



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58605085
1.HÀNG HOÁ, PHÂN BIỆT HÀNG HOÁ THÔNG THƯỜNG VÀ
HÀNG HOÁ LAO ĐỘNG?
. Hàng hóa, thuộc tính sản xuất hàng hóa
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người và dùng để trao đổi với nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất
hàng hoá có bản chất khác nhau, nhưng hàng hoá đều có hai thuộc tính:
* Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó
của con người, ví dụ: cơm để ăn, xe đạp để đi, máy móc, nguyên, nhiên vật liệu để sản xuất...
Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định. Công dụng của vật phẩm
do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Khoa học kỹ thuật càng phát triển,
người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và lợi dụng
chúng để tạo ra những giá trị sử dụng mới. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử
dụng hay tiêu dùng. Nó là nội dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng là phạm
trù vĩnh viễn. Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó
không phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị
sử dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi - mua bán. Trong kinh tế
hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
* Giá trị hàng hoá:
Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ
lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.
Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng
khác nhau về chất, tại sao chúng lại có thể trao đổi được với nhau và trao đổi theo tỷ lệ nào đó.
Khi hai sản phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì
giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung ấy không phải là giá trị
sử dụng, tuy nhiên, sự khác nhau về giá trị sử dụng của chúng là điều kiện cần
thiết của sự trao đổi. Nhưng cái chung đó phải nằm ngay ở trong cả hai hàng hoá.
Nếu gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa chúng chỉ còn một
cái chung làm cơ sở cho quan hệ trao đổi. Đó là chúng đều là sản phẩm của lao
động. Để sản xuất ra vải hoặc thóc, những người sản xuất đều phải hao phí lao
động. Chính hao phí lao động ẩn giấu trong hàng hoá làm cho chúng có thể so
sánh được với nhau khi trao đổi. Chúng được trao đổi theo một tỷ lệ nhất định,
một số lượng vải ít hơn đổi lấy một lượng thóc nhiều hơn (1 m vải = 10 kg thóc);
nhưng lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau. Lao động lOMoAR cPSD| 58605085
hao phí để sản xuất ra hàng hoá ẩn giấu trong hàng hoá chính là cơ sở để trao đổi.
Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng
hoá. Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào không có lao động của
người sản xuất chứa đựng trong đó, thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao
động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
* Mối quan hệ giữa hai thuộc tính
Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau.
Trong đó, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là
hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau,
những người sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hoá với nhau.
Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của
mình chứa đựng trong các hàng hoá. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ xã hội
giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với
nền sản xuất hàng hoá. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là
thuộc tính xã hội của hàng hoá.
Như vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá
trị, nhưng là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hoá,
họ tạo ra giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà
là giá trị, họ quan tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi.
Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng, muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị
cho người sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực
hiện giá trị của nó. Nếu không thực hiện được giá trị, sẽ không thực hiện được giá trị sử dụng. So sánh:
Hàng hóa thông thường là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào
đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
- Đối với hàng hóa sức lao động thì sức lao động chỉ biến thành hàng hóa sức lao
động khi có đủ hai điều kiện sau:
+ Người lao động phải được tự do về thân thể, có khả năng chi phốisức lao động của mình.
+ Người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất không thể tự tiến hành lao động
sản xuất.Sự giống và khác nhau của hàng hóa thông thường và hàng hóa sức lao động là: *Giống nhau:
Chúng đều là hàng hóa và mang hai thuộc tính ( giá trị và giá trị sử dụng), đều
được quy định bởi số lượng thời gian lao độngxã hội cần thiết, đều chỉ thể hiện lOMoAR cPSD| 58605085
ra trong quá trình tiêu dùng sức laođộng nghĩa là khi con người sử dụng hay tiêu dùng. *Khác nhau:
- Hàng hóa thông thường:
+ Người mua và người bán hoàn toàn độc lập với nhau
+ Chỉ thuần túy là yếu tố vật chất
+ Là nguồn gốc của giá trị trao đổi ( biểu hiện của của cải)
+ Sau một thời gian sử dụng thì cả giá trị và giá trị sử dụng đều tiêubiến
+ Giá cả và trí trị có thể tương đương nhau -Hàng hóa sức lao động:
+ Là hàng hóa đặc biệt chỉ tồn tại trong cơ thể sống của con người; người mua
có quyền sử dụng nhưng không được quyền sở hữu
+ Bao hàm cả yếu tố tinh thần lẫn lịch sử
+ Là nguồn gốc của giá trị thặng dư
+ Khi tiêu dùng hàng hóa sức lao động nó tạo ra một giá trị mới lớn
2.GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
“Giá trị thặng dư chính là giá trị do công nhân làm thuê lao động sản sinh
ra vượt quá giá trị sức lao động của họ nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt hết. Đối
với hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải chi vào tư liệu sản xuất và mua sức lao
động. Mục đích khi chi tiền là nhằm thu được một số tiền dôi ra ngoài số tiền mà
họ đã chi trong quá trình sản xuất. Số tiền dôi ra chính là giá trị thặng dư “.
Như vậy phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê
tạo ra và bị nhà tư bản chiếm hết được gọi là giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư được Mác nghiên cứu dưới góc độ hao phí lao động. Trong
đó công nhân làm thuê sản xuất nhiều giá trị hơn chi phí được trả cho họ. Đây là
yếu tố được quy định bởi tiền lương tối thiểu chỉ đủ cho họ sinh sống với tư cách
người lao động. Đối với Mác, sự bóc lột sức lao động chỉ có thể được loại bỏ khi
nhà tư bản trả cho họ toàn bộ giá trị mới được tạo ra.
Hiện có 2 phương pháp chủ yếu để thu được giá trị thặng dư: –
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Là phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi năng
suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không đổi. lOMoAR cPSD| 58605085
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được từ việc kéo dài ngày lao
động vượt giới hạn thời gian lao động cần thiết. Ngày lao động kéo dài còn thời
gian lao động cần thiết không đổi dẫn đến thời gian lao động thặng dư tăng lên.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chính là kéo dài thời gian lao
động thặng dư trong khi năng suất, giá trị và thời gian lao động tất yếu không đổi.
Cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa chính là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối được sử dụng phổ biến trong
giai đoạn đầu chủ nghĩa tư bản. Đây là thời điểm lao động còn ở trình độ thủ công,
năng suất lao động còn thấp. Lúc này bằng lòng tham vô hạn, các nhà tư bản giở
mọi thủ đoạn kéo dài ngày lao động nhằm nâng cao khả năng bóc lột sức lao động công nhân làm thuê.
Tuy nhiên sức lực con người có hạn. Hơn nữa vì công nhân đấu tranh quyết
liệt đòi rút ngắn ngày lao động nên các nhà tư bản không thể kéo dài ngày lao
động vô thời hạn. Nhưng ngày lao động cũng không được rút ngắn đến mức bằng
thời gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối chính là tăng cường độ lao động. Bởi vì tăng cường độ lao
động cũng tương tự việc kéo dài thời gian lao động trong ngày nhưng thời gian
lao động cần thiết không đổi. –
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Là phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp
giá trị sức lao động nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên trong điều kiện
ngày lao động, cường độ lao động không đổi.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được từ việc rút ngắn thời
gian lao động tất yếu dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Tăng năng suất lao
động xã hội mà đầu tiên là ở ngành sản xuất vật phẩm tiêu dùng làm cho giá trị
sức lao động giảm xuống. Từ đó thời gian lao động cần thiết cũng giảm. Khi độ
dài ngày lao động không đổi, thời gian lao động cần thiết giảm sẽ tăng thời gian
lao động thặng dư (thời gian sản xuất giá trị thặng dư tương đối cho nhà tư bản).
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là rút ngắn thời gian lao
động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động. Từ đó tăng thời gian lao
động thặng dư lên trong điều kiện ngày lao động và cường độ lao động không đổi. –
Giá trị thăng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu được do các xí
nghiệp sản xuất có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, khi bán hàng hoá theo
giá trị xã hội, sẽ thu được một số giá trị thặng dư vượt trội so với các xí nghiệp
khác. Giá trị thặng dư siêu ngạch = Giá trị xã hội của hàng hóa – Giá trị cá biệt
của hàng hóa. Giá trị thặng dư siêu ngạch là là động lực trực tiếp thúc đẩy tăng năng suất lao động. lOMoAR cPSD| 58605085
Vì muốn thu được nhiều giá trị thặng dư và chiếm ưu thế cạnh tranh, các nhà
tư bản áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Mục đích là cải tiến, hoàn
thiện phương pháp quản lý kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Kết quả giá trị
cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội. Nhà tư bản nào áp dụng cách này thì
hàng hóa khi bán sẽ thu được một số giá trị thặng dư nhiều hơn nhà tư bản khác.
Do đó giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực thúc đẩy mạnh nhất cho các nhà
tư bản cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.
3.LỢI ÍCH KINH TẾ lOMoAR cPSD| 58605085
4.SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯU VÀ LÀM RÕ QUY LUẬT TUYỆT
ĐỐI VỚI CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh
mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo C.Mác,
tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh
mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo C.Mác,
tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thật vậy, giá trị thặng dư – phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ
kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản - quan hệ tư bản bóc lột lao động làm
thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra là nguồn
gốc làm giàu của các nhà tư bản.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải lá giá trị sử dụng mà là
sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa
là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản cũng như của
toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng hóa với chất lượng
tốt cũng chỉ vì họ muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.
Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn mà các nhà tư bản
sử dụng để đạt được mục đích như tăng cường bóc lột công nhân làm thuê bằng lOMoAR cPSD| 58605085
cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.
Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nội
dung của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột
công nhân làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra
đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá
trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển
của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa
tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc,
đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở
hữu, quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới,
nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Nhà nước tư sản hiện nay
tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội, nhưng về cơ bản nó
vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản.
Tuy nhiên, do trình độ đã đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước tư bản
phát triển có mức sống tương đối sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán
sức lao động và vẫn bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Nhưng trong điều
kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới sau đây:
+Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối
lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc
tăng năng suất lao động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại có đặc điểm
là chi phí lao động sống trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc
hiện đại thay thế được nhiều lao động sống hơn.
+Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến
đổi lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức
tạp, lao động trí tuệ tăng lên và thay thế lao động giản đơn, lao động cơ bắp. Do
đó, lao động trí tuệ, lao động có trình độ kỹ thuật cao ngày càng; có vai trò
quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Chính nhờ sử dụng lực lượng
lao động ngày nay mà tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã tăng lên rất nhiều.
+Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế ngày
càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hóa, trao
đổi không ngang giá... lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản phát triển bòn lOMoAR cPSD| 58605085
rút từ các nước kém phát triển trong mấy chục năm qua đã tăng lên gấp nhiều
lần. Sự cách biệt giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng và
đang trở thành mâu thuẫn nổi bật trong thời đại ngày nay. Các nước tư bản phát
triển đã bòn rút chất xám, hủy hoại môi sinh cũng như cội rễ đời sống văn hóa
của các nước lạc hậu, chậm phát triển.
5.NỘI DUNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Công nghiệp hóa ,hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, và quản lý kinh tế , xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ , phương tiện và phương pháp tiên tiến , hiện đại , dựa trên sự phát triển
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất •
Thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội nhờ chuyển nền kinh tế từ chỗ dựa
trên kỹ thuật thủ công sang nền kinh tế dựa vào kỹ thuật cơ khí thủ công. Đồng
thời chuyền nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp. •
Nếu áp dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ vào những ngành trong
nền kinh tế quốc dân thì những thành tựu này được kết nối, gắn liền với quá
trình hiện đại hóa và cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. •
Nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực khi đất nước thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, xây dựng cơ cấu kinh tế một cách hợp lý, hiện đại và đạt hiệu quả cao •
Cơ cấu kinh tế chính là tổng thể hữu cơ giữa các thành phần kinh tế. Có hai loại
cơ cấu kinh tế là cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế. Trong khi
đó, cơ cấu của ngành kinh tế sẽ đóng vai trò trung tâm, quan trọng và cốt lõi nhất. •
Tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế có nghĩa là chuyển dịch cơ
cấu, cấu trúc của nền kinh tế kém hiệu quả, bị tụt hậu theo hướng nền kinh tế
hiện đại và hiệu quả hơn. Xu hướng của sự chuyển dịch, thay đổi này là hướng
từ một nền cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công
nghiệp và sau đó phát triển thành cơ cấu kinh tế công, công nghiệp và dịch vụ. •
Cơ cấu lao động cũng sẽ được chuyển dịch theo hướng gắn với phát triển kinh
tế tri thức. Đây là một trong những tiền đề làm chi phối xu hướng chuyển dịch
cơ cấu lao động từng thời kỳ ở nước ta.
Thứ ba, củng cố và làm tăng cường các địa vị lãnh đạo trong quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa lOMoAR cPSD| 58605085 •
Đồng thời, hướng tới việc xác lập địa vị thống trị trong các mối quan hệ sản xuất
xã hội trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. •
Từ đó nên chúng ta cần nhận thức đúng đắn về tính tất yếu khách quan và tác
dụng to lớn của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Và lựa chọn ngành, sản phẩm có
khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.
Tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào sản
xuất. Học tập, nâng cao tình độ học vấn, kinh nghiệm và nghiệp vụ, đáp ứng
nguồn lao động có kỹ thuật cho nền kinh tế, cho doanh nghiệp. •
Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá
tình phát triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa - xã hội
của đất nước lên trình độ mới. Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
công nghiệp hóa có vai trò tạo điều kiện, tiền đề vật chất - kỹ thuật cho chế độ
xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội,
công nghiệp hóa có nội dung và bước đi cụ thể, phù hợp. Đối với Việt Nam, khi
chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến
hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và từ cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình
này được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là một quá trình
kinh tế, kỹ thuật- công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển
đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên trình
độ công nghiệp với các trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn minh
3. Ý nghĩa của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện phương
thức sản xuất, thương mại, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là con đường quan trọng nhất để sử dụng phổ biến sức lao động cùng với các
phương pháp hiện đại dựa vào sự phát triển vượt bậc của công nghiệp và sự tiến bộ
không ngừng của khoa học - kỹ thuật tạo nên năng suất lao động xã hội cao Công
nghiệp hóa là quá trình biến một nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện
đại, có trình độ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến và năng suất lao động cao trong các
ngành của nền kinh tế quốc dân.
Giúp đảm bảo và thúc đẩy những thay đổi trong nền sản xuất xã hội, tăng năng suất
lao động và tăng khả năng kiểm soát của con người đối với tự nhiên. Từ đó thúc đẩy
kinh tế phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân và là một phần tất yếu của thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội. lOMoAR cPSD| 58605085
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện vật chất để củng cố và tăng cường vị thế
của nền kinh tế đất nước. Nhờ đó mà con người phát triển một cách toàn diện nhất
trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội.
Giúp khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng, đạt trình độ tiên tiến, hiện đại.
Góp phần bổ sung lực lượng vật chất, kỹ thuật cho hệ thống quốc phòng, an ninh, tạo
điều kiện bảo đảm cho đời sống kinh tế, chính trị xã hội của đất nước trở nên ngày càng phát triển.
Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là một trong những mục tiêu lớn đối với hầu
hết các quốc gia đang phát triển trên thế giới. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của cả hệ thống chính trị.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được nêu ra trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng.
Đã có khoảng 20 nghị quyết ban hành một số chủ trương quan trọng liên quan đến
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc công nghiệp hóa hiện đại hóa sẽ giúp ta có chỗ
để cải thiện và những hạn chế cần được giải quyết. Đó là tăng trưởng kinh tế chậm
lại, rủi ro bẫy thu nhập trung bình, nội lực nền kinh tế yếu, năng suất lao động chậm được cải thiện
Ví dụ như trong lĩnh vực nông nghiệp thì nhờ vào những thành tựu trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nông dân đã có nhiều cải thiện trong năng suất sản
xuất. Dần dần thì những quy trình trong sản xuất nông nghiệp đã được áp dụng một
cách tối đa những thiết bị công nghệ. Nhờ hiện đại hóa kỹ thuật, nông dân đã có
nhiều giống lúa mới cho năng suất cao. Ngoài ra, nhiều lĩnh vực còn ứng dụng công
nghệ hiện đại như phun mưa, tưới nhỏ giọt kết hợp bón phân... vào sản xuất nông
nghiệp, góp phần tăng nhanh năng suất và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người nông dân.
Hoặc trong các loại hình dịch vụ thì công nghệ hiện đại cũng ngày càng được áp dụng
phổ biến hơn. Các cửa hàng đã sử dụng những tiến bộ của công nghệ như robot hay
là những dây chuyền công nghệ để áp dụng trong việc hỗ trợ và phục vụ khách hàng,
từ đó có thể tiết kiệm nhân công.
4. Trách nhiệm của công dân đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước?
Để thực hiện quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thì vai trò của mỗi công
dân là không thể thể nào thiếu. Mỗi công dân cần phải có những nhận thức đúng đắn
về quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nhìn nhận một cách khách quan
về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tìm hiểu quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đó chọn ngành, mặt hàng có khả
năng cạnh tranh cao và phù hợp với nhu cầu của thị trường. Cá nhân biết ứng dụng
tốt những thành tựu của quá tình công nghiệp hóa hiện đại hóa vào quá trình phát
triển kinh tế, vào quá trình sản xuất của mình. lOMoAR cPSD| 58605085
Công dân phải không ngừng học tập và nâng cao trình độ văn hóa, khoa học công nghệ hiện đại.
6.TÁC ĐỘNH TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CẢU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TIỄN
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
6.2.1. Khái niệm và nội dung hội nhập kinhn tế quốc tế (HNKTQT)
6.2.1.1. Khái niệm và sự cần thiết khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
* Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia
đó thực hiện gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự
chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
*Tính tất yếu khách quan của hội nhận kinh tế quốc tế
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế Toàn
cầu hoá là quá trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia
tăng giữa các quốc gia trên quy mô toàn cầu.
nhiều lĩnh vực: kinh tế chính trị, văn hoá, xã hội..
Trong đó toàn cầu hoá kinh tế là nổi trội, vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng
là động lực thúc đẩy toàn cầu hoá các lĩnh vực khác.
Toàn cầu hoá kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt
qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế trong sự vận động, phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.
Toàn cầu hoá kinh tế lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động
quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi, nền kinh tế các nước
trở thành bộ phận hữu cơ và không thể tách rời nền kinh tế toàn cầu. Trong
toàn cầu hoá kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi toàn cầu,
nếu không hội nhập các nước không thể tự đảm bảo các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội đề các quốc gia giải quyết các vấn đề
toàn cầu, tận dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp, biến nó thành
động lực cho sự phát triển.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của
các nước nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
Đối với các nước đang và kém phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế -
Là cơ hội tiếp cận và sử dụng các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khohọc công nghệ….; -
Là con đường tận dụng thời cơ để phát triển rút ngắn, khắc phục nguy cơ tụhậu; lOMoAR cPSD| 58605085 -
Mở cửa thị trường thu hút vốn, thúc đẩy công nghiệp hoá, tăng tích luỹ; -
Tạo nhiều cơ hội việc làm mới, nâng cao thu nhập cho các tầng lớp dân cư. Bên
cạnh, các nước này phải đối mặt không ít rủi ro, thách thức như gia tăng sự phụ
thuộc do nợ nước ngoài, bất bình đẳng trong thương mại…
6.2.1.2. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện thực hiện hội nhập thành công Đó là sự
chuẩn bị các điều kiện trong nội bộ nền kinh tế về: tư duy, nhận thức, sự
tham gia của toàn xã hội, thể chế, nguồn nhân lực, năng lực của nền kinh tế…
Thứ hai, thực hiện đa dạng hoá các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
Tiến trình hội nhập thực hiện theo nhiều mức độ, từ thấp đến cao: Thoả thuận
thương mại ưu đãi (PTA), Khu vực mậu dịch tự do (FTA), Liên minh thuế quan
(CU), Thị trường chung, Liên minh tiền tệ…
Về hình thức, là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối ngoại như: ngoại thương,
đầu tư quốc tế, hợp tác quốc tế, các dịch vụ thu ngoại tệ… Tác động tích cực -
Trên cơ sở các hiệp định đã kí kết, các chương trình phát triển kinh tế,
khoahọc kĩ thuật, văn hóa, xã hội... được phối hợp thực hiện giữa các nước thành
viên; từng quốc gia thành viên có cơ hội và điều kiện thuận lợi để khai thác toi
ưu lợi thế quốc gia trong phân công lao động quốc tế, từng bước chuyển dịch cơ
cấu sản xuất và cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng hiệu quả hơn; tạo điều kiện và
tăng cường phát triển các quan hệ thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài, mở
rộng thị trường xuất khẩu và nhập khẩu. -
Tạo nên sự ổn định tương đối để cùng phát triển và sự phản ứng linh
hoạttrong việc phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia thành viên,
thúc đẩy việc tạo dựng cơ sở lâu dài cho việc thiết lập và phát triển các quan hệ
song phương, khu vực, và đa phương. -
Hình thành cơ cấu kinh tế quốc tế mới với những ưu thế về quy mô, nguồnlực
phát triển, tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho dân cư và gia tăng phúc lợi xã hội. -
Tạo động lực cạnh tranh, kích thích ứng dụng thành tựu khoa học côngnghệ,
đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế; học hỏi kinh nghiệm quản lý từ các nước tiên tiến. -
Tạo điều kiện cho mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tựthế
giới mới, giúp tăng uy tín và vị thế; tăng khả năng duy trì an ninh, hoà bình, ổn
định và phát triển ở phạm vi khu vực và thế giới. -
Giúp hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật quốc gia về kinh tế phù
hợpvới luật pháp, thông lệ quốc tế; từ đó tăng tính chủ động, tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế. lOMoAR cPSD| 58605085 .2 Tác động tiêu cực -
Tạo ra sức ép cạnh tranh giữa các thành viên khi tham gia hội nhập,
khiếnnhiều doanh nghiệp, ngành nghề có thể lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản. -
Làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường khu vực vàthế
giới. Điều này khiến một quốc gia dễ bị sa lầy vào các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hay khu vực. -
Các nước đang và kém phát triển phải đối mặt với nguy cơ trở thành “bãirác”
công nghiệp của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới. -
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhànước
theo quan niệm truyền thống. -
Làm tăng nguy cơ bản sắc dân tộc, văn hóa truyền thống bị xói mòn, lấn
átbởi văn hóa nước ngoài. -
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng tìnhtrạng
khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, di dân, nhập cư bất hợp pháp. -
Hội nhập không phân phối công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và
nhómnước khác nhau trong xã hội. Do đó, dễ làm tăng khoảng cách giàu nghèo, tụt
hậu giữa các quốc gia hay tầng lớp dân cư trong xã hội
Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong
phát triển của Việt Nam
+Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập phù hợp
+Tích cực, chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế và thực
hiện đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong các liên kết kinh tế và khu vực
+Hoàn thiện thể chế kinh tế và hội nhập
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế
7.GIẢI PHÁP XÂY DỰNG KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào
nước khác, người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính
sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương
mại, viện trợ… để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ. Để xây dựng thành công nền kinh tế độc lập tự chủ đi
đôi với tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Việt Nam phải thực
hiện một số biện pháp sau đây: lOMoAR cPSD| 58605085
+Thứ nhất, hoàn thiện bổ sung đường lối chung và đường lối kinh tế, xây dựng
và phát triển đất nước
+Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đây là nhiệm vụ
trọng tâm nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội. Giúp Việt Nam đi tắt, đón đầu tránh được nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với các nước khác.
+Thứ ba, đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế đáp ứng yêu cầu và lợi ích của đất nước trong quá trình phát triển.
+Thứ tư, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng đổi mới, hoàn thiện
thể chế kinh tế, hành chính, đặc biệt là tăng cường áp dụng khoa học công nghệ
hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế, nhất là
những ngành có vị thế của Việt Nam.
+Thứ năm, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong hội nhập quốc tế.
Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam -
Độc lập, tự chủ là khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc. -
Giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong là nền tảng của
sựnghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. -
Hiệu quả của hội nhập quốc tế được đo bằng mức độ thực hiện các mụctiêu
phát triển, an ninh và gia tăng vị thế đất nước. -
Độc lập, tự chủ còn là cơ sở để giữ gìn bản sắc của dân tộc. Cảng hội
nhậpsâu rộng càng đòi hỏi khẳng định bản sắc, càng có nhu cầu giữ gìn giá trị
văn hóa, truyền thống dân tộc. -
Hội nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm vụ
giữvững độc lập, tự chủ -
Để hội nhập có hiệu quả, không thể tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ và
quanniệm về độc lập, tự chủ là bất biến
8.KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA I, Khái niệm
kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân
loại, là kết quả phát triển lâu dài của lực lượng sản xuất và xã hội hóa các quan hệ
kinh tế, trải qua các giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai, kinh tế thị trưng
tự do và kinh tế thị trường hiên đại.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kỉnh tế vận hành theo các
quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng hước xác lập một xã
hội mà ở đỏ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công hằng, văn mình; có sự điều tiết
của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo lOMoAR cPSD| 58605085
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là
nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, mà ở đó mối quan hệ sản xuất và trao đổi đều
được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
II, Đặc trưng của nền kinh tế thị trường
- Thứ 1, có sự đa dạng của các chủ thể kinh tế nhiều hình thức sỡ hữu . Các
chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
- Thứ 2, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực
xã hội thông qua các hoạt động thị trường như thị trường hàng hóa, dịch
vụ, sức lao động, thị trường tài chính, khoa học – công nghệ,..
- Thứ 3, giá cả được hình thành theo nguyên tắc của thị trường, cạnh tranh
vừa là môi trường, vừa là động lực trực tiếp của các chủ thể sản xuất kinh
doanh, nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng quản lí, chức năng kinh tế,
từ đó khắc phụ những khuyết tật của thị trường. Đảm bảo bình đẳng xã hội
và sự ổn định của nền kinh tế
- Thứ 4,là nền kinh tế mở , thị trường trong nước quan hệ mật thiết với thị trường quốc tế
== Tuy nhiên tùy vào diễn biến của xã hội , đặc biệt nền kinh tế thị trưởng ở mỗi
quốc gia có đặc trưng riêng. Vì thế tính đặc thù và các mô hình kinh tế khác nhau.
III, Ưu thế của nền kinh tế thị trường
- Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo động lực cho sự sáng tạo của các
chủ thể kinh tế. Thông qua vai trò của nền KTTT , nó trở thành phương
thức hữu luận có cơ hội tìm được động lực cho sự sáng tạo của các chủ thể,
tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất, làm cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả.
- Hai là, Nền KTTT luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của chủ thể cũng như
lợi ích quốc gia. Nền KTTT trở thành phương thức hiệu quả so với nền
kinh tế tự cấp, tự úc hay nền kinh tế kế hoạch để phát huy tiềm năng, lợi
thế của quốc gia trong quan hệ thế giới
- Ba là, Nền KTTT luôn tạo ra phương thức thỏa mãn tối đa nhu cầu của con
người => Thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội. Nền KTTT cùng với sự điều
tiết của thị trường đã tạo nên sự hài hòa giữa khói lượng, cơ cấu sản xuất,
cơ cấu nhu cầu tiêu dùng => Từ đó đáp ứng đủ nhu cầu
IV, Khuyết tật của nền kinh tế thị trường lOMoAR cPSD| 58605085
- Luôn tìm ẩn rủi ro khủng hoảng .Không phải lúc nào cũng tạo ra những
cân đối => Nguy cơ khủng hoảng với mọi loại hình của thị trường. Cái khó
là rất khó dự báo chính xác thời điểm xảy ra khủng hoảng
- Nền KTTT không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên, không
thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường tự nhiên, xã hội. Vì
lợi nhuận mà nhiều chủ thể kinh doanh có thể từ bỏ nguyên tắc đạo đức =>
làm giàu phi pháp => Gây hao mòn đạo đức kinh doanh.
Không tự khắc phục được sự phân hóa sâu sắc trong xã hội. Các quy luật thị trường
luonn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham gia thị trường kèm
theo đó là sự cạnh tranh không ngừng nghỉ. Tạo nên sự phân hóa sâu sắc.
9.KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM CÓ TÍNH KHÁCH QUAN
1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo
các quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một
xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều
tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là phù hợp với xu
hướng phát triển khách quan của Việt Nam trong bối cảnh thế giới hiện nay.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Khi
có đủ các điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng hóa tự hình
thành. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt tới
trình độ nền kinh tế thị trường. Đó là tính quy luật. Ở Việt Nam, các điều kiện
cho sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường đang tồn tại khách quan. Do đó,
sự hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
Mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là mong
muốn chung của các quốc gia trên thế giới. Do đó, việc định hướng hướng tới xác
lập những giá trị đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phù hợp và tất yếu trong phát triển.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, mặc dù kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt
tới giai đoạn phát triển cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát triển, nhưng
những mâu thuẫn vốn có của nó không thể nào khắc phục được trong lòng XHTB,
nền kinh tế thị trường TBCN đang có xu hường tự phủ định, tự tiến hóa ra những
điều kiện cần và đủ cho một cuộc cách mạng xã hội - cách mạng XHCN.
Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN của VN là phù
hợp với xu thế của thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc. Đây thật sự là bước
đi, cách làm mới hiện nay của các quốc gia, dân tộc đang trên con đường XHCN lOMoAR cPSD| 58605085
Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát triển Việt
Nam theo định hướng XHCN.
Thực tiễn trên thế giới và VN cho thấy kinh tế thị trường là phương thức phân
bổ nguồn lực hiệu quả mà loài người đã đạt được so với các mô hình kinh tế phi
thị trường. Dưới tác động của các quy luật thị trường, nền kinh tế luôn phát triển
theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, nâng cao năng
suất lao động,… Xét trên góc độ đó, sự phát triển của kinh tế thị trường không hế
mâu thuẫn với mục tiêu của CNXH.
Do vậy, VN cần phải phát triển kinh tế thị trường để thúc đẩy lực lượng sản
xuất phá triển nhanh và có hiệu quả. Tuy nhiên, cũng cần chú ý tới những thất bại
và khuyết tật của thị trường để có sự can thiệp, điều tiết kịp thời của Nhà nước
pháp quyền XHCN. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự lựa
chọn cách làm, bước đi đúng quy luật kinh tế khách quan để đi đến mục tiêu của CNXH ở VN.
Ba là, kinh tế thị trường định hướng XHCN phù hợp với nguyện vọng mong
muốn dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của người dân Việt Nam.
Phấn đấu vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là
khát vọng của nhân dân Việt Nam. Để thực hiện khát vọng đó, thực hiện kinh tế
thị trường, trong đó hướng tới những giá trị mới, do đó, là tất yếu khách quan.
Mặt khác, kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một tất yếu
khách quan, là sự cần thiết cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước, bởi lẽ
sự tồn tại hay không tồn tại của kiinh tế thị trường là do những điều kiện kinh tế
- xã hội khách quan sinh ra nó quy định.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ phá vỡ tính chất tự cung, tự cấp, tự
túc, lạc hậu của nên kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động xã hội; khuyến khích
tính năng động, sáng tạo trong các hoạt động kinh tế;… [muốn chém thêm thì
tham khảo SGK trang 177] Điều này phù hợp với khát vọng của người dân Việt nam.
10. NỘI DUNG HOÀN THIỆN thể chế KT THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN VIỆT NAM
Các chủ thể kinh tế tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp
luật, ngày càng phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế quốc dân; kinh tế nhà
nước từng bước giữ vai trò chủ đạo; các yếu tố thị trường và các loại thị trường
đang hình thành và phát triển; sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh
tế thị trường sát thực và hiệu quả hơn; tăng trưởng kinh tế được duy trì hợp lý;
đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt; nước ta bước vào nhóm nước đang phát
triển có thu nhập trung bình; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng…
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chậm
chuyển sang phát triển theo chiều sâu; luật pháp, cơ chế, chính sách chưa hoàn lOMoAR cPSD| 58605085
chỉnh; doanh nghiệp tư nhân phổ biến là quy mô nhỏ; cơ cấu kinh tế chuyển dịch
chậm; kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc; tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế
chưa cao, còn lệ thuộc vào một vài thị trường bên ngoài; quyền tự do kinh doanh
chưa được tôn trọng đầy đủ; sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn; chất lượng,
hiệu quả, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; mức độ tham
gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu còn rất hạn chế; tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước chậm được đổi mới; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;…
Vì vậy, để phát huy mạnh mẽ hơn nữa kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, cần phải thực hiện nhiều nhiệm vụ, trong đó cần phải hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Có thể khái quát, thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ
quy tắc, luật lệ và hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều
chỉnh hoạt động giao dịch, trao đổi trên thị trường.
Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam nhằm mục tiêu cơ bản đó là làm cho các thể chế phù hợp với những
nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa phát triển
nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa ở Việt
Nam cần chú trọng một số nội dung sau:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.
Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ, trách nhiệm trong thủ tục hành
chính để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Nâng cao năng lực của các thiết
chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.
Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp,
không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh
tranh lành mạnh theo pháp luật. Tạo điều kiện thúc đẩy phát triển doanh nghiệp
và đội ngũ doanh nhân Việt Nam thực sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, bảo
đảm tính độc lâp, tự chủ của nền kinh tế.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. lOMoAR cPSD| 58605085
Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; hoàn thiện pháp luật về phí và lệ
phí. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; hoàn thiện
pháp luật về phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường, thể chế bảo vệ nhà đầu tư.
Đẩy mạnh phát triển thị trường hàng hóa - dịch vụ; phát triển cân bằng, đồng
bộ thị trường tài chính, đẩy mạnh hợp tác công - tư, điều hành lãi suất phù hợp;
đổi mới phát triển mạnh mẽ thị trường khoa học, công nghệ, tăng cường bảo hộ
và thực thi quyền sở hữu trí tuệ; hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách để phát
triển và vận hành thông suốt thị trường bất động sản; hoàn thiện cơ chế, chính
sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất
lượng lao động và cơ cấu ngành nghề.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ, công
bằng xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế nhanh và bền vững với phát triển xã hội
bền vững, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, tạo cơ hội cho mọi thành viên
trong xã hội tham gia bình đẳng và thụ hưởng công bằng thành quả từ quá trình
phát triển. Phát triển hệ thống an sinh xã hội, huy động sự tham gia của các tầng
lớp Nhân dân, cộng đồng xã hội thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Hoàn thiện thể chế về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an
ninh, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng. Gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp
quốc phòng, an ninh với công nghiệp dân sinh trong tổng thể chính sách công
nghiệp quốc gia. Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững
chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống Nhân dân vùng biển.
Thứ tư, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước và phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế - xã hội. Nâng
cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng; đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Đảng,
đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động
của cả hệ thống chính trị.
Nhà nước tập trung thể chế hóa nghị quyết của Đảng, xây dựng và tổ chức
thực hiện pháp luật; đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế. Nâng cao
hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và thực thi
pháp luật; tạo môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh.
Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội. Bảo đảm mọi người đều được bình đẳng trong
tiếp cận các cơ hội, điều kiện phát triển, được tham gia và hưởng lợi từ quá trình lOMoAR cPSD| 58605085
phát triển. Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền
công dân, quyền và nghĩa vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp.
Thứ năm, hoàn thiện thể chế đẩy mạnh nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống pháp luật và các thiết chế, cơ chế liên
quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế. Đổi mới công tác xúc tiến
thương mại, đầu tư, cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiêp phát triển thị trường,
nhất là thị trường xuất khẩu. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp
với pháp luật quốc tế.
Thực hiện nhất quán chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong hợp tác
kinh tế quốc tế, không để lệ thuộc vào một số ít thị trường. Xây dựng và thực hiện
các cơ chế phù hợp với thông lệ quốc tế để phản ứng nhanh nhạy trước các diễn
biến bất lợi trên thị trường thế giới, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững ổn
định chính trị - xã hội.
Tóm lại, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát
triển nhanh và bền vững, tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng thành công và
vận hành đồng bộ, thông suốt nền kinh tế thị trường ở nước ta, góp phần huy động
và phân bổ, sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển nhanh và bền vững, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
11. PHÂN TÍCH 5 ĐẶC ĐIỂM CỦA CNTB ĐỘC QUYỀN. XÁC ĐỊNH
ĐẶC ĐIỂM NÀO QUAN TRỌNG NHẤT.
1) Tích tụ tập trung sản xuất và sự hình thành độc quyền:
- Cạnh tranh thúc đẩy tích tụ tập trung tự bản dẫn đến tập trung
sản xuất,sản xuất tập trung được biểu hiện là:
+ Số lượng công nhân trong các xí nghiệp quy mô lớn chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng lực lượng lao động xã hội, sô lượng sản phâm sản xuât ra trong các xí
nghiệp qui mô lớn chiếm một tỷ trọng lớn trong tông sản phân xã hội.
+ Sản xuất tập trung vào một số xí nghiệp quy mô lớn thì chúng có khuynh
hướng liên minh thỏa thuận với nhau, dẫn đến hình thành tổ chức độc quyền.
* Vậy: Tổ chức độc quyền là liên minh các xí nghiệp qui mô lớn nắm trong
tay hầu hết việc sản xuất và tiêu thụ một hoặc một số loại sản phẩm, chúng có thể
quyết định được giá cả độc quyền nhằm thu được lợi nhuận độc quyền cao.
- Quá trình hình thành của độc quyền diễn ra từ thấp đến cao, từ
lưu thôngđến sản xuất và tái sản xuất, cụ thể: