghe đọc để viết một bài khoảng 10 dòng không có lỗi chính tả và
không có dấu vết tẩy xóa.
VÍ DỤ MINH HỌA CÁCH PHÁT BIỂU MỤC TIÊU
* Lưu ý: Những ví dụ sau đây có tính chất gợi ý cách phát biểu mục tiêu
chuyên biệt của một bài học, chứ chưa phải là một ví dụ chuẩn xác về các
mục tiêu phải đạt trong bài học
Bài học: KỸ THUẬT DI TRUYỀN Môn Sinh - Lớp 12
Mục tiêu: Sau bài học, Học sinh có khả năng 1. Mức độ biết:
a. Phát biểu định nghĩa khái niệm “kỹ thuật di truyền” 2. Mức độ hiểu:
a. Vẽ và sơ đồ kỹ thuật cấy gen
b. Giải thích từng khâu của kỹ thuật cấy gen 3. Mức vận dụng:
a. Liên hệ thực tiễn để nhận biết các sản phẩm sử dụng kỹ thuật cấy gen.
Bài học: LIÊN KẾT CỘNG HÓA TRỊ Môn Hóa - Lớp 11
Mục tiêu: Sau bài học, Học sinh có khả năng 1. Mức độ biết:
a. Phát biểu định nghĩa khái niệm “Liên kết cộng hóa trị” 2. Mức độ hiểu:
a. Giải thích sự hình thành liên kết giữa các nguyên tử trong phân tử có liên kết cộng hóa trị
b. Phân biệt được liên kết cộng hóa trị có cực và không có cực. 3. Mức độ vận dụng:
a. Viết được sự hình thành liên kết giữa các nguyên tử trong phân tử có liên kết cộng hóa trị
b. Xác định phân tử có liên kết cộng hóa trị Bài học: CÂU Môn Văn - Lớp 10
Mục tiêu: Sau bài học, Học sinh có khả năng 1. Mức độ biết:
a. Nêu định nghĩa từng kiểu câu 2. Mức độ hiểu:
a. Phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp và theo mục đích phát ngôn.
b. Mô tả cấu tạo của từng kiểu câu
c. Cho ví dụ từng kiểu câu
d. Giải thích ý nghĩa, cách dùng từng kiểu câu
e. Phân biệt các kiểu câu hai thành phần; câu đặc biệt; câu tỉnh lược
f. So sánh câu ghép với câu phức; câu ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ 3. Mức độ vận dụng:
a. Viết câu đúng ngữ pháp
b. Giải hết và giải đúng các bài tập trong sách giáo khoa
Để có thể phát biểu mục tiêu một cách rõ ràng có thể dùng những động
từ theo mô hình phân bậc mục tiêu nhận thức của B.S Bloom dưới đây: Mức độ Kết quả Động từ mẫu Biết
Học sinh gợi lại hoặc định nghĩa, liệt kê, thuật lại, vẽ, định vị, nhìn nhận thông tin
lựa chọn, nhận dạng, gắn nhãn, ráp nối, nêu tên, phát biểu Hiểu Học sinh
chuyển Phân loại, minh họa, kể lại,
thông tin sang thức Biểu lộ, gộp, viết lại, biểu tượng Mô tả, nhóm, chỉ ra
Giải thích, diễn giải, tóm tắt Khái quát, xếp thứ tự Áp dụng
Học sinh sử dụng kiến Áp dụng, kiểm tra, phỏng đoán,
thức để giải quyết vấn So sánh, trình diễn, phỏng vấn đề
Tranh luận, điều tra, chứng minh
Vẽ sơ đồ, lưu trữ, tìm kiếm Kết luận, làm, dịch Khám phá, xây dựng Phân tích
Học sinh chia thông Phân tích, kiểm nghiệm, đối chiếu tin thành các phần
Suy luận, thuật lại, mổ xẻ, Định rõ Tổng hợp
Học sinh giải quyết Kết hợp, biểu diễn, dàn dựng
vấn đề bằng cách kết Tạo lập, lên kế hoạch, duyệt lại
hợp các thông tin với Thiết kế, phát triển, kể lại nhau bằng phương tư duy sáng tạo độc lập
Tưởng tượng, đề xuất Đánh giá Học
sinh đưa ra Tranh luận, tính điểm, giới thiệu
những đánh giá định Khích lệ, đánh giá, ủng hộ
lượng và định tính Chọn lựa, bào chữa, kiểm tra dựa trên những tiêu chuẩn đã đặt ra
Phê phán, xếp hạng xác minh Phê bình, tính tỉ lệ
II. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM
1. Những cơ sở xác định mục đích giáo dục
1.1. Thực trạng giáo dục Việt Nam
* Hội nghị trung ương II (khóa VIII) đã nhận định tình hình giáo dục
trong những năm qua như sau:
- Mạng lưới trường học phát triển khắp mọi miền trên đất nước, kể cả ở
các vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, hầu hết các xã ở đồng bằng đã
có trường trung học cơ sở, các huyện đều có trung học phổ thông, nhiều
huyện, tỉnh miền núi có trường dân tộc nội trú.
- Đã ngăn chặn được sự giảm sút qui mô và có bước tăng trưởng khá.
- Cả nước có hơn 20 triệu học sinh; Hiện có 16 tỉnh, thành phố, 57% số
huyện, 76 % số xã đạt tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học. So với 91-92, năm học 95-96 H PT tăng 1.25 lần, sinh viên tăng
2.7 lần, giáo dục sau đại học đào tạo nhiều cán bộ có trình độ cao.
- Chất lượng giáo dục có nhiều tiến bộ bước đầu trên một số mặt về
các môn khoa học tự nhiên và kỹ thuật ở bậc phổ thông và đại học tập trung.
Học sinh đạt giải trong các kỳ thi quốc tế ngày càng tăng.
Xét một cách khách quan công bằng thì giáo dục đào tạo đã góp phần
quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ lao động và đội ngũ
cán bộ đông đảo phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng.
Tuy nhiên giáo dục Việt Nam còn nhiều yếu kém bất cập cả về quy mô,
cơ cấu, nhất là về chất lượng và hiệu quả; chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi
lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo đang đứng
trước một mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát triển nhanh quy mô đào
tạo, vừa phải gấp rút nâng cao chất lượng đào tạo.
* Những thách thức cho sự nghiệp giáo dục hiện nay:
- Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu xã hội ở các
vấn đề hình thành phát triển nhân cách, kỹ năng sống và lao động, đạo đức
công dân, ý thức chính trị, chuẩn bị cho thế hệ trẻ vào đời, hướng nghiệp,
giáo dục kỹ năng nghề nghiệp...
- ĐK thực hiện chất lượng giáo dục- đào tạo như lương giáo viên, sách
giáo khoa và các tài liệu giảng dạy, cơ sở hạ tầng của nhà trường, thiết bị đồ
dùng dạy học, hệ thống trường sư phạm... đều còn quá thấp.
- Môi trường giáo dục nhiều nơi chưa lành mạnh, tích cực: chưa kết
hợp chặt chẽ và tạo sự thống nhất về phương hướng, nội dung, phương pháp
giáo dục ở ba môi trường giáo dục.
- Hiệu quả trong và ngoài còn thấp: tỉ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp
thấp; năng lực thực hành, kỹ năng sống và lao động thích ứng với yêu cầu
của bản thân, gia đình, cộng đồng, đất nước và thời đại còn yếu.
- Phần lớn học sinh tiểu học chưa học đủ 9 môn, ảnh hưởng xấu tới sự
phát triển toàn diện nhân cách.
- Phần lớn học sinh trung học phổ thông chỉ theo đuổi mục đích vào đại
học do nhà trường chưa làm tốt công tác hướng nghiệp, chuẩn bị nghề đi vào
cuộc sống lao động cho học sinh.
- Hệ thống các trường trung cấp chuyên nghiệp dạy nghề kém phát
triển, quy mô nhỏ, chất lượng thấp.
- Quy mô sinh viên còn rất nhỏ, cơ cấu đội ngũ sinh viên còn nhiều bất
hợp lý, chất lượng dạy học đại học còn quá nhiều vấn đề, hiệu quả đáp ứng
các yêu cầu xã hội còn thấp.
+ Tình hình giáo dục đào tạo sau 5 năm thực hiện NQTW2 - khóa 8:
* Những kết quả nổi bật:
- Quy mô giáo dục không ngừng tăng lên, mạng lưới trường lớp được
mở rộng, các mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đã được
thực hiện, công cuộc phổ cập giáo dục trung học cơ sở đang được đẩy mạnh,
vừa học vừa làm đang trở thành sinh hoạt tương đối phổ biến trong đời sống xã hội.
- Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến tích cực. Các hoạt động
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đã đem lại hiệu quả thiết
thực, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, đối chiếu với yêu
cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước và so sánh với trình độ giáo
dục - đào tạo của các nước có nền kinh tế phát triển trong khu vực và trên thế
giới thì chất lượng và hiệu quả giáo dục của nước ta có phần yếu kém. Nâng
cấp chất lượng và hiệu quả vẫn là bức xúc, là thách thức chủ yếu mà ngành
giáo dục phải cố gắng vượt qua.
- Các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục không ngừng được củng
cố, tăng cường và có nhiều chuyển biến tích cực (đội ngũ giáo viên, cơ sở vật
chất kỹ thuật, trường lớp, thiết bị dạy học...)
+ Tập trung xây dựng đội ngũ giáo viên nhằm đồng bộ hóa về cơ cấu
và chuẩn hóa về trình độ đào tạo.
+ Kết hợp nhiều nguồn vốn để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà
trường, tạo điều kiện nâng cao chất lượng dạy và học.
+ Tăng ngân sách giáo dục, bảo đảm yêu cầu định mức do NQTW2 đề
ra. Mặc dù vậy ngân sách nhà nước chỉ mới đáp ứng khả năng 70% nhu cầu
tối thiểu của giáo dục. Phần lớn ngân sách dùng để trả lương và các khoản phụ cấp theo lương.
Tỉ lệ ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo: 1998 1999 2000 2001 2002 2004 13.7 14.1 15.0 15.3 15.5 11.83%
- Chủ trương xã hội hóa giáo dục đang phát huy tác dụng và đã góp
phần quan trọng làm cho giáo dục thực sự trở thành sự nghiệp của toàn dân, toàn Đảng.
- Công bằng xã hội trong giáo dục được quan tâm thực hiện, có nhiều
biện pháp trợ giúp, tạo điều kiện học tập cho con em gia đình thuộc diện
chính sách, con em đồng bào dân tộc và học sinh nghèo vượt khó.
- Mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ sự hỗ trợ của nhiều cơ sở giáo
dục đại học, nghiên cứu khoa học nước ngoài và các tổ chức quốc tế.
- Công tác quản lý ngành đã đạt được một số hiệu quả đáng ghi nhận.
* Những yếu kém, tồn tại và nguyên nhân:
- Chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển
đất nước, chưa tiếp cận với trình độ và kết quả giáo dục ở các nước phát
triển trong khu vực và trên thế giới.
+ Học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về năng lực tư duy sáng
tạo, về kỹ năng thực hành, về khả năng thích ứng nghề nghiệp.
+ Nội dung, chương trình còn thiên về lý thuyết, ít gắn với thực tế cuộc
sống, thiếu tính liên thông giữa các cấp học, bậc học, các loại hình đào tạo.
+ Phương pháp dạy học còn lạc hậu, nặng về truyền thụ một chiều, ít
phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
+ Giáo dục thể chất và thẩm mỹ còn thiên về hình thức, thiếu điều kiện
thực hiện nên ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện.
+ Việc giảng dạy các bộ môn xã hội, nhân văn cũng như công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và nhân cách cho học sinh chưa đạt hiệu quả cao.
- Cơ cấu giữa các cấp học, bậc học, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu xã
hội, cơ cấu vùng miền trong hệ thống giáo dục còn chưa hợp lý.
- Đội ngũ giáo viên còn nhiều bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
- Công tác quản lý còn nhiều yếu kém, bất cập nên tình trạng vi phạm
kỷ cương, nền nếp, các biểu hiện “thương mại hóa” giáo dục chưa được ngăn chặn kịp thời. * Nguyên nhân:
- Trình độ quản lý nhà nước và giáo dục chưa theo kịp thực tiễn và nhu cầu phát triển.
- Nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường nhưng ngành giáo dục
vẫn chưa thoát khỏi những quan niệm và cách làm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp.
- Nhiều vấn đề lý luận phát triển giáo dục trong giai đoạn mới chưa
được nghiên cứu đầy đủ để làm căn cứ cho các chủ trương.
- Việc kết hợp giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội thiếu biểu hiện cụ thể.
- Nhu cầu học tập của xã hội rất cao nhưng năng lực và điều kiện đảm
bảo chất lượng, hiệu quả giáo dục còn hạn chế.
1.2. Quan điểm phát triển con người toàn diện
Quan điểm phát triển toàn diện đã xuất hiện từ lâu và có tính xã hội lịch
sử theo từng giai đoạn phát triển xã hội ở mỗi quốc gia như:
+ Thời Cổ đại: mục đích giáo dục nhằm đào tạo thanh thiếu niên trở
thành con người phát triển toàn diện. Ở Ba tư, Hy lạp hướng đến việc đào tạo
con người giỏi võ nghệ đồng thời có uy tín, đạo đức tốt.
+ Thời Phong kiến: Nội dung giáo dục cũng mang tính toàn diện, các
lãnh chúa phong kiến hướng đến việc đào tạo con em họ thành những kỵ sĩ
phong nhã. Ở Trung quốc tính toàn diện thể hiện ở phẩm chất người quân tử “Nhân - Trí - Dũng”.
+ Thời Phục hưng: Các nhà giáo dục đề cao vẻ đẹp thân thể và ca ngợi
những khoái cảm tinh thần trong nghệ thuật, âm nhạc, văn chương.
+ Thế kỷ XVI - XIX: Hoạt động lao động được đưa vào khái niệm phát
triển toàn diện thông qua việc kết hợp dạy học với lao động sản xuất.
J.J.Rousseau nêu lên sự cần thiết chuẩn bị cho trẻ em tham gia lao động và
thường xuyên giao tiếp với thiên nhiên.
K. Marx và F.Engels gắn việc đào tạo con người phát triển hài hòa, toàn
diện với việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Trong thời kỳ hiện đại việc hình thành nhân cách phát triển toàn diện
cho thế hệ đang lớn lên vẫn là mục đích lý tưởng của nền giáo dục các nước.
Hiện nay khái niệm này được hiểu như sau: Phát triển toàn diện con người là
phát triển hài hòa, cân đối giữa thể lực và trí lực, đức và tài, phát triển cá tính
và sự phong phú của con người, phát triển một cách tự do, đầy đủ và làm
chủ, thích ứng với sự di động chức năng xã hội của con người.
1.3. Xu thế giáo dục của thế giới: gồm 4 hướng lớn
1.3.1 Tăng cường giáo dục nhân văn: Tư tưởng chủ yếu của giáo dục
nhân văn hiện nay trên thế giới là: tinh thần hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bao
dung. Ở Việt Nam giáo dục nhân văn vẫn thường chú ý đến những giá trị của
lòng nhân ái và độ lượng.
Trên thế giới hiện nay, các nước độc lập nhưng phụ thuộc lẫn nhau,
độc lập và hội nhập, hợp tác và đấu tranh với nhau. Vì vậy cần giáo dục con
người có thái độ tôn trọng nhau, chiêm ngưỡng nhau, lắng nghe nhau.
* Các nội dung giáo dục các giá trị nhân văn cho học sinh hiện nay:
- Nhóm giá trị đối với bản thân và người khác:
+ Giữ gìn sức khỏe của mình cũng như của người khác + Tự trọng, tự chủ + Thẳng thắn, cởi mở
+ Biết chấp nhận người khác: thừa nhận và tin cậy, tiếp nhận những cái
tốt, tôn trọng ý kiến, hợp tác
- Nhóm giá trị đối với gia đình, bạn bè: + Kính trọng cha mẹ + Thương yêu anh chị em
+ Đối xử với bạn như anh em
- Nhóm giá trị đối với cộng đồng, quốc gia:
+ Có mối thiện cảm với hành xóm láng giềng
+ Biết ứng xử vì lợi ích chung
+ Quan tâm đến sự phát triển và sự an toàn, hạnh phúc của quốc gia + Tôn trọng luật pháp
- Nhóm giá trị đối với các dân tộc trên thế giới:
+ Hiểu biết mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và tăng cường sự hợp tác quốc tế
+ Biết đánh giá nền văn hóa và tôn trọng các dân tộc khác
+ Hiểu biết về sư gia tăng dân số, sự ô nhiễm môi trường
+ Có trách nhiệm góp phần gìn giữ hòa bình thế giới.
- Nhóm giá trị đối với môi trường sống và các sinh vật khác:
+ Hiểu biết những mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên
+ Có trách nhiệm duy trì trái đất như môi trường sống hiện nay
+ Có trách nhiệm sử dụng các nguồn sống một cách khôn ngoan
+ Làm ô nhiễm môi trường ở mức thấp nhất và biết ứng xử đối với các sinh vật khác
1.3.2. Đẩy mạnh công nghệ - thông tin: Các nước muốn thoát khỏi
nghèo nàn thì phải tiếp nhận công nghệ mới, trước nhất là công nghệ thông
tin và phải đưa công nghệ đó vào mọi lĩnh vực của sản xuất và đời sống, vấn
đề đặt ra là phải dạy tin học cho trẻ em từ mẫu giáo, tiểu học.
1.3.3. Đào tạo người có năng lực: Người có khả năng đóng góp thực sự
vào sự tiến bộ của xã hội, biết làm kinh tế, biết quản lý, phát triển xã hội. Xu
thế giáo dục cho con người có tinh thần và thái độ tự lập càng sớm càng tốt
đồng thời đào tạo con người có tri thức và những kỹ năng cụ thể để tinh
thông trong hoạt động nghề nghiệp.
1.3.4. Hiện đại hóa các phương pháp: Thực chất là dùng các phương
tiện hiện đại để thực hiện việc cá thể hóa phương pháp dạy học. Xu thế của
các nước tiên tiến hiện nay là dạy học theo từng học sinh, từng xu hướng,
năng lực, hứng thú và triển vọng của mỗi học sinh. Dạy học theo cho từng
học sinh là một xu thế hiện đại đòi hỏi phải có điều kiện rất cao, trước hết là
sự đầu tư và sử dụng ngân sách cho giáo dục.
1.4. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội từ nay đến 2010
* Mục tiêu tổng quát: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa. * Mục tiêu cụ thể:
- Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000 để đưa nước ta
thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
GDP bình quân đầu người là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá trình
độ phát triển của một quốc gia. Những nước có GDP bình quân đầu người
dưới 500 USD mỗi năm được xem là nước kém phát triển. Hiện nay GDP
bình quân đầu người của nước ta theo giá hiện hành khoảng gần 400 USD.
Nếu tốc độ phát triển dân số đến 2010 còn 1.1 - 1,2% và nhịp độ tăng GDP
bình quân đạt 7,5%/ năm thì đến 2010 GDP bình quân đầu người của nước
ta sẽ đạt khoảng từ 700 - 750 USD. Dĩ nhiên tiêu chuẩn nước kém phát triển
lúc ấy sẽ cao hơn mức hiện nay, nhưng với mức trên nước ta sẽ thoát khỏi
tình trạng kém phát triển.
- Giảm tỉ lệ lao động nông nghiệp còn 50% để tạo nền tảng đến 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá một nước là nông nghiệp hay công
nghiệp, nhưng chỉ tiêu quan trọng là tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số
lao động cả nước (những nước công nghiệp phát triển cao hiện nay tỷ lệ lao
động nông nghiệp chỉ chiếm từ 2 - 6 %). Ít ra tỷ lệ này phải thấp hơn đáng kể
so với tỷ lệ lao động công nghiệp và dịch vụ thì mới có thể gọi là nước công
nghiệp. Mục tiêu đặt ra là đến 2010 tỷ lệ lao động trong nông nghiệp ở nước
ta còn khoảng 50% và 10 năm sau đó sẽ tiếp tục giảm hơn nữa để đến năm
2020 nước ta trở thành nước công nghiệp.
* Quan điểm phát triển kinh tế:
- Coi phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đồng
bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là nhiệm vụ trung tâm.
- Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với việc chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.5. Những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam
Hệ thống giá trị truyền thống của Việt Nam rất phong phú, đã được lịch
sử công nhận và thế giới tôn trọng, trong đó nổi lên:
- Tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, lòng tự hào dân tộc. Ngày nay
truyền thống được giữ vững và nêu cao qua ý chí tự lập, tự cường, độc lập,
tự chủ, hòa nhập nhưng không hòa tan.
- Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng. Hiện nay toàn dân đang cùng
nhau một lòng rửa nhục đói nghèo, lạc hậu.
- Truyền thống nhân ái, nhân đạo, nhân văn.
- Truyền thống hiếu học, tôn sư, trọng đạo.
1.6. Các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục
- Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung và phương pháp
giáo dục - đào tạo. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa
học, hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu
sắc giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định
tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát
triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo, đặc
biệt là chính sách tiền lương và chính sách cán bộ.
- Phát triển giáo dục đào tạo gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội, những tiến bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh.
- Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và của toàn dân.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo.
- Giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hóa
các loại hình đào tạo.
2. Mục đích giáo dục tổng quát
2.1. Nâng cao dân trí
* Khái niệm dân trí
Dân trí là trình độ hiểu biết, trình độ trí tuệ của người dân.
Dân trí có liên quan đến các vấn đề nhân quyền, dân sinh, dân chủ và
những vấn đề có liên quan đến dân tộc và toàn cầu: sự bùng nổ dân số, bệnh
AIDS, bảo vệ môi trường, bảo vệ hòa bình.
Dân trí là kết quả tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục: nhà trường, gia
đình, xã hội nhưng giáo dục nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân đóng vai trò nòng cốt.
* Thực trạng dân trí nước ta
- Chỉ tiêu phát triển giáo dục ở các bậc học còn thấp hơn mức trung bình. VN Phát triển Trung bình Chậm Bậc tiểu học 85% 98% 91% 74% Trung học 35% 64% 46% 34% Đại học 3% 23% 14% 5,7%
- Số năm học trung bình của người dân chưa đạt được 5 năm theo tiêu
chuẩn quốc tế để công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Xét trên góc độ
kinh tế học giáo dục tiêu chuẩn quốc tế để một quốc gia tiến hành hiện đại
hóa, công nghiệp hóa là số năm đi học trung bình của người dân tối thiểu phải là 5 năm. 1979
số năm học trung bình của Việt Nam là 4.4 năm 1989 4.5 năm 2002 4.9 năm (nam 6.2;nữ 3.6)
- Trẻ em bỏ học còn nhiều.
* Mục tiêu nâng cao dân trí đến 2020
+ Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc mầm non. Phổ biến kiến thức
nuôi dạy trẻ trong gia đình.
+ Nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học. Hoàn thành phổ cập
giáo dục trung học cơ sở năm 2010 và trung học phổ thông năm 2020.
Nước Pháp năm 1790 có luật phổ cập tiểu học. Nhật bản phổ cập tiểu
học năm 1900, Trung quốc và Thái lan phổ cập trung học cơ sở năm 2000.
+ Phát triển giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và khó khăn, phấn
đấu giảm chênh lệch về phát triển giáo dục ở các vùng lãnh thổ.
2.2. Đào tạo nhân lực: là một mục tiêu lớn cực kỳ quan trọng đối với
sự phát triển một đất nước nhất là trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khái niệm về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là số dân và chất lượng con người, bao gồm thể chất
và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất. Nguồn nhân lực dồi
dào thể hiện ở sức mạnh trí tuệ, tay nghề, chất lượng và hiệu quả lao động.
Phát triển nguồn nhân lực là đào tạo người có năng lực lao động, làm
mỗi người tự tạo và phát triển bản thân thực sự là chủ thể của lao động, đủ
trách nhiệm phát huy năng lực, tạo ra sản phẩm lao động. Phát triển nguồn
nhân lực còn tập trung vào việc chuyển dịch cơ cấu phân công lao động, giải
quyết việc làm, phân bổ nguồn nhân lực, đào tạo lại, đào tạo mới, chính sách
công nghệ, quản lý vĩ mô nguồn nhân lực.
Việc đào tạo nhân lực phải thông qua hệ thống giáo dục quốc dân mà
trực tiếp là ngành giáo dục chuyên nghiệp và đại học nhưng các bậc học khác
cũng phải hướng vào mục tiêu này trong việc tạo cơ sơ, nhất là cơ sở nhân
cách để tiến tới mục tiêu.
* Thực trạng nhân lực nước ta + Cơ cấu lao động:
- Nông nghiệp và lâm nghiệp 71%; công nghiệp, giao thông, xây dựng, bưu điện 15%;
Số liệu thống kê cho thấy nước ta đang ở trong tình trạng cơ cấu của
một nước nông nghiệp. Hiện có 75% lao động của cả nước đang ở trong khu
vực nông nghiệp, đem lại 25% tổng sản phẩm của cả nước, cho thấy chúng
ta đang ở điểm thấp của quá trình phát triển đi lên công nghiệp hóa.
Trình độ và cơ cấu đào tạo: Hiện nay mới có 15% tổng số người lao
động đã qua đào tạo. Tỉ lệ đào tạo các lực lượng lao động rất mất hợp lý:
- số lượng công nhân gần bằng cán bộ kỹ thuật
- số cán bộ tốt nghiệp đại học nông nghiệp chỉ chiếm 8.1%
Vì vậy có nhiều sinh viên ra trường chưa có việc làm trong khi nhiều
vùng miền núi, vùng sâu vùng xa thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật.
+ Hiện trạng đội ngũ giáo viên phổ thông năm học 1999 - 2000:
Tổng số 614.807 người, còn thiếu 98.110 giáo viên
Cơ cấu độ ngũ giáo viên thiếu đồng bộ, đặc biệt là thiếu rất nhiều giáo
viên các bộ môn: Nhạc họa, Thể dục, Công nghệ, Đạo đức - Công dân, ngoại ngữ (50.891 người) Trình độ đào tạo: Cấp học Tỉ lệ G đạt chuẩn Chuẩn đào tạo Tiểu học 66.70 Trung học sư phạm THCS 86.32 Cao đẳng SP THPT 93.60 Đại học SP
So sánh nguồn nhân lực Việt Nam và Hàn quốc (người/ triệu dân) Nước Đại học Kỹ thuật viên Việt Nam 9.429 13. 636 Hàn quốc 52.000 69.790
Số lượng cán bộ hiện có của chúng ta chưa đủ đáp ứng yêu cầu của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
* Mục tiêu đào tạo nhân lực đến 2020
- Phát triển đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp, đẩy mạnh đào
tạo công nhân lành nghề.
- Nâng cao chất lượng và bảo đảm đủ số lượng giáo viên cho toàn bộ
hệ thống giáo dục. Tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa các điều kiện. Phấn đấu
có một số cơ sở đại học và trung học chuyên nghiệp đạt tiêu chuẩn quốc tế.
2.3. Bồi dưỡng nhân tài
* Khái niệm về nhân tài
Nhân tài là người có tài năng xuất sắc, thông minh, trí tuệ phát triển, có
một số phẩm chất nổi bật, giàu tính sáng tạo trong cuộc đời, họ đạt được
thành tích mới với chất lượng cao, vượt hẳn lên so với người đương thời.
Cấu trúc của tài năng bao gồm: sự thông tuệ (trình độ tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo rộng và cao, phong phú và đa dạng); năng lực tư duy; năng lực sáng
tạo; đạo đức trong sáng. Sự thông tuệ có thể đạt được bằng hai con đường
chủ yếu: học tập, rèn luyện trong nhà trường và học tập trải nghiệm trong
cuộc sống. Toàn bộ hệ thống giáo dục cùng với gia đình và xã hội đều phải
chăm lo đào tạo và sử dụng nhân tài.
* Vị trí của nhân tài trong sự phát triển xã hội:
- Nhân tài đóng góp tích cực vào sự hưng thịnh của đất nước, mở ra
những mũi đột phá trong văn hóa, khoa học kỹ thuật, tạo đà phát triển mạnh
mẽ của kinh tế - xã hội.
- Nhân tài có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển xã hội lịch sử. Vì vậy ở
thời đại nào, quốc gia nào người tài cũng được coi trọng. Việc bồi dưỡng, sử
dụng nhân tài đều được xem là quốc sách. Chẳng hạn như:
+ Trong “Tam quốc chí” đã kể lại rằng, Lưu Bị đã kiên nhẫn cất công 3
lần mời gọi Gia Cát Lượng (Khổng Minh), một người có tài tham mưu, đi theo
hỗ trợ Lưu Bị. Sự ưu ái của Lưu Bị đối với người tài đã thuyết phục Gia Cát
Lượng đóng góp mưu trí giúp Lưu Bị bảo vệ được lãnh thổ trước sự tấn công của các đối thủ.
+ Ông cha ta xem nhân tài là nguyên khí của đất nước. Bia tiến sĩ ở
Văn Miếu – Quốc tử Giám còn ghi: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia,
nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và càng lên cao, nguyên khí suy thì thế
nước hèn và càng xuống thấp, cho nên các bậc thánh đế minh vương đời
xưa, chẳng có đời nào không chăm bón nhân tài, bồi đắp nguyên khí cho đất nước.”
+ Trong “Bình Ngô đại cáo” Lê Lợi, Nguyễn Trãi cũng thừa nhận những
khó khăn ban đầu của cuộc kháng chiến chống quân Minh là do thiếu nhân tài
“nhân tài như lá mùa thu, Tuấn kiệt như sao buổi sớm”
+ Ngày nay Đảng và nhân dân ta cũng hết sức chú ý đến việc bồi
dưỡng nhân tài. Việc đào tạo, bồi dưỡng nhân tài luôn được nhận thức là một
trong những yếu tố quan trọng nhất để xây dựng và bảo vệ đất nước.
2.4. Mối quan hệ giữa 3 mục tiêu nâng cao dân trí - đào tạo nhân
lực - bồi dưỡng nhân tài
+ Mặt bằng dân trí là nền tảng, là điều kiện then chốt để đào tạo nguồn
nhân lực. Trình độ dân trí ảnh hưởng lớn đến trình độ nghề nghiệp và năng suất lao động.
+ Việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài phải dựa trên nền kinh tế - xã
hội phát triển, ổn định (có nguồn nhân lực dồi dào) và dựa trên sự phổ cập giáo dục (dân trí)
+ Nhân tài được phát hiện và bồi dưỡng sẽ là nguồn lực to lớn để nâng
cao dân trí và phát triển nhân lực
3. Mục tiêu phát triển nhân cách
Quan điểm chỉ đạo của Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII về mục tiêu phát triển nhân cách hiện nay là: “Xây dựng
những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và
bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa của dân tộc, có khả năng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng
đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và
công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng giỏi, có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức khỏe, là những người thừa kế xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”.
Có thể hình dung mô hình nhân cách của con người được đào tạo theo
yêu cầu của xã hội hiện nay theo cấu trúc như sau:
- Về tri thức: làm chủ tri thức khoa học công nghệ và có tư duy sáng tạo.
- Về kỹ năng: có khả năng thực hành giỏi - Về thái độ:
* Đối với Tổ quốc, dân tộc
+ Thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
+ Có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc và quyết tâm tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
+ Giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc, tiềm năng dân tộc và con người Việt Nam
* Đối với lao động và đời sống xã hội:
+ Có tác phong công nghiệp
+ Có tính tổ chức và kỷ luật
+ Có ý thức cộng đồng * Đối với bản thân
+ Có đạo đức trong sáng
+ Có tính tích cực cá nhân + Có sức khỏe
Nhìn chung đó là mô hình nhân cách của người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Hiện nay, thế giới có sự thay đổi trong trật tự bộ ba mục tiêu đào tạo:
Kiến thức -> Thái độ và năng lực Kỹ năng -> Kỹ năng
Thái độ và năng lực -> Kiến thức Nguyên nhân là do:
+ Sự bùng nổ thông tin tác động mạnh mẽ lên nội dung giảng dạy, yêu
cầu phải xác định những quan niệm cơ bản và tổ chức việc học hướng vào
những vấn đề cụ thể phải giải quyết. Trước khối lượng thông tin đồ sộ và hỗn
độn đó con người cần phải có những thái độ và năng lực cần thiết để có thể
tự định hướng, biết lựa chọn và sử dụng những dữ kiện của khoa học và công nghệ như:
Thái độ: sự nghiêm túc, ý thức trách nhiệm, lòng khoan dung, tính nhạy
cảm, tinh thần độc lập...
Năng lực: đặc biệt là năng lực trí tuệ: phân tích, so sánh, khái quát hóa, tổng hợp,...
+ Sự mở rộng mục đích dạy học và đặc trưng của việc học trong thế kỷ 21
- Học tập suốt đời: khái niệm này gắn với quan niệm về một xã hội học
tập trong đó mọi người đều có cơ hội học tập và phát huy tiềm năng của mình.
- Bốn trụ cột của giáo dục
- Học để biết: Một cơ sở văn hóa chung và đủ rộng với khả năng làm
việc sâu trên một số lượng nhỏ chủ đề. Quan trọng nhất là học cách học,
nhằm tận dụng các cơ hội do giáo dục suốt đời mang lại.
Học là để thu nhận thông tin, tiếp thụ tri thức đồng thời biết tạo lập, sử
dụng thành thạo tri thức như là các công cụ tâm lý. Việc học tập vừa là
phương tiện vừa là mục đích.
Là phương tiện: học tập giúp con người hiểu được môi trường sống và
làm việc của mình, để sống trong nhân phẩm, phát triển kỹ năng nghề nghiệp và giao tiếp.
Là mục đích: học tập đem lại sự thỏa mãn hiểu được, biết được, phát
hiện, phát minh, tư duy độc lập, có ý kiến riêng và có khả năng phê phán.
Học tập trong thời đại mới giúp người học có khả năng tập trung chú ý,
ghi nhớ và tư duy. Đây là ba công cụ tâm lý rất cơ bản để bảo đảm việc học
tập trong nhà trường đạt kết quả. Tóm lại, giáo dục trong nhà trường là kết
quả khi tạo được cơ sở và động lực cho người học tiếp tục học tập, rèn luyện suốt đời.
- Học để làm: liên quan đến việc nắm vững những kỹ năng, việc ứng
dụng kiến thức và một bộ những kỹ năng gọi là những kỹ năng sống. Học để
làm nhằm nắm được những kỹ năng nghề nghiệp và khả năng đối mặt với
nhiều tình huống và biết làm việc đồng đội.
Ngoài ra giáo dục phải chuyển từ đào tạo kỹ năng sang việc hình thành
tay nghề và lương tâm nghề nghiệp.
- Học để cùng chung sống: Học để hiểu được người khác thông qua sự
hiểu chính mình, mong cam kết làm việc với nhau lâu dài, cảm nhận sâu sắc
sự phụ thuộc lẫn nhau trong việc thực hiện những dự án chung, hiểu rõ
những tác động qua lại và có thái độ đúng đắn, chung sống trong sự tôn trọng
lẫn nhau, cần giáo dục thái độ tôn trọng các dân tộc khác, các nền văn hóa,
các giá trị tinh thần của họ. Giáo dục phải chú ý tới hai nội dung sau:
Học biết phát hiện ra người khác: Mỗi người, mỗi dân tộc phải biết rõ
mình, đồng thời phải hiểu người khác: biết mình, biết người. Giáo dục mỗi
người có thái độ thiện cảm, thông cảm với người khác, dân tộc khác, tôn giáo khác.
Cùng làm việc vì các mục đích chung: Dạy cho trẻ tinh thần hợp tác,
quan tâm tới nhau vì các mục đích chung.
- Học để tự khẳng định mình, giáo dục giúp con người phát triển độc
lập, có đầu óc phê phán, có chính kiến và bản lĩnh sống (tự mình quyết định
sự suy nghĩ và hành động, thực hiện suy nghĩ của mình trong những hoàn
cảnh khác nhau). Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục thế kỷ 21 là mang lại cho
mọi người sự tự do suy nghĩ, phán đoán, tình cảm và trí tưởng tượng để có
thể phát triển tài năng của mình và tự kiểm tra cuộc sống của mình. Tránh
giáo dục cào bằng hành vi cá thể mà cần tạo ra những nhân cách đa dạng, tài
năng, khuyến khích sự phát triển đầy đủ nhất tiềm năng sáng tạo của mỗi con
người với toàn bộ sự phong phú và sự phức tạp của họ.
III. NHIỆM VỤ GIÁO DỤC
Nhiệm vụ giáo dục là những bộ phận hợp thành của quá trình giáo dục
nhằm thực hiện mục đích giáo dục một cách toàn diện và cân đối.
* Các loại nhiệm vụ giáo dục:
- Theo cấu trúc của nhân cách: giáo dục lý trí, giáo dục tình cảm, giáo
dục ý chí; hoặc giáo dục cảm giác, giáo dục nhu cầu, giáo dục tính cách...
- Theo các bộ phận của nền văn hóa: giáo dục triết lí, giáo dục khoa
học, kỹ thuật, kinh tế, pháp luật, nghệ thuật, thể thao...
- Theo các chức năng xã hội cần chuẩn bị cho học sinh: giáo dục công
dân, giáo dục lao động, giáo dục quân sự, giáo dục giới tính...
- Theo Các Mác: giáo dục tâm trí, giáo dục thể chất và đào tạo kỹ thuật tổng hợp.
- Theo Giáo dục học phương Đông gồm 4 nhiệm vụ: giáo dục đạo đức,
giáo dục trí tuệ, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ.
- Theo định hướng của các nguyên lý giáo dục: giáo dục tư tưởng,
chính trị, đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục lao động, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ.
* Yêu cầu của từng loại nhiệm vụ giáo dục:
1. Giáo dục đạo đức:
Nhiệm vụ này đòi hỏi phải giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, pháp
luật xã hội chủ nghĩa cho học sinh, xây dựng cho họ ý thức, tình cảm, ý chí và
thói quen hành vi về chính trị - đạo đức.
- Về mặt tư tưởng: giáo dục cho học sinh hệ tư tưởng Mác- Lê nin, bao
gồm thế giới quan duy vật biện chứng, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa,
tư tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
- Về mặt chính trị - pháp quyền: giáo dục đường lối chính sách của
Đảng và pháp chế của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Về mặt đạo đức: giáo dục lòng yêu nước, yêu lao động, yêu khoa học
và yêu những giá trị văn hóa tiến bộ của loài người, đồng thời trân trọng và
phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hình thành những phẩm
chất đạo đức tốt đẹp cho học sinh như đức hy sinh, dũng cảm, tính liêm khiết,
trung thực, khiêm tốn, tự tin, tự trọng...
Phẩm chất đạo đức là một trong các mặt quan trọng nhất của ý thức xã
hội, tiêu biểu cho bộ mặt xã hội đương thời, nên giáo dục đạo đức được coi là
nhiệm vụ hàng đầu, luôn gắn chặt và thấm sâu vào các mặt giáo dục khác là
trí dục, thể dục và mỹ dục. Một con người thông minh, tài hoa, khỏe mạnh chỉ
thực sự làm nên sự nghiệp giúp ích cho xã hội khi có được cái tâm, cái đức
làm người, sẵn sàng đem trí tuệ, sức lực, tài hoa cống hiến cho lý tưởng cao
đẹp của nhân dân lao động, của dân tộc và của loài người tiến bộ mà không
tính toán do dự, khuất phục trước mọi thử thách, gian lao. Đạo đức không
phải là yếu tố bẩm sinh mà là một tố chất đặc biệt mà mỗi con người phải học
hỏi tiếp thu và dày công rèn luyện suốt đời. Vì vậy giáo dục đạo đức trong nhà
trường không gói gọn trong môn đạo đức, công dân mà cần được thực hiện
trong tất cả các môn học và các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà
trường. Hình thức và phương pháp giáo dục đạo đức phải phong phú và đa
dạng theo nguyên tắc lý thuyết gắn với thực tiễn, nói đi đôi với làm, nhà giáo
dục phải là tấm gương về đạo đức cho học sinh noi theo.
2. Giáo dục trí tuệ:
- Trau dồi cho học sinh hệ thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản,
hiện đại, toàn diện và tổng hợp về tự nhiên, xã hội, và con người.
- Xây dựng cho học sinh hệ thống những quan điểm và niềm tin khoa
học vững chắc và thái độ cải tạo đối với thiên nhiên, xã hội và con người.
- Rèn luyện cho học sinh những kỹ năng vận dụng tri thức và phương
pháp tự học, tự nghiên cứu
- Phát triển ở học sinh các năng lực trí tuệ và những phẩm chất tư duy,
thói quen lao động trí óc khoa học
- Khơi dậy lòng ham hiểu biết, nhu cầu mở rộng và thực hành tri thức.
Giáo dục trí tuệ phải theo đúng các nguyên lý giáo dục: gắn liền lý
thuyết với thực tiễn, học đi đôi với hành thông qua các dạng hoạt động học
tập, thực hành, thực tập, lao động sản xuất, lao động công ích...
3. Giáo dục lao động:
- Rèn luyện cho học sinh những thao tác và kỹ năng lao động cơ bản,
linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ và máy móc đơn giản.
- Phát triển tư duy kinh tế và kỹ thuật
- Bồi dưỡng quan điểm, tinh thần, thái độ lao động đúng đắn có kỷ luật
và rèn luyện thói quen lao động có khoa học, có văn hóa.
- Giáo dục định hướng nghề nghiệp giúp học sinh làm quen với những
ngành nghề khác nhau, để biết lựa chọn nghề nghiệp thích hợp với hứng thú,
năng lực của bản thân và đáp ứng với nhu cầu của xã hội.
- Tổ chức giáo dục lao động thông qua tất cả các bộ môn, trước hết là
các môn lao động, công nghệ, trên cơ sở lồng ghép, tích hợp liên môn và các
hình thức tham gia lao động sản xuất, lao động công ích, tham quan sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...
4. Giáo dục thể chất:
Cung cấp những kiến thức cơ bản về thể chất con người, hình thành
những kỹ năng và thói quen rèn luyện củng cố sức khỏe để cơ thế phát triển
cân đối, khỏe mạnh, ít ốm đau, bệnh tật bảo đảm có năng lực lao động cao và lâu dài.
Ngoài bộ môn thể dục ra, giáo dục thể chất còn thực hiện trong sự phối
hợp với các bộ môn khác, với các mặt giáo dục khác để cùng hướng tới sự
phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần trong nhân cách học sinh. Hình
thức tổ chức và phương pháp giáo dục thể chất rất phong phú và đa dạng.
Bên cạnh những giờ học, giờ tập có hệ thống theo chương trình của bộ môn
thể dục thì các hoạt động vui chơi, thể thao, tham quan du lịch, lao động...
đều có tác dụng giáo dục thể chất tích cực. Thể chất tốt là cơ sở tâm sinh lý
đầu tiên và thuận lợi cho sự phát triển nhân cách và các mặt giáo dục khác.
5. Giáo dục thẩm mỹ:
- Hình thành cho học sinh tri thức, quan điểm lý tưởng và thị hiếu thẩm mỹ.
- Xây dựng và phát triển tình cảm thẩm mỹ, trau dồi những thái độ thẩm
mỹ đối với hiện thực và nghệ thuật, bồi dưỡng năng lực hoạt động thẩm mỹ,
năng lực thưởng thức, đánh giá và sáng tạo cái đẹp.
Thẩm mỹ là một mặt quan trọng của ý thức xã hội, luôn luôn có mặt và
gắn bó với mọi mặt hoạt động của con người. Ví vậy giáo dục thẩm mỹ không
nên chỉ đóng khung trong các môn văn học, âm nhạc và mỹ thuật mà cần
được thực hiện thường xuyên trong tất cả các bộ môn, trong giáo dục nội
khóa và ngoại khóa trong trường và ngoài trường. Giáo dục thẩm mỹ cần bắt
đầu từ những lời hay ý đẹp, từ những hành vi ứng xử hàng ngày giữa thầy
trò, bạn bè, đến việc thưởng thức vẻ đẹp một bức tranh, bản nhạc, và các
sáng tạo văn học nghệ thuật... Hình thức và phương pháp giáo dục thẩm mỹ
cũng rất phong phú và đa dạng. Ngoài các hình thức và phương pháp tổ chức
giáo dục qua các môn học, nhà trường còn có thể kết hợp với các câu lạc bộ,
các nhà văn hóa, nhà hát, đài phát thanh và truyền hình... để tổ chức các
cuộc thi, biểu diễn, trưng bày triển lãm... thu hút đông đảo học sinh tham gia
để hình thành những năng lực và phẩm chất thẩm mỹ, góp phần nâng cao đời
sống tâm hồn và tình cảm của con người trong xã hội hiện đại.
Trên thực tế các nhiệm vụ giáo dục không tồn tại riêng lẻ, độc lập mà
thống nhất và tác động qua lại trong mỗi hoạt động giáo dục. Mỗi hoạt động
giáo dục đều phải thực hiện tất cả các nhiệm vụ giáo dục nhằm phát triển
toàn diện, cân đối và hài hòa nhân cách học sinh.
Luật giáo dục đã trình bày cơ cấu của Hệ thống giáo dục quốc dân với
những quy định cụ thể như sau:
Giáo dục mầm non: giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi. Mục tiêu giáo dục nhằm giúp
trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu
tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một. Đặc trưng
chủ yếu của phương pháp giáo dục ở bậc này là thông qua việc tổ chức các
hoạt động vui chơi giúp các em phát triển toàn diện; chú trọng nêu gương và khích lệ.
- Giáo dục phổ thông gồm hai bậc học: Tiểu học và trung học. Trong đó
bậc Trung học gồm hai cấp học THCS và THPT. Thời gian học Tiểu học là 5
năm, THCS là 4 năm và THPT là 3 năm. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là
giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và
các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Học sinh được cấp bằng Tú tài khi tốt nghiệp phổ thông.
- Giáo dục nghề nghiệp trong trường trung học chuyên nghiệp và
trường dạy nghề. Giáo dục nghề nghiệp từ nói chung nhằm mục tiêu đào tạo
người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau,
có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp,
có sức khỏe nhằm tạo cho người lao động có khả năng tìm việc làm, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Giáo dục trung
học chuyên nghiệp nhằm đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có kỹ
năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp. Trường dạy nghề nhằm đào tạo người
lao động có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp phổ thông, công nhân kỹ thuật
và nhân viên nghiệp vụ.
- Giáo dục đại học và sau đại học (tổng quát) có mục tiêu đào tạo người
học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến
thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có
sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nội dung của giáo
dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, bảo đảm cơ cấu hợp lí giữa
kiến thức khoa học cơ bản với kiến thức chuyên ngành và các bộ môn khoa
học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt
đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tương ứng với trình độ chung của khu vực và
thế giới.... Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng năng
lực tự học - tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng
tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng
dụng... Sau từ 4 đến 6 năm học tập, sinh viên tốt nghiệp đại học được cấp
bằng Cử nhân khoa học tương ứng với chuyên ngành được đào tạo. Sau đó
họ có thể học tiếp lên cao học trong thời hạn 3 năm để được cấp bằng Thạc
sĩ khoa học hoặc làm nghiên cứu sinh trong thời hạn từ 3 đến 5 năm để được
cấp bằng Tiến sĩ khoa học. Về nội dung, giáo dục sau đại học phải giúp cho
người học phát triển và hoàn thiện kiến thức khoa học cơ bản, kiến thức
chuyên ngành ở đại học, nắm vững các kiến thức về chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh - từ đó phát huy năng lực sáng tạo phát hiện và giải
quyết các vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo, có khả năng đóng góp vào sự
phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế - xã hội của đất nước... Ở trình độ tiến
sĩ, nghiên cứu sinh phải đạt trình độ nâng cao và hoàn chình kiến thức cơ
bản, có hiểu biết sâu về kiến thức chuyên ngành, đặc biệt là có năng lực hoạt
động chuyên môn, nghiên cứu khoa học độc lập, có sáng tạo trong lĩnh vực
khoa học của mình. Đào tạo tiến sĩ chủ yếu qua con đường tự học, tự nghiên
cứu dưới sự hướng dẫn của Nhà giáo, Nhà khoa học.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ĐỌC TÀI LIỆU
1. Khái niệm mục đích giáo dục được hiểu ở những cấp độ nào? Chủ
thể nào xác định mục đích giáo dục tương ứng với mỗi cấp độ?
2. Phân biệt “Mục đích giáo dục” với “mục tiêu giáo dục”.
3. Việc nhận thức mục đích giáo dục có ý nghĩa quan trọng như thế nào
đối với người giáo viên trong quá trình giáo dục học sinh?
4. Mục đích giáo dục được xây dựng dựa trên những cơ sở nào?
5. Mục đích giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hiện
nay gồm những mục tiêu thành phần nào?
Hướng dẫn: Phân tích mỗi mục tiêu thành phần trên 3 yếu tố: khái
niệm, thực trạng và mục tiêu cụ thể.
6. Mục tiêu giáo dục hiện nay hướng đến việc xây dựng mô hình nhân cách như thế nào?
7. Phân tích các nhiệm vụ giáo dục cơ bản của quá trình giáo dục.
8. Hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay gồm có những bậc học, cấp
học nào? Người học sẽ được cấp các loại văn bằng nào sau khi tốt nghiệp
mỗi bậc học, cấp học?
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích sự đáp ứng của mục đích giáo dục tổng quát đối với yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
2. Phân tích sự phối hợp đồng bộ các nhiệm vụ giáo dục trong một hoạt
động giáo dục cụ thể đối với học sinh của người giáo viên.
Chương 4. KHÁI QUÁT VỀ CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC
Sau bài học này người học có khả năng: 1. Về kiến thức: a. Mức độ Biết:
i. Trình bày khái niệm; “Con đường giáo dục”
ii. Nêu đầy đủ các con đường giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân b. Mức độ Hiểu:
i. Phân tích vai trò của từng con đường giáo dục trong quá trình phát
triển nhân cách cho học sinh.
ii. Xác định vai trò của người giáo viên trong việc kết hợp với các lực
lượng giáo dục ở nhà trường khi tiến hành từng con đường giáo dục. c. Mức độ Vận dụng:
i. Tổ chức việc thực hiện các con đường giáo dục trong thực tiễn giáo
dục ở nhà trường phổ thông. 2. Về kỹ năng:
i. Thiết kế sử dụng phối hợp các con đường giáo dục trong thực tiễn
giáo dục ở nhà trường phổ thông. 3. Về thái độ:
i. Bổ sung các con đường giáo dục chưa được quan tâm sử dụng
ii. Điều chỉnh cách thực hiện các con đường giáo dục để nâng cao hiệu quả.
"Giáo dục, dạy học không phải là rót kiến thức vào đầu người học như
người ta rót chất lỏng vào chai, thông qua cái phễu. Thực chất giáo dục là
thắp lên một ngọn đuốc để soi sáng, để người học nhận ra những con đường,
tự mình chọn lấy cho mình một con đường, rồi tự bước đi trên con đường đã
chọn, dưới ánh sáng của ngọn đuốc ấy"
Héraclitus (540 - 480 TCN) Nội dung bài học:
I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC
Mọi quá trình giáo dục đều nhằm hình thành nhân cách cho học sinh
theo mục tiêu giáo dục. Nhưng thực tế cũng cho thấy rằng tâm lý nhân cách
của mỗi người là sản phẩm, là kết quả của các hoạt động năng động, sáng
tạo, có định hướng của con người. Do vậy muốn hoạt động có kết quả cao
cần phải biết lựa chọn, tìm ra các con đường hoạt động thích hợp nhất, hiệu
quả nhất. Quá trình giáo dục hình thành nhân cách cho trẻ em thực chất là
quá tình người lớn và xã hội tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động đa
dạng, phong phú, đặc biệt là hoạt động học tập và lao động sản xuất phù hợp
với tâm sinh lý và sự phát triển lứa tuổi với những phương thức thích hợp.
Muốn hoạt động giáo dục có kết quả cao cần phải tìm ra các con đường giáo
dục thích hợp, hiệu quả nhất, tức là phải tổ chức, kết hợp hợp lý các hoạt
động trong cuộc sống của con người. Việc tổ chức kết hợp này đòi hỏi vận
dụng tổng hợp các phương pháp, cách thức, các phương tiện giáo dục, tạo ra
môi trường thích hợp cho hoạt động và sự phát triển của con người. Người ta
gọi cách làm này là tạo ra các con đường giáo dục.
1. Khái niệm “Con đường giáo dục” (theo Xã hội học giáo dục): là
một khái niệm rộng bao hàm sự tổ chức thực hiện các quá trình giáo dục, vận
dụng tổng hợp các phương pháp, cách thức, cách tổ chức các quá trình giáo
dục, trong đó học sinh được hoạt động một cách chủ động, sáng tạo để lĩnh
hội có kết quả các hệ thống giá trị văn hóa - khoa học - thẩm mỹ... đồng thời
góp phần sáng tạo ra các giá trị mới.
Trong phạm vi hoạt động giáo dục, đó là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ
các hình thức, biện pháp giáo dục phù hợp với các loại hình giáo dục nhằm
thực hiện có kết quả nhất các yêu cầu, các nội dung giáo dục, đạt tới mục tiêu giáo dục cụ thể.
2. Phương thức giáo dục: dùng phổ biến trong các giai đoạn trước
đây, có nội hàm tương tự nhưng không hoàn toàn trùng khớp với khái niệm
“Con đường giáo dục”.
Phương thức giáo dục bao gồm tất cả các phương pháp, cách thức,
biện pháp, hình thức tổ chức nhất định được vận dụng một cách tổng hợp để
đào tạo nên những nhân cách nhất định trong một hệ thống giáo dục.
Phương thức giáo dục bao gồm tất cả các yếu tố về phương pháp dạy
học, phương pháp giáo dục, phương pháp đào tạo, kể cả các phương pháp tổ
chức thực hiện các quá tình quản lý giáo dục.
3. Phương pháp giáo dục: (theo nghĩa rộng nhất) bao hàm tất cả nội
dung trong các khái niệm con đường giáo dục hoặc phương thức giáo dục.
Như vậy con đường giáo dục cũng có thể hiểu là phương thức giáo dục
hay phương pháp giáo dục (theo nghĩa rộng) là phạm trù phương pháp tổng
quát, được hình thành trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục
xã hội chủ nghĩa, đặc biệt nguyên tắc cơ bản nhất chi phối tất cả các hoạt
động giáo dục từ việc xác định mục tiêu, nội dung đến phương pháp, hình
thức tổ chức giáo dục và có tính chất nguyên lý giáo dục chính là nguyên tắc:
“Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”.
II. CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC 1. Dạy học
Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh được
tổ chức đặc biệt (căn cứ vào chương trình, kế hoạch, tuân theo quy trình, qui
chế chặt chẽ) nhằm trang bị hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo qua đó hình
thành thế giới quan khoa học cho học sinh.
Dạy học là hoạt động đặc trưng trong mọi loại hình nhà trường và chính
là con đường giáo dục tiêu biểu nhất. Có thể nói dạy học là hoạt động giáo
dục cơ bản nhất, có vị trí, nền tảng và chức năng chủ đạo trong hệ thống các
hoạt động giáo đục. Các hoạt động giáo dục trong nhà trường được phân
chia thành ba bộ phận chủ yếu: các hoạt động giáo dục trong hệ thống các
môn học, các hoạt động giáo dục trong giờ học ngoại khóa và các hoạt động
giáo dục ngoài các môn học và lĩnh vực học tập. Tất cả những hoạt động này
được thực hiện trong các môn học (dạy học) hoặc trong các hoạt động giáo
dục ngoài môn học. Nhưng các hoạt động giáo dục ngoài môn học sẽ không
có ý nghĩa gì nếu như không có ai dạy cho người học biết, hiểu, tin và áp
dụng cái gì đó, tức là phải có hoạt động dạy học giữa người dạy và người học.
Dạy học là con đường hợp lý, thuận lợi và quan trọng nhất giúp cho học sinh:
- Với tư cách là chủ thể nhận thức, có thể lĩnh hội được một hệ thống tri
thức và kỹ năng hành động
- Chuyển nhận thức thành các phẩm chất và năng lực trí tuệ của bản thân
- Phát triển một cách có hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là
năng lực hoạt động sáng tạo đáp ứng với yêu cầu của xã hội tương lai.
Ngoài ra quá trình dạy học diễn ra theo chiều hướng hội nhập văn hóa
xã hội, trong xã hội phát triển cao thì mỗi cá nhân sẽ lần lượt là người dạy lẫn người học.
Chú ý rằng dạy học là một con đường giáo dục, mục tiêu cuối cùng của
dạy học là làm phát triển nhân cách của học sinh. Trong nhà trường công tác
chủ yếu của giáo viên là dạy học. Do đó, quá trình dạy học phải thực hiện đầy
đủ các nhiệm vụ giáo dục học sinh. Nhiệm vụ chủ yếu, cơ bản của dạy học là
giáo dục trí tuệ, thông qua việc hướng dẫn học sinh khám phá tri thức chứ
không chỉ là phát triển vốn tri thức cho học sinh. Bên cạnh đó các nhiệm vụ
giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, thể chất và giáo dục lao động cũng cần được
thực hiện trong mọi hoạt động dạy học bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ
này một cách chuyên biệt trong các tiết sinh hoạt chủ nhiệm hoặc các tiết học thể dục, nhạc, họa...
2. Tổ chức lao động
Để có thể hình thành nhân cách học sinh theo yêu cầu đặt ra là con
người phải luôn luôn hoạt động năng động, sáng tạo và thích ứng với mọi
biến chuyển của cuộc sống, học sinh cần phải được hoạt động, rèn luyện
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong loại hình lao động.
Thông qua lao động, học sinh hình thành thái độ và kỹ năng lao động
đúng đắn, nhận thức được quyền lợi và nghĩa vụ đối với lao động, biết kết
hợp lợi ích chính đáng của cá nhân với nhu cầu và lợi ích xã hội. Lao động
còn là con đường, phương tiện giúp con người sáng tạo nên những giá trị
mới nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần, làm cho cuộc sống vui
tươi, hứng thú, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mỗi cá nhân, kích thích sự
phát triển trí tuệ, xác lập kiến thức và niềm tin đạo đức, phát triển năng khiếu
và thị hiếu lành mạnh. Ngay cả trong lao động phục vụ, nếu được tổ chức
hợp lý và hữu hiệu sẽ tạo nên một nhân cách đúng đắn, biết tôn trọng người
khác và hiểu rõ giá trị của lao động đối với việc tạo lập giá trị của mỗi người.
Trước đây khi tổ chức lao động ở nhà trường, người ta thường xem
nhẹ việc kết hợp đúng đắn những lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, vì vậy
khó hình thành động cơ đúng đắn cho học sinh tham gia tự giác các hình thức tổ chức lao động.
Như vậy lao động là hoạt động hữu hiệu nhất để phát triển năng lực và
các phẩm chất của con người, gắn hoạt động của học sinh và nhà trường với
đời sống xã hội hiện thực.
Việc tổ chức lao động cho học sinh có thể tiến hành bằng nhiều giải
pháp như: phân công trực nhật làm vệ sinh lớp học; tổ chức lao động làm
sạch đẹp trường lớp; tổ chức lao động công ích ngoài xã hội...
3. Tổ chức các hoạt động xã hội
Hoạt động xã hội tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh quan hệ với
người khác, là quá trình nhận thức và chấp nhận khuôn mẫu, chuẩn mực xã
hội, thích ứng với các chuẩn mực ấy và chuyển chúng thành những giá trị của bản thân.
Thông qua các hoạt động xã hội, kiến thức về con người, về xã hội của
con người ngày càng phong phú, mở rộng; kỹ năng giao tiếp, ứng xử có văn
hóa với mọi người ngày càng đa dạng sâu sắc và nhuần nhuyễn, bộ mặt văn
hóa đạo đức của mỗi người ngày càng hoàn thiện hơn. Ngoài ra hoạt động xã
hội còn làm con người có tâm hồn phong phú, rộng mở, giúp bộc lộ cá tính,
làm đậm nét bản sắc riêng của từng người. Điều này thực sự cần thiết để
chuẩn bị cho học sinh THPT trở thành một người công dân trưởng thành, có nhiều kinh nghiệm sống.
So với các tổ chức khác, nhà trường vừa có những lợi thế, vừa có điều
kiện thực tế để thu hút, tổ chức cho thầy trò cùng tham gia các hoạt động xã
hội từ thấp đến cao như chơi thể dục thể thao, tham gia các lễ hội văn hóa địa
phương, tham gia các cuộc vận động chính trị- xã hội, các hoạt động nhân
đạo, từ thiện... Tuy nhiên cần chú ý bảo đảm thực hiện mục đích giáo dục của
các hoạt động xã hội được tránh hiện tượng “chạy theo thành tích”, tổ chức
kiểu “phong trào”; thậm chí gây phản tác dụng giáo dục đối với học sinh (hiện
tượng khai gian tuổi trong các giải thể thao học sinh; đề nghị học sinh đóng
góp tiền thay cho các vật dụng quyên góp làm từ thiện...)
4. Hoạt động tập thể
Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Hoạt động tập thể
là một con đường giáo dục tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào các quan
hệ xã hội khác nhau. Các hoạt động tập thể của học sinh có thể được tổ chức
thông qua những hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động đoàn thể, hoạt động
văn thể mỹ, hoạt động thi đua lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn...
Hoạt động tập thể giúp con người:
- Có sự tương tác, học hỏi lẫn nhau, nhờ vậy làm phát triển vốn sống
- Nhận diện rõ bản thân,
- Biết chấp nhận và sống hòa hợp với người khác
- Phát triển nhân cách vững vàng, mạnh mẽ hơn.
Theo hai nhà Tâm lý học Mỹ Joseph Luft và Harry Ingham, trong hoạt
động tập thể con người sẽ sống cởi mở hơn và nhận được nhiều thông tin
phản hồi về mình, điều đó rất có lợi cho sự phát triển nhân cách. Trong thực
tế thông thường có những điều người khác biết và không biết về ta, và ngược
lại có những điều ta biết và không biết về chính bản thân. Sự tương tác trong
tập thể sẽ giúp đôi bên hiểu rõ nhau và tự biết mình hơn. Có thể phân tích
điều này qua sơ đồ như sau: Cửa sổ JOHARRY Người khác biết Người khác không biết 1 2 Mình biết CÔNG KHAI CHE DẤU 3 4 Mình không biết MÙ BÍ MẬT
Vùng 1 (Công khai) gồm những điều ta và người khác cùng biết về ta
như tên tuổi, học vị, vị trí xã hội, những ý nghĩ riêng tư và sở thích (nếu đôi bên thân nhau)...
Vùng 2 (Che dấu) gồm những điều ta biết về ta mà chưa có dịp hay
chưa muốn bộc lộ với người khác như lập trường chính trị riêng, tình cảm
riêng, những kinh nghiệm trong quá khứ...
Vùng 3 (Mù) gồm những điều ta không biết về mình mà người khác lại
biết như những tật xấu khi nói chuyện trước người khác (tiếng ừ, à, thì...),
những nhận xét, đánh giá của người khác về ta mà họ không nói ra...
Vùng 4 (Bí mật) gồm những điều ta và người khác không biết về ta. Đó
có thể là những chuyển biến tâm lý tạo nên nét nhân cách mới, những tài năng còn ẩn tàng...
Cá nhân có một nhân cách mạnh mẽ thường có phần công khai rộng
lớn hơn so với các phần khác. Khi tham gia vào hoạt động tập thể, mỗi cá
nhân có nhiều cơ hội bộc lộ khả năng (phần che dấu và phần bí mật giảm đi)
và thu nhận những ý kiến nhận xét của người khác về mình (phần mù giảm).
Từ đó cá nhân nhận biết về bản thân nhiều hơn và cũng làm cho người khác
hiểu thêm về mình (phần công khai gia tăng).
Lứa tuổi học sinh THPT có nhu cầu tự khẳng định mình trong tập thể
nên việc tổ chức hoạt động tập thể càng có ý nghĩa giáo dục quan trọng đối
với các em. Học sinh sẽ hứng thú tham gia hoạt động tập thể và được rèn
luyện nhiều mặt trong nhân cách, nhất là những tác động của tập thể sẽ giúp
học sinh THPT nhận thức rõ nét về đặc điểm bản thân, nhờ vậy có những
định hướng và quyết định đúng đắn cho cuộc sống tương lai.
5. Tổ chức vui chơi
Có ba loại hình hoạt động cơ bản của con người là học tập, lao động,
vui chơi. Sự phát triển nhân cách được quân bình khi con người tham gia đầy
đủ và cân đối ba loại hình hoạt động đó. Đối với trẻ em, vui chơi có ý nghĩa
quan trọng đối với sự phát triển nhân cách. Qua việc vui chơi trẻ bộc lộ rõ
những khả năng và tính cách, nhờ vậy nhà giáo dục có thể phát hiện, điều
chỉnh hoặc đưa ra những tác động giáo dục phù hợp hơn. Vui chơi không chỉ
tạo cảm giác khuây khỏa, thoải mái mà còn giúp cho trẻ rèn luyện nhiều phẩm
chất nhân cách tốt đẹp trong trạng thái hưng phấn hứng thú. Vì vậy tổ chức
vui chơi là một con đường giáo dục được học sinh hưởng ứng tích cực và có nhiều hiệu quả.
Vui chơi là một nhu cầu tự nhiên của con người, nếu nhà trường không
tổ chức thì học sinh cũng thường chủ động tiến hành các hoạt động vui chơi
của cá nhân hoặc của nhóm. Vì vậy cần xây dựng kế hoạch tổ chức, định
hướng và lôi cuốn học sinh vào các hoạt động vui chơi bổ ích, lành mạnh đáp
ứng mục tiêu giáo dục nhân cách của học sinh.
Tổ chức vui chơi đòi hỏi tính sáng tạo, linh hoạt cao của giáo viên và
nhà trường, nhất là trong sự hạn chế những điều kiện thực hiện các hoạt
động vui chơi cho học sinh như hiện nay (cơ sở vật chất, thời gian và con người...)
Tuy nhiên việc tổ chức vui chơi trong dạy học và giáo dục đang được
chú trọng, đặc biệt là hình thức dạy học bằng trò chơi ở trên lớp; những trò
chơi tập thể trong buổi sinh hoạt đầu tuần trên sân trường; những chuyến du
lịch tham quan học tập... được học sinh hưởng ứng đầy thích thú do đáp ứng
đúng nhu cầu tâm lý của trẻ em. Giáo dục bằng con đường tổ chức vui chơi
thể hiện trình độ nghệ thuật cao của nhà giáo dục.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Ngoài các con đường giáo dục đã nêu còn có những con đường giáo
dục nào khác trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong giáo dục gia đình, giáo dục xã hội?
2. Công tác giáo dục học sinh trong nhà trường phổ thông hiện nay đã
tiến hành chủ yếu theo những con đường giáo dục nào? Anh/Chị nhận xét
như thế nào về thực trạng đó?
3. Các games show trên truyền hình có phải là hình thức biểu hiện của
con đường giáo dục “tổ chức vui chơi” hay không? Hãy đưa ra nhận xét về
tác dụng giáo dục của những games show đó?
4. Bạn có nhận xét gì về việc thực hiện con đường giáo dục “tổ chức
lao động” trong nhà trường THPT hiện nay?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - Nguyễn Sinh Huy - Nguyễn Văn Lê - NXBGD, 1997.
2. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - Nguyễn An - ĐHSP TPHCM, 1998.
3. GIÁO DỤC HỌC HIỆN ĐẠI - Thái Duy Tuyên - NXBGD, 2001.
4. GIÁO DỤC HỌC - Phạm Viết Vượng NXB ĐHQG Hà Nội, 2000.
5. GIÁO DỤC HỌC -Một số vấn đề lý luận và thực tiễn- Hà Thế Ngữ-
NXB ĐH quốc gia Hà nội, 2001.
6. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC HỌC - Võ Quang Phúc, Lê Nguyên Lương -1986 TPHCM.
7. LUẬT GIÁO DỤC - NXB Chính trị Quốc gia, 1999.
8. TỪ ĐIỂN GIÁO DỤC HỌC - Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn
Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tả- - NXB Từ điển bách khoa, 2001.
9. GIÁO DỤC VIỆT NAM TRƯỚC NGƯỠNG CỬA THẾ KỶ XXI - Phạm
Minh Hạc - NXB Chính trị Quốc gia, 1999.
10. VỀ PHÁT TRỂN TOÀN DIỆN CON NGƯỜI THỜI KỲ CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA - Phạm Minh Hạc - NXB Chính trị Quốc gia, 2001.
11. XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC - Võ Tấn Quang - NXB Đại học Quốc gia Hà nội, 2001.
12. DẠY HỌC HIỆN ĐẠI - Đặng Thành Hưng - NXB ĐH Quốc gia Hà nội, 2002.
13. QUÁ TRÌNH DẠY – TỰ HỌC - Nguyễn Cảnh Toàn - NXBGD, 1997.
14. LÝ LUẬN DẠY HỌC ĐẠI HỌC - Lưu Xuân Mới - NXBGD, 2000.
15. TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH - Nguyễn Ngọc Bích - NXBGD, 1998.
16. GIÁO DỤC HỌC - Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) - NXB GD, 1998.
17. NỀN GIÁO DỤC CHO THẾ KỶ HAI MƯƠI MỐT: NHỮNG TRIỂN
VỌNG CỦA CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG - RAJA ROY SINGH - Viện KHGD Hà nội, 1994.
18. GIÁO DỤC CON NGƯỜI HÔM NAY VÀ NGÀY MAI - Phạm Minh Hạc - NXBGD. 1995.
19. LỊCH SỬ GIÁO DỤC - ROGER GAL, Lê Thanh Hoàng Dân, Trần Hữu Đức (dịch), 1971.
20. NÓI CHUYỆN GIÁO DỤC THẾ GIỚI ĐỜI XƯA - Võ Quang Phúc, sở Giáo dục TPHCM, 1992.
21. TÂM LÝ TRUYỀN THÔNG VÀ GIAO TIẾP - Nguyễn Thị Oanh- Đại
học Mở - Bán công TPHCM, 1995. MỤC LỤC Lời nói đầu
Bài mở đầu: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CÚU GIÁO DỤC HỌC
1. Giáo dục học với việc giáo dục con người
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Giáo dục học
3. Cấu trúc chương trình học
4. Giới thiệu học phần “Giáo dục học đại cương”
Chương 1: GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt
2. Khái quát về Lịch sử ra đời của Giáo dục học
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu Giáo dục học
4. Các khái niệm cơ bản của Giáo dục học
5. Hệ thống các ngành thuộc khoa học giáo dục - Mối quan hệ giữa
Giáo dục học và các khoa học khác
6. Định hướng nghiên cứu và phát triển Giáo dục học trong giai đoạn hiện nay
Chương 2: GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
1. Sự phát triển nhân cách con người
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi
Chương 3: MỤC ĐÍCH -NHIỆM VỤ GIÁO DỤC
1. Khái niệm về Mục đích giáo dục
2. Mục đích giáo dục của hệ thống giáo dục Việt Nam 3. Nhiệm vụ giáo dục
4. Hệ thống giáo dục quốc dân
Chương 4: CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC
1. Nhận thức chung về con đường giáo dục
2. Các con đường giáo dục Tài liệu tham khảo ---//---
GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG Biên soạn:
NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG - VÕ VĂN NAM
Phản biện: GS. BÙI NGỌC HỒ
Tài liệu Lưu Hành Nội Bộ của Khoa Tâm Lý Giáo dục Trường ĐHSP TP.HCM
đăng ký năm 2004. Ban Ấn Bản Phát Hành Nội bộ Trường ĐHSP chế bản,
sao chụp 1.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm theo Biên bản số 184/BCTGT ngày
04/11/2004. In xong ngày 12 tháng 11 năm 2004.