Hãy cho biết tác phẩm đã từng học của tác giả Kim Lân? ( “Làng” được học lớp 9và được viết từ năm 1941)

Hãy cho biết tác phẩm đã từng học của tác giả Kim Lân? ( “Làng” được học lớp 9và được viết từ năm 1941) và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả

 

#Đầu Tiên#
**Tác giả
Hãy cho biết tác phẩm đã từng học của tác giả Kim Lân? ( “Làng” được học lớp 9
và được viết từ năm 1941 )
- Kim lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh ngày 1 tháng 8 năm 1920 mất ngày
290 tháng 7 năm 2007
- Quê quán: Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh.
- Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về nông thông và người nông dân. Ông có
những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê
- Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội văn hóa cứu quốc.
- Sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết
văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim)
- Năm 2001 ông được tặng Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật
- Tác phẩm chính: nên vợ nên chồng, con chó xấu xí,...
#Tiếp theo#
**Tác phẩm
- HCST: Sau cmt8 thành công, Kim Lân viết tiểu thuyết "Xóm Ngụ Cư" nhưng
còn dang dở đã mất bảng thảo. Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, dựa vào một
phần cốt truyện cũ, nhà văn viết truyện ngắn "Vợ Nhặt", in trong tập truyện "Con
Chó Xấu Xí" (1962)
- Chủ đề: Truyện tố cáo thực dân, phát xít đẩy dân ta vào cảnh đói thê thảm. Ca
ngợi những người lao động trong đói khổ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau, vẫn
khát khao sống, khát khao hạnh phúc và hướng về cách mạng đầy tin tưởng
#Sau khi đã xem qua tác phẩm kịch mà nhóm mình đã diễn thì ai có thể tóm tắt sơ
lại truyện được không?#
- Tóm tắt truyện: Truyện kể về nạn đói năm 1945 ở miền Bắc nước ta. Làng xóm
xác xơ tiêu điều, người chết như ngả rạ. Giữa lúc ấy, anh Tràng - một nông dân
nghèo, xấu trai, là dân ngụ cư lại dẫn về một cô vợ khiến mọi người kinh ngạc.
Bà cụ Tứ - mẹ anh sững sờ, nhưng rồi bà cũng mừng vì con trai bà có vợ. Trong
bữa cơm ngày đói chỉ có cháo loãng ăn với muối và rau chuối thái rối, ít cháo
cám, bà cụ tứ khuyên các con bảo ban nhau làm ăn rồi trời cho khá, nuôi đôi gà sẽ
có đàn gà,...Cuối truyện là hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc của Nhật với là
cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong óc Tràng
#Xem các hình nạn đói năm 1945#
- Bố cục:
Phần 1 (từ đầu đến "ấy thế mà thành vợ chồng") : Cảnh Tràng đưa cô vợ
nhặt về nhà
Phần 2 (tiếp theo đến "đánh một bữa thật no nê ròi cùng đẩy xe bò về”) : Kể
lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng.
Phần 3 (tiếp theo đến "nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng") : Tràng ra mắt
cô vợ nhặt với mẹ và nỗi lòng của bà cụ Tứ.
Phần 4 (còn lại) : Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới.
Nhân vật đầu tiên chúng ta tìm hiểu là Tràng:
#Ai cho có thể mình biết đôi nét về nhân vật Tràng không?#
- Xuất thân: Tràng - con nhà nghèo, nhà có 2 mẹ con, dân xóm ngụ cư, làm nghề
kéo xe thuê.
- Ngoại hình: đầu cao, lưng to bè, 2 con mắt nhỏ tí, ngà ngà đắm vào bóng chiều,
2 bên quai hàm bạnh ra,...→xấu xí, thô kệch.
- Ngôn ngữ: thể hiện tính thô kệch, cọc cằn như là “rích bố cu", "làm đếch gì có
vợ,...”
- Tràng là một người có tâm hồn thuần hậu, hiền lành, chất phác: trẻ con trong
xóm ai cũng thích,...Tâm hồn lạc quan, yêu đời: vừa lao động vừa hò hát, hay đùa
với trẻ con. Tấm lòng nhân hậu: giữa lúc đói khát, Tràng đã dang tay cứu vớt một
cuộc đời, sẵn sàng cho người đàn bà xa lạ ăn, thậm chí không từ chối khi người
đàn bà theo về.
- Tấm lòng nhân hậu ấy chủ yếu được thể hiện thông qua diễn biến tâm trạng của
Tràng khi nhặt được vợ:
+ Khi về đến nhà:
- Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu
bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
- Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ
sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
- Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ
vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ
nghĩa.
- Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lý do lấy
vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng
lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
+ Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy:
- Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, quần áo,...),
Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy
mình trưởng thành hơn.
- Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ
đỏ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
→ Từ khi nhặt được vợ, nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều
hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con
người trong cái đói.
Nhân vật tiếp theo chúng ta tìm hiểu là Thị:
- Không có quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt” → thấy được sự rẻ rúng của
con người trong cảnh đói.
- Ngoại hình: "quần áo tả tơi như tổ đỉa", "gầy sọp", "khuôn mặt lưỡi cày xám xịt
chỉ còn hai con mắt" → xấu xí.
* Có khát vọng sống mãnh liệt:
- Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết gì về Tràng, chấp nhận theo
không về không cần sính lễ vì Thị sẽ không còn phải sống cảnh lang thang đầu
đường xó chợ.
- Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, Thị
“nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
* Thị là người ý tứ và nết na:
- Trên đường về, Thị cũng rón rén, e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, Thị
ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
- Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở
mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được
vị trí trong gia đình.
- Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào, Thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách
bợt”, thể hiện sự lúng túng, ngượng nghịu.
- Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát,
chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
- Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn "điềm nhiên và vào
miệng", thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không muốn làm bà
buồn.
→ Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không
vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
Nhân vật cụ Tứ
- Xuất hiện với dáng vẻ già nua, dáng đi lọng khọng, tiếng ho húng hắng, vừa đi,
vừa lẩm nhẩm tính toán.
- Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo, lam lũ nhưng có tấm lòng nhân hậu. Điều này
được thể hiện thông qua việc nhà văn Kim Lân đặt nhân vật vào một tình huống:
trong nạn đói bỗng dưng Tràng đưa một người phụ nữ lạ mặt về nhà.
* Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ khi đó:
- Ngạc nhiên vì thấy có người đàn bà lạ ở trong nhà (hàng loạt câu hỏi đặt ra
trong đầu bà).
- Bà càng ngạc nhiên hơn khi người đàn bà đó chào bà bằng “u”.
- Đến khi Tràng phân trần thì bà đã hiểu: vừa đau đớn, tủi cực, vừa xót xa xen lẫn
vui mừng → bà lão đã mở rộng tấm lòng để đón nhận con dâu và thương cho
cảnh ngộ của thị.
- Bà là người luôn nhen nhóm niềm tin vào tương lai cho cách con: Sáng hôm sau
bà rạng rỡ hẳn lên (bà thu xếp nhà cửa cho quang cảnh nề nếp với ý nghĩ đời sẽ
khác đi, làm ăn mới khấm khá lên, bàn định về tương lai, khơi dậy cho con cái
niềm hi vọng mãnh liệt vào cuộc sống)
→ Tình cảm của bà cụ Tứ đối với con không chỉ là tình mẫu tử cao đẹp mà còn
thể hiện đạo lý tốt đẹp giữa con người với con người, đó là sự cưu mang, che chở
lẫn nhau của những con người cùng cảnh ngộ.
@Giá trị hiện thực
- Truyện phản ánh chân thật nạn đói năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật
gây ra làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói, thân phận con người rẻ rúng như
cọng rơm cọng rác
@Giá trị nhân đạo
- Truyện tố cáo tội ác thực dân, phát xít đẩy dân ta vào cảnh thảm sầu- Truyện
cũng ca ngội phẩm chất tốt đẹp của người lao động, dù cận kề cái chết, họ vẫn
yêu thương, cưu mang đùm bọc nhau, hướng theo cách mạng, tin tưởng vào
tương lai,...- Nhà văn để cho người lao động nghèo tìm thấy hạnh phúc dù nạn đói
vẫn đang hoành hành
@Giá trị nghệ thuật
- Tạo tình huống truyện độc đáo, đem lại giá trị nhiều mặt cho tác phẩm- Dựng
không khí chân thực, kể chuyện tự nhiên, chặt chẽ- Ngôn ngữ mộc mạc, chất phác
được chọn lọn kĩ nên có sức gợi- Miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, hóm hỉnh và
tinh tế tạo được sức hấp dẫn cho truyện
@@Tổng kết
- Truyện ngắn "Vợ Nhặt" của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của
người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện
được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ : Ngay bên bờ vực của cái chết,
họ vẫn hướng đến sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu lẫn nhau
#Xem clip#
#Tham gia phần câu hỏi củng cố bài học#
| 1/5

Preview text:

#Đầu Tiên# **Tác giả
Hãy cho biết tác phẩm đã từng học của tác giả Kim Lân? ( “Làng” được học lớp 9
và được viết từ năm 1941 )
- Kim lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh ngày 1 tháng 8 năm 1920 mất ngày 290 tháng 7 năm 2007
- Quê quán: Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh.
- Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về nông thông và người nông dân. Ông có
những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê
- Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội văn hóa cứu quốc.
- Sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết
văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim)
- Năm 2001 ông được tặng Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật
- Tác phẩm chính: nên vợ nên chồng, con chó xấu xí,... #Tiếp theo# **Tác phẩm
- HCST: Sau cmt8 thành công, Kim Lân viết tiểu thuyết "Xóm Ngụ Cư" nhưng
còn dang dở đã mất bảng thảo. Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, dựa vào một
phần cốt truyện cũ, nhà văn viết truyện ngắn "Vợ Nhặt", in trong tập truyện "Con Chó Xấu Xí" (1962)
- Chủ đề: Truyện tố cáo thực dân, phát xít đẩy dân ta vào cảnh đói thê thảm. Ca
ngợi những người lao động trong đói khổ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau, vẫn
khát khao sống, khát khao hạnh phúc và hướng về cách mạng đầy tin tưởng
#Sau khi đã xem qua tác phẩm kịch mà nhóm mình đã diễn thì ai có thể tóm tắt sơ
lại truyện được không?#
- Tóm tắt truyện: Truyện kể về nạn đói năm 1945 ở miền Bắc nước ta. Làng xóm
xác xơ tiêu điều, người chết như ngả rạ. Giữa lúc ấy, anh Tràng - một nông dân
nghèo, xấu trai, là dân ngụ cư lại dẫn về một cô vợ khiến mọi người kinh ngạc.
Bà cụ Tứ - mẹ anh sững sờ, nhưng rồi bà cũng mừng vì con trai bà có vợ. Trong
bữa cơm ngày đói chỉ có cháo loãng ăn với muối và rau chuối thái rối, ít cháo
cám, bà cụ tứ khuyên các con bảo ban nhau làm ăn rồi trời cho khá, nuôi đôi gà sẽ
có đàn gà,...Cuối truyện là hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc của Nhật với là
cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong óc Tràng
#Xem các hình nạn đói năm 1945# - Bố cục:
Phần 1 (từ đầu đến "ấy thế mà thành vợ chồng") : Cảnh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà
Phần 2 (tiếp theo đến "đánh một bữa thật no nê ròi cùng đẩy xe bò về”) : Kể
lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng.
Phần 3 (tiếp theo đến "nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng") : Tràng ra mắt
cô vợ nhặt với mẹ và nỗi lòng của bà cụ Tứ.
Phần 4 (còn lại) : Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới.
Nhân vật đầu tiên chúng ta tìm hiểu là Tràng:
#Ai cho có thể mình biết đôi nét về nhân vật Tràng không?#
- Xuất thân: Tràng - con nhà nghèo, nhà có 2 mẹ con, dân xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe thuê.
- Ngoại hình: đầu cao, lưng to bè, 2 con mắt nhỏ tí, ngà ngà đắm vào bóng chiều,
2 bên quai hàm bạnh ra,...→xấu xí, thô kệch.
- Ngôn ngữ: thể hiện tính thô kệch, cọc cằn như là “rích bố cu", "làm đếch gì có vợ,...”
- Tràng là một người có tâm hồn thuần hậu, hiền lành, chất phác: trẻ con trong
xóm ai cũng thích,...Tâm hồn lạc quan, yêu đời: vừa lao động vừa hò hát, hay đùa
với trẻ con. Tấm lòng nhân hậu: giữa lúc đói khát, Tràng đã dang tay cứu vớt một
cuộc đời, sẵn sàng cho người đàn bà xa lạ ăn, thậm chí không từ chối khi người đàn bà theo về.
- Tấm lòng nhân hậu ấy chủ yếu được thể hiện thông qua diễn biến tâm trạng của
Tràng khi nhặt được vợ: + Khi về đến nhà:
- Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu
bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
- Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ
sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
- Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ
vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
- Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lý do lấy
vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng
lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
+ Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy:
- Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, quần áo,...),
Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
- Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ
đỏ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
→ Từ khi nhặt được vợ, nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều
hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
Nhân vật tiếp theo chúng ta tìm hiểu là Thị:
- Không có quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt” → thấy được sự rẻ rúng của
con người trong cảnh đói.
- Ngoại hình: "quần áo tả tơi như tổ đỉa", "gầy sọp", "khuôn mặt lưỡi cày xám xịt
chỉ còn hai con mắt" → xấu xí.
* Có khát vọng sống mãnh liệt:
- Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết gì về Tràng, chấp nhận theo
không về không cần sính lễ vì Thị sẽ không còn phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
- Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, Thị
“nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
* Thị là người ý tứ và nết na:
- Trên đường về, Thị cũng rón rén, e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, Thị
ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
- Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở
mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
- Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào, Thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách
bợt”, thể hiện sự lúng túng, ngượng nghịu.
- Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát,
chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
- Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn "điềm nhiên và vào
miệng", thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không muốn làm bà buồn.
→ Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không
vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
Nhân vật cụ Tứ
- Xuất hiện với dáng vẻ già nua, dáng đi lọng khọng, tiếng ho húng hắng, vừa đi,
vừa lẩm nhẩm tính toán.
- Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo, lam lũ nhưng có tấm lòng nhân hậu. Điều này
được thể hiện thông qua việc nhà văn Kim Lân đặt nhân vật vào một tình huống:
trong nạn đói bỗng dưng Tràng đưa một người phụ nữ lạ mặt về nhà.
* Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ khi đó:
- Ngạc nhiên vì thấy có người đàn bà lạ ở trong nhà (hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà).
- Bà càng ngạc nhiên hơn khi người đàn bà đó chào bà bằng “u”.
- Đến khi Tràng phân trần thì bà đã hiểu: vừa đau đớn, tủi cực, vừa xót xa xen lẫn
vui mừng → bà lão đã mở rộng tấm lòng để đón nhận con dâu và thương cho cảnh ngộ của thị.
- Bà là người luôn nhen nhóm niềm tin vào tương lai cho cách con: Sáng hôm sau
bà rạng rỡ hẳn lên (bà thu xếp nhà cửa cho quang cảnh nề nếp với ý nghĩ đời sẽ
khác đi, làm ăn mới khấm khá lên, bàn định về tương lai, khơi dậy cho con cái
niềm hi vọng mãnh liệt vào cuộc sống)
→ Tình cảm của bà cụ Tứ đối với con không chỉ là tình mẫu tử cao đẹp mà còn
thể hiện đạo lý tốt đẹp giữa con người với con người, đó là sự cưu mang, che chở
lẫn nhau của những con người cùng cảnh ngộ. @Giá trị hiện thực
- Truyện phản ánh chân thật nạn đói năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật
gây ra làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói, thân phận con người rẻ rúng như cọng rơm cọng rác @Giá trị nhân đạo
- Truyện tố cáo tội ác thực dân, phát xít đẩy dân ta vào cảnh thảm sầu- Truyện
cũng ca ngội phẩm chất tốt đẹp của người lao động, dù cận kề cái chết, họ vẫn
yêu thương, cưu mang đùm bọc nhau, hướng theo cách mạng, tin tưởng vào
tương lai,...- Nhà văn để cho người lao động nghèo tìm thấy hạnh phúc dù nạn đói vẫn đang hoành hành @Giá trị nghệ thuật
- Tạo tình huống truyện độc đáo, đem lại giá trị nhiều mặt cho tác phẩm- Dựng
không khí chân thực, kể chuyện tự nhiên, chặt chẽ- Ngôn ngữ mộc mạc, chất phác
được chọn lọn kĩ nên có sức gợi- Miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, hóm hỉnh và
tinh tế tạo được sức hấp dẫn cho truyện @@Tổng kết
- Truyện ngắn "Vợ Nhặt" của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của
người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện
được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ : Ngay bên bờ vực của cái chết,
họ vẫn hướng đến sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu lẫn nhau #Xem clip#
#Tham gia phần câu hỏi củng cố bài học#