khác nhập ngành và làm cho điểm dài hạn trên thị trường di chuyển từ điểm E đến E' trong
hình 5.5b. Giá sẽ giảm xuống P
2
, ngang bằng với mức chi phí trung bình cực tiểu của doanh
nghiệp. Lưu ý, mức giá P
2
này sẽ cao hơn mức giá P
1
trong hình 5.4 vì chi phí sản xuất tăng
do có sự nhập ngành như đã trình bày ở trên. Doanh nghiệp sẽ sản xuất sản lượng q
1
để tối đa
hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, ở mức sản lượng q
1
, các doanh nghiệp chỉ hòa vốn nên không có
động lực cho các doanh nghiệp mới nhập ngành. Ta nói ngành cân bằng trong dài hạn. Lúc
này, lợi nhuận kinh tế của các doanh nghiệp bằng không. Lợi nhuận kinh tế bằng không
không có nghĩa là các doanh nghiệp cạnh tranh hoạt động kém hiệu quả mà chỉ có nghĩa là
đây là ngành cạnh tranh.
Mức giá P
2
tương ứng với điểm thấp nhất trên đường LAC được gọi là mức giá nhập
hay xuất ngành. Như vậy, sự cân bằng cạnh tranh dài hạn xảy ra khi thỏa mãn ba điều kiện
sau. Thứ nhất, tất cả các doanh nghiệp trong ngành đang sản xuất ở mức sản lượng tối đa hóa
lợi nhuận. Thứ hai, không có doanh nghiệp nào có động cơ nhập hay xuất ngành vì các doanh
nghiệp trong ngành thu được lợi nhuận kinh tế bằng không. Thứ ba, giá của sản phẩm ở mức
mà tại đó lượng cung của ngành bằng với lượng cầu của người tiêu dùng.
Trong thực tế, các doanh nghiệp trong ngành có đường chi phí không giống nhau. Một
số doanh nghiệp có bằng phát minh, sáng chế hay có ý tưởng làm giảm chi phí sản xuất hay
công nghệ sản xuất được cải tiến tốt hơn nên có thể có đường chi phí thấp hơn các doanh
nghiệp khác trong ngành. Điều này có nghĩa là ở điểm cân bằng dài hạn các doanh nghiệp này
có thể thu được lợi nhuận cao hơn các doanh nghiệp khác. Chừng nào mà các doanh nghiệp
khác không có được bằng phát minh, sáng chế hay có ý tưởng hạ thấp chi phí, v.v. thì họ
không có động cơ nhập ngành. Bằng phát minh mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp thì các
doanh nghiệp khác sẽ sẵn sàng trả tiền để có được phát minh này hay là mua lại toàn bộ doanh
nghiệp để được bằng phát minh, sáng chế đó. Do đó, giá trị của bằng phát minh sẽ ngày càng
tăng, là chi phí cơ hội của doanh nghiệp - doanh nghiệp có thể bán bản quyền cho doanh
nghiệp khác mà không sử dụng. Nhưng nếu tất cả các doanh nghiệp đều có hiệu quả như nhau
và khi tính đến chi phí cơ hội thì lợi nhuận kinh tế của doanh nghiệp giảm xuống bằng không.
III. ĐƯỜNG CUNG CỦA NGÀNH
Một ngành cạnh tranh bao gồm nhiều doanh nghiệp. Trong ngắn hạn, có hai nhân tố cố định
là một số đầu vào cố định của doanh nghiệp và số lượng doanh nghiệp trong ngành. Trong dài
hạn, mỗi doanh nghiệp có thể thay đổi tất cả yếu tố sản xuất và đồng thời số lượng doanh
nghiệp cũng thay đổi do có sự nhập hay xuất ngành.
III.1. ĐƯỜNG CUNG NGẮN HẠN CỦA NGÀNH
Giống như việc tổng hợp các đường cầu cá nhân thành đường cầu thị trường, đường cung của
ngành cũng được xây dựng bằng cách cộng tất cả đường cung của các doanh nghiệp trong
ngành. Hình 5.6 mô tả cách thức tổng hợp đường cung ngắn hạn của ngành. Tại mỗi mức giá,
chúng ta cộng lượng cung của từng doanh nghiệp để thành lượng cung của toàn ngành tại mức
giá đó.
Trong ngắn hạn, số lượng doanh nghiệp là cố định. Ta giả sử ngành cạnh tranh chỉ có
hai doanh nghiệp A và B. Mỗi doanh nghiệp có đường cung là một phần đường SMC phía trên
mức giá đóng cửa. Doanh nghiệp A có mức giá đóng cửa thấp hơn doanh nghiệp B, P
1
so với
P
2
, có thể là do doanh nghiệp A có vị trí địa lý thuận lợi hơn hay có công nghệ tiến bộ hơn.
Với những mức giá thấp hơn P
1
, không có doanh nghiệp nào sản xuất. Tại những mức giá ở
giữa P
1
và P
2
, chỉ có doanh nghiệp A sản xuất nên sản lượng của ngành cũng chính là sản
lượng của doanh nghiệp A. Phần đường cung của ngành từ mức giá P
1
đến P
2
cũng là phần
đường cung của doanh nghiệp A. Tại mức giá P
2
, doanh nghiệp B bắt đầu sản xuất với mức
sản lượng q
B
, nên sản lượng của ngành là q
= q
A
+ q
B
. Đường cung của ngành bị gián đoạn
2 2 2 2
tại mức giá P
2
. Tại các mức giá lớn hơn P
2
, lượng cung của ngành là tổng của qA và qB.