lOMoARcPSD| 61432759
"Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu"
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
Tây Bắc đã trở thành ng đất hứa của thi ca nghệ thuật những năm 58-60 khi miền Bắc tiến
lên xây dựng chủ nghĩa hội, các nhà văn nhà thơ đến với nơi đây để tìm cho mình những
nguồn cảm hứng mới. Ta từng biết đến Tô Hoài với tập “truyện Tây Bắc” mà nổi bật là truyện
ngắn “Vợ Chồng A Phủ”, hay Nguyễn Khải cũng đã từng xôn xao lòng mình với “Mùa Lạc”
thì Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập “Tùy bút Sông Đà” với linh hồn
bài ki “Người lái đò Sông Đà". Đến với “Người lái đò sông Đà”, bằng “nghthuật bậc
thầy của ngôn từ”, Nguyen Tuan đã sáng tạo nên hình tượng con sông Đà - một trong
những kiệt tác của nghệ thuật văn xuôi. Hình tượng đặc sắc này đã thể hiện nét
phong cách nghthuật của Nguyễn Tuân, của 1 cái tôi trữ nh nghmang khát
vọng cuồng nhiệt, muốn biến những trang văn thành những trang hoa lộng lẫy, yêu
kiều, vừa mê hoặc, vừa thách đố người đọc.
Tut “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15
bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực
tế của nhà n đến Tây Bắc năm 1958. Thực tiễn y dựng cuộc sống mới vùng
cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo cho ra đời thiên y bút để
lại ấn tượng với đọc giả. Việc xây dựng hình tượng trong những trang viết của mình
đối với mỗi tác giả là việc đặc biệt quan trọng. “Một mình đi một lối”, Nguyễn Tuân thể
hiện cái ngông nghênh kiêu bạc của mình khi vẽ ra rất nhiều hình tượng đặc biệt. Mt
Huấn Cao tung hoành ngang dọc với giấc mơ lớn giữa một thời đại mục ruỗng trong
“Chữ người ttù”. Một Bát được nhìn góc độ tuyệt kỹ trong nghề nghiệp đao
phcủa mình với “Bữa rượu máu” hay một người “ăn mày” cổ quái với i uống trà
trong “Những chiếc ấm” cũng đạt tới độ tuyệt mỹ riêng. Vậy mới thấy, những hình
ợng được xây dựng trong các tác phẩm của Nguyễn Tn đều bao chứa những tính
cách đặc biệt. Sông Đà cũng một hình tượng như vậy. Trải suốt từ trang đầu đến
trang cuối tác phẩm là hình ảnh dòng sông Đà được chụp lại nhiều chiều, nhiều góc
độ khác nhau, cthmang trong mình hai tính cách đặc biệt đó hung bạo trữ
tình. Ve hung bao/tru tinh do da dc the hien ro net qua doan trich tren
A. Hình tượng con sông Đà
I. Sông Đà hung bạo
a.
Vách đá:
"Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp",
ngay từ những trang văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã dẫn chúng ta đến với xứ sở mới
với hình ảnh sông Đà hung bạo. Đập vào mắt người đọc, Đà giang xuất hiện đoạn trích thứ
nhất với ấn tượng đầu ên chính hình nh vách đá thành sừng sững. Văn nhân khẳng định “Hùng
vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá b sông dựng vách thành”.
Sự dữ dằn nơi Đà giang sự cộng hưởng của nhiều yếu tố. Mà vách thành sông Đà cảnh sừng
sững án ngữ trước mặt độc giả ngay lần dạo chơi đầu ên. Cụ Nguyễn đã vận dụng nh tế “thành
cao hào sâu” để mở ra ấn tượng nơi người đọc về vách thành kiên cố, vững chắc, thâm nghiêm.
Vách đá hiện lên như thành cao, sông Đà với vực thảm như hào sâu hun hút. Tất cả ớc đầu dần
kéo ngưi đọc vào trùng vây liên tưởng choáng ngợp, hãi hùng. Chỉ hai chữ “vách thành” thôi văn
nhân đã khắc tạc vào đó bao điều bí hiểm của thành quách cổ xưa sự rình rập của những đợt hỗn
lOMoARcPSD| 61432759
chiến, tấn công. Chính bởi thành trì ấy cao thăm thẳm, sâu hun hút “đúng ngmới mặt
trời”. Ánh nắng chói chang soi chiếu vạn vật nhưng chỉ khi lên thiên đỉnh mới được le lói trên lòng
sông Đà. Cao, sâu thôi chưa đủ cNguyễn còn muốn đưa người đọc đến sự hung bạo tột cùng của
cảnh đá bờ sông qua độ hẹp của sông Đà. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hai bên bờ ng như
đang xích lại gần nhau: “Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này
bờ nhtay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang
bờ kia”. Độ hẹp lòng sông bị vách đá chèn ép tới mức nghẹt thở. Qua động từ chẹt” người đọc
cảm tưởng như vách thành đã lấn át hết cả bờ sông ghê rợn, hãi hùng. Những chi ết miêu tả
ởng chừng như bâng quơ của cụ Nguyễn nhưng lại đem lại ấn tượng đậm nét hơn về độ hẹp
nơi sông Đà. Chỉ hành động đơn giản của nai hổ, cú ném nhẹ chơi đùa của con người lại là thước
đo tài nh hơn bất cứ con số chuẩn xác nào. Tất cả đã đem đến hình dung ban đầu về dòng sông,
quy tụ tất cả nh từ đo lường nguy hiểm nhất: cao thăm thẳm, sâu hun hút, hẹp đến không thở
nổi.
Chính bởi lẽ này cảm giác của văn nhân khi chèo thuyền qua đây mới thật thú vị: “ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một
cái ngõ nào mà ngóng vng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt
đèn điện. Câu văn miêu tả đầy táo bạo, mà không mất đi sự tinh tế của Nguyễn Tuân. Nhà
văn đã tạo ra ấn tượng về xúc giác phi ngày giữa mùa hè. Nhưng suy nghĩ cùng dòng cảm giác
y với Nguyễn Tuân, người ta mới thấy lạnh rợn tóc y, sởn gai ốc. Tuy nhiên cụ Nguyễn đâu
giống người thường, nguy hiểm mà vẫn dm tô cho kì được thêm cảm giác hãi hùng về độ cao rợn
ngợp của vách đá sông Đà, qua tngkhông xác định “nào, mấy”, qua độ hẹp của phố sự
phụt tắt bất thình lình của đèn điện làm thót m người quan sát khi đi vào khúc sông tối tăm này.
Như vậy, sông Đà hung bạo đã dần hiện ra trong trí óc người đọc bao hãi hùng, sửng sốt. Cứ th
ởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì “tiến không được, lùi cũng không
xong”, chchờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
b.
Măt ghenh hat loong
Với một nhà văn tài hoa, uyên bác, cùng vốn tri thức sâu rộng như Nguyễn Tuân, bấy
nhiêu thôi chưa đủ để ta cảm nhận hết những ông viết về sông Đà trong lúc “tính
khí thất thường, đang làm mình làm mẩy”. Bởi vậy, ông tiếp tục đưa chúng ta vào hành
trình khám phá con sông với vẻ đẹp hung bạo cái dữ dằn của “nước - đá - sóng - gió”
qua quãng mặt ghềnh Hát Lóong. Điệp từ “xô” được điệp lại ba lần kết hợp với thủ pháp
nghthuật tăng tiến “nước đá, đá sóng, sóng gió” đã nhấn mạnh trạng thái không
tĩnh lặng, như phỏng hình ảnh những con sóng dcuồn cuộn chồm lên nhau theo
chiều ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, ghê rợn trên mặt ghềnh. Theo
lẽ thường, phải là gió xô sóng, sóng xô đá, thì đây Nguyễn Tuân lại sd cách ns ngược
đầy độc đáo. Chính sự bất thường ấy cho ta thấy được sự phi thường trong sức mạnh
của SĐ, sự dữ dội đến cùng tận của nó, đồng thời cũng cho ta thấy được tài năng độc
lOMoARcPSD| 61432759
đáo của NT trong cách tổ chức ngôn ngữ. Nhà văn đã sử dụng các câu ngắn nhịp nhanh,
dồn dập, các tngtrùng điệp nối tiếp thế chmang lại cho ng đọc cảm giác câu văn
như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển
động của gió to và sóng lớn. Sóng, gió, đá như phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để
tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người. Nguyễn Tuân đã sử dụng thủ pháp nhân
hóa “con Sông Đà như kchuyên đi đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm
được qua quảng ấy”. Con Sông Đà hung hãn đe dọa người lái đò trên sông, nó hiện lên
như một kẻ bất chấp thể lấy đi tính mạng của những ai tình đi qua đây. T“tóm”
cho ta hình dung được con Sông Đà quãng ấy như đang chờ chực, rình để thể tóm
lấy được bất kỳ ai đi qua nó. Con sông càng trở nên hung hãn hơn dữ dằn hơn khi được
miêu tả qua từ láy “gùn ghè”. như những kẻ đi săn đang nhe răng sắc nhọn chờ
thời để thể vồ lấy con mồi. Nếu như khi miêu tvách đá, tác giá điểm nhấn “có
quãng”, thì đến đây, sự hung bạo của kéo dài hàng cây số. Nếu như trc đó tgia chỉ
dừng li khoảnh khắc “lúc đúc ngọ” hay “mùa hè” thì đến đây lại là suốt năm”, lúc
nào cũng”. Như vậy đây sự giãn nở cả về chiều kích ko gian tgian, sự hiểm ác
của cũng theo đó tăng thêm mức độ. Câu văn cuối cùng tác giả đã hạ một câu
khẳng định “quãng này khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Cụm
từ “lt ngửa bụng thuyền” đã cho thấy được sức mạnh hủy diệt của cơn sóng quãng, này
đòi hỏi được sự điêu luyện và khéo léo của người lái đò
c.
Cái hút nc:
Sau khi đã đi qua quãng đá bờ sông "dựng vách thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết
hầu", quãng mặt ghềnh Hát Loóng "cuồn cuộn luồng gió, gìn ghẻ suốt năm như lúc nào cũng
đòi nợ xuýt", thì đến khúc sông quãng Tà Mường Vát, những cái hút nước như "cái bẫy" nối
nhau giăng mắc trên Sông Đà sẵn sàng nhấn chìm mọi thuyền đi ngang qua đó. Trước
hết, hút nước sông Đà được miêu tả qua hình ảnh so sánh: "Trên sông bỗng những cái
hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. " Từ "bỗng"
lOMoARcPSD| 61432759
gợi tả một sự đột ngột, bất ngờ, làm cho người ta không khỏi hoang mang. Dòng nước
đương xuôi êm đềm bỗng dưng không thấy một vật nào nổi trên mặt mà dòng nước tới đó cứ
xoáy tít thành những vòng tròn hút tới tận đáy. Tả độ rộng và sâu của hút nước, Nguyễn Tuân
so sánh như cái "giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu". Qua sự so sánh này,
ta thấy cái hút nước lớn, khổng lồ, nhìn vào trong chthấy đen ngòm, sâu hoắm, tối tăm, giống
như miệng con thủy quái đang há hốc để chực nuốt chứng bất cứ vật qua quãng này.
đó không phải những cái hút nước trên bề mặt sông mà sâu xuống tận đáy sông. n
ợng hút nước sông Đà khúc thượng nguồn còn nằm những âm thanh sống động: "Nước
đây thở kêu như cửa cổng cái bị sặc". Nguyễn Tuân đã đặc tả âm thanh của hút nước
bằng thủ pháp nhân hoá so sánh. Đó những âm thanh chỉ nghe thôi đã thấy ghê rợn.
Dòng nước thở hồng hộc, thanh âm thống thiết, thét gào giữa núi rừng Tây Bắc điệp trùng.
Dòng sông Đà vì thế mà trở nên hùng dũng, uy lực hơn rất nhiều. Nó hiện ra như cái vòi một
con quái vật khổng lồ tàn ác đang giân dữ đến ghê người. Đến đây, ta dường như nghe trong
cái âm vang của Đà giang dưới ngòi bút Nguyễn Tuân một chút hội ngộ với Homero trong
cuốn sử thi "Ô đi xê” bất hủ, khi viết vcái hung bạo của chốn eo biển xa xôi nào đó thời cổ
đại: "Biển khơi chuyển động, sôi lên như ớc trong cái chảo đặt trên một bếp lửa hồng".
Trên mặt những cái hút nước quãng này, nước xoáy tròn như sẵn sàng dìm bất cứ th
xuống đáy sâu, phía trên trông lừ lừ những cánh quạ đànđiên cuồng, mang theo dấu
hiệu chết chóc. Khung cảnh hiểm trở đáng sợ ấy bỗng tạo ra mảnh đất hình, làm nảy nở
nhiều liên tưởng thú cho sáng tác của Nguyễn Tuân: Không thuyền nào dám men gần
những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh đớt quãng sông, y như ô
sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”. Gia
chốn núi rừng hoang sơ, nhà văn đã thổi vào không khí của phố thkhi ví con thuyền phải qua
vùng nước xoáy thật nhanh giống như ô sang số, nhấn ga cho nhanh để "vút qua một
quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Muốn đi ngang qua đây phải thật điêu luyện, thật
bình tĩnh nhưng cũng phải thật nhanh chóng mới có thể "thoát chết". Nhưng trong khi ngưi
điều khiển ô tô còn có thể đạp phanh, nhấn ga thì con thuyền qua quãng này chỉ có thể dựa
vào tài nghệ của ông lái đò mà thôi. Hậu quả khi vô ý đi ngang qua cái hút nước được tác giả
lOMoARcPSD| 61432759
dự báo trước, đem đến cho người đọc một cái nhìn cụ th, cận cảnh như những thước phim
quay chậm: Nhiều gỗ rừng đi nghênh ngang ý những cái giếng hút ấy lôi tuột
xuống. Phép nhân hóa “những bè gỗ rừng nghênh ngang vô ý” gợi hình ảnh những bè gỗ vô
tri. Động từ mạnh “lôi tuột xuống” cho ta hình dung ra một hành động diễn ra với tốc độ nhanh,
mạnh, bất ngờ, cảm giác những bè gỗ kia quá đỗi nhỏ trước những cái hút nước sông Đà.
Hút nước còn gây nguy hiểm cho thuyền bè: "Có những thuyền đã bị cái hút hút xuống,
thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm đi ngầm dưới lòng sông đến
mươi phút sau mới thấy tan tác khuỳnh sông ới". Đó những hình ảnh chỉ trong
ởng tượng nhưng lại đưa đến một ấn tượng thật sâu đậm về sức mạnh khủng khiếp của
hút nước sông Đà. Trước những cái hút nước ấy, sự sống cái chết của con người bỗng
trở nên mong manh, đi qua đó luôn có nguy cơ bị cướp đi sinh mạng.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh và nhiều nhà văn cũng
như các bạn đọc coi Nguyễn Tuân định nghĩa về người nghmột cách trọn vẹn, bởi ông
am hiểu, thông thạo nghệ thuật trên nhiều lĩnh vực khác nhau. vậy, không dừng lại trong
những hình dung ởng tượng về cái gỗ hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm
mồi cho hút nước, bằng kiến thức thâm sâu vđin ảnh của mình, Nguyễn Tuân còn tạo ra
một giả ởng li kì, dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước
xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn: "Một anh bạn quay phim táo tợn nào
muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn
vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà.." Từ ới đáy sâu
của hút ước, anh phóng viên lia ngược ống kính lên một cách sống động, truyền cảm từ hình
khối của "một thành giếng xây toàn bằng nước" cho đến màu sắc của dòng sông "nước xanh
ve" như một khối thủy tinh khổng lồ, đặc biệt, khối thủy tinh ấy đổ ụp xuống cả người, cả máy
quay cả bạn đọc đang theo dõi thước phim. Những thước phim đó khi chiếu lên, người
xem cảm giác hãi hùng, phải "lấy gân ngồi giữ chặt ghế", thậm chí cảm giác shãi chân
thực của con người khi đứng trong lòng một khối "pha lê xanh như sắp vỡ tan" và bất cứ lúc
nào cũng có thể đổ ụp vào người. Như vậy, có thể thấy, khi gặp hiện tượng thiên nhiên kì thú,
lOMoARcPSD| 61432759
những cảnh tượng dữ dội, phi thường, ngòi bút Nguyễn Tuân cũng muốn ganh đua với to
hóa, dốc hết kho chữ nghĩa phong phú của mình ra làm sống dậy tính cách độc đáo, phi
thường của đối tượng. Những cái hút nước Sông Đà quả là rùng rợn, hiểm nguy, buộc người
đọc phải huy động tất cả các giác quan để cảm nhận đến cùng vẻ đẹp hùng vĩ của nó. Sông
Đà hiện lên như một loài thủy quái đáng sợ, hung bạo khiến các giác quan của người đọc
cũng đầy lên cao trào. Để được tất cả những áng văn thể xem như "thước phim" ấy,
Nguyễn Tuân đã dụng công miêu tả bằng trải nghiệm khác nhau trong vị thế của người quay
phim cả vị thế của người xem phim để dùng ngòi bút thách thức mọi sự hùng của
đất trời cũng như làm choáng ngợp những con mắt thưởng ngoạn của độc giả. Chỉ với một
đoạn trích, Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân hùng hậu, huy động kiến thức của nhiều
ngành như văn chương, điện ảnh, thể thao.. Chỉ riêng trong đoạn văn đã nhiều liên tưởng,
so sánh, nhân hóa kì thú, bất ngờ, cách quan sát tỉ mỉ, tỉnh tường, cách dùng động từ kết hợp
điểm nhìn nhiều chiều từ trên xuống, quay ti lòng sông nhìn ngược lên, gần xa. Tng
phong phú, sống động, tái hiện chân thực không chỉ cảnh vật mà còn những cảm giác
khác nhau, nói như Phan Huy Đông thì đó là "sự tự do của một tài năng, một đấng hóa công
thực sự trong nghệ thuật ngôn từ". Tất cả những điều ấy đã giúp cho người đọc cảm nhận
một cách chân thc nhất sự dữ dội của cái hút nc dòng sông miền Tây Bắc
d.
Thác nc:
Sự hung bạo của dòng sông này chưa dừng lại. Tiếng thác réo được Nguyễn
Tuân đặc tả nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại
như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Âm thanh hồn, giống
như cách mà Nguyễn Tuân thổi hồn cho dòng sông. Biến sông Đà thành một sinh th
lOMoARcPSD| 61432759
có linh hn, có sự sống, có tính cách. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng
những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng
vĩ, nguy hiểm cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn người lại dùng lửa để miêu tả
ớc, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì
không lửa, ngược lại, lửa thì không nước. Vậy Nguyễn Tuân đã làm được
điều đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!
Khi cái thác hiện ra trước mắt, nhà văn như reo lên đầy ngờ ngàng, thích thú:
"Tới cái thác rồi"cảm giác gặp lại sông Đà hệt như gặp lại "cố nhân" vậy. Vẫn
nhìn sông Đà với con mắt say mê, Nguyễn Tuân đưa sông Đà vào trang viết
với vẻ đẹp vĩ: "Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một
chân trời đá" . Tính từ "trắng xóa" vừa chính xác vừa tạo hình gây ấn tượng v
sự trào sôi dữ dội của dàn giao hưởng của sóng, gió, bọt nước.. Đồng thời gợi
tả điệp trùng những con sóng trắng cuồn cuộn nhau trên mặt nước mênh
mông. Cùng với hình ảnh "chân trời đá" - đá chất chồng lên đá, câu văn miêu
tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng tới choáng ngợp của thác đá
sông Đà.
Bút lực của Nguyễn Tuân đến đây kể như đã i hoa, phóng túng tột đỉnh.
Nhưng thật bất ngờ, càng dõi theo thiên tùy bút một không hai này, ta càng
thấy sự thăng hoa trong ngòi t miêu tả và sự phong phú trong trí tưởng
ợng của bậc tài ngôn ngNguyễn Tuân. Trong trí tưởng tượng của Nguyễn
Tuân, dòng sông Tây Bắc khủng khiếp nhất, gây ám ảnh nhất với con người
chính thạch trận đá sông Đà. phương diện này, sông Đà thực sự mang
"diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một" đối với con người. Bút pháp nhân
hóa đã trở thành bút pháp chđạo c dụng truyền hồn sống cho dòng
lOMoARcPSD| 61432759
sông. Qua sự cảm nhận của nhà văn, loài thủy quái hung tợn mang tên Đà
giang mang tâm địa cùng nham hiểm xảo quyệt. đã bày ra cmột
trận đồ bát quái với rất nhiều cửa tử: "Đá đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết
trong lòng sông, hình như mỗi lần chiếc thuyền nào xuất hiện quãng ầm
ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông
một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền" . Sử dụng thuật ngữ của
quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái sự bí ẩn và vô cùng hiểm ác của đá trên
lòng sông Đà. Đá đây được miêu tả trong thời gian vĩnh hằng của thiên nhiên
"ngàn năm", khi thì chúng ẩn mình "mai phục", khi dữ dằn, đột ngột hiện ra
sau cái dập dềnh của sóng để "nhổm cả dậy vồ lấy thuyền". Để tận tả đá sông
Đà, Nguyễn Tuân còn sử dụng rất nhiều nhân hóa, nhđó, người đọc thể
hình dung ra từng diện mạo con người trong những hình thù đá tri. Tùy theo
hình dạng, kích thước của đá cách nhìn của nhà văn đá sông Đà đưc
miêu tả trong những cảm nhận khác nhau, khi thì "ngỗ nợc", "nhăn nhúm
méo mó" bởi sự gồ ghề, lúc to lớn qua ng "bệ vệ oai phong lẫm liệt", khi này
tảng đá với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem đến cảm nhận về sự
"xấc xược" trong cái "hất hàm" thách thức, lúc khác lại tảng đá nhẵn xanh
xuôi chảy từ trên xuống qua hình ảnh "thằng đá tướng.. tiu nghỉu cái mặt xanh
lè thất vọng..". Nguyễn Tuân đã dùng hết sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để
tạo diện mạo linh hồn cho từng thớ đá tri. Đọc tới đây, có lẽ không ít độc
giphải ngậm ngùi vốn ngôn từ của mình còn quá ít ỏi, trí tưởng tượng
của mình còn quá nghèo nàn so với bậc kì tài Nguyễn Tuân. Cái độc đáo trong
ởng tượng của Nguyễn Tuân ông hình dung sông Đà như giao việc cho
từng hòn đá để sẵn sàng lật ngửa bụng bất cứ con thuyền nào qua đây. Người
đọc thực sự thấy thích thú khi chứng kiến sự "bày binh bố trận" của những hòn
lOMoARcPSD| 61432759
đá "nhăn nhúm méo mó"kia. "Đám tảng, đám hòn chia m ba hàng chặn
ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền" . Trận địa đá gồm "hàng tiền vệ,
hai hòn canh cửa đá trông nhưsơ hở" để "dụ đối phương đi vào sâu na" rồi
"đánh khuýp quật vu hồi lại" . Nếu chọc thủng được tuyến hai thì nhiệm vụ của
những bong ke chìm pháo đài đá ni tuyến ba phải đánh tan cái thuyền
lọt lưới đá tuyến trên. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt những thuật ngữ của
quân sự, võ thuật, thể thao, cùng hthống dày đặc những động từ mang sắc
thái nhân hóa, đặt trong những câu văn ngắn, dồn dập.. khiến lòng sông Đà
quãng này không khác một chiến trường với những trận "hỗn chiến" ác liệt
giữa con người với thiên nhiên. Phải đọc đến đoạn ông lái đò gồng mình chiến
đấu với con sông qua các cửa sinh, cửa tử, ta mới thấy hết sự dữ dội, hung
hiểm của sông Đà.
II. Sông Đà TRỮ TÌNH
a.
Điểm nhìn từ trên cao:
Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ của con sông, ở một góc độ khác, Nguyễn Tuân đã phát
hiện ra chất trữ tình, thơ mộng của dòng sông này, sông Đà tạo nên chất men say
cho cuộc sống của con người Tây Bắc. Từ nhiều góc nhìn khác nhau, Nguyễn Tuân
đã có những phát hiện mới mẻ, độc đáo thi vị, yên ả của con sông này. Qua bao
thác ghềnh, sông Đà trở nên mềm mại, uyển chuyển hơn bao giờ hết. Đó là sông
Đà được miêu tả bằng ấn tượng của thị giác với điểm nhìn từ trên cao: “Từ
trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà như cái dây thừng ngoằn ngoèo hằng năm và
đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc”; “Con sông Đà tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. HÌnh
ảnh so sánh thú vị của Nguyễn Tuân gợi ra vẻ đẹp nguyên sơ của một dòng sông
đang uốn mình quanh núi rừng Tây Bắc. Có lẽ, đối với Nguyễn Tuân, đặc biệt là
trong văn của ông kể cả khi miêu tả về những điều thô sơ nhất cũng đẹp theo một
cách riêng. Đẹp hơn khi từ trên tàu bay nhìn xuống, Tây Bắc như người thiếu nữ
duyên dáng, yêu kiều mà sông Đà chính là áng tóc mềm mượt của người thiếu nữ
đang khao khát thanh xuân này. Nguyễn Tuân đã nhìn thấy dòng chảy uốn lượn của
con sông Đà tựa như một áng tóc trữ tình buông dài vắt ngang qua núi rừng hùng
lOMoARcPSD| 61432759
vĩ. Đẹp lắm! Duyên dáng lắm! Nhà văn đã dùng một câu văn dài hơi, hạn chế ngt
quãng để gợi tả độ dài của sông Đà và mái tóc của người thiếu nữ. Đồng thời sử
dụng từ ngữ gợi tả cái dòng chảy êm đềm của sông Đà mang cái linh hồn của Tây
Bắc “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc cuồn cuộn mùi khói mèo đốt nương xuân”. Điệp ngữ “tuôn dài tuôn
dài” cùng nhịp văn mềm mại như ru tạo nên vẻ đẹp uyển chuyển, thướt tha của
dòng sông. Phép so sánh dòng sông như một “áng tóc trữ tình” là một sáng tạo
nghệ thuật độc đáo. Phép so sánh đầy chất thơ, chất họa chẳng những phô ra được
vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng, kiêu sa kiều diễm của dòng sông Đà mà còn bộc lộ
chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Dòng Đà giang giờ đây tựa như một
nàng thiếu nữ xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa mùa hoa
ban, hoa gạo dưới vẻ đẹp bồng bềnh của mây khói. Thần sắc của thiên nhiên nơi
đây được Nguyễn Tuân miêu tả với vẻ đẹp rất riêng, rất lạ rất thơ. Khói núi Mèo mà
người đồng bào đốt nương mỗi khi Tết đến cũng khiến người ta nao lòng đến lạ.
Tây Bắc muôn đời vẫn đẹp, sông Đà hung bạo đến đâu cũng có lúc kiều diễm như
cô gái trẻ bùng cháy sức xuân trong khoảnh khắc thanh xuân. Bao nhiêu vẻ đẹp thơ
mộng, trữ tình quyến rũ của đất trời đã ùa về thức dậy trong những câu văn của
Nguyễn Tuân – “Người thợ kim hoàn của chữ” (Hoài Thanh). Đối với một nhà văn
thích vẻ đẹp thuộc về “vang bóng một thời” thì góc nhìn về Sông Đà của Nguyễn
Tuân cũng được góp mặt bởi câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh: “Núi cao
sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen” – một góc nhìn gợi vẻ đẹp
cổ tích sử thi huyền thoại
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được thể hin ở màu sắc đặc biệt của dòng
sông. Nguyễn Tuân đã tìm hiểu, nghiên cứu một cách vô cùng tỉ mỉ và chăm chú để
có thể phát hiện ra sự thay đổi và biến chuyển của màu nước. Không giống như
sông Hương, nếu màu nước thay đổi quá nhanh theo thời gian trong ngày “sớm
xanh, trưa vàng, chiều tím”, thì dòng Đà giang của mảnh đất Tây Bắc lại luôn biết
cách làm mới, làm đẹp cho chính mình. Cách nó chuyển mình không làm cho người
ta có cảm giác đột ngột quá, mà ngược lại rất lưu luyến theo sự chuyển biến của
thiên nhiên, chính vì vậy sắc nước của nó thay đổi theo từng mùa, mỗi mùa một nét
đẹp riêng biệt. Con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn trong cái say sưa
đầy trân trọng và dõi theo của Nguyễn Tuân. Nhà văn họ Nguyễn khẳng định: “Tôi
đã say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu
mà nhìn xuống sông Đà”. Lúc này, người nghệ sĩ như thả trôi tâm hồn mình cùng
với sóng nước sông Đà, chính vẻ đẹp của mây trời Tây Bắc bung nở hoa đã gieo
n những hạt mầm xanh tốt tạo nên cái sắc riêng không trộn lẫn của thiên nhiên
tươi đẹp nơi đây. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy dòng sông Hương có
màu xanh thẫm mà ánh nắng ban mai rực rỡ tạo nên từ cảnh sắc thiên nhiên đôi bờ
và sự phn quang của đất trời vạn vật để tạo nên một đóa hoa phù dung mĩ miều,
thì Nguyễn Tuân lại viết về sông Đà với những cảm quan nhạy bén của ngũ quan.
“Mùa xuân nước sông Đà xanh ngọc bích chứ không xanh màu xanh canh hến của
ớc sông Gấm, Sông Lô”. “Xanh ngọc bích” là màu xanh của sự trẻ trung, tươi mới
mang sắc thái của sự đài các, thanh tao, rất huyền diệu, nhưng cũng rất cổ tích. Cái
màu xanh đó được Nguyễn Tuân dày công nghiên cứu, chứ không đưa ra đánh giá
một cách vội vàng hay có phần chủ quan liều lĩnh chung chung. Một màu xanh ca
sự toàn bích giữa cái điệu xanh của cây xanh, rừng xanh, núi xanh, mây xanh
hòa quyện. Một màu xanh không trộn lẫn, bởi Nguyễn Tuẫn đã lý giải thêm sự đặc
bit ấy rằng, “không xanh màu xanh canh hến như nước sông Gâm, sông Lô” –
những dòng sông “hàng xóm” của sông Đà. Nguyễn Tuân là nhà văn lao động nghệ
lOMoARcPSD| 61432759
thuật một cách vô cùng nghiêm túc, dày công và tỉ mỉ. Ông không chấp nhận một
thứ văn chương hời hợt, một cảm quan hay một lăng kính chỉ mang một màu đơn
sắc. Và chỉ một chi tiết chỉ khi miêu tả về màu nước sông, cũng đã cho thấy s
nghiêm túc, vất vả, dày công tìm tòi, khám phá cho tường tận “đích cái đẹp” của
Nguyễn Tuân. Nói đến mùa thu, là nói đến mùa của những con lũ lớn, màu của
những dòng chờ nặng phù sa nơi thượng nguồn. Cái màu của sự dữ dội ấy, cũng đi
vào văn của Nguyễn Tuân một cách thật đẹp, “mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ
như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lù lù cái màu đỏ giận dữ ở một người
bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Câu văn sử dụng lối so sánh vô cùng đặc biệt vi
liên tưởng “như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” giúp người đọc có thể dễ
dàng hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Lần đầu tiên có người
dùng màu sắc của da mặt người để miêu tả vẻ đẹp của sắc nước sông. Cái màu đỏ
“lừ lừấy có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới thấy, mới cảm, mới viết nên được. Nó chỉ có
thể tạo nên từ bàn tay của một người nghệ sĩ tài hoa, tài tử. Qua câu văn Nguyễn
Tuân cũng đã làm nổi bật được cái trữ tình, thơ mộng của dòng nước còn có cả cái
dữ dội ngàn đời của con sông Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã dựng lên cả một thế gii
thiên nhiên rộng mở, tươi đẹp sống động trên trang giấy, những trang viết ấy ta
như “một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm”. Thế nhưng, bọn thực dân Pháp
với mưu đồ đen tối và tâm địa hắc ám, đã gọi sông Đà là Rivière Noire (sông Đen).
Nhưng Nguyễn Tuân đã khẳng định: “Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen
như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái
tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”. Câu văn phủ định nhưng lại
có tác dụng khẳng định mạnh mẽ, đanh thép, tác giả đã cho thấy việc TD Pháp đặt
tên “Đen” cho dòng sông là 1 sự khiên cưỡng thô bạo, từ đó nhà văn bộc lộ sự bức
xúc và phản đối, lên án đối với tâm địa độc ác của bọn thực dân.
b. Di runwgff laau ngay ddoor ra song da
c. Diem nhin tu tren thuyen
Không dữ dội như quãng bày thạch trận, người đọc như lạc vào thế giới cổ
tích, thế giới tiền sử. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà...” toàn vần bằng
tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Tác giả ng đến lịch sử của những
buổi đầu dựng nước và giữ ớc: “Hình như từ đời Trần, đời Lý, đời Lê, quãng
sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Sự ớng nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp
nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ
sông hoang dại như một btiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa”. Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng
biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai. Hai
chữ “lặng tờ được nhắc đi nhắc lại tới hai lần theo kiểu trùng điệp rất đặc thù của
thơ, của không gian vắng lặng. Cái lặng tớ trầm tư của con sông gợi nét cổ thì
"trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ mà ta đã từng bắt gặp trong trang thơ của Huy
Cận, sông Đà con sông lịch sử đã từng chứng kiến một chặng đường oanh liệt, hào
hùng của dân tộc ta trong những cuộc chiến tranh vệ quốc, câu vẫn không tả mà nó
có sức gọi mênh mông của thi ca.
lOMoARcPSD| 61432759
Theo dòng trôi của con thuyền người đọc đi vào thế giới hoang sơ tĩnh mịch với
cảnh nương ngô đang "nhú lên mấy là ngô non đầu mùa", đã có dấu ấn của con
người in trên màu xanh mỡ màng ấy, nhưng thật vô cùng ngạc nhiên "mà không một
bóng người. Chỉ có đổi gianh nổi tiếp đổi gianh trùng điệp với những "nôn búp" ngon
lành. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện trên màu xanh bát ngát những đối gianh là một
nét vẽ tài hoa làm cho bức tranh thiên nhiên sông Đà đượm màu "hoang dại" và "cổ
tích". Không phải chú nai vàng ngơ ngác trong cải xào xạc của lá thu rơi thuở nào
mà ở đây chỉ có "Cô gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu
ngốn búp có gianh đẫm sương đêm". Chỉ có Nguyễn Tuân mới có cái nhìn "xanh
non" ấy, mới có cách nói, cách tà độc đáo ấy, ông đã thả hồn mình vào cảnh vật,
yêu mến, nâng niu. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều ấy
khiến ta liên tường đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hôm chèo
thuyền. ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên, một chốn Đảo nguyên.
Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát lên từ
điển tích ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc -
nơi khởi nguồn cho tỉnh yêu đất nước. "Bờ sông hoang dại như một btiền sử, B
sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Nguyễn Tuân so sánh không
phải để cụ thể hóa sự vật mà là trừu tượng hóa, thơ mộng hóa cảnh vật. Hình ảnh
so sánh "bờ tiền sử", "nỗi niềm có tích tuổi xưa" là chữ của một nhà văn bậc thấy về
ngôn ngữ. Nguyễn Tn không dựa vào trực giác để so sánh, ông đã dùng tưởng
ợng để tạo nên những liên tưởng, những so sánh đầy chất thơ và rất kì thú, gieo
vào tâm hồn người đọc bao cảm xúc, để cùng ông tận hường cái vẻ đẹp "hoang dại"
và "hồn nhiên" của Đà Giang.
Đang đi lạc vào thế giới cổ tích giữa đời thường, chính nhà văn Nguyễn Tuân còn
ngỡ cảnh đẹp đó như là mơ nên ông "thấy thêm được giật mình vì một tiếng xúp lề
của một chuyến xe lửa" để biết rằng mình đang tồn tại cuộc đời thực chứ không
phải là một giấc chiêm bao. Từ nhu cầu đánh thức thực tại, Nguyễn Tuân lại đưa
chúng ta vào một cuộc đối thoại đấy cổ tích hơn với cuộc đối thoại giữa ông khách
sông đà và con hươu thơ ngộ. Không chỉ dừng ở những câu văn đầy chất thơ, hình
ảnh của một miền cổ tích mà mô tuýp diễn biễn cũng mang đậm hướng những câu
chuyện cổ tích. Cuộc đối thoại giữa người khách và chủ hươu như cuộc đối thoại
của nàng công chúa ngủ trong rừng đang chở hoảng từ đến đánh thức. Đang say
sưa thì đàn hươu vụt biến bởi “tiếng đàn cá dâm xanh quây vọt lên mặt sông”, “tiếng
cả đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến.
Đứng trước một miền không gian có tích có cảnh, có tỉnh, nhưng sao vẫn thấy thiếu,
thiếu một người tri kỷ. Và đó là nguyên do để Nguyễn Tuân trích dẫn hai câu thơ của
văn sĩ Tản Đà để hoàn thành bức tranh "tri âm" của mình. Cũng như có cảnh đẹp
mà thiếu bạn hiển thì cái tỉnh "yêu hoa thưởng nguyệt" đã giảm đi ít nhiều nhà thủ.
Đọc thơ bạn, ngâm thơ bạn trong lúc này, Nguyễn Tuân xem như bạn đang cùng
mình ngồi trên con thuyền mà mơ màng ngâm thơ thường ngoạn: "Dài Đà bọt nước
lênh bênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tỉnh". Đó là tài tử, là tài hoa. Đó là tri âm, tri kỉ.
Chúng ta chợt nhận ra rằng, trong văn của Nguyễn Tuân đầu chỉ có con người mới
có tình tri kỷ mà vật cũng mang nỗi niềm ấy, khi ông kết thúc đoạn văn bằng nỗi thốn
thức "Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi đ
lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói
êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nô chạy buồm vài
nó khác hẳn những con đỏ đuôi én thất mình dây cđiển trên dòng trên".

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61432759
"Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu"
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật những năm 58-60 khi miền Bắc tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đến với nơi đây để tìm cho mình những
nguồn cảm hứng mới. Ta từng biết đến Tô Hoài với tập “truyện Tây Bắc” mà nổi bật là truyện
ngắn “Vợ Chồng A Phủ”, hay Nguyễn Khải cũng đã từng xôn xao lòng mình với “Mùa Lạc”
thì Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập “Tùy bút Sông Đà” với linh hồn là
bài ki “Người lái đò Sông Đà". Đến với “Người lái đò sông Đà”, bằng “nghệ thuật bậc
thầy của ngôn từ”, Nguyen Tuan đã sáng tạo nên hình tượng con sông Đà - một trong
những kiệt tác của nghệ thuật văn xuôi. Hình tượng đặc sắc này đã thể hiện rõ nét
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, của 1 cái tôi trữ tình nghệ sĩ mang khát
vọng cuồng nhiệt, muốn biến những trang văn thành những trang hoa lộng lẫy, yêu
kiều, vừa mê hoặc, vừa thách đố người đọc.
Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15
bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực
tế của nhà văn đến Tây Bắc năm 1958. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng
cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo và cho ra đời thiên tùy bút để
lại ấn tượng với đọc giả. Việc xây dựng hình tượng trong những trang viết của mình
đối với mỗi tác giả là việc đặc biệt quan trọng. “Một mình đi một lối”, Nguyễn Tuân thể
hiện cái ngông nghênh kiêu bạc của mình khi vẽ ra rất nhiều hình tượng đặc biệt. Một
Huấn Cao tung hoành ngang dọc với giấc mơ lớn giữa một thời đại mục ruỗng trong
“Chữ người tử tù”. Một Bát Lê được nhìn ở góc độ tuyệt kỹ trong nghề nghiệp đao
phủ của mình với “Bữa rượu máu” hay một người “ăn mày” cổ quái với tài uống trà
trong “Những chiếc ấm” cũng đạt tới độ tuyệt mỹ riêng. Vậy mới thấy, những hình
tượng được xây dựng trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân đều bao chứa những tính
cách đặc biệt. Sông Đà cũng là một hình tượng như vậy. Trải suốt từ trang đầu đến
trang cuối tác phẩm là hình ảnh dòng sông Đà được chụp lại ở nhiều chiều, nhiều góc
độ khác nhau, cụ thể mang trong mình hai tính cách đặc biệt đó là hung bạo và trữ
tình. Ve hung bao/tru tinh do da dc the hien ro net qua doan trich tren
A. Hình tượng con sông Đà I. Sông Đà hung bạo a. Vách đá:
"Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp",
và ngay từ những trang văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã dẫn chúng ta đến với xứ sở mới
với hình ảnh sông Đà hung bạo. Đập vào mắt người đọc, Đà giang xuất hiện ở đoạn trích thứ
nhất với ấn tượng đầu tiên chính là hình ảnh vách đá thành sừng sững. Văn nhân khẳng định “Hùng
vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông dựng vách thành”.
Sự dữ dằn nơi Đà giang là sự cộng hưởng của nhiều yếu tố. Mà vách thành sông Đà là cảnh sừng
sững án ngữ trước mặt độc giả ngay lần dạo chơi đầu tiên. Cụ Nguyễn đã vận dụng tinh tế “thành
cao hào sâu” để mở ra ấn tượng nơi người đọc về vách thành kiên cố, vững chắc, thâm nghiêm.
Vách đá hiện lên như thành cao, sông Đà với vực thảm như hào sâu hun hút. Tất cả bước đầu dần
kéo người đọc vào trùng vây liên tưởng choáng ngợp, hãi hùng. Chỉ hai chữ “vách thành” thôi văn
nhân đã khắc tạc vào đó bao điều bí hiểm của thành quách cổ xưa sự rình rập của những đợt hỗn lOMoAR cPSD| 61432759
chiến, tấn công. Chính bởi thành trì ấy cao thăm thẳm, sâu hun hút mà “đúng ngọ mới có mặt
trời”. Ánh nắng chói chang soi chiếu vạn vật nhưng chỉ khi lên thiên đỉnh mới được le lói trên lòng
sông Đà. Cao, sâu thôi chưa đủ cụ Nguyễn còn muốn đưa người đọc đến sự hung bạo tột cùng của
cảnh đá bờ sông qua độ hẹp của sông Đà. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hai bên bờ sông như
đang xích lại gần nhau: “Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này
bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang
bờ kia”. Độ hẹp lòng sông bị vách đá chèn ép tới mức nghẹt thở. Qua động từ “chẹt” người đọc
cảm tưởng như vách thành đã lấn át hết cả bờ sông ghê rợn, hãi hùng. Những chi tiết miêu tả
tưởng chừng như bâng quơ của cụ Nguyễn nhưng lại đem lại ấn tượng đậm nét hơn về độ hẹp
nơi sông Đà. Chỉ hành động đơn giản của nai hổ, cú ném nhẹ chơi đùa của con người lại là thước
đo tài tình hơn bất cứ con số chuẩn xác nào. Tất cả đã đem đến hình dung ban đầu về dòng sông,
quy tụ tất cả tính từ đo lường nguy hiểm nhất: cao thăm thẳm, sâu hun hút, hẹp đến không thở nổi.
Chính bởi lẽ này cảm giác của văn nhân khi chèo thuyền qua đây mới thật thú vị: “ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một
cái ngõ nào mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt
đèn điện”. Câu văn miêu tả đầy táo bạo, mà không mất đi sự tinh tế của Nguyễn Tuân. Nhà
văn đã tạo ra ấn tượng về xúc giác phi lý ngày giữa mùa hè. Nhưng suy nghĩ cùng dòng cảm giác
này với Nguyễn Tuân, người ta mới thấy lạnh rợn tóc gáy, sởn gai ốc. Tuy nhiên cụ Nguyễn đâu
giống người thường, nguy hiểm mà vẫn dậm tô cho kì được thêm cảm giác hãi hùng về độ cao rợn
ngợp của vách đá sông Đà, qua từ ngữ không xác định “nào, mấy”, qua độ hẹp của hè phố và sự
phụt tắt bất thình lình của đèn điện làm thót tim người quan sát khi đi vào khúc sông tối tăm này.
Như vậy, sông Đà hung bạo đã dần hiện ra trong trí óc người đọc bao hãi hùng, sửng sốt. Cứ thử
tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì “tiến không được, lùi cũng không
xong”, chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi. b. Măt ghenh hat loong
Với một nhà văn tài hoa, uyên bác, cùng vốn tri thức sâu rộng như Nguyễn Tuân, bấy
nhiêu thôi chưa đủ để ta cảm nhận hết những gì mà ông viết về sông Đà trong lúc “tính
khí thất thường, và đang làm mình làm mẩy”. Bởi vậy, ông tiếp tục đưa chúng ta vào hành
trình khám phá con sông với vẻ đẹp hung bạo ở cái dữ dằn của “nước - đá - sóng - gió”
qua quãng mặt ghềnh Hát Lóong. Điệp từ “xô” được điệp lại ba lần kết hợp với thủ pháp
nghệ thuật tăng tiến “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” đã nhấn mạnh trạng thái không
tĩnh lặng, như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo
chiều ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, ghê rợn trên mặt ghềnh. Theo
lẽ thường, phải là gió xô sóng, sóng xô đá, thì ở đây Nguyễn Tuân lại sd cách ns ngược
đầy độc đáo. Chính sự bất thường ấy cho ta thấy được sự phi thường trong sức mạnh
của SĐ, sự dữ dội đến vô cùng tận của nó, đồng thời cũng cho ta thấy được tài năng độc lOMoAR cPSD| 61432759
đáo của NT trong cách tổ chức ngôn ngữ. Nhà văn đã sử dụng các câu ngắn nhịp nhanh,
dồn dập, các từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ mang lại cho ng đọc cảm giác câu văn
như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển
động của gió to và sóng lớn. Sóng, gió, đá như phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để
tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người. Nguyễn Tuân đã sử dụng thủ pháp nhân
hóa “con Sông Đà như kẻ chuyên đi đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm
được qua quảng ấy”. Con Sông Đà hung hãn đe dọa người lái đò trên sông, nó hiện lên
như một kẻ bất chấp có thể lấy đi tính mạng của những ai vô tình đi qua đây. Từ “tóm”
cho ta hình dung được con Sông Đà quãng ấy như đang chờ chực, rình để có thể tóm
lấy được bất kỳ ai đi qua nó. Con sông càng trở nên hung hãn hơn dữ dằn hơn khi được
miêu tả qua từ láy “gùn ghè”. Nó như là những kẻ đi săn đang nhe răng sắc nhọn chờ
thời cơ để có thể vồ lấy con mồi. Nếu như khi miêu tả vách đá, tác giá điểm nhấn “có
quãng”, thì đến đây, sự hung bạo của SĐ kéo dài hàng cây số. Nếu như trc đó tgia chỉ
dừng lại ở khoảnh khắc “lúc đúc ngọ” hay “mùa hè” thì đến đây lại là “ suốt năm”, “ lúc
nào cũng”. Như vậy ở đây có sự giãn nở cả về chiều kích ko gian và tgian, sự hiểm ác
của SĐ cũng theo đó mà tăng thêm mức độ. Câu văn cuối cùng tác giả đã hạ một câu
khẳng định “quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Cụm
từ “lật ngửa bụng thuyền” đã cho thấy được sức mạnh hủy diệt của cơn sóng quãng, này
đòi hỏi được sự điêu luyện và khéo léo của người lái đò c. Cái hút nc:
Sau khi đã đi qua quãng đá bờ sông "dựng vách thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết
hầu", quãng mặt ghềnh Hát Loóng "cuồn cuộn luồng gió, gìn ghẻ suốt năm như lúc nào cũng
đòi nợ xuýt", thì đến khúc sông quãng Tà Mường Vát, những cái hút nước như "cái bẫy" nối
nhau giăng mắc trên Sông Đà sẵn sàng nhấn chìm mọi thuyền bè đi ngang qua đó. Trước
hết, hút nước sông Đà được miêu tả qua hình ảnh so sánh: "Trên sông bỗng có những cái
hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. " Từ "bỗng" lOMoAR cPSD| 61432759
gợi tả một sự đột ngột, bất ngờ, nó làm cho người ta không khỏi hoang mang. Dòng nước
đương xuôi êm đềm bỗng dưng không thấy một vật nào nổi trên mặt mà dòng nước tới đó cứ
xoáy tít thành những vòng tròn hút tới tận đáy. Tả độ rộng và sâu của hút nước, Nguyễn Tuân
so sánh như cái "giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu". Qua sự so sánh này,
ta thấy cái hút nước lớn, khổng lồ, nhìn vào trong chỉ thấy đen ngòm, sâu hoắm, tối tăm, giống
như miệng con thủy quái đang há hốc để chực nuốt chứng bất cứ vật gì qua quãng này. Và
đó không phải là những cái hút nước trên bề mặt sông mà nó sâu xuống tận đáy sông. Ấn
tượng hút nước sông Đà khúc thượng nguồn còn nằm ở những âm thanh sống động: "Nước
ở đây thở và kêu như cửa cổng cái bị sặc". Nguyễn Tuân đã đặc tả âm thanh của hút nước
bằng thủ pháp nhân hoá và so sánh. Đó là những âm thanh chỉ nghe thôi đã thấy ghê rợn.
Dòng nước thở hồng hộc, thanh âm thống thiết, thét gào giữa núi rừng Tây Bắc điệp trùng.
Dòng sông Đà vì thế mà trở nên hùng dũng, uy lực hơn rất nhiều. Nó hiện ra như cái vòi một
con quái vật khổng lồ tàn ác đang giân dữ đến ghê người. Đến đây, ta dường như nghe trong
cái âm vang của Đà giang dưới ngòi bút Nguyễn Tuân một chút hội ngộ với Homero trong
cuốn sử thi "Ô đi xê” bất hủ, khi viết về cái hung bạo của chốn eo biển xa xôi nào đó thời cổ
đại: "Biển khơi chuyển động, sôi lên như nước trong cái chảo đặt trên một bếp lửa hồng".
Trên mặt những cái hút nước quãng này, nước xoáy tròn như sẵn sàng dìm bất cứ thứ gì
xuống đáy sâu, mà phía trên trông “lừ lừ những cánh quạ đàn” điên cuồng, mang theo dấu
hiệu chết chóc. Khung cảnh hiểm trở đáng sợ ấy bỗng tạo ra mảnh đất vô hình, làm nảy nở
nhiều liên tưởng lí thú cho sáng tác của Nguyễn Tuân: “Không thuyền nào dám men gần
những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô
sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”. Giữa
chốn núi rừng hoang sơ, nhà văn đã thổi vào không khí của phố thị khi ví con thuyền phải qua
vùng nước xoáy thật nhanh giống như ô tô sang số, nhấn ga cho nhanh để "vút qua một
quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Muốn đi ngang qua đây phải thật điêu luyện, thật
bình tĩnh nhưng cũng phải thật nhanh chóng mới có thể "thoát chết". Nhưng trong khi người
điều khiển ô tô còn có thể đạp phanh, nhấn ga thì con thuyền qua quãng này chỉ có thể dựa
vào tài nghệ của ông lái đò mà thôi. Hậu quả khi vô ý đi ngang qua cái hút nước được tác giả lOMoAR cPSD| 61432759
dự báo trước, đem đến cho người đọc một cái nhìn cụ thể, cận cảnh như những thước phim
quay chậm: “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột
xuống. Phép nhân hóa “những bè gỗ rừng nghênh ngang vô ý” gợi hình ảnh những bè gỗ vô
tri. Động từ mạnh “lôi tuột xuống” cho ta hình dung ra một hành động diễn ra với tốc độ nhanh,
mạnh, bất ngờ, cảm giác những bè gỗ kia quá đỗi nhỏ bé trước những cái hút nước sông Đà.
Hút nước còn gây nguy hiểm cho thuyền bè: "Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống,
thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến
mươi phút sau mới thấy tan tác ở khuỳnh sông dưới". Đó là những hình ảnh chỉ có trong
tưởng tượng nhưng lại đưa đến một ấn tượng thật sâu đậm về sức mạnh khủng khiếp của
hút nước sông Đà. Trước những cái hút nước ấy, sự sống và cái chết của con người bỗng
trở nên mong manh, đi qua đó luôn có nguy cơ bị cướp đi sinh mạng.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh và nhiều nhà văn cũng
như các bạn đọc coi Nguyễn Tuân là “định nghĩa về người nghệ sĩ một cách trọn vẹn”, bởi ông
am hiểu, thông thạo nghệ thuật trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, không dừng lại trong
những hình dung tưởng tượng về cái bè gỗ hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm
mồi cho hút nước, bằng kiến thức thâm sâu về điện ảnh của mình, Nguyễn Tuân còn tạo ra
một giả tưởng li kì, dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước
xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn: "Một anh bạn quay phim táo tợn nào
muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn
vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà.." Từ dưới đáy sâu
của hút ước, anh phóng viên lia ngược ống kính lên một cách sống động, truyền cảm từ hình
khối của "một thành giếng xây toàn bằng nước" cho đến màu sắc của dòng sông "nước xanh
ve" như một khối thủy tinh khổng lồ, đặc biệt, khối thủy tinh ấy đổ ụp xuống cả người, cả máy
quay và cả bạn đọc đang theo dõi thước phim. Những thước phim đó khi chiếu lên, người
xem có cảm giác hãi hùng, phải "lấy gân ngồi giữ chặt ghế", thậm chí cảm giác sợ hãi chân
thực của con người khi đứng trong lòng một khối "pha lê xanh như sắp vỡ tan" và bất cứ lúc
nào cũng có thể đổ ụp vào người. Như vậy, có thể thấy, khi gặp hiện tượng thiên nhiên kì thú, lOMoAR cPSD| 61432759
những cảnh tượng dữ dội, phi thường, ngòi bút Nguyễn Tuân cũng muốn ganh đua với tạo
hóa, dốc hết kho chữ nghĩa phong phú của mình ra làm sống dậy tính cách độc đáo, phi
thường của đối tượng. Những cái hút nước Sông Đà quả là rùng rợn, hiểm nguy, buộc người
đọc phải huy động tất cả các giác quan để cảm nhận đến cùng vẻ đẹp hùng vĩ của nó. Sông
Đà hiện lên như một loài thủy quái đáng sợ, hung bạo khiến các giác quan của người đọc
cũng đầy lên cao trào. Để có được tất cả những áng văn có thể xem như "thước phim" ấy,
Nguyễn Tuân đã dụng công miêu tả bằng trải nghiệm khác nhau trong vị thế của người quay
phim và cả vị thế của người xem phim để dùng ngòi bút mà thách thức mọi sự hùng vĩ của
đất trời cũng như làm choáng ngợp những con mắt thưởng ngoạn của độc giả. Chỉ với một
đoạn trích, Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân hùng hậu, huy động kiến thức của nhiều
ngành như văn chương, điện ảnh, thể thao.. Chỉ riêng trong đoạn văn đã có nhiều liên tưởng,
so sánh, nhân hóa kì thú, bất ngờ, cách quan sát tỉ mỉ, tỉnh tường, cách dùng động từ kết hợp
điểm nhìn nhiều chiều từ trên xuống, quay từ dưới lòng sông nhìn ngược lên, gần xa. Từ ngữ
phong phú, sống động, tái hiện chân thực không chỉ là cảnh vật mà còn là những cảm giác
khác nhau, nói như Phan Huy Đông thì đó là "sự tự do của một tài năng, một đấng hóa công
thực sự trong nghệ thuật ngôn từ". Tất cả những điều ấy đã giúp cho người đọc cảm nhận
một cách chân thực nhất sự dữ dội của cái hút nc dòng sông miền Tây Bắc d. Thác nc:
Sự hung bạo của dòng sông này chưa dừng lại. Tiếng thác réo được Nguyễn
Tuân đặc tả nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại
như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Âm thanh có hồn, giống
như cách mà Nguyễn Tuân thổi hồn cho dòng sông. Biến sông Đà thành một sinh thể lOMoAR cPSD| 61432759
có linh hồn, có sự sống, có tính cách. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng
những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng
vĩ, nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả
nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì
không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được
điều đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!
Khi cái thác hiện ra trước mắt, nhà văn như reo lên đầy ngờ ngàng, thích thú:
"Tới cái thác rồi"– cảm giác gặp lại sông Đà hệt như gặp lại "cố nhân" vậy. Vẫn
nhìn sông Đà với con mắt say mê, Nguyễn Tuân đưa sông Đà vào trang viết
với vẻ đẹp kì vĩ: "Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một
chân trời đá" . Tính từ "trắng xóa" vừa chính xác vừa tạo hình gây ấn tượng về
sự trào sôi dữ dội của dàn giao hưởng của sóng, gió, bọt nước.. Đồng thời gợi
tả điệp trùng những con sóng trắng cuồn cuộn xô nhau trên mặt nước mênh
mông. Cùng với hình ảnh "chân trời đá" - đá chất chồng lên đá, câu văn miêu
tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà.
Bút lực của Nguyễn Tuân đến đây kể như đã tài hoa, phóng túng tột đỉnh.
Nhưng thật bất ngờ, càng dõi theo thiên tùy bút có một không hai này, ta càng
thấy sự thăng hoa trong ngòi bút miêu tả và sự phong phú trong trí tưởng
tượng của bậc kì tài ngôn ngữ Nguyễn Tuân. Trong trí tưởng tượng của Nguyễn
Tuân, dòng sông Tây Bắc khủng khiếp nhất, gây ám ảnh nhất với con người
chính là thạch trận đá sông Đà. Ở phương diện này, sông Đà thực sự mang
"diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một" đối với con người. Bút pháp nhân
hóa đã trở thành bút pháp chủ đạo có tác dụng truyền hồn sống cho dòng lOMoAR cPSD| 61432759
sông. Qua sự cảm nhận của nhà văn, loài thủy quái hung tợn mang tên Đà
giang mang tâm địa vô cùng nham hiểm và xảo quyệt. Nó đã bày ra cả một
trận đồ bát quái với rất nhiều cửa tử: "Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết
trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm
ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông
là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền" . Sử dụng thuật ngữ của
quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái sự bí ẩn và vô cùng hiểm ác của đá trên
lòng sông Đà. Đá ở đây được miêu tả trong thời gian vĩnh hằng của thiên nhiên
"ngàn năm", khi thì chúng ẩn mình "mai phục", khi dữ dằn, đột ngột hiện ra
sau cái dập dềnh của sóng để "nhổm cả dậy vồ lấy thuyền". Để tận tả đá sông
Đà, Nguyễn Tuân còn sử dụng rất nhiều nhân hóa, nhờ đó, người đọc có thể
hình dung ra từng diện mạo con người trong những hình thù đá vô tri. Tùy theo
hình dạng, kích thước của đá và cách nhìn của nhà văn mà đá sông Đà được
miêu tả trong những cảm nhận khác nhau, khi thì "ngỗ ngược", "nhăn nhúm
méo mó" bởi sự gồ ghề, lúc to lớn qua dáng "bệ vệ oai phong lẫm liệt", khi này
là tảng đá với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem đến cảm nhận về sự
"xấc xược" trong cái "hất hàm" thách thức, lúc khác lại là tảng đá nhẵn xanh
xuôi chảy từ trên xuống qua hình ảnh "thằng đá tướng.. tiu nghỉu cái mặt xanh
lè thất vọng..". Nguyễn Tuân đã dùng hết sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để
tạo diện mạo và linh hồn cho từng thớ đá vô tri. Đọc tới đây, có lẽ không ít độc
giả phải ngậm ngùi vì vốn ngôn từ của mình còn quá ít ỏi, và trí tưởng tượng
của mình còn quá nghèo nàn so với bậc kì tài Nguyễn Tuân. Cái độc đáo trong
tưởng tượng của Nguyễn Tuân là ông hình dung sông Đà như giao việc cho
từng hòn đá để sẵn sàng lật ngửa bụng bất cứ con thuyền nào qua đây. Người
đọc thực sự thấy thích thú khi chứng kiến sự "bày binh bố trận" của những hòn lOMoAR cPSD| 61432759
đá "nhăn nhúm méo mó"kia. "Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chặn
ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền" . Trận địa đá gồm "hàng tiền vệ, có
hai hòn canh cửa đá trông như là sơ hở" để "dụ đối phương đi vào sâu nữa" rồi
"đánh khuýp quật vu hồi lại" . Nếu chọc thủng được tuyến hai thì nhiệm vụ của
những bong ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền
lọt lưới đá tuyến trên. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt những thuật ngữ của
quân sự, võ thuật, thể thao, cùng hệ thống dày đặc những động từ mang sắc
thái nhân hóa, đặt trong những câu văn ngắn, dồn dập.. khiến lòng sông Đà
quãng này không khác một chiến trường với những trận "hỗn chiến" ác liệt
giữa con người với thiên nhiên. Phải đọc đến đoạn ông lái đò gồng mình chiến
đấu với con sông qua các cửa sinh, cửa tử, ta mới thấy hết sự dữ dội, hung hiểm của sông Đà. II. Sông Đà TRỮ TÌNH
a. Điểm nhìn từ trên cao:
Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ của con sông, ở một góc độ khác, Nguyễn Tuân đã phát
hiện ra chất trữ tình, thơ mộng của dòng sông này, sông Đà tạo nên chất men say
cho cuộc sống của con người Tây Bắc. Từ nhiều góc nhìn khác nhau, Nguyễn Tuân
đã có những phát hiện mới mẻ, độc đáo thi vị, yên ả của con sông này. Qua bao
thác ghềnh, sông Đà trở nên mềm mại, uyển chuyển hơn bao giờ hết. Đó là sông
Đà được miêu tả bằng ấn tượng của thị giác với điểm nhìn từ trên cao
: “Từ
trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà như cái dây thừng ngoằn ngoèo hằng năm và
đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc”; “Con sông Đà tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. HÌnh
ảnh so sánh thú vị của Nguyễn Tuân gợi ra vẻ đẹp nguyên sơ của một dòng sông
đang uốn mình quanh núi rừng Tây Bắc. Có lẽ, đối với Nguyễn Tuân, đặc biệt là
trong văn của ông kể cả khi miêu tả về những điều thô sơ nhất cũng đẹp theo một
cách riêng. Đẹp hơn khi từ trên tàu bay nhìn xuống, Tây Bắc như người thiếu nữ
duyên dáng, yêu kiều mà sông Đà chính là áng tóc mềm mượt của người thiếu nữ
đang khao khát thanh xuân này. Nguyễn Tuân đã nhìn thấy dòng chảy uốn lượn của
con sông Đà tựa như một áng tóc trữ tình buông dài vắt ngang qua núi rừng hùng lOMoAR cPSD| 61432759
vĩ. Đẹp lắm! Duyên dáng lắm! Nhà văn đã dùng một câu văn dài hơi, hạn chế ngắt
quãng để gợi tả độ dài của sông Đà và mái tóc của người thiếu nữ. Đồng thời sử
dụng từ ngữ gợi tả cái dòng chảy êm đềm của sông Đà mang cái linh hồn của Tây
Bắc “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc cuồn cuộn mùi khói mèo đốt nương xuân”. Điệp ngữ “tuôn dài tuôn
dài” cùng nhịp văn mềm mại như ru tạo nên vẻ đẹp uyển chuyển, thướt tha của
dòng sông. Phép so sánh dòng sông như một “áng tóc trữ tình” là một sáng tạo
nghệ thuật độc đáo. Phép so sánh đầy chất thơ, chất họa chẳng những phô ra được
vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng, kiêu sa kiều diễm của dòng sông Đà mà còn bộc lộ
chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Dòng Đà giang giờ đây tựa như một
nàng thiếu nữ xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa mùa hoa
ban, hoa gạo dưới vẻ đẹp bồng bềnh của mây khói. Thần sắc của thiên nhiên nơi
đây được Nguyễn Tuân miêu tả với vẻ đẹp rất riêng, rất lạ rất thơ. Khói núi Mèo mà
người đồng bào đốt nương mỗi khi Tết đến cũng khiến người ta nao lòng đến lạ.
Tây Bắc muôn đời vẫn đẹp, sông Đà hung bạo đến đâu cũng có lúc kiều diễm như
cô gái trẻ bùng cháy sức xuân trong khoảnh khắc thanh xuân. Bao nhiêu vẻ đẹp thơ
mộng, trữ tình quyến rũ của đất trời đã ùa về thức dậy trong những câu văn của
Nguyễn Tuân – “Người thợ kim hoàn của chữ” (Hoài Thanh). Đối với một nhà văn
thích vẻ đẹp thuộc về “vang bóng một thời” thì góc nhìn về Sông Đà của Nguyễn
Tuân cũng được góp mặt bởi câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh: “Núi cao
sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen” – một góc nhìn gợi vẻ đẹp
cổ tích sử thi huyền thoại
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được thể hiện ở màu sắc đặc biệt của dòng
sông. Nguyễn Tuân đã tìm hiểu, nghiên cứu một cách vô cùng tỉ mỉ và chăm chú để
có thể phát hiện ra sự thay đổi và biến chuyển của màu nước. Không giống như
sông Hương, nếu màu nước thay đổi quá nhanh theo thời gian trong ngày “sớm
xanh, trưa vàng, chiều tím”, thì dòng Đà giang của mảnh đất Tây Bắc lại luôn biết
cách làm mới, làm đẹp cho chính mình. Cách nó chuyển mình không làm cho người
ta có cảm giác đột ngột quá, mà ngược lại rất lưu luyến theo sự chuyển biến của
thiên nhiên, chính vì vậy sắc nước của nó thay đổi theo từng mùa, mỗi mùa một nét
đẹp riêng biệt. Con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn trong cái say sưa
đầy trân trọng và dõi theo của Nguyễn Tuân. Nhà văn họ Nguyễn khẳng định: “Tôi
đã say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu
mà nhìn xuống sông Đà”. Lúc này, người nghệ sĩ như thả trôi tâm hồn mình cùng
với sóng nước sông Đà, chính vẻ đẹp của mây trời Tây Bắc bung nở hoa đã gieo
nên những hạt mầm xanh tốt tạo nên cái sắc riêng không trộn lẫn của thiên nhiên
tươi đẹp nơi đây. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy dòng sông Hương có
màu xanh thẫm mà ánh nắng ban mai rực rỡ tạo nên từ cảnh sắc thiên nhiên đôi bờ
và sự phản quang của đất trời vạn vật để tạo nên một đóa hoa phù dung mĩ miều,
thì Nguyễn Tuân lại viết về sông Đà với những cảm quan nhạy bén của ngũ quan.
“Mùa xuân nước sông Đà xanh ngọc bích chứ không xanh màu xanh canh hến của
nước sông Gấm, Sông Lô”. “Xanh ngọc bích” là màu xanh của sự trẻ trung, tươi mới
mang sắc thái của sự đài các, thanh tao, rất huyền diệu, nhưng cũng rất cổ tích. Cái
màu xanh đó được Nguyễn Tuân dày công nghiên cứu, chứ không đưa ra đánh giá
một cách vội vàng hay có phần chủ quan liều lĩnh chung chung. Một màu xanh của
sự toàn bích giữa cái điệu xanh của cây xanh, rừng xanh, núi xanh, mây xanh
hòa quyện. Một màu xanh không trộn lẫn, bởi Nguyễn Tuẫn đã lý giải thêm sự đặc
biệt ấy rằng, “không xanh màu xanh canh hến như nước sông Gâm, sông Lô” –
những dòng sông “hàng xóm” của sông Đà. Nguyễn Tuân là nhà văn lao động nghệ lOMoAR cPSD| 61432759
thuật một cách vô cùng nghiêm túc, dày công và tỉ mỉ. Ông không chấp nhận một
thứ văn chương hời hợt, một cảm quan hay một lăng kính chỉ mang một màu đơn
sắc. Và chỉ một chi tiết chỉ khi miêu tả về màu nước sông, cũng đã cho thấy sự
nghiêm túc, vất vả, dày công tìm tòi, khám phá cho tường tận “đích cái đẹp” của
Nguyễn Tuân. Nói đến mùa thu, là nói đến mùa của những con lũ lớn, màu của
những dòng chờ nặng phù sa nơi thượng nguồn. Cái màu của sự dữ dội ấy, cũng đi
vào văn của Nguyễn Tuân một cách thật đẹp, “mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ
như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lù lù cái màu đỏ giận dữ ở một người
bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Câu văn sử dụng lối so sánh vô cùng đặc biệt với
liên tưởng “như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” giúp người đọc có thể dễ
dàng hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Lần đầu tiên có người
dùng màu sắc của da mặt người để miêu tả vẻ đẹp của sắc nước sông. Cái màu đỏ
“lừ lừ” ấy có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới thấy, mới cảm, mới viết nên được. Nó chỉ có
thể tạo nên từ bàn tay của một người nghệ sĩ tài hoa, tài tử. Qua câu văn Nguyễn
Tuân cũng đã làm nổi bật được cái trữ tình, thơ mộng của dòng nước còn có cả cái
dữ dội ngàn đời của con sông Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã dựng lên cả một thế giới
thiên nhiên rộng mở, tươi đẹp sống động trên trang giấy, những trang viết ấy tựa
như “một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm”. Thế nhưng, bọn thực dân Pháp
với mưu đồ đen tối và tâm địa hắc ám, đã gọi sông Đà là Rivière Noire (sông Đen).
Nhưng Nguyễn Tuân đã khẳng định: “Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen
như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái
tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”. Câu văn phủ định nhưng lại
có tác dụng khẳng định mạnh mẽ, đanh thép, tác giả đã cho thấy việc TD Pháp đặt
tên “Đen” cho dòng sông là 1 sự khiên cưỡng thô bạo, từ đó nhà văn bộc lộ sự bức
xúc và phản đối, lên án đối với tâm địa độc ác của bọn thực dân.
b. Di runwgff laau ngay ddoor ra song da c. Diem nhin tu tren thuyen
Không dữ dội như quãng bày thạch trận, người đọc như lạc vào thế giới cổ
tích, thế giới tiền sử. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà...” toàn vần bằng
tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Tác giả hướng đến lịch sử của những
buổi đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như từ đời Trần, đời Lý, đời Lê, quãng
sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Sự hướng nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp
nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa”. Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng
biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai. Hai
chữ “lặng tờ được nhắc đi nhắc lại tới hai lần theo kiểu trùng điệp rất đặc thù của
thơ, của không gian vắng lặng. Cái lặng tớ trầm tư của con sông gợi nét cổ thì
"trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ mà ta đã từng bắt gặp trong trang thơ của Huy
Cận, sông Đà con sông lịch sử đã từng chứng kiến một chặng đường oanh liệt, hào
hùng của dân tộc ta trong những cuộc chiến tranh vệ quốc, câu vẫn không tả mà nó
có sức gọi mênh mông của thi ca. lOMoAR cPSD| 61432759
Theo dòng trôi của con thuyền người đọc đi vào thế giới hoang sơ tĩnh mịch với
cảnh nương ngô đang "nhú lên mấy là ngô non đầu mùa", đã có dấu ấn của con
người in trên màu xanh mỡ màng ấy, nhưng thật vô cùng ngạc nhiên "mà không một
bóng người. Chỉ có đổi gianh nổi tiếp đổi gianh trùng điệp với những "nôn búp" ngon
lành. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện trên màu xanh bát ngát những đối gianh là một
nét vẽ tài hoa làm cho bức tranh thiên nhiên sông Đà đượm màu "hoang dại" và "cổ
tích". Không phải chú nai vàng ngơ ngác trong cải xào xạc của lá thu rơi thuở nào
mà ở đây chỉ có "Cô gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu
ngốn búp có gianh đẫm sương đêm". Chỉ có Nguyễn Tuân mới có cái nhìn "xanh
non" ấy, mới có cách nói, cách tà độc đáo ấy, ông đã thả hồn mình vào cảnh vật, mà
yêu mến, nâng niu. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều ấy
khiến ta liên tường đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hôm chèo
thuyền. ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên, một chốn Đảo nguyên.
Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát lên từ
điển tích ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc -
nơi khởi nguồn cho tỉnh yêu đất nước. "Bờ sông hoang dại như một bở tiền sử, Bờ
sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Nguyễn Tuân so sánh không
phải để cụ thể hóa sự vật mà là trừu tượng hóa, thơ mộng hóa cảnh vật. Hình ảnh
so sánh "bờ tiền sử", "nỗi niềm có tích tuổi xưa" là chữ của một nhà văn bậc thấy về
ngôn ngữ. Nguyễn Tuân không dựa vào trực giác để so sánh, ông đã dùng tưởng
tượng để tạo nên những liên tưởng, những so sánh đầy chất thơ và rất kì thú, gieo
vào tâm hồn người đọc bao cảm xúc, để cùng ông tận hường cái vẻ đẹp "hoang dại"
và "hồn nhiên" của Đà Giang.
Đang đi lạc vào thế giới cổ tích giữa đời thường, chính nhà văn Nguyễn Tuân còn
ngỡ cảnh đẹp đó như là mơ nên ông "thấy thêm được giật mình vì một tiếng xúp lề
của một chuyến xe lửa" để biết rằng mình đang tồn tại ở cuộc đời thực chứ không
phải là một giấc chiêm bao. Từ nhu cầu đánh thức thực tại, Nguyễn Tuân lại đưa
chúng ta vào một cuộc đối thoại đấy cổ tích hơn với cuộc đối thoại giữa ông khách
sông đà và con hươu thơ ngộ. Không chỉ dừng ở những câu văn đầy chất thơ, hình
ảnh của một miền cổ tích mà mô tuýp diễn biễn cũng mang đậm hướng những câu
chuyện cổ tích. Cuộc đối thoại giữa người khách và chủ hươu như cuộc đối thoại
của nàng công chúa ngủ trong rừng đang chở hoảng từ đến đánh thức. Đang say
sưa thì đàn hươu vụt biến bởi “tiếng đàn cá dâm xanh quây vọt lên mặt sông”, “tiếng
cả đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến.
Đứng trước một miền không gian có tích có cảnh, có tỉnh, nhưng sao vẫn thấy thiếu,
thiếu một người tri kỷ. Và đó là nguyên do để Nguyễn Tuân trích dẫn hai câu thơ của
văn sĩ Tản Đà để hoàn thành bức tranh "tri âm" của mình. Cũng như có cảnh đẹp
mà thiếu bạn hiển thì cái tỉnh "yêu hoa thưởng nguyệt" đã giảm đi ít nhiều nhà thủ.
Đọc thơ bạn, ngâm thơ bạn trong lúc này, Nguyễn Tuân xem như bạn đang cùng
mình ngồi trên con thuyền mà mơ màng ngâm thơ thường ngoạn: "Dài Đà bọt nước
lênh bênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tỉnh". Đó là tài tử, là tài hoa. Đó là tri âm, tri kỉ.
Chúng ta chợt nhận ra rằng, trong văn của Nguyễn Tuân đầu chỉ có con người mới
có tình tri kỷ mà vật cũng mang nỗi niềm ấy, khi ông kết thúc đoạn văn bằng nỗi thốn
thức "Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để
lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói
êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nô chạy buồm vài
nó khác hẳn những con đỏ đuôi én thất mình dây cổ điển trên dòng trên".