-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Giới thiệu về văn hóa dân tộc H'mông - Văn hóa học | Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh
Giới thiệu về văn hóa dân tộc H'mông - Văn hóa học | Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn hóa học 44 tài liệu
Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh 174 tài liệu
Giới thiệu về văn hóa dân tộc H'mông - Văn hóa học | Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh
Giới thiệu về văn hóa dân tộc H'mông - Văn hóa học | Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Văn hóa học 44 tài liệu
Trường: Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh 174 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP. HỒ CHÍ MINH KHOA DU LỊCH TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM
TÊN ĐỀ TÀI: VĂN HÓA DÂN TỘC DAO
Người thực hiện: Đỗ Thị Thúy Hoa Lớp: 21DDL1 MSV: D21DL268
Người hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Thạch Ngọc
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2022 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .....................................................................................................................
1. LỊCH SỬ TỘC NGƯỜI VÀ MÔI TRƯỜNG CƯ TRÚ ...................................... 3
1.1 Lịch sử tộc người ................................................................................................
1.1.1 Nguồn gốc .................................................................................................
1.1.2 Dân số và phân bố dân cư ..........................................................................
1.2 Môi trường cư trú ............................................................................................... 6
2. HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ........................................................................................ 6
2.1 Hoạt động kinh tế chiếm đoạt ............................................................................ 6
2.2 Hoạt động kinh tế sản xuất ................................................................................ 8
2.2.1 Nông nghiệp ...............................................................................................
2.2.2 Chăn nuôi ................................................................................................. 1
2.2.3 Các nghề phụ gia địn
h ............................................................................. 1
3. VĂN HÓA XÃ HỘI ............................................................................................... 11
3.1 Tổ chức bộ máy buôn làng ............................................................................... 1
3.2 Dòng họ ............................................................................................................. 1
3.3 Các nghi lễ vòng đời người .............................................................................. 15
3.3.1 Sinh nở ......................................................................................................
3.3.2 Hôn nhân .................................................................................................. 1
3.3.3 Tang ma .................................................................................................... 1
3.4 Gia đình ............................................................................................................. 1
4. VĂN HÓA VẬT THỂ ............................................................................................ 18
4.1 Buôn làng .......................................................................................................... 1
4.2 Nhà cửa ............................................................................................................. 2
4.3 Trang phục ........................................................................................................ 2
4.4 Ẩm thực ..............................................................................................................
4.5 Nhạc cụ ............................................................................................................. 2
4.6 Phương tiện vận chuỷen ................................................................................. 24
5. VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ................................................................................... 24
5.1 Tín ngưỡng và tôn giáo .................................................................................... 2
5.2 Lễ hội ................................................................................................................. 2
5.2.1 Lễ hội nông nghiệp ................................................................................... 2
5.2.2 Lễ hội cộng đồng ...................................................................................... 3
5.3 Văn hóa nghệ thuật dân gian .......................................................................... 31
5.3.1 Múa chuông .............................................................................................. 3
5.3.2 Thơ ca cổ truyền ....................................................................................... 32 1
5.4 Nghệ thuật điêu khắc và trang trí .................................................................... 33
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 3
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH .................................................................................................... 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 46
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam được xem như là một Đông Nam Á thu nhỏ với văn hóa phức thể
gồm 3 yếu tố: văn hóa núi, văn hóa đồng bằng, văn hóa biển, trong đó, yếu tố đồng
bằng đóng vai trò nổi trội nhất. Việt Nam cũng là nơi hội tụ đủ các bộ tộc thuộc tất
cả các dòng ngôn ngữ ở Đông Nam Á. Trong điều kiện có một số giá trị văn hóa
của các tộc người thiểu số bị mai một hoặc bị lai tạp một cách tự nhiên. Do vậy,
đầu tư cho bảo tồn và phát huy văn hóa của các tộc người thiểu số là việc làm hết
sức cần thiết. Với 54 tộc người, 54 nền văn hóa khác nhau đã tạo nên một bức
tranh văn hóa đa dạng, đa màu sắc, nhưng luôn thống nhất. Văn hóa tộc người là
một trong những khái niệm cơ bản nhất và nó cũng là tổng thể về tiếng nói, chữ
viết, sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, các sắc thái tâm lý, tính cảm,
phong tục về lễ nghi khiến người ta phân biệt được tộc người này với các tộc người khác.
Người Dao sinh sống lâu đời ở các tỉnh phía Bắc đất nước, đồng bào dân tộc
Dao đã tạo dựng nên một đời sống vật chất, tinh thần đặc sắc. Góp phần làm phong
phú hơn sự đa dạng của bức tranh văn hóa cộng đồng anh em 54 dân tộc Việt Nam.
Mặc dù, họ có nhiều nhóm người khác nhua như vậy nhưng ngôn ngữ của họ là
thống nhất để đảm bảo gắn kết giữa các cộng đồng người Dao với nhau. Tiếng nói
của họ thuộc ngữ hệ Hmông – Dao và có chữ viết gốc Hán được Dao hóa (chữ
Nôm). Người Dao là một trong những dân tộc cho đến bây giờ vẫn duy trì được 2
bản sắc truyền thống đậm nét, không chỉ thể hiện qua trang phục, mà còn thể hiện
qua tiếng nói, giúp chúng ta thấy được sự thống nhất giữa các cộng đồng người
Dao với nhau. Họ sinh sống ở nhiều vùng miền nhưng sinh hoạt cộng đồng vẫn
mang tính chất khép kín, thể hiện qua phong tục tập quán, qua hôn nhân.
1. LỊCH SỬ TỘC NGƯỜI VÀ MÔI TRƯỜNG CƯ TRÚ
1.1 Lịch sử tộc người
1.1.1 Nguồn gốc
Người Dao sinh sống trên đất nước ta từ rất lâu và cho đến nay tên Dao mới
được xác định. Vào khoảng thời gian trước, người Dao còn được gọi với nhiều tên
khác nhau như là: Mán, Dạo, Xá,…Nguồn gốc của người Dao là từ Trung Quốc di
cư vào Việt Nam, do sự đàn áp tàn khóc của bọn phong kiến Ngô, Hán,…và do
chiến tranh liên miên cũng với sự khắc nghiệt của thời tiết kéo dài, họ di chuyển
suốt từ thế kỉ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Vào khoảng thế kỉ thứ XIII,
Dao Quần Trắng đã bắt đầu di chuyển đến Việt Nam, và di chuyển vào muộn nhất
chính là Dao Ô Gang (hoặc Lồ Gang), tầm khoảng cuối thế kỉ XIX. Trên suốt
đường di cư, các nhóm nhỏ đã tiếp thu thêm phần nào các yếu tố văn hóa của các
cộng đồng tộc người khác. Do sự tiếp thu của các nhóm khác nhau, nhưng dù vậy
mối quan hệ giữa họ vẫn có cùng một nguồn gốc, cùng một lịch sử, và điều đặc
biệt hơn cả đó chính là tiếng nói, họ vẫn giữ được nét truyền thống và duy trì được
tiếng nói chung đó. Họ tự nhận mình chính là con châu của Bản Hồ (Bàn Vương),
đó chính là một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng được người Dao tôn kính,
Nội dung Quá sơn bảng văn có thể tóm lược như sau: Bàn Hồ là con long
khuyển mình dài ba thước, lông đen, vằn vàng, mướt như nhung từ trên trời giáng
xuống trần, được Bình Vương yêu quý, nuôi trong cung vua. Một hôm Bình Vương
nhận được chiếu thư của Cao Vương, liền hội triều để bàn kế đánh lại Cao Vương. 3
Trong khi mọi người còn đang yên lặng vì chưa tìm ra kế gì thì con long khuyển
Bàn Hồ nhảy ra phủ phục trước nhà vua xin đi giết Cao Vương. Trước khi Bàn Hồ
đi, vua hứa nếu Bàn Hồ giết được Cao Vương thì sẽ gả công chúa cho. Bàn Hồ
phải mất bảy ngày bảy đêm mới tới được chỗ Cao Vương. Cao Vương thấy con
chó Bàn Hồ từ chỗ Bình Vương tới thì cho đó là điềm may, liền mang Bàn Hồ về
cung cấm nuôi. Một hôm, nhân lúc Cao Vương uống rượu say, Bàn Hồ cắn chết
Cao Vương, mang đầu về báo công với Bình Vương và được phong là Bàn Vương.
Giữ lời hứa, Bình Vương gả con gái cho Bàn Hồ. Trong truyền thuyết, Bàn Hồ là
vị thánh lớn nhất, được hầu hết các nhóm người Dao thờ cúng vì việc thờ cúng này
liên quan tới vận mệnh của mỗi con người, dòng họ và cả dân tộc. Ngoài một số
nghi lễ lớn thờ cúng Bàn Vương như lễ Chẩu đàng, tết Nhiàng Chầm đao, thì Bàn
Hồ còn được cúng trong nhiều nghi lễ khác như cúng tổ tiên gia tộc, dòng họ, lễ cấp sắc...
Với những người Dao ở Việt Nam, chúng ta có thể chia thành hai nhóm lớn
ứng với hai phương ngữ khác nhau: Nhóm theo Nhóm lớn
Nhóm nhỏ với các tên gọi khác nhau phương ngữ I. Kiềm Miền A. Đại bản
a. Dao Đỏ, Dao Cóoc Ngáng, Dao Sừng, Dao Dụ Lạy (Quế Lâm).
b. Dao Cóoc Mùn, Dao Lô Gang (Ô Gang, Lồ
Gang), Dao Thanh Phán (Thanh Phán lớ Thanh Phán con).
c. Dao Quần Chẹt, Dao Sơn Đầu, Dao Tam
Đảo, Dao Nga Hoàng, Dao Ba Tiêu. 4 B. Tiểu bản Dao Tiền, Dao Đen Tiền II. Kim Mùn
C. Quần trắng a. Dao Quần Trắng b. Dao họ D. Làn Tẻn
a. Dao Làn Tẻn (Lam Đĩnh), Dao Thanh Y, Dao Tuyển.
b. Dao Áo Dài, Dao Binh Đầu, Dao Slan Chi
1.1.2 Dân số và phân bố dân cư
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Dao ở Việt Nam có
dân số 751.067 người, cư trú tại 61 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Dao cư
trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (109.708 người, chiếm 15,1% dân số toàn tỉnh
và 14,6% tổng số người Dao tại Việt Nam. Tuy là dân số không đóng, nhưng các
bản làng của họ trải rộng khắp khắp rừng núi phía Bắc (Cao Bằng, Hà Giang, Lào
Cai,…) đến một số tỉnh trung du như Phú Thọ, Vĩnh Phúc và miền biển Quảng Ninh.
Theo số liệu thống kê được vào năm 2019, đồng bào Dao có 891151 người,
sinh sống chủ yếu tại các tỉnh miền núi phía Bắc. Dân tộc Dao cư trú chủ yếu ở
biên giới Việt-Trung, Việt-Lào và ở một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt
Nam. Cụ thể, đa phần tại các tỉnh như Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái,
Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Hòa Bình,… Người Dao cư trú tập
trung tại các tỉnh: Hà Giang (109.708 người, chiếm 15,1% dân số toàn tỉnh và
14,6% tổng số người Dao tại Việt Nam. 5
Hiện nay, người Dao ở Lai Châu có 11.483 hộ với 56.547 người, chiếm
12,53% dân số toàn tỉnh, sinh sống ở 6/8 huyện (trừ thành phố Lai Châu và huyện
Than Uyên). Người Dao tập trung đông nhất ở huyện Sìn Hồ với 3.739 hộ với
16.869 người, ít nhất là huyện Mường Tè với 61 hộ, 281 nhân khẩu. Người Dao ở
Lai Châu gồm nhiều ngành, nhóm khác nhau như: Dao tiền, Dao đỏ, Dao quần chẹt...
1.2 Môi trường cư trú
Môi trường tự nhiên: Phạm vi cư trú của người Dao rất rộng, rải khắp miền
rừng núi, dọc theo đường biên giới Việt - Trung, Việt – Lào cho tới một số tỉnh
trung du và ven biển Bắc Bộ.
Môi trường xã hội: Người Dao sống ở lưng chừng núi ở hầu khắp hết các
tỉnh miền núi miền Bắc. Đa phần thì họ cư trú ở các thôn, xóm nhưng không gần
nhau, họ phân tán rải rác ở trong một khu nhất định, nhìn từ trên cao thấy từ năm
đến bảy nóc nhà nằm cách xa xa nhau. Nhưng không vì thế mà truyền thống đoàn
kết của họ sẽ bị phải mờ. Bên cạnh đó, một số nhóm như là Dao Quần Trắng tập
trung ở thung lũng, còn Dao Đỏ ở lại trên các núi cao.
2. HOẠT ĐỘNG KINH TẾ
2.1 Hoạt động kinh tế chiếm đoạt
Trước đây đồng bào sinh sống du canh du cư trên những dãy núi cao của
huyện Quan Hoá, Bá Thước, Cẩm Thuỷ, đến năm 1955 có 6 hộ theo cụ Bàn Văn
Yên, cụ Bàn Văn Giai, Triệu Văn Nhân… chuyển về lập làng dưới chân núi Nan.
Cuộc sống du canh du cư khiến cho người Dao phiêu dạt theo chu kỳ nương rẫy
nên con cháu ít được học hành. Từ bỏ cuộc sống du canh du cư để thực hiện định
canh định cư không dễ dàng gì đối với người Dao vì đồng bào phải chuyển đổi thói 6
quen từ bao đời “ăn theo lửa” sang “ăn theo nước”; hay nói một cách khác là từ
chọc lỗ tra hạt trên núi sang cày bừa, thâm canh theo mùa vụ dưới ruộng.
Hái lượm lâm thổ sản là một nguồn lợi đáng kể và đó chính là nguồn sống
chủ yếu của họ. Vào những năm mùa màng bị thất bát, củ nâu, củ mấu, bột nhúc,
củ mài, các thứ măng, rau rừng đã giúp đồng bào vượt qua những ngày thiếu thốn.
Ngoài ra, đồng bào còn thu hái nấm hương, mộc nhĩ, cánh kiến và các loại hạt có
dầu, khai thác gỗ, tre, nứa, song, mây các loại dược liệu quý cung cấp cho vùng
đồng bằng và xuất khẩu. Trước đây việc thu lượm lâm thổ sản hoàn toàn mang tính
chất tự nhiên nên kết quả không được bao nhiêu mà tác dụng phá hoại và lãng phí
lại rất lớn. Ngày nay, nhà nước đã khuyến khích và hướng dẫn việc khai thác, chế
biến, bảo quản nên nguồn lợi ngày càng tăng, góp phần cải thiện đời sống đồng bào.
Bên cạnh những hoạt động đó, người Dao còn có hai hình thức săn bắn phổ
biến đó là: săn cá nhân và săn tập thể
+ Săn cá nhân: việc săn này thường được tiến hành vào buổi chiều trong ngày. Một
người với một khẩu súng đi lùng sục khắp mọi ngóc ngách trong khu rừng. Để
kiếm được một con mồi ngon họ di chuyển từ khu rừng này sang khu rừng khác
liên tục, có hôm gặp may sẽ gặp được con gà rừng, con sóc, con chồn, đôi khi còn
gặp cả lợn rừng và gấu.
+ Săn tập thể: đây là một hình thức săn hấp dẫn nhất và được đóng đảo mọi người
trong thôn, xóm tham gia. Sau khi phát hiện được hành tung của con mồi ở một
cánh rừng hoặc một đám nương nào đó, họ sẽ tiến hành cuộc đi săn. Vũ khí thường
có như: súng, mác, lưới săn, chó săn và nỏ
Ngoài lối đi săn “cầu may”, người Dao còn đi săn vào ban đêm. Săn đêm
cần có đèn soi, đèn đốt bằng dầu, đèn pin, vì khi săn vào ban đêm sẽ hạn chế mất 7
tầm nhìn khiến ta không thể nhìn thấy được con mồi, nhưng không vì thế mà họ bỏ
cuôc. Săn đêm được tiến hành vào những tuần tối trời. Ngoài cách đi săn bắn,
người Dao còn sử dụng các loại bẫy có tính sát thương cao và thấp. Nguyên lý cấu
tạo thường sẽ giống nhau nhưng rất phong phú về các mặt loại hình: bẫy đè, bẫy nỏ hoặc súng,…
Sau này khi đã định canh định cư, người Dao ở Bắc Giang vẫn làm nương
rẫy là chủ yếu. Đồng bào có làm ruộng nước nhưng không phổ biến. Việc canh tác
trên các nương rẫy phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên và là hoạt động mưu sinh
chính không thể thiếu được trong mỗi gia đình. Tất cả các hoạt động khác như
chăn nuôi, các ngành nghề thủ công gia đình, trao đổi buôn bán hay săn bắn hái
lượm đều là những hoạt động kinh tế phụ mang tính chất bổ trợ cho hoạt động trồng trọt.
2.2 Hoạt động kinh tế sản xuất 2.2.1 Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trồng trọt là hoạt động kinh tế chủ đạo, là nguồn sống
chính của đồng bào dân tộc Dao. Ngoài cây lương thực chính là lúa, họ còn trồng
các loại khác như là ngô, sắn và các loại cây như là rau, đậu xanh, bầu bí,…Tương
tự như các dân tộc khác, họ sống dựa vào nương rẫy, xưa kia người dao thường
chọn các cánh rừng già để phát nương. Đất ở đây thường có mầu vàng sậm hoặc
màu nâu đen do lớp mùn được phân huỷ từ lá rừng rụng xuống, phủ lên hết lớp này
đến lớp khác. Kinh nghiệm dân gian cho thấy, đất nương gốc rừng già bao giờ
cũng tơi xốp, độ phì nhiêu cao, giữ ẩm tốt hơn so với các loại đất khác và phù hợp
với nhiều loại cây trồng. Hiện nay, trong phạm vi cư trú của họ, diện tích rừng già
ngày càng bị thu hẹp; mặt khác, Nhà nước cũng tăng cường quản lý rừng chặt chẽ
hơn, nên hầu như họ chỉ phát nương trên các cánh rừng tái sinh và trên nền nương
cũ. Độ màu mỡ của đất ở đây thấp, nhiều cỏ và nhanh bạc màu. So với rừng già, 8
việc khai thác nương ở rừng tái sinh hay đồi cỏ ít khó khăn hơn nhưng năng suất cây trồng không cao.
Do họ cư trú ở nhiều tỉnh, chính vì thế có rất nhiều loại địa hình đa dạng và
khí hậu khác nhau. Từ những điều đó ta có thể thấy rằng, vấn đề canh tác nông
nghiệp của người Dao rất đa dạng, được chia làm ba vùng:
+ Vùng cao núi đá: Người Dao ở vùng cao đã định canh định cư, hoặc luân canh
định cư, trồng trọt trên các thửa nương hẹp có nhiều đá lởm chởm. Việc trồng trọt
ở đây rất khó khăn, đôi khi họ phải trồng trên những miếng đất nhỏ giữa các khối
đá, chính vì thế được gọi là thổ canh hốc đá. Loại hình này được gọi là thổ canh
hốc đá, chủ yếu để trồng ngô, ngoài ra cũng để trồng kê, lúa miến hoặc tam giác
mạch. Dụng cụ sản xuất cũng giản đơn như làm nương rẫy ở vùng giữa. Đất đai ít
được bón phân, chỉ có một số nơi như: Nguyên Bình (Cao Bằng, Lạng Sơn), Đồng
Văn (Hà Giang) mới có tập quán dùng phân bón, nhưng đất đai lại bị xói mòn rất
nhanh và thường xuyên bị thiếu nước nên năng suất cây trồng rất thấp. Người Dao
ở những vùng này, hằng năm thường bị thiếu ăn vài ba tháng.
+ Nương rẫy vùng giữa: Vùng này là địa bàn cư trú chủ yếu của người Dao, ở đây
đồng bào làm nương du canh. Nguồn lương thực quan trọng là lúa nương và ngô.
Nương rẫy chỉ làm được vài vụ là phải bỏ đi, khai phá nơi khác và chuyển cả nhà
du cư theo nương và vẫn chưa có tập quán dùng phân bón cho trồng trọt. Phương
thức canh tác này rất lạc hậu, chặt phá bừa bãi, bao nhiêu rừng cây gỗ quý đã bị
phá hủy. Rừng ngày càng xơ xác, kiệt quệ, nguồn nước bị khô hạn, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến khí hậu, gây ra lũ lụt, hạn hán kéo dài ở nhiều nơi…Dụng cụ sản
xuất rất thô sơ, người ta chỉ cần cái rìu, con dao, cái gậy chọc lỗ, cái nạo, cái hái nhắt. 9
+ Vùng núi thấp: Ở vùng này, người Dao thường sống trong các thung lũng hẹp
hay ven các đường quốc lộ, bên cạnh người Tày, Nùng hoặc Việt. Chủ yếu họ làm
ruộng nước là chính. Bên cạnh đó, đồng bào Dao còn khai phá ruộng bậc thang ở
chân núi ven sông, suối và cấy lúa. Mùa vụ trồng, cấy cũng như các dân tộc khác
trong vùng. Để làm ruộng, người Dao sử dụng sức kéo là con trâu, bò. Các cộng
cụ sản xuất cỏ cây cuốc, dao, liềm. Người Dao cũng có nhiều giải pháp để giải
quyết thuỷ lợi cho cây lúa như đắp đập, đào mương, đào ao, làm cọn nước.
Hiện nay, ruộng nước của người Dao có hai phần, một phần mua lại của ng-
ười Tày khi họ chuyển về định cư và một phần do mới được khai khẩn từ n ữ h ng
năm 1950 đến nay. Đất ruộng ở đây bao gồm cả hai loại: đất sa bồi ven suối lớn và
đất ruộng bậc thang khai khẩn trên nền đồi thấp. Nhìn chung các loại đất này đều
thích hợp cho việc trồng lúa, nhưng lại có những yêu cầu khắt khe về nước tưới và
phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Riêng các chân ruộng bậc thang đòi hỏi người dân
phải dành rất nhiều công sức để khai phá và xử lý đất trong thời gian đầu. Hiện nay
đồng bào đều đã trồng được 2 vụ lúa một năm. Điều đó không chỉ phụ thuộc vào
điều kiện thổ nhưỡng hay khí hậu thuỷ văn mà còn phụ thuộc vào bộ g ố i ng lúa của
đồng bào hiện nay đã có đủ các giống lúa mới: 203, Kháng Mần, Q5, C, Nhị Ưu,
Bao Thai…Có thể nói, cộng đồng người Dao tiếp thu khá nhanh những kỹ thuật
cần thiết trong canh tác lúa nước, đặc biệt là kỹ thuật làm thuỷ lợi nhỏ và sử dụng
sức kéo trong khâu làm đất. Các khoảnh ruộng nước của họ thường có bậc cao thấp
khác nhau, mỗi bậc có hệ thống bờ thửa riêng để giữ và điều tiết nước cho phù hợp
với yêu cầu của cây lúa trong mỗi kỳ sinh trưởng.
Ngoài cây lương thực, cây rau xanh đồng bào Dao còn trồng các loại cây
công nghiệp như: cây chè, cây trầu, cây lai và một số cây khác có giá trị kinh tế
cao như cây trúc, cây vầu, cây bồ đề. Đặc biệt người Dao có cây công nghiệp
truyền thống là cây quế. Cây quế được trồng nhiều ở tỉnh Yên Bái. Sản phẩm quế 10
có quế thanh và quế chi. Quế là sản phẩm hàng hoá. Nhiều gia đình người Dao làm giàu bằng cây quế. 2.2.2 Chăn nuôi
Trên địa bàn cư trú của người Dao vốn sẵn đồi cỏ, thung lũng và khe suối
nên việc chăn nuôi khá phát triển. Những nơi đã định canh, định cư đồng bào chăn
nuôi khá nhiều loaị gia súc và số lượng ngày càng tăng. Nhiều nơi, mỗi gia đình
thường có hàng chục trâu bò. Hiện nay, đã có những nơi có đàn trâu hàng trăm con
và còn có khả năng tăng hơn. Ở vùng cao và vùng giữa, nhiều hộ còn có ngựa và
dê. Nuôi lợn là điểm nổi bật trong chăn nuôi người Dao, nhà nào cũng có lợn: nhà
ít vài con, nhà nhiều hai ba chục con. Lợn được chia loại nhốt riêng và có khẩu
phần riêng thích hợp với từng loại. Về gia cầm, gà chiếm tỉ lệ cao hơn cả, thứ mới
đến vịt và ngỗng. Tuy kỹ thuật chăn nuôi chưa đạt đến trình độ khoa học kỹ thuật
cao, nhưng ở vùng Dao ít bị toi dịch nên đàn gia súc và gia cầm ít bị hao hụt. Ong
mật cũng được người Dao nuôi nhiều, nhưng sản lượng mật chưa cao. Ngoài ra còn
phải kể đến việc nuôi cá trong các thùng đất nhỏ ở gầm sàn nước, ở ao và đồng
ruộng. Trước đây chăn nuôi chỉ để ăn thịt, nay chăn nuôi đã có thịt để buôn bán,
trao đổi. Nhưng ở nhiều nơi do phương tiện giao thông còn khó khăn, trở ngại nên
khả năng này chưa khai thác được bao nhiêu.
2.3 Các nghề phụ của gia đình:
Ở người Dao, nghề thủ công chưa phát triển và chỉ là nghề phụ của gia đình,
mang tính chất tự nhiên theo mùa (nông nhàn). Sản phẩm thủ công chủ yếu để
phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt hàng ngày. Kỹ thuật sản xuất còn thô
sơ, số lượng và chất lượng sản phẩm chưa cao vì phụ thuộc nhiều vào sự khéo léo của cá nhân. 11
+ Nghề làm vải (trồng bông, kéo sợi, dệt vải và nhuộm chàm) đều phổ biến ở mỗi
nhóm Dao. Trừ một vài trường hợp đặc biệt như ở Lào Cai và Hà Giang, Bắc Kạn
có một số nhóm Dao như Dao đỏ, Dao Lô gang chỉ trồng bông, làm sợi nhưng
không dệt vải; đổi sợi lấy vải. Khung cửi của người Dao còn khá thô sơ. Dệt vải là
công việc riêng của phụ nữ nhưng không thường xuyên, người ta chỉ tranh thủ làm
vào những ngày mưa gió không đi nương hoặc những ngày nhàn. Cách làm là lấy 2
miếng ván gỗ khắc thành hoa nhỏ để kẹp vải, nấu sáp chảy ra, rồi trút vào trong lỗ
khắc, sau mới bỏ miếng vải ra, lấy vải nhúng vào chàm. Vải đã thấm chàm rồi thì
đem nấu cho chảy sáp ra, được hoa văn sặc sỡ rất tinh tế, đẹp và sáng sủa.
+ Nghề đan lát rất phổ biến, thường thì gia đình nào cũng tự đan lấy những đồ
dùng cần thiết cho sản xuất và sinh hoạt hàng ngày như: bồ, cót, sọt, thúng, mẹt,
dần, sàng, rổ, rá...Nhiều đồ đan lát vừa đẹp vừa bền như: Chiếu mây, quẩy tấu, sọt
đựng quần áo có nắp đậy...Đan lát thường là công việc của đàn ông và cũng thường
được tiến hành vào những lúc rảnh rỗi. Các đồ đựng bằng nan (tre, nứa, giang,
mây) đều do đồng bào tự làm lấy. Đôi nơi cũng có những sản phẩm thừa đem đổi
cho các dân tộc ở xung quanh để lấy các vật dụng khác.
+ Nghề rèn đã có từ lâu nhưng không phổ biến và không phải nhóm Dao nào cũng
có. Người ta không chỉ rèn được các nông cụ như: cuốc, cào, lưỡi cày, các loại dao
mà còn rèn được súng hỏa mai, súng kíp và còn đúc được hạt gang để làm đạn.
Nghề rèn của người Dao tồn tại rất lâu đời. Tuy nhiên, trên thị trường hiện có
nhiều sản phẩm được chế tác theo dây chuyền công nghệ nên mẫu mã bắt mắt hơn.
Vì vậy, người Dao cũng “lãng quên” sản phẩm thủ công của quê hương. Để giữ
gìn, các xa đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đồng bào học lại nghề
truyền thống. Bên cạnh đó còn kết hợp du lịch để du khách có thể tham gia và trải
nghiệm nghề rèn, mua các sản phẩm. 12
+ Nghề làm đồ trang sức bằng đồng hay bạc cũng đã có từ lâu trong người Dao,
song là nghề gia truyền nên lại càng ít người biết hơn nghề rèn. Người thợ bạc có
thể làm được: vòng cổ, vòng tay, nhẫn, xà tích, các loại cúc và các đồ trang sức
khác dính trên quần áo. Có thể nói, xà tích là đồ trang sức có độ tinh sảo nhất trong
bộ trang sức của người Dao; một người thợ lành nghề cũng mất ít nhất 2 tuần mới
hoàn thành dây xà tích. Hoàn thành công đoạn chạm bạc người thợ sẽ dùng lá rừng
hoặc phèn chua để đánh bóng các đồ trang sức; một số loại chi tiết người thợ còn
phải dùng sơn để trang trí sao cho đẹp mắt. Đồ trang sức thường được chạm nổi
hoặc chạm chìm với nhiều mô típ rất khéo léo. Những sản phẩm này còn được các
dân tộc khác ưa chuộng, thường đến mua hoặc đổi bằng hiện vật. Cùng với tiếng
nói, trang phục thì nghề chạm bạc đã làm nên nét đặc trưng văn hóa của đồng bào
Dao tại Lai Châu. Không chỉ thế, trang sức bạc đã tôn lên vẻ đẹp của người phụ nữ
dân tộc Dao vùng sơn cước.
+ Người Dao cũng óc nghề làm giấy. giấy của đồng bào sản xuất khá tốt nên còn
được các dân tộc khác như Tày, Nùng rất ưa chuộng. Nguyên liệu chính là rơm rạ,
vỏ cây và các loại tre nứa,… giấy có ưu điểm là mỏng, mịn, tương đối trắng, ăn
mực, không nhòe và giữ được lâu. Cho đến nay, người Dao còn giữ được những
cuốn sách cúng, sách hát, gia phả đã ghi từ lâu cũng là nhờ có giấy này, giấy còn
dùng làm pháo và hàng mã. Cho đến nay, nghề làm giấy bản đã chẵn 100 năm,
được duy trì theo hình thức cha truyền con nối. Các nghệ nhân bản Dao nói rằng,
giấy bản được hình thành từ nguyên liệu chính là cây vầu non và dây leo tạo keo
liên kết, sử dụng vôi để ngâm ủ nguyên liệu, sử dụng nước tự nhiên để tráng.
Nhắc đến nghề truyền thống của người Dao đỏ Sa Pa, có nghề làm trống truyền
thống ở xã Tả Phìn, được nhiều du khách trong và ngoài nước thích thú tìm hiểu.
Mới đây, nghề làm trống truyền thống của người Dao đỏ đã được Bộ Văn hóa, Thể 13
thao vào Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Với người Dao
đỏ, trống được sử dụng trong nhiều sự kiện như: Đám cưới, đám ma, lễ cấp sắc… 3. VĂN HÓA XÃ HỘI
3.1 Tổ chức bộ máy buôn làng
Hệ thống làng bản của người Dao gồm có: Già làng (chức vị cao nhất),
trưởng làng – trưởng họ - những người có uy tín nhất trong làng. Vai trò của họ là
hướng dẫn người dân tổ chức sản xuất và phổ biến các bài thuốc dân gian, phòng
chống thiên tai, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, họ là
những người hiểu biết nên có trách nhiệm truyền thụ lại cho lớp trẻ. Suy cho cùng,
buôn làng của người Dao tuy không phải là đơn vị hành chính cấp cơ sở nhưng có
vai trò rất to lớn. Mọi chủ trường, chính sách đường lối của Đảng, Nhà nước đều
thông qua cấp làng để đến được với người dân. 3.2 Dòng họ
Trong thôn xóm người Dao sinh sống chủ yếu các quan hệ xóm giềng và
giòng họ. Người Dao có nhiều họ, nhưng phổ biến nhất là họ Bàn, Đặng, Triệu.
Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt
giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau. Cũng như các dân tộc khác, người
Dao quan niệm tên gọi có ý nghĩa rất lớn, gắn bó với mỗi người suốt cuộc đời.
Người Dao không phân biệt con anh hay con em, ai ra đời trước sẽ được làm anh
chị. Vậy nên họ sử dụng hệ thống tên đệm để duy trì và biết được vai vế với nhau.
“(Ông Bàn Công Hiến, xã Yên Nguyên (Chiêm Hóa), người am hiểu văn
hóa Dao cho biết: “Người Dao đặt tên theo thứ bậc và theo vòng đời, thể hiện sự
văn minh vô cùng sâu sắc. Dòng họ nào cũng có thứ bậc riêng. Khi tên đặt theo thứ
bậc, vòng đời, người ta chỉ cần hỏi tên là đã biết ở bậc nào, hoặc nói được bao 14
nhiều vòng đời thì đã biết có phải họ hàng hay không dù có ở xa”1) ”. Mỗi dòng họ
của người Dao đều có một hệ thống tên đệm riêng dành cho các thành viên nam.
Họ Bàn của nhóm Dao Tiền có các tên đệm là Cực, Phương, Khánh, Văn, Nguyễn,
Tiến…; họ Lý có Văn, Trường, Tài, Toán, Thọ, Tiến… Ở nhóm Dao đỏ, họ Bàn sẽ
có hệ thống tên đệm là Kim, Phượng, Xuân, Tiến, Hoa…; họ Triệu có các tên đệm
Văn, Minh, Kim, Tiến, Xuân; họ Lý có Vinh, Nguyên, Phượng, Tiến, Quý…
Người Dao cũng có quy định, những người cùng dòng họ phải trên 5, 6 đời
mới được phép lấy nhau, nếu ai vi phạm sẽ bị xử phạt. Như vậy, hệ thống các tên
đệm không chỉ là dấu hiệu để nhận biết anh em họ hàng, mà còn giúp biết được
mức độ và khung thời gian cấm kết hôn trong dòng họ. Đây cũng chính là nguyên
nhân lý giải vì sao trong đồng bào người Dao hoàn toàn không có tình trạng hôn
nhân cận huyết như một số dân tộc khác.
3.3 Các nghi lễ vòng đời người 3.3.1 Sinh nở
Khi biết mình có thai, người phụ nữ họ sẽ tự giác tách khỏi giường của
chồng. Khi ra ngoài trời, họ phải che nón ngay cả lúc trời râm mát. Bởi vì người
Dao quan niệm rằng cơ thể phụ nữ rất dơ bẩn khi mang thai, nếu bị Ngọc Hoàng
nhìn thấy sẽ bị trừng phạt. Người phụ nữ mang thai không được phép đến gần bàn
thờ tổ tiên vì sợ bàn thờ sẽ bị ám dơ bẩn.
Lòng mong muốn của vợ chồng trẻ mới lấy nhau là muốn có con nhất là con
trai. Người phụ nữ Dao có mang vẫn làm việc bình thường, họ có tục đẻ ngồi, đối
với những người đẻ khó người ta cột chiếc thắt lưng vào xà nhà trong khi đau đẻ,
sau khi đẻ xong đứa bé được cắt rốn và tắm rửa sạch sẽ, còn chiếc nhau thai được
cho vào lồng cất vào rừng nơi ít người qua lại. Người đẻ thường được bà con hai
1 Giang Lam (2019), Ý nghĩa cách đặt tên đệm của người Dao (https://baotuyenquang.com.vn/xa-hoi/y-nghia-cach-
dat-ten-dem-cua-nguoi-dao-123725.html), truy cập 02/01/2022. 15
bên nội ngoại đến thăm, biếu trứng, gừng. Đặc biệt dân tộc Dao người đẻ được tắm
thuốc lá cay thuốc gia truyền hái trong rừng tự nhiên chỉ sau bảy ngày là khỏe
mạnh bình thường có thể đi làm việc nhẹ được (giáo đia). Thuốc lá tắm của dân tộc
hiện vẫn được lưu giữ. Sau khi gia đình có người đẻ thường treo một cành cây
xanh ở trước cửa nhà để báo cho người ngoài biết và tránh vào nhà. Khi người phụ
nữ sinh nở thì ngoài chồng ra không người đàn ông nào được vào nhà hoặc ở trong
nhà vì họ cho rằng đứa trẻ sẽ sợ vía đàn ông mà không chịu ra khỏi bụng mẹ. Để
báo cho người ngoài biết không vào nhà, người chồng sẽ lấy cỏ cây lúc lắc buộc
vào cọc tre cắm ngoài cổng. Khi đứa trẻ được sinh ra, lau khô sạch sẽ xong, người
ta dùng thanh nứa cắt rốn bỏ vào ống nứa cùng nhau thai rồi chôn xuống chân cột
gầm sàn nhà, nơi trâu bò không thể dẫm lên.
Ngày nay việc đỡ đẻ đã được nữ hộ sinh, y bác sỹ trông nom tại trạm y tế xã,
nếu khó đẻ thi đưa đến bệnh viện tuyến trên. 3.3.2 Hôn nhân
Dân tộc Dao thực hiện hôn nhân theo nguyên tắc ngoại hôn dòng tộc. Cho
đến nay chưa thấy có gia đình người Dao nào mà hai vợ chồng cùng một họ, và
không chấp thuận hai anh em trai của gia đình họ này lấy hai chị em gái của gia
đình họ kia. Người Dao cũng thực hiện nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng,
Sau hôn nhân cư trú bên nhà chồng.
Cưới xin là một sự kiện hết sức quan trọng trong đời sống của người Dao,
đồng bào cho rằng ngày cưới là ngày hệ trọng nhất trong đời người nên những
người làm cha mẹ, làm anh có nhiệm vụ phải lo việc tổ chức cưới xin cho con, em
mình. Xưa kia trong việc tổ chức lễ cưới người con trai muốn lấy vợ phải bỏ ra
một số tiền như đồng bạc già nhưng tùy theo người con gái xinh đẹp, khéo léo hiểu 16
biết nhiều thì giá cả cao hơn, có người từ 80 - 90 đồng (nếu là con dâu người bình
thường thì giá từ 50 - 60 đồng).
Trong ngày cưới nhà trai mang tiền và hiện vật như: 1 gói chè (100g), 100
đồng tiền xu, 1 gói trầu (100g), 1 gói muối (100g). Trung bình mỗi người cưới vợ
phải có 20 đồng bạc trắng (tiền giấy khỏang 10 - 15 triệu), (trước kia không phải là
20 đồng bạc trắng mà có thể là hơn tùy theo gia đình bên gái thách cưới), trai gái
người Dao có tục hát giao duyên (Páo dung) trong những ngày hội, ngày tết để
chào hỏi nhau làm quen nhau. Việc hôn nhân chủ yếu là do cha mẹ quyết định, căn
cứ vào môn đăng hậu đối, nghĩa là xét về mặt tài sản, địa vị xã hội hai bên gia đình
trai gái có tương xứng hay không, lại phải xem lá số hai bên trai gái (hợp nhau
không). Mặc dù trai gái yêu nhau nhưng thầy tạo phán xét thấy lá số hai bên (sung
khắc) nhau hôn nhân cũng không thể thành được.
Ngày nay những hủ tục lạc hậu kể trên đã không còn nữa, viêc tổ chức hôn
nhân đã có nhiều thay đổi tích cực, ngày càng văn minh hơn. Chế độ hôn nhân
người Dao là chế độ hôn nhân một vợ một chồng nhưng vì nền đạo đức phong kiến
trọng nam khinh nữ buộc người ta phải có con trai để nối dõi, thờ cúng tổ tiên.
Theo tục lệ người đàn bà góa có thể tái giá sau khi đã mãn tang chồng, cũng có
trường hợp người đàn bà góa được sự thỏa thuận của họ hàng nhà chồng, cưới
chồng khác, coi như lấy rể về nhà để trông nom con cái, người chồng mới phải thay họ m n
ì h lấy họ người chồng cũ thì mới được hưởng gia tài người chồng cũ. 3.3.3 Tang ma
Đối với người Dao, khi trong gia định có người mất, tất cả mọi người không
được khóc ngay. Tang chủ bắt buộc phải đeo dao, buộc dây ngang thắt lưng đem
theo hai gói muối, một chai rượu cùng với vàng hương đến đặt trước của nhà thầy
tào và lạy ba lạy. Thầy tào nhận và đem cũng trước bàn thờ, sau đó tang chủ sẽ mời 17
thầy về nhà “cầm đầu ma” rồi mới báo cho người thân và mọi người trong làng,
xóm. Họ tránh khâm liệt người chết vào đúng giờ sinh của người khác trong gia
định, vì họ sợ hồn của người chết sẽ bắt hồn người sống đi cùng. Người chết được
nằm cạnh bếp, quay đầu về phía trước nhà, sau đó được nhập quan rồi đem thiếu.
Đồng bào Dao tin ở thuyết có linh hồn, cho rằng linh hồn khi chết sang bên
kia thế giới cũng sinh hoạt ăn, ở, mặc như người sống, nếu không lo việc ma chay
chu đáo thì linh hồn người chết quấy rối người sống, làm rày con cháu gây ốm đau,
chết chóc. Nên phải làm thế nào đưa hồn người chết về nơi cực lạc bên kia thế giới.
Hiếu với cha mẹ, đồng bào cho rằng nhiệm vụ làm con phải lo chu đáo việc ma
chay cho cha mẹ đó là hình thức báo hiếu quan trọng nhất. Từ đó có nghi lễ ma chay gồm :
Lễ tắm rửa người chết: Khi có người chết người nhà báo tin cho họ hàng
biết đồng thời tổ chức lễ tắm rửa, cắt tóc, mặc quần áo, cuốn khăn rồi đem đặt dưới
bàn thờ, xem giờ tốt mới nhập quan tài. Nếu bà hay mẹ chết thì con gái hoặc con
dâu phải thay quần áo cho nếu ông hoặc bố chết thì con trai hoặc cháu trai phải
thay quần áo cho. Trước khi nhập quan tài cho 1 hào bạc trắng vào miệng người
chết sau đó gia đình đi tìm thầy cúng, đội kèn trống, chiêng, thanh la đến làm ma,
thời gian hai ngày hai đêm (chẩn chay).
Lễ cũng: Lễ cúng gồm lợn, gà, vải trắng, rượu, gạo, giấy rơm, hương.
Trong đám tang con cháu kiêng ăn thịt có mỡ, sau làm ma quan tài người chết
được đưa đến mồ rồi chôn. Sau chôn cất lập bàn thờ nhỏ ở trước nhà, cúng cơm ở
ngoài 49 ngày sau đó đưa hồn nhập vào bàn thờ tổ tiên. Từ đó hàng năm được giỗ vào ngày thanh minh. 3.4 Gia đình 18
Ở vùng dân tộc Dao, trước cách mạng tháng Tám, chế độ tư hữu ruộng đất
đã phát triển, chế độ gia đình lớn, con cháu nhiều đời ở với nhau đã chuyển sang
chế độ gia đình nhỏ. Thường con cái lớn lên lấy vợ gả chồng xong là lập gia đình
riêng, được chia một phần gia sản từ bố mẹ. Tuy nhiên tinh thần gia tộc vẫn rất
mạnh trong đồng bào Dao, bao gồm những người cùng một dòng họ với nhau hoặc
có quan hệ với nhau về dòng họ nhân dân trong bản coi nhau đều là những người
bà con, họ hàng hoặc thân gia với nhau, nhất là trong nhân dân lao động họ thường
giúp đỡ nhau, bênh vực nhau khi bị người ngoài ức hiếp. Trong quan hệ giữa bà
con làng xóm, kể cả đối xử với người xa lạ mới đến, đồng bào thường lấy tình gia
đình thân thuộc mà đối đãi với nhau, điều đó thể hiện ở cách đối xử thân mật và nhất là cách xưng hô.
Trong gia đình, người cha có quyền quyết định mọi công việc, con trai được
hưởng gia tài, giữa bố chồng và con dâu, anh chồng và em dâu có sự cách biệt
nghiêm ngặt, con dâu không được ngồi mâm chung với bố chồng, anh chồng,
ngược lại bố chồng và anh chồng không được bước vào buồng con dâu, em dâu.
Trong quan hệ giữa con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì, con bá (bên ngoại)
dân tộc Dao gọi nhau theo lứa tuổi nghĩa là ai lớn tuổi hơn thì được làm anh, chị.
Việc ma chay gia đình có nhiệm vụ lo bếp, nước; Lễ ăn mừng nhà mới người đại
diện họ nội đực vinh dự treo miếng vải đỏ lên chiếc câu đầu nhà mới. Trong phân
công gia đình nam, nữ đều tham gia công việc đồng áng, thường thì nam cày bừa,
nữ cấy gặt, nói chung phụ nữ làm việc nhiều hơn nam giới vì vừa phải tham gia
công việc đồng áng, vừa phải đảm đương công việc bếp núc, may mặc, nuôi
con...Mặc dù trong tập quán địa vị của người phụ nữ bị coi thấp hơn nam giới
nhưng họ vẫn được coi trọng trong gia đình, ý kiến của họ được tôn trọng như khi
tham gia vào việc ma chay, cưới xin, công việc đồng áng.
4. VĂN HÓA VẬT THỂ 19 4.1 Buôn làng
Làng bản của dân tộc Dao thường dựa lưng vào vách núi hoặc trên những
sườn đồi dọc khe suối, chỗ thuận tiện nhất có thể đưa nước máng đến nhà. Đồng
bào ở rải rác trên các triền núi, nhiều bản ở thành từng cụm năm ba nhà. Cụm nọ
cách cụm kia vài ba trăm mét, có nơi đến hàng cây số, chỗ ở lý tưởng nhất của
đồng bào Dao là gần nguồn nước, gần các rừng cây, cao ráo.
Làng của người Dao có thể chia làm hai loại chính: làng cư trú (phân tán du
canh, dư cư vì nương rẫy của họ không ổn định, hệ thống trồng và chấm sóc nương
rẫy theo thời tiết và tùy vào địa hình của mooic khu vực), làng tập trung định cư
(đây là nơi có đất sản xuất ổn định có thể cư trú lâu dài và hình thành nên nhiều hình thái kinh tế mới). 4.2 Nhà cửa
Dân tộc Dao cũng như tất cả các dân tộc khác ở nước ta đều lấy nguyên vật
liệu tại chỗ để làm nhà. Đó là gỗ, tre, nứa, lá cỏ gianh, lá gồi, dây rừn g
Về mặt hình thức, nhà ở của dân tộc Dao chia thành ba loại: nhà đất, nhà nửa
sàn, nửa đất và nhà sàn. Nhà đất có thể là nhà lâu đời của người Dao. Người Dao
quan niệm rằng có ở nhà đất mới có chỗ cúng Bàn Vương. Nhà thường có 3 hoặc 5
gian đứng (không có chái). Loại nhà đất thường được làm ở vùng núi cao, ít rừng,
ít cây cόi. Nhà nửa sàn, nửa đất thường gặp ở vùng giữa nơi còn khá nhiều rừng,
sinh sống ở vùng này chịu tác động của sự ẩm thấp của rừng. Do vậy họ làm nhà
nửa sàn nửa đất. Điều đáng chú ý là với loại nhà này, đồng bào luôn đặt bàn thờ
Bàn Vương ở phần nhà đất. Nhà sàn là loại hình nhà phổ biên ở người Dao sinh
sống ở vùng thấp, làm ruộng hoặc làm nương định cư. Đa số họ sống xen kẽ với
người Tày, người Nùng. 20
Măc dù về hình thức, nhà ở của dân tộc Dao chia thành ba loại hình, nhưng
về nội dung bố trí bên trong vẫn có nét đặc của dân tộc Dao. Đó là trong nhà có
một gian nhỏ được ngăn ra ở ngay giữa nhà dùng làm chỗ thờ Bàn Vương.
Những người sống du canh, du cư đôi khi phải chuyển nhà ở theo nương.
Người Dao có tục chuyển nhà là chuyển đồ vật trong nhà chứn không chuyển
nguyên vật liệu của cả ngôi nhà cũ đến địa điểm làm nhà mới. Tuy nhiên vẫn phải
chuyển theo một chiếc cột nhà.
Nhà đồng bào Dao thường là nhà đất, nhà sàn bằng gỗ, vách bằng gỗ hoặc
trình tường bằng đất, cột gỗ kê trên đá, mái lợp ranh hoặc các chất lợp khác, trong
nhà có buồng ngủ, phòng tiếp khách, bàn thờ tổ tiên, bếp nấu ăn, trên trần nhà làm
kho chứa lương thực, thóc giống...Nhà có một cửa vào bên cạnh gọi là cửa chính
và có một cửa đối diện với bàn thờ tổ tiên còn một cửa ra bếp nấu ăn. Xung quanh
hai bên nhà và cửa trước đối diện bàn thờ là chuồng gia súc và nơi để các dụng cụ
như: cày, cuốc, cối giã gạo...Nhà thường có bốn mái.
Sự trang trí bố trí trong nhà hiện nay có nhiều tiến bộ như bàn, tủ, giường
kiểu mới trở thành phổ biến trong các gia đình, nhiều gia đình có xe máy, tivi, tủ
lạnh, tường vách trong nhà quét vôi trắng, được trang trí bằng những câu đối, tranh
dân gian, màu sắc tươi tắn, đó là hình ảnh ngày càng phổ biến trong nông thôn đổi mới của người Dao.
4.3 Trang phục
Mặc dù chịu tác động rất lớn của quá trình giao thoa văn hóa nhưng người
Dao vẫn giữ được bản sắc văn hóa riêng, độc đáo của dân tộc mình, từ quan hệ thứ
bậc trong anh em, họ hàng đến các phong tục, tập quán, tín ngưỡng văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết... 21
Về trang phục, so với các dân tộc khác thì dân tộc Dao được coi là còn giữ
được nhiều nét bản sắc của mình với chất liệu bằn
g vải bông nhuộm chàm, màu
xanh, đỏ, đen, tím than hoặc để trắng. Tộc người Dao đội khăn đỏ, đeo những bông
hoa đỏ trước ngực; Trang phục phụ nữ mặc áo dài có yếm trước ngực thêu hoa có
tua đỏ, thắt lưng bằng vải đỏ vắt ra đằng sau, quần nhuộm chàm đen, đầu vấn khăn
xếp thành nhiều lớp vòng tròn. Bên ngoài thêu hoa văn rất cầu kỳ, trang nhã, xinh
xắn, đeo vòng cổ, vòng tay bằng bạc trắng.
Khăn đội đầu (Goòng phà) được người Dao trang trí hình vết hổ, cây vạn
hoa, hình cách đoạn... Hoa văn ở trên khăn từ ngoài vào có 5 lớp, 5 lớp này được
bao khuôn ổ vuông ở trung tâm "điểm" của khăn (ở thầy cúng thì có thêm 8 cánh
sao tượng trưng cho đầu ông Tam thanh, gọi chung là "Phàm sinh goong", được
trang trí rất hài hòa và công phu. Khi đội lên đầu, các hoa văn họa tiết của 5 lớp
văn hoa sẽ phô ra ngoài, làm tăng thêm vẻ đẹp của chiếc khăn.
Tua len làm bằng sợi len có tua rua bằng sợi tơ đỏ, ở lớp ngoài với nhiều
màu, không chỉ có tác dụng thẩm mỹ mà còn giúp để khi vấn giữ cho khăn chặt
hơn. Các họa tiết trên tua len gồm có hình sôm, hình gấp khúc, hình cây thông...
Trang phục nam mặc áo ngắn trước ngực có yếm thêu hoa văn tinh xảo và
cài ba chiếc cúc, quần đen nhuộm chàm, đầu vấn khăn xếp hoặc đội mũ nồi đen.
Về trang phục đồng bào còn giữ nguyên được bản sắc dân tộc, người phụ nữ Dao
trước khi đi làm dâu thường tự minh sắm sửa một số quần áo, vải trước khi về nhà
chồng. Bất cứ lúc nào, nơi nào khi công việc nhàn rỗi lúc giờ nghỉ lại thấy người
phụ nữ Dao cặm cụi thêu, dệt những hoa văn tinh xảo, cầu kỳ để chuẩn bị bộ quần
áo mới cho chồng, con, người thân hay của bản thân mình quanh năm ngày tháng
người phụ nữ Dao không lúc nào nghỉ tay. 22
Ngày nay do khoa học công nghệ hiện đại, những hoa văn tinh xảo đã được
dệt bằng máy móc hiện đại, giảm phần nào khó nhọc, vất vả cho chị em phụ nữ.
Trang phục chính là một yếu tố quan trọng để tạo nên bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc Dao.
Trang sức bạc được xem là vật bất ly thân với phụ nữ Dao. Họ quan niệm,
bạc trừ tà ma, mang lại sự may mắn, tài lộc và thể hiện sự giàu sang. Người nào có
bạc thì càng được phù hộ cho khỏe mạnh, gặp những điều tốt lành, gia đình thịnh
vượng, hạnh phúc. Những bộ trang phục quý giá được gắn nhiều bạc với mong
muốn cầu sự bình an và chứng tỏ sự giàu sang, phú quý với mọi người.
Ngoài ra, người Dao còn cho rằng bạc giúp tránh gió, cảm, nhiều loại bệnh
tật. Vì vậy, vòng bạc và mũ đính kèm bạc cũng là quà người lớn thường tặng trẻ
nhỏ để cầu mong điều tốt lành, sức khỏe cho trẻ.
4.4 Ẩm thực
Là cư dân của nương rẫy, người Dao ăn hai bữa chính: bữa trưa (nhặn ản),
bữa chiều (nhặn hoảng). Đồng bào còn ăn một bữa phụ là ăn sáng (nhặn đom).
Món ăn hàng ngày của đồng bào gồm: Thịt, rau, đậu, măng, các loại củ quả trong
rừng luộc hay xào. Sau gạo, nguồn lương thực quan trọng thứ hai là ngô. Ngoài ra,
khi thiếu đói họ còn tìm các loại củ như củ mài, củ bấu hoặc các loại bột như bột
đao, bột báng để chế biến đồ ăn. Đồng bào vốn có tập quán mến khách, có khách
đến tiếp đãi rất chu đáo. Có những món ăn đặc chưng cho từng loại tết: Tết tháng
giêng là tết to nhất trong năm, đồng bào ăn thịt lợn, gà, bánh chưng, bánh dầy. Tết
thanh minh: ăn thịt gà. Tết tháng bảy ăn thịt lợn, thịt gà, cá. Đồng bào uống rượu
cất bằng sắn hay gạo ủ men khoảng mười đến mười lăm ngày cất thành rượu trắng (hóp tiu trang). 23
Đến với người Dao quý khách sẽ có cơ hội thưởng thức món gà đồi độc đáo
cùng các món ăn giản dị như con người của đồng bào dân tộc Dao như thịt luộc,
các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua và các món thịt hun khói, cá
nướng ăn kèm với xôi ngũ sắc
Người Dao có tập quần uống rượu từ lâu đời. Tuy vậy, chỉ có đàn ông Dao
là hay uống rượu nhất là khi nhà có khách. Còn nữ giới chỉ uống rượu thuốc để
chữa bệnh hoặc trong dịp lễ Tết cũng như lúc có bạn bè. Nước uống hàng ngày của
người Dao là nước lã đun sôi với một loại rễ, lá cây rừng hoặc hạt vối, vừa mát vừa
bổ. Hiện nay, nhiều gia định đã trồng chè nên nước chè xanh cũng bắt đầu trở
thành đồ uống phổ biến của họ.
4.5 Nhạc cụ
Nhạc cụ dân tộc của người Dao chủ yếu được sử dụng trong các nghi lễ tôn
giáo, tín ngưỡng, gồm có: Trống, kèn, thanh la, chũm chọe, chuông nhạc, tù và.
Trống có ba loại: Trống dẹt, trống ngắn và trống dài, trống được sử dụng trong các
nghi lễ tang ma, cấp sắc, tết nhảy, cúng tổ tiên vào ngày rằm, mồng 1 hàng tháng,
đặc biệt là để đệm nhạc cho các điệu múa dân tộc. Thanh la là loại nhạc cụ thường
được sử dụng để phối âm với trống trong các làn điệu hát, múa dân tộc. Chũm chọe
bằng đồng, sử dụng trong tang ma, lễ cấp sắc, tết nhảy. Kèn là loại nhạc cụ thổi
trong tang ma hoặc đám cưới. Tù và thổi trong tang ma, lễ cấp sắc, trong các
trường hợp gọi hồn và Ngọc Hoàng trên trời xuống chứng kiến. Chuông nhạc là
nhạc cụ không thể thiếu trong các nghi lễ và đề hòa nhạc khi múa cúng. Ngoài ra,
người Dao còn có các loại nhạc cụ khác như: Nhị, sáo, đàn môi,…
Người Dao sáng tạo ra các điệu dân vũ rất độc đáo và đặc biệt gắn ăn liền
với nghi lễ tôn giáo của đồng bào. Trong các sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của 24
người Dao không thể thiếu các điệu múa, thể h ệ i n sức mạnh, thể h ệ i n sự giao tiếp
với các thế lực siêu, Hay để xua đuổi tà ma hơn là một hình thức sinh hoạt văn
nghệ đơn thuần. Bởi vậy để có các bạn múa đúng nghi thức, người Dao khá cầu kỳ
trong câu tổ chức, từ việc chọn trang phục cho đến việc thực hiện các động tác múa.
4.6 Phương tiện vận chuyển
Mặc dù sống ở những khu vực núi và địa bàn riêng biệt, nhưng phương tiện
vận chuyển của người Dao vẫn có nhiều nét tương đồng với các dân tộc khác trên
khắp đất nước ta về chủng loại, cách thức chế tác và chức năng sử dụng. Chẳng
hạn, xe bò, xe ngựa để chở hàng; tàu thuyền, máng để di chuyển trên sông suối,
đường bộ thì dùng đi bộ, đi ngựa...
Trước đây, trong khoảng thế kỷ X – XVIII, do khu vực hiểm trở, đi lại chủ
yếu bằng đường rừng hoặc các đồi núi chập chùng, mấp mô, chưa được làm bằng
phẳng nên người Dao thường đi bộ là chính. Để chuyển hàng họ thường dùng địu,
quẩy tấu (một loại sọt) hay lù cở (giống gùi) có hai quai đeo phía sau để lên rừng
hái, quả hoặc thu thập nông sản. Ở những vùng thấp hơn, người Dao thường dùng
đôi dậu để gánh lúa, ngô và những vật dụng khác. Địu và đôi dậu của người Dao
thường có cách chế tác và hình dáng khác so với ở các nơi khác. Ngoài ra, người
Dao cũng có thói quen đeo túi vải hoặc túi lưới đeo vai bên mình để đựng những
vận dụng cần thiết. Giờ đây, nếu có dịp ghé qua những ngôi làng của người Dao
bạn vẫn thấy thói quen này vẫn được duy trì và gìn giữ.
Một số tộc người Dao sinh sống ven các con suối, con sông đã biết dùng gỗ,
tre, nứa để đóng thành các con thuyền và sử dụng thuyền để vận chuyển hàng hóa,
lưu thông bằng thuyền trên sông suối lớn. Theo sách cũ chép lại, sông suối là 25
những con đường lưu thông chủ đạo của các dân tộc ở khu vực miền núi phía Bắc trước đây.
Những năm sau, người Dao bắt đầu xem ngựa là một vật nuôi không thể
thiếu của mỗi gia đình. Họ cũng dùng ngựa để đi lại và làm sức ngựa để vận
chuyển đồ đạc, hàng hóa hay đi chợ. Ngựa được xem là phương tiện vận chuyển
ưu việt nhất ở cùng núi hiểm trở. Ngày nay, ngựa vẫn khá được yêu thích và tiếp
tục thể hiện tính tiện dụng của mình.
Ngày nay, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, khá nhiều các con đường
mòn, đường nhựa đã được khai thông để dẫn vào các làng, bản của người Dao. Do
đó, nhiều người Dao đã biết dùng xe máy để đi lại, loại xe máy được dùng nhiều
vẫn là xe win vì công suất mạnh, có thể chở hàng và đi đường núi tốt mà không xuống cấp.
5. VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
5.1 Tín ngưỡng và tôn giáo
Trong quá trình lịch sử lâu dài nhân dân ở nhiều vùng biên giới thường bị
nạn ngoại xâm, giặc tàn phá, chém giết thêm vào đó nạn hạn hán, đói kém, nạn thú
rừng bắt người, phá hoại mùa màng. Tất cả những tai nạn đó làm đồng bào điêu
đứng, trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật thấp kém, từ đó tôn giáo, tín ngưỡng
sinh sôi nảy nở. Hiện nay chưa cho phép chúng ta đi đến kết luận tôn giáo nào là
tôn giáo chính thống của người Dao, chỉ nêu một số hiện tượng về tín ngưỡng để
qua đó thấy được tính chất tôn giáo của người Dao như thế nào. Trước hết ta thấy
đồng bào Dao thờ tổ tiên là chính, đồng thời thờ một số vị t ầ h n thường thấy ở
trong phật giáo, đạo giáo và tin ở rất nhiều loại ma quỷ.
Theo nhiều nghiên cứu cho rằng, tín ngưỡng của người Dao là tín ngưỡng đa
thần nguyên thủy. Họ tin vào vạn vật hữu linh, họ cho rằng mọi vật đều có linh 26
hồn, khi mà vật đó chết đi thì hồn lìa khỏi xác để biến thành ma và hồn ma có ở
khắp mọi nơi. Họ cho rằng ở trên đời này có hai loại ma, đó là ma lành (phúc thần) và ma dữ (hung thần):
+ Ma lành: ma tổ tiên, ma mụ, ma bếp lửa, ma mường, ma bản bảo vệ người, xúc
vật, mùa màng, giúp người trừ các loại ma tà quỷ quái. Đồng bào thờ ma lành
trong nhà hay ở nơi công cộng. Loại ma lành ban ơn, ban phúc cho người trần
nhưng cũng trừng phạt người trần nếu không lo việc cúng bái cho chu đáo, ngay
ma thân thuộc nhất trong nhà như ma tổ tiên nhiều khi cũng rầy con cái không kém gì các vị hung thần.
+ Ma dữ: ma rừng, ma rú, ma sấm sét, ma thuồng luồng, ma người chết bị thương
tích, chết đuối, ma yêu tinh ở những cây cổ thụ...Đồng bào không thờ cúng. Khi
người ốm nếu thầy cúng phát hiện ra con ma nào gây ra đau ốm thì phải cúng ma ấy.
Bên cạnh đó, chúng ta còn nhận thấy rõ rằng Tan giáo ảnh hưởng đến đồng
bào dân tộc Dao khá rõ nét. Các thầy cúng của dân tộc Dao, những bức hoạ, những
bức tranh trong cúng bái, những hình mặt nạ hoá trang trong khi múa, những phù
phép khi cúng chữa bệnh, bói toán chuẩn đoán bệnh cho người ốm... tồn tại trong
các nghi lễ tôn giáo của người Dao đều là sản phẩm của Đạo giáo. Biểu hiện của
Phật giáo trong tín ngưỡng dân tộc Dao là quan niệm về hoá kiếp luân hồi, uống
nước thiêng chữa bệnh, ăn chayniệm Phật, tu nhân tích đức, ở hiền gặp lành.
Người sống lâu, người chết trẻ, người học giỏi, người học không giỏi, người đẹp
trai, xinh gái, người cao, người thấp... là số do trời quyết - thiên mệnh (Khổng giáo).
Tục thờ tổ tiên bắt nguồn từ tục thờ cúng thị tộc, gia tộc. Người Dao thờ
cúng tổ tiên là quan trọng, bàn thờ tổ tiên là nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Bất cứ 27
gia đình nào cũng phải có để hàng năm cúng giỗ. Có người đau ốm hay việc không
may xảy ra cúng bái tổ tiên nhờ tổ tiên phù hộ cho tai qua nạn khỏi, đồng bào cúng theo tộc hệ năm đời.
Người Dao còn có một tín ngưỡng khác là lễ tạ mả. Đây là nghi lễ của dòng
họ, mỗi họ làm riêng với nhau. Riêng họ Phùng ở Kim Bôi đã làm lễ tạ mả là phải
thịt trâu, phải lập bàn thờ, phải thả tranh, có thầy cúng và nhạc chiêng, trống, xập
xọe, chuông phụ họa. Người ta còn tiến hành đắp mộ giả trước sân nhà. Nơi làm lễ
đắp, người trong họ đứng làm lễ theo thứ tự từ cao xuống thấp, theo các chi, các
nhánh trên, dưới như gia phả ghi chép. Thầy cúng ở lễ này phải mời ở họ khác vì
thầy cúng được đứng trên các cụ. Nếu thầy cúng là người trong họ có thể sẽ là bậc
có vai vế nhỏ hơn thì không được. Lễ này cũng là dịp để toàn bộ họ hàng đến dự.
5.2 Lễ hội
5.2.1 Lễ hội nông nghiệp
Lễ cầu mùa: Người Dao có lễ hội cầu mùa được tổ chức vào những dịp đầu
xuân. Lễ cúng được tổ chức theo từng dòng họ, xem ngày nào hợp với họ mình. Lễ
cúng không cầu kỳ song mang nhiều yếu tố tâm linh sâu sắc của dân tộc, thể hiện
sự tôn kính của đồng bào đối với thần rừng, thần núi, thần đất, thần trời. Trên mâm
lễ là gà luộc, bánh trưng, rượu, tiền, vàng mã, thầy mo đọc bài cầu khấn trời đất
cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, bội thu, không bị sâu bệnh phá hoại,
con cháu học hành thành đạt, nhà nhà no đủ, mọi sự bình yên. Trong bài khấn cũng
có lời hứa với thần núi, thần rừng, thần đất và trời là mọi người sẽ tích cực bảo vệ
rừng, phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống ấm no, loại bỏ những tập tục lạc hậu
làm cho người Dao được ấm no hạnh phúc.
Lễ cúng cơm mới: Lễ cúng cơn mới được một số nhóm Dao (Dao Đỏ, Dao
ÁoDài, Dao Tiền) tổ chức. Có gia đình tổ chức vào tháng 8 – mùa lúa bắt đầu chín; 28
có gia đình tổ chức vào tháng 9. Người ta gặt lấy ít lúa đầu mùa đem về phơi khô,
giã thành gạo, nấu cơm, xới ra bát, bày lên bàn thờ tổ tiên. Ngoài ra còn có các
món rau, cua, cá, khoai sọ, đậu đũa, gà luộc và nhộng ông.
Lễ cúng hồn lúa: Ngày cúng hồn lúa được chọn kĩ. Sao cho không trùng
với ngày sinh của chủ nhà, không trùng với ngày mất của ông bà, không chọn ngày
mệnh lợn, mệnh gà. Thông thường đồng bào hay chọn cúng hồn lửa vào các ngày
con rồng, ngày con trầu hoặc ngày con hổ. Mâm cúng được bày trườc bàn thờ tổ
tiên. Trên mâm cúng gà luộc, một chén nước, một ngọn đèn, ba bát hương, ba chén
rượu, ba hoặc năm bát cơm nếp và tiền vàng âm phủ. Bên cạnh mâm cúng nhất
thiết đặt một cái sọt, trong đó có một gói bánh giầy, một cụm lúa nếp tượng trưng
cho mẹ lúa và ba nén hương. Sau khu cúng xong, cái sọt cùng lễ vật được đặt vào
trong kho hoặc bồ thóc. Đúng 5 ngày sau lấy bánh trong sọt ra ăn. Bánh này không
chia cho người khác, chỉ để cho người trong gia đình ăn. Đồng bào quan niệm ăn
bánh này người sẽ khoẻ và có khả năng chống các bệnh tật vì trong bánh tập trung
nhiều hồn lúa. Cúng sau khi gieo trồng thường tổ chức vào tháng 5, tháng 6 hàng
năm sau khi vụ gieo trồng kêt thúc. Có nhóm Dao bày vật cúng và cúng trước bàn
thờ tổ tiên, nhưng cũng có nhóm Dao lập bàn cúng trước cửa chính, nếu ruộng,
nương ở gần nhà. Nếu ruộng, nương xa nhà thì phải mang lễ vật cúng lên nương.
Lễ vật thường có gà luộc, nhà giàu còn có lợn, dê. Nếu cúng lợn, hoặc dê thì phải
cúng cả buồng gan, một miếng thịt, bốn chân và cả cái đầu.
5.2.2 Lễ hội cộng đồng
A. Tết cổ truyền của người Dao
Tết cổ truyền của người Dao diễn ra cùng dịp với Tết nguyên đán của người
Việt, thường sớm hơn nữa tháng và kết thức tưởng tự. Bắt đầu từ ngày 28 Tết,
khắp làng trên, xóm dưới, đồng bào dân tộc bắt tay vào mổ lợn, gà trông thiến, làm
bánh nếp…Đây chính là thời điểm các thành viên trong dòng họ tụ tập quay quần 29
tại nhà trưởng họ, cùng nhua nâng chén rượu mừng xuân, cầu chúc cho nhau ngày
càng làm ăn phát đạt, cháu con khỏe mạnh…và bàn việc tổ chức nghi lễ Tết nhảy.
Từ bao đời nay, Tết nhảy trở thành nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc không thể
thiếu của người Dao trong mỗi dịp Tết đến xuân về. Để chuẩn bị cho Tết nhảy, các
thanh niên trong làng phải luyện tập các điệu múa, điệu nhảy và chuẩn bị gươm
đao bằng gỗ để múa. “Tết nhảy” của người Dao là nét sinh hoạt văn hóa mang tính
tổng hợp của các loại hình nghệ thuật dân gian như nhảy múa, âm nhạc, ngôn
ngữ,…tất cả đã làm nên vũ điệu sắc màu độc đáo riêng của người Dao. Mục đích
chính của nghi lễ này là để cầu cúng tổ tiền, cầu khấn tổ tiền phù hộ sang năm mới
mọi người trong gia tộc, dòng họ được mạnh khỏe, mưa thuận gió hòa cho mùa
mạng bội thu, gia súc, gia cầm phát triển không bị dịch bệnh. B. Lễ cầu mùa
“Lễ hội cầu mùa” là một lễ hội của người Dao. Đây là nét văn hóa truyền
thống tốt đẹp của đồng bào dân Dao, không cầu kì nhưng mang nhiều yếu tố tâm
linh sâu sắc của cả cộng đồng. Đặc điểm chung của lễ hội chính là cầu cho người yên vật thịn ,
h mùa mạng tốt tươi, lúa đầy bồ, gà lợn đầy chuồng…Nhưng ở mỗi
dân tộc khác nhau trong tỉnh cách thức tổ chức lễ hội rất khác nhau.
Lễ cũng diễn ra trên một khu đất đai bằng phẳng, ở một khu ruộng hoặc trên
một quả đồi, nơi có không gian thoáng đãng, thuận lợi cho việc tổ chức. Ngày lễ
chính, các gia đình trong làng đóng góp tiền mua sắm lễ vật gồm: xôi lợn, gà, giấy
tiền, vàng hương để cầu mong các vị thần trên trời, dưới đất phù hộ cho dân làng
có cuộc sống yên ổn, ấm lo, thịnh vượng.
Lễ cũng được tổ chức vào ngày Thìn, Sửu vì theo quan niệm của người Dao,
tổ chức lễ cũng vào ngày này làng bản luôn gặp nhiều may mắn. Lễ hội cầu mùa
không chỉ là dịp để mọi người cầu may mắn cho năm mới mà còn giáo dục tinh 30
thần đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên trong cộng đồng dân tộc Dao, dân tộc có
vai trò, vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh miền núi, biên giới. C. Lễ cấp sắc
Lễ cấp sắc thường tổ chức vào tháng 11, tháng 12 hoặc tháng Giêng hàng
năm, vì đây là thời gian nhàn rỗi. Ngày thụ lễ được lựa chọn rất kĩ, người Dao Đỏ,
Dao Tiền thường làm lễ cấp sắc từ độ tuổi 12-30, có khi đến già. Trong khi đó,
người Dao Áo dài là 11-19 tuổi.
Người Dao Đỏ có thể tổ chức Cấp sắc cho một đợt tối đa 13 người và ở nhà
trưởng họ. Người Dao Áo dài mỗi lần chỉ cấp sắc cho một người và tại nhà người
đó. Gần đến ngày đó, gia định phải cử lễ vật đi mời thầy cũng, người được thụ lễ
phải kiêng cử hò hát, cải nhau, ngủ chung…Để phục vụ lễ nghi và khoản đãi dân
làng chứng kiến, các gia định có người thụ lễ phải chuẩn bị các vật thiết yếu như
lợn, thóc gạo, rượu, y phục thầy cũng. Mỗi nhóm Dao có một bậc cấp sắc riêng:
người Dao Đỏ và Dao Áo dài cấp 7 đèn, Dao Tiền cấp 3 đèn. Mỗi lễ cấp sắc phải
có 6 thầy cũng đảm nhiệm các nhiệm vụ và các nghi lễ lớn nhỏ khác nhau. Các
thầy cúng trước khi hành lễ đều phải cúng ma ở bàn thờ tổ tiền nhà mình để xin
được phù hộ và đi theo giúp đỡ. Tại nơi hành lễ, họ treo tranh Ngọc Hoàng và các
vị thần thánh của người Dao, lập bàn thờ tổ tiên người thụ lễ và bàn thờ các thần thành.
Khi hành lễ, các thầy cúng phải thực hiện rất nhiều bài cúng, múa, điệu bộ
phép thuật theo sách cấp sắc; người thụ lễ,có khi cả vợ anh ta cũng phải thực hiện
nhiều động tác lễ nghi theo sự chỉ dẫn của các thầy. Khác với nhóm Dao Đỏ và
Dao Tiền, người Dao Áo dài có một nghi thức hóa kiếp khá đặc biệt. Theo đó,
người thụ lễ phải ngồi xổm, bất động, các ngón tay bắt vào ngón chán khoảng một 31
giờ đồng hồ, rồi mới được thầy đẩy nhẹ cho rơi xuống một cái võng 3-4 người đỡ.
Làm xong lễ hóa kiếp là lễ giáo huấn, lễ t ề
h và lễ đặt tên cấp sắc.
Ở tất cả các nhóm Dao, sau khi thực hiện đầy đủ các nghi thức phức tạp và đã cấp
sắc cho người thụ lễ xong, các thầy cúng đều phải cúng tạ ơn tổ tiền, thần thành đã
đến dự thì nghi lễ mới kết thức.
5.3 Văn học nghệ thuật dân gian 5.3.1 Múa chuông
Múa chuông là điệu múa truyền thống của đồng bào dân tộc Dao, múa
chuông thường có cả nam và nữ. Đó là một trong những điệu múa chính và đặc sắc
trong các nghi lễ linh thiêng của đồng bào Dao như: Lễ lập tịch, Tết Nhảy, Tết
Thanh minh,…Đặc biệt, múa chuông trong Tết nhảy là lễ tạ ơn tổ tiên, Bàn Vương
đã bảo vệ cuộc sống gia đình, dòng tộc, mong tổ tiên che chở cho mọi thành viên
trong gia tộc mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, phù hộ cho dân bản có cuộc sống no ấm, yên vui.
Những chiếc chuông với những sợi tua màu đỏ được tung lên hòa nhịp đều
đặn với tiếng chuông, tung lên, hạ xuống từng nhịp từng nhịp. Mỗi dịp xuân về,
điệu múa chuông lại vang lên khắp các làng, bản. Nếu bản đóng người thì tổ chức
múa Chuông ở nhiều nhà nên cả bản cứ luận phiên xúm lại giúp nhau. Mỗi đợt
múa hát có khoảng 20- 40 người tham gia, càng đông càng vui. Khi múa tay trái
người múa cầm một chiếc đóm, tay phải cầm một chiếc chuông để đánh nhịp. Vừa
múa họ vừa hát những bài hát cổ xưa mô phỏng quá trình mưu sinh trên đất mới,
dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái trong từng gia đình nên truyền thống dân tộc,
truyền thống gia đình hàng năm được ôn lại trong dịp Tết nhảy.
Hiện nay trước sự phát triển của nhiều luồng văn hóa tiên tiến, nét đẹp văn
hóa truyền thống múa Chuông đang có nguy cơ mai một. Trước tình trạng đó, 32
huyện Thanh Sơn đã có nhiều giải pháp giữ gìn và phát huy những vốn quý của
nền văn hóa truyền thống, giữ gìn bản sắc riêng của các dân tộc. Huyện đã chỉ đạo
cơ sở động viên bà con phục dựng lại những nét đẹp văn hóa truyền thống trong đó
có múa Chuông của người Dao, đồng thời tổ chức các hội diễn cấp cơ sở và đưa
múa Chuông tham gia các hội diễn của tỉn h
5.3.2 Thơ ca cổ truyền
Tình ca: Tình ca của người Dao gọi là páo dung, là hình thức thơ ca dân
gian phong phú nhất, thanh niên nam, nữ mỗi khi đến thăm nhau, những ngày hội,
ngày tết, ngày cưới, ngày chợ họ thường tụm năm tụm ba ở nơi công cộng chào hỏi
nhau, thổ lộ tình yêu với nhau, páo dung là tiếng nói của tình yêu, là thơ ca của lớp
người mới lớn lên nên rất lành mạnh, trong sáng và đầy sức sống. Thanh niên nam
nữ thường mượn cảnh đẹp quê hương làng, bản, cảnh làm ăn sinh hoạt hàng ngày
những chuyện mượn trong thần thoại cổ tích để gợi cảm và qua đó nói lên lòng yêu
đương của mình và ước vọng xây dựng một cuộc sống vui tươi hạnh phúc.
Ca đám cưới: Trong thơ ca đám cưới đồng bào Dao dùng lời văn hóa, ví
von bóng bảy, họ ví cuộc cưới xin như một cuộc đi xứ, trong khi hành lễ đều thể
hiện bằng thơ ca như thách thức, trình bày đồ sính lễ, giới thiệu của hồi môn, cám
ơn họ hàng, làng xóm đến dự lễ cưới, chúc mừng cô dâu chú rể.. .
Ca cúng bái: Người Dao có rất nhiều bài ca cúng bái, nội dung chủ yếu
phục vụ cho việc cúng bái có giá trị văn học phản ảnh được những nét sinh hoạt
quá khứ của dân tộc, những khái niệm về tôn giáo, đạo đức trước đây trở thành văn
hóa truyển thống dân tộc. Các loại ca cúng bái như: cúng làm nhà, cúng đám cưới,
cúng hồn, cúng cơm mới, cúng đám tang, cúng thần linh. Đó là nét đẹp bản sắc dân
tộc Dao, song cũng cần bài trừ những hủ tục lạc hậu trong việc cúng bái tuyên 33
truyền tư tưởng mê tín, dị đoan trong việc cưới, việc tang rườm rà lạc hậu, không
đúng bản sắc lành mạnh của dân tộc.
5.4 Nghệ thuật điêu khắc và trang trí
Bạc và hoa văn trang trí trên bạc rất được ưa chuộng. Sản phẩm sử dụng chủ
yếu là trang trí trên áo, mũ, vòng cổ, vòng tay… Hoa văn là những nét đục, chạm
khắc trên các loại trang sức bạc, là những họa tiết nhỏ góp phần tô điểm cho trang
sức trở nên mềm mại, hài hòa và tôn lên vẻ đẹp, cao quý của người mặc.
Lửa, nước, bạc và con người cùng hội tụ lại để tạo ra những sản phẩm thấm
đẫm văn hóa Dao làm say đắm lòng người. Để có những chiếc khuy áo hay chiếc
nhẫn, chiếc vòng bạc cho cô dâu trong ngày cưới người nghệ nhân phải hòa tâm
hồn mình cùng từng thớ bạc trong lửa nóng hay nặng nhẹ tay theo từng nhát búa.
Giữa núi rừng mênh mông, những sản phẩm bạc không đơn thuần là vật trang trí
mà còn là sự kết tinh của tự nhiên và con người. Chính vì thế mỗi sản phẩm bằng
bạc của đồng bào Dao là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc vừa thể hiện văn hóa bản
địa vừa toát lên tâm hồn, trí tuệ của người Dao qua đôi bàn tay tài hoa của người thợ bạc KẾT LUẬN
Mỗi dân tộc có một lịch sử, một nền văn hóa riêng, dân tộc Dao vốn rất yêu
quý làng bản, đất nước, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, nhà nước đến việc chăm lo đời
sống, văn hóa, tinh thần, bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân
tộc với việc xây dựng đời sống kinh tế xã hội. Tổ chức các ngày hội văn hóa với
nhiều hoạt động như những trò chơi dân gian, các lễ hội đặc sắc cùng nhiều nghi lễ
tâm linh phong phú góp phần tạo không khí vui tươi phấn khởi trong đời sống tinh 34
thần của đồng bào dân tộc Dao, thúc đẩy thi đua lao động sản xuất, xóa đói giảm nghèo.
Thông qua quá trình hội nhập, chúng ta có thể nhận thức đầy đủ hơn, có ý
thức hơn tring việc bảo tồn, phát huy bản sắc của dân tộc mình. Đồng thời trong
quá trình đó, chúng ta sẽ thấy được những hạn chế của những truyền thống có khả
năng cản trở sự tiến bộ để tìm cách khắc phục. Để khắc phục những hạn chế yếu
kém, tiếp tục giữ gìn phát huy văn hóa dân tộc, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã
hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế cần thực hiện một số những nhiệm vụ cơ bản sau: Tăng cường
sự lạnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất
nước, tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa, xây dựng và
thực hiện chiến lược đào tạo,…Đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam, tôi nhận thức sâu
sắc được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình để góp phần giữ vững và bảo tồn văn
hóa dân tộc Việt Nam tiền tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Nếu như từng địa
phương, từng ngành, từng đơn vị, từng gia định có nhận thức đúng đắn để đóng
góp cho dân tộc thì chắc chắn chúng ta sẽ đẩy lùi được các hiện tượng tiểu cực,
làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, nền văn hóa của chúng ta ngày càng được nâng cao hơn.
Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều tục lệ của các dân tộc ít người
có phần bị ảnh hưởng, nhưng dân tộc Dao vẫn giữ được nền văn hóa rất phong phú
và đậm đà bản sắc của đời sống. Chính những nét văn hóa đó góp phần bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam (2015), Người Dao
(http://www.cema.gov.vn/gioi-thieu/cong-dong-5 - 4 dan-toc/nguoi-dao.htm), truy cập 30/12/2021 2. Thanh Bình (2021), Đặc sắc văn hóa dân tộc Dao
(https://dangcongsan.vn/van-hoa-vung-sau-vung-xa-bien-gioi-hai-dao-vung-
dan-toc-thieu-so/dac-sac-van-hoa-dan-toc-dao-597724.html), truy cập 31/12/2021.
3. Bản sắc văn hóa người Dao (http://tuoitrethanhhoa.vn/web/trang-chu/tin-tuc-
su-kien/van-hoa-giai-tri/ban-sac-van-hoa-nguoi-dao.html), trích nguồn Báo
Thanh Hóa, truy cập 31/12/2021.
4. Sông Lam (2021), Nét đẹp văn hóa trong trang phục dân tộc Dao
(https://baodantoc.vn/net-dep-van-hoa-trong-trang-phuc-dan-toc-dao-
1619803575597.htm), truy cập 31/12/2021.
5. Thu Hằng (2014), Dân tộc Dao ở Việt Nam (https://vovworld.vn/vi-VN/sac-
mau-cac-dan-toc-viet-nam/dan-toc-dao-o-viet-nam-2 8 3 442.vov), truy cập 01/01/2022.
6. Nghi lễ cấp sắc của người Dao (http://dsvh.gov.vn/nghi-le-cap-sac-cua-
nguoi-dao-1326), truy cập 01/01/2022. 7. Huyền Trang (2020), Lễ cầu mùa của người Dao
(https://baotuyenquang.com.vn//dan-toc-mien-nui/le-hoi/le-cau-mua-cua-
nguoi-dao-134110.html), truy cập 02/01/2022.
8. N Dương (2021), Tết Nhảy của người Dao (https://dangcongsan.vn/chao-
xuan-tan-suu-2021/phong-tuc-tet/tet-nhay-cua-nguoi-dao-574435.html), truy cập 02/01/2022.
9. Nguyễn Thị Nga (2012), Kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp của người Dao
(https://svhttdl.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-
/asset_publisher/xqtf4Gcdcef5/content/kinh-nghiem-trong-san-xuat-nong- nghiep-cua-nguoi-dao-so -
n ong), truy cập 02/01/2022.
10. Triệu Biên (2021), Múa chuông – điệu múa linh thiêng của người Dao Tiền
ở Vân Hồ (https://vov.vn/van-hoa/mua-chuong-dieu-mua-linh-thieng-cua- nguoi-dao-tien-van-h -
o 836276.vov), truy cập 03/01/2022.
11. Chẻo Thu (2020), Bộ nhạc cụ truyền thống của người Dao Khâu ở Sỉn Hồ (
https://vovworld.vn/vi-vn/sac-mau-cac-dan-toc-viet-nam/bo-nhac-cu-truyen-
thong-cua-nguoi-dao-khau-o-huyen-sin-ho-851277.vov), truy cập 04/01/2022. 36
12. Tín ngưỡng của người Dao (http://www.baohoabinh.com.vn/40/62903/Tin-
nguong-cua-nguoi-Dao.htm), truy cập 05/01/2021
13. Nguyễn Ngọc Thanh (2021), Độc đáo hoa văn trên bạc của người Dao Đỏ
(https://baolaocai.vn/bai-viet/346925-doc-dao-hoa-van-tren-bac-cua-nguoi-
dao-do), truy cập 06/01/2022. 37
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH B n Hu ả i Sâu, xã Pa ổ T n (huy ầ ện Nậ Tả Phìn
– điểm du lịch n i ti ổ ếng Sa P ở B ) ồ
Những ngôi nhà sàn ngay chân ruộ
Bao đời nay nghề chính của người Dao g n li ắ
ền với trông lúa nước b c thang c ậ
ủa người Dao ở Nậm H ng ồ
Anh Chìu Quý Nguyên thu tiền t Giấy b i s
ản trong đờ ống người Dao m ỗi năm nhờ vi ệc chăn nuôi gà 38
Phụ nữ Dao Đỏ huyện Lâm Bình dệ
Người Dao Đỏ làm trống ở Sa Pa thổ cẩm
Nghề rèn truyền th ng c ố i Da ủa ngườ
Cô dâu người dân tộc dao trong lễ rước dâu
Tang ma của người Dao
Lễ rước dâu c a Dao ủ 39
Tang ma của người Dao Nhà sàn Nhà đất Nhà nữa sàn n t ữa đấ Dao Lô Gang Dao Đỏ 40 Dao Thanh Phán
Dao Quần Chẹt Dao Thanh Y Dao Tiền Trang sức b c c ạ ủa người Dao Trang sức b c c ạ a ủ người Dao â 41 B nh ộ c c ạ truy ụ ền th ng c ố ủa người Dao Tết nh y c ả ng bào dân t ủa đồ c Dao ộ Lễ c p s ấ c c ắ
ủa nhóm người Dao Đỏ Lễ h i c ọ ầu mùa c i Dao ủa ngườ
Tiết mục hát Páo dung c i Da ủa ngườ
Người Dao bản Sưng, xã Cao Sơn (Đà
tại Lễ hội L ng tông huy ồ ện Lâm Bìn B c) bi ắ
ểu diễn múa chuông ph c v ụ ụ d năm 2017
khách đến thăm quan, du lịch 42 Nghi lễ nh y l ả ửa c a ng ủ i Da ườ
Mâm cơm gà đồi độc áo c đ a ủ ng i Dao ườ
Nghề trồng quế c a ng ủ ười Dao
Nghệ nhân chạm khắc b ạ
Gia đình ông Lý Văn Điệp, thôn Hòn Lau, xã Th ng ắ Quân (Y
Sơn) chuẩn bị lễ mừng cơm mớ dâng lên t tiên. ổ Nghề n u r ấ u
ượ đao của ng i Dao ườ 43 44