





Preview text:
Hạn chế, bất cập trong quyền tự do hợp đồng
Khoa Luật Kinh Doanh (Trường Đại học Luật - Đại học quốc gia Hà Nội)
2.2. Một số hạn chế, bất cập
Mặc dù Việt Nam đã có một hệ thống pháp luật khá hoàn thiện cho việc điều
chỉnh quan hệ hợp đồng và đảm bảo quyền tự do hợp đồng, tuy nhiên, vẫn còn tồn
tại những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về quyền tự do hợp đồng, cụ thể:
Thứ nhất, mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định của luật chuyên ngành
với Bộ luật Dân sự năm 2015
Về nội dung của Hợp đồng: Bộ luật Dân sự năm 2015 đưa ra các quy định
tùy nghi khi quy định về nội dung hợp đồng nhằm bảo đảm quyền tự do hợp đồng
của các bên trong hợp đồng, theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng các thỏa thuận của
các bên so với các quy định của pháp luật, tuy nhiên, các đạo luật chuyên ngành lại
không thống nhất trong việc ghi nhận kỹ thuật lập pháp này. Với hoạt động thương
mại đặc thù, một số đạo luật chuyên ngành khác ví dụ như Luật Kinh doanh bảo
hiểm, Luật Điện lực,… lại thường sử dụng các quy phạm bắt buộc khi quy định về
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Hiện nay, một số luật chuyên ngành còn quy định lại những quy định chung
về hợp đồng đã được quy định trong Bộ luật Dân sự. Ví dụ: Luật Hàng không dân
dụng Việt Nam năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) có những quy định về
hợp đồng trong họat động hàng không như: Vận chuyển hàng hóa, vận chuyển
hành khách và hành lý... (Mục 3, 4, 5, 6 chương VI); Luật Thương mại năm 2005
cũng có quy định về hợp đồng dịch vụ (chương III), trong khi đó, Bộ luật Dân sự
năm 2015 đã có quy định về các loại hợp đồng cụ thể này tại Mục 10 - Một số hợp
đồng thông dụng. Chương XVI Phần thứ ba đã có quy định về hợp đồng vận
chuyển hành khách, hợp đồng vận chuyển tài sản, hợp đồng dịch vụ. Việc các luật
chuyên ngành có những quy định chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định của Bộ
luật Dân sự năm 2015 đã gây phức tạp trong việc áp dụng pháp luật và ảnh hưởng
đến quyền tự do hợp đồng.
Về hiệu lực của Hợp đồng
Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định “giao dịch dân sự đã được
xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng
thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì
theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực
của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công
chứng, chứng thực”.
Hiện nay, có rất nhiều quy định của các luật chuyên ngành bắt buộc hợp
đồng phải có công chứng, chứng thực thì mới có hiệu lực pháp lý: Ví dụ như, quy
định tại Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014 (đang có hiệu lực) về Công chứng, chứng
thực hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở: “Hợp đồng về nhà
ở phải có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp
huyện đối với nhà ở tại đô thị, chứng thực của Ủy ban nhân dân xã đối với nhà ở
tại nông thôn...”. Như vậy, quy định này mâu thuẫn với Điều 129 Bộ luật Dân sự
năm 2015, nếu áp dụng nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành thì trong
trường hợp này, nếu các bên chưa công chứng, chứng thực mà đã thực hiện được
2/3 nghĩa vụ hợp đồng thì hợp đồng vẫn không có giá trị pháp lý. Nếu một bên lợi
dụng việc này, yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì gây thiệt hại lớn cho
bên còn lại, không đảm bảo được tính công bằng cho các bên cũng như sự tự do
hợp đồng trong trường hợp cả hai bên đều thống nhất thỏa thuận mà không công chứng, chứng thực.
Thứ hai, về hình thức của hợp đồng
Những quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Thương mại năm
2005 về hình thức hợp đồng đã bảo đảm quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng,
thể hiện xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trên cơ sở công nhận hiệu
lực, cam kết của các bên mà không phụ thuộc vào hình thức hợp đồng (trừ trường
hợp có thỏa thuận khác, hoặc pháp luật có quy định khác về thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng). Tuy nhiên, thực tiễn quy định pháp luật Việt Nam cho thấy, pháp
luật hợp đồng Việt Nam còn quy định quá nhiều trong việc trường hợp hợp đồng
phải tuân thủ điều kiện về hình thức văn bản hợp đồng. Điều này đã làm hạn chế
phần nào quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng.
Thứ ba, đối với mua bán hàng hoá quốc tế
Khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại năm 2015 quy định, hàng hóa quốc tế
phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác
có giá trị pháp lý tương đương, trong khi đó, Công ước Viên năm 1980 quy định về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn có hình thức đa dạng hơn, chỉ cần có
người làm chứng thì hợp đồng cũng được công nhận. Sự giới hạn này hiện nay là
một rào cản gây trở ngại cho các chủ thể kinh doanh trong nước, hạn chế quyền tự
do kinh doanh khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng trong nước,
không thể kiện các đối tác nước ngoài khi họ ký kết hợp đồng theo hình thức có
người làm chứng là bên môi giới.
Thứ tư, một số quy định còn bất cập, vướng mắc của BLDS năm 2015
Về vai trò của Tòa án: Khoản 3 Điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ đề
cập đến vai trò của Tòa án mà không đề cập tới vai trò của trọng tài liên quan đến
việc điều chỉnh lại hợp đồng. Việc này sẽ dẫn tới bất cập trong quá trình vận dụng
khi các bên có thỏa thuận trọng tài.
Về yếu tố hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Cả 05 điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 420 Bộ luật Dân sự năm
2015 đều không thể hiện được yếu tố hoàn cảnh thay đổi cơ bản là hoàn cảnh mà
các bên đã căn cứ để thỏa thuận, thống nhất nội dung hợp đồng. Điểm c khoản 1
điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ xác định mức độ thay đổi hoàn cảnh, chứ
không thể hiện rõ tính liên quan giữa hoàn cảnh với nội dung của hợp đồng. Quy
định này gây ảnh hưởng đến việc xác định tiêu chí khi nào việc thay đổi hoàn cảnh
là thay đổi cơ bản, từ đó ảnh hưởng đến lợi ích giữa các bên trong quan hệ hợp đồng.
Document Outline
- Về hiệu lực của Hợp đồng
- Về yếu tố hoàn cảnh thay đổi cơ bản