Hồ Sở Hành Chính 07 Bản Luận Cư Bảo Vệ Người Bi Kiến Kích Bản Điền An

Hồ Sở Hành Chính 07 Bản Luận Cư Bảo Vệ Người Bi Kiến Kích Bản Điền An được biên soạn dưới dạng file PDF cho các bạn sinh viên tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị thật tốt cho các kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:
Trường:

Học viện Tòa án 144 tài liệu

Thông tin:
11 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Hồ Sở Hành Chính 07 Bản Luận Cư Bảo Vệ Người Bi Kiến Kích Bản Điền An

Hồ Sở Hành Chính 07 Bản Luận Cư Bảo Vệ Người Bi Kiến Kích Bản Điền An được biên soạn dưới dạng file PDF cho các bạn sinh viên tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị thật tốt cho các kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

602 301 lượt tải Tải xuống
HC VIỆN TƯ PHÁP
KHÓA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
BÀI THU HOCH DIN ÁN
Môn hc: Hành chính cơ bản
H sơ : LS.HC.07
H và tên:
Ngày sinh:
Lp:
Khóa:
S báo danh:
Thành ph H Chí Minh ngày tháng năm 2021
1
BẢN LUẬN CỨ
BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI BỊ KIỆN
LÀ CHỦ TỊCH UBND THÀNH PHỐ A
Trong vụ án:
“Khiếu kiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPHC ngày
27/01/2018 của Chủ tịch UBND Thành phố A theo Thông báo thụ lý vụ án số
08/2018/TLST-HC ngày 06/4/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố A, tỉnh B”
Kính thưa:
- Hội đồng xét xử;
- Đại diện Viện kiểm sát;
- Quý Luật sư đồng nghiệp
Tôi là Luật sư X thuộc Công ty Luật TNHH A, Đoàn Luật sư tỉnh B.
Tôi tham gia phiên tòa ngày hôm nay với cách người bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp cho khách hàng của tôi Chủ tịch UBND Thành Phố A - cũng người
bị kiện trong vụ án hành chính này.
Trước hết cho phép tôi xin thay mặt người bị kiện và nhân danh cá nhân xin gửi
đến Hội đồng xét xử, Đại diện Viện kiểm sát các luật đồng nghiệp lời chào trân
trọng và bày tỏ sự tin tưởng về việc xét xử công minh của quý Hội đồng xét xử.
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Ngày 21/03/2018, Hoàng Thị Nhân chsở mộc gia dụng Thái Sơn
địa chỉ tại 18 khóm Tân An, phường Tân Hội, Tp A đơn khởi kiện đến Tòa án
nhân dân TP A đề nghị tuyên hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-
XPHC ngày 27/01/2018 của Chủ tịch UBND Thành phố A vì cho rằng Quyết định này
là trái quy định pháp luật và xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bà Nhân.
Sau khi nghiên cứu hồ vụ án, nghe phần trình bày của phía luật người
khởi kiện, tôi không đồng ý với các quan điểm luật người khởi kiện đưa ra
2
không đồng ý với các yêu cầu của người khởi kiện đồng thời khẳng định Quyết định xử
phạt số 44/QĐ-XPHC ngày 27/01/2018 của Chủ tịch UBND Thành Phố B phù hợp
với quy định của pháp luật.
Trước hết, tôi xin nêu ý kiến của mình về thẩm quyền xét xử ván, người bị kiện
trong vụ án này Chủ tịch UBND TP A. theo khoản 1 điều 31 khoản 4 điều 32 Luật
TTHC 2015 thì thẩm quyền thụ vụ án này thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân n
Tỉnh B, chứ không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP A. Do đó, tôi
kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại.
Sau đây tôi xin nêu một số quan điểm để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ tôi Chủ
tịch UBND Thành Phố B, như sau:
1. Về thẩm quyền ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPHC
ngày 27/01/2018 của Chủ tịch UBND Thành Phố B.
Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 38 Luật xử lý VPHC năm 2012:
“Điều 38. Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có quyền:
b) Phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định
tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 50.000.000 đồng;
…”
Và theo Điều 24 của Luật này có quy định về mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực
môi trường là 30,000,000 đồng.
Thực tế quyết định xử phạt vi phạm hành chính s 44/-XPHC ngày
27/01/2018 do Phó chủ tịch UBND TPA ký thay Chủ tịch UBND TPA tổng
mức phạt 14.500.000 đồng với mức phạt này thì việc ra quyết định xử phạt
hành chính của chủ tịch UBND thành phố A là hoàn toàn đúng thẩm quyền.
3
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Luật XLVPHC 2012, người
thẩm quyền xử phạt VPHC có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt.
“Điều 54. Giao quyền xử phạt
1. Người thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 38;
của Luật này thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính.…”
Bởi các căn cứ trên, chúng tôi khẳng định quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 44/QĐ-XPHC được ban hành đúng thẩm quyền theo quy định pháp
luật.
2. Về Trình tự thủ tục ban hành quyết định xử phạt số 44/QĐ-XPHC:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật XP VPHC 2012 “1. Xử phạt vi phạm
hành chính lập biên bản được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của
nhân, tổ chức vi phạm hành chính không thuộc trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản
1 Điều 56 của Luật này.” Trường hợp vi phạm của sở mộc Thái Sơn thuộc trường
hợp phải lập biên bản vi phạm hành chính, theo đó vào ngày 14/01/2018 Đội quản
trật tự đô thị đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với cơ sở mộc Thái Sơn.
2.1 Thủ tục lập Biên bản vi phạm hành chính
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật XLVPHC 2012 quy định: “Trường hợp
vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp
vụ thì việc lập biên bản vi phạm hành chính được tiến hành ngay khi xác định được tổ
chức, cá nhân vi phạm.
Tiếp theo, Biên bản VPHC được lập theo đúng quy định tại Khoản 2 Điều 58
Luật XL VPHC 2012 “…2. Biên bản vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm,
địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp
của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa
điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính bảo
đảm việc xử lý; tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ; lời khai của người vi phạm
hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại
diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi họ, tên, địa chỉ, lời khai của họ; quyền thời
4
hạn giải trình về vi phạm hành chính của người vi phạm hoặc đại diện của tổ chức vi
phạm; cơ quan tiếp nhận giải trình….Và mẫu biên bản số 01 quy định tại Nghị định
81/2013/NĐ-CP về hướng dẫn và biện pháp thi hành Luật XL VPHC.
Về thẩm quyền lập biên bản VPHC, căn cứ để Đội quản trật tự đô thị tiến hành
lập biên bản vi phạm hành chính này là tại thông báo của Đội quản lý trật tự đô thị (bút
lục 48) có đề cập “Thực hiện theo chỉ đạo của UBND Thành Phố A theo nội dung công
văn số 364/UBND-KT ngày 30/11/2017 văn số 364/UBND-KT ngày 30/11/2017 v/v xử
phạt vi phạm HC đối với sở mộc Hoàng Thị Nhân, khóm Tân an, phường Tân
Hội, thành phố A và kết quả phân tích ngày 15/11/2017 của Trung tâm quan trắc và Kỹ
thuật Tài nguyên i trường tỉnh B” theo đó, Đội Quản Trật tự đô thị đã phân
công ông Trần Văn Tuất (cán bộ kiểm tra) phối hợp với phường Tân Hội tiến hành lập
biên bản VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đối với hành vi vi phạm của Hoàng
Thị Nhân. Do vậy, biên bản VPHC này được lập đúng thẩm quyền.
Trên sở kết luận của Phòng TNMT TP.A tại Báo cáo số 23/BC-TNMT ngày
26/11/2016 về kết quả kiểm tra sở mộc Hoàng Thị Nhân (bút lục 45) hành vi vi
phạm của sở mộc Thái Sơn. Ngày 30/11/2017, UBND đã chỉ đạo Đội quản trật tự
đô thị TP.A lập biên bản vi phạm hành chính đối với cơ sở mộc Thái Sơn (theo nội dung
Thông báo phân công cán bộ số 24/TB-QLTTĐT (bút lục 48). Tại Thông báo này, biên
bản VPHC của Đội quản lý trật tự đô thị lập dựa vào kết quả phân tích ngày 15/11/2017
của Trung Tâm quan trắc kỹ thuật TN MT tỉnh B. Theo đó, kết quả phân tích này
thực hiện trên mẫu không khí được lấy tại ngày kiểm tra ngày 11/11/2017 của đoàn kiểm
tra theo quyết định số 16/QĐ.UBND ngày 8/11/2016 của UBND thành phố về việc kiểm
tra cơ sở mộc gia dụng và cửa sắt của bà Hoàng Thị Nhân (bút lục 43).
Đến ngày 02/01/2018, Đội quản TTĐT phân công cán blập biên bản vi phạm
đối với sở mộc của Nhân, sau đó, Đội quản TTĐT đã lập Biên bản vi phạm
hành chính ngày 14/01/2018 đúng quy định pháp luật, theo sự phân công, chỉ đạo của
UBND TP.A.
Về vấn đề Nhân nói biên bản VPHC này không có ký tên nên không có giá
trị pháp lý là không đúng.
5
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 58 Luật XL VPHC quy định: “…Trường hợp
người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình trốn
tránh hoặc vì lý do khách quan không vào biên bản thì biên bản phải chữ
của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người chứng kiến.
theo quy định tại Khoản 3 Điều 58 Luật XLVPHC “3. Biên bản vi phạm hành
chính phải được lập thành ít nhất 02 bản, phải được người lập biên bản người vi
phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký; trường hợp người vi phạm không được thì
điểm chỉ; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại
thì họ cùng phải vào biên bản; trường hợp biên bản gồm nhiều tờ, thì những người
được quy định tại khoản này phải ký vào từng tờ biên bản. Nếu người vi phạm, đại diện
tổ chức vi phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại
từ chối thì người lập biên bản phải ghi do vào biên bản.” theo quy định này,
trường hợp người đại diện tổ chức vi phạm từ chối tên thì người lập biên bản phải
ghi do vào biên bản ngay tại biên bản VPHC của Đội quản trật tự đô thị,
người lập biên bản đã có ghi rõ chỗ ký của bà Hoàng Thị Nhân là “có đọc lại biên bản
cho đương sự nghe rõ nhưng không đồng ý ký tên”.
Do vậy, biên bản VPHC vẫn giá trị pháp lý theo quy định mặc người đại
diện cơ sở là bà Hoàng Thị Nhân không ký vào biên bản.
Từ các căn cứ trên cho thấy, biên bản VPHC của Đội quản lý trật tự đô thị là
hợp pháp theo quy định của pháp luật.
2.2 Thời hạn ra quyết định xử phạt
Vụ việc vi phạm của sở mộc Thái Sơn nhiều tình tiết phức tạp, cần thời
gian để thụ lý, xác minh do liên tục có nhiều đơn phản ánh, kiến nghị của tập thể các hộ
dân trú xung quanh Phòng cảnh sát i trường Công an tỉnh B chuyển đơn của
nhiều hộ dân đến UBND TP.A để phản ánh cơ sở của bà Nhân gây ô nhiễm môi trường,
làm phát sinh tiếng ồn, thải khí bụi, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của họ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật XLVPHC 2012, thời hạn ra quyết định
xử phạt đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp là tối đa 30 ngày kể từ ngày vi phạm.
6
Đội quản lý TTĐT lập BBVPHC ngày 14/01/2018, đến ngày 27/01/2018, UBND TP.A
ra QĐ xử phạt số 44/QĐ-XPHC là đúng thời hạn theo quy định pháp luật.
Do vậy, căn cứ vào biên bản VPHC trên và được sự giao quyền từ Chủ tịch UBND,
Phó chủ tịch UBND thành phố B ra quyết xử phạt số 44/QĐ-XPHC ngày 27/01/2018 về
xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường đối với Cơ sở mộc của Bà Hoàng Thị
Nhân là đúng với trình tự thủ tục luật định.
3. Về nội dung quyết định xử phạt số 44/QĐ-XPHC ngày 27/01/2018 Chủ tịch
UBND Thành phố A xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường:
Căn cứ để ra hình thức và mức xử phạt đối với cơ sở mộc của Hoàng Thị Nhân là
dựa vào biên bản VPHC của Đội Quản lý trật tự đô thị trên cơ sở biên bản kiểm tra ngày
11/11/2017 và kết quả phân tích mẫu ngày 15/11/2017, xác định cơ sở mộc của bà Hoàng
Thị Nhân có hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường và bị phạt tiền 14,500,000 VNĐ.
Chủ tịch UBND TP.A xử phạt vi phạm hành chính Hoàng Thị Nhân đối với các
hành vi sau đây:
3.1 Hành vi “không thực hiện nội dung trong bản cam kết bảo vệ môi trường”
Hoàng Thị Nhân đã đăng cam kết thực hiện đề án bảo vệ môi trường
được Phòng TN-MT thuộc UBND TP.A xác nhận theo Giấy xác nhận đăng ký đề án bảo
vệ môi trường số 15/GXN-TNMT ngày 01/2/2017. Trong đó, nội dung cam kết đáp
ứng quy chuẩn quốc gia về môi trường đối với khí thải, chất thải, tiếng ồn, độ rung…
Tuy nhiên, theo Biên bản kiểm tra sở mộc Thái Sơn ngày 11/11/2017 (BL 40-
41), Đoàn kiểm tra ghi nhận sở mộc của Hoàng Thị Nhân không thực hiện đầy đ
trong Giấy xác nhận đăng đề án bảo vệ môi trường số 15/GXN-TNMT ngày 01/2/2017,
cụ thể là:
+ Không thực hiện chương trình giám sát môi trường định kỳ lập báo cáo gửi
Phòng TN-MT theo cam kết;
+ Không trang bị thiết bị phòng cháy, chữa cháy;
+ Không lập bảng nội quy cơ sở.
7
Tại Biên bản kiểm tra nên trên, bà Hoàng Thị Nhân thống nhất với nội dung kiểm
tra và không có ý kiến phản đối hoặc giải trình đối với hành vi không thực hiện nội dung
cam kết BVMT.
vậy, UBND TP.A xử phạt bà Hoàng Thị Nhân đối với hành vi Không thực hiện
nội dung trong bản cam kết bảo vệ môi trường theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 8
Nghị định 155 với mức phạt tiền 4.000.000 đồng là đúng quy định pháp luật, cụ thể:
2. Hành vi vi phạm quy định về thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường thuộc thẩm
quyền xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp huyện và không thuộc trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều này bị xử phạt như sau:
a) Phạt tiền 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện không
đúng một trong các nội dung kế hoạch bảo vệ môi trường đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác nhận…
2.2. Hành vi gây tiếng ồn, thải bụi vượt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về tiếng
ồn, chất thải.
Ngày 11/11/2017 (ngày tiến hành kiểm tra cơ sở mộc Thái Sơn), Phòng TNMT
TP.A yêu cầu Trung tâm quan trắc và kỹ thuật tài nguyên môi trường B lấy mẫu xác định
chỉ tiêu bụi tiếng ồn tại sở mộc Thái Sơn. Căn cứ Biên bản thu mẫy ngày 11/11/2017
Kết quả phân tích ngày 15/11/2017, Phòng TNMT TP.A đã lập Báo cáo số 23/BC-
TNMT ngày 26/11/2017 khẳng định sở mộc Thái Sơn gây tiếng n vượt tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn, trong đó, độ ồn cho phép trong khu dân xen kẽ khu
vực TM, DV, SX từ 6h-18h là: 75dBA nhưng tiếng ồn do cơ sở mộc gây ra tối đa là 76-
90 dBA là vượt quá so với tiêu chuẩn, quy chuẩn về tiếng ồn.
Hành vi nêu trên của sở mộc Thái Sơn vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 17
Nghị định 155 với mức phạt từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. vậy, UBND
TP.A xử phạt cơ sở mộc của bà Nhân với mức phạt 3.000.000 đồng là hợp đúng quy
định pháp luật.
Cũng theo Báo cáo số 23/BC-TNMT ngày 26/11/2017 của Phòng TNMT TP.A,
sở mộc của Nhân thải khí bụi vượt quá 1,2 lần so với quy chuẩn về chất thải bụi.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 15 Nghị định 155 (thải bụi vượt quy chuẩn từ 1,1
8
đến dưới 1,5 lần) thì mức phạt đối với hành vi này từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000
đồng => việc UBND TP.A xử phạt sở của Nhân với mức phạt tiền 7.500.000
đồng là phù hợp, đúng quy định pháp luật.
Quy trình lấy mẫu phân tích: mẫu được lấy tại smộc do đại diện của trung
tâm quan trắc và kỹ thuật tài nguyên môi trường tỉnh B tiến hành lấy và có biên bản thu
mẫu theo đúng quy trình quy định tại Khoản 7, 8, 9 Điều 44 Thông 24/2017/TT-
BTNMT ngày 1/9/2017 về quy định kỹ thuật quan trắc môi trường. Đồng thời, kết quả
phân tích mẫu ngày 15/11/2017 được thực hiện bởi Trung tâm quan trắc và kỹ thuật Tài
nguyên Môi trường tỉnh B Trung tâm đáp ứng đủ điều kiện thành lập hoạt động
theo quy định tại NĐ 127/2014/NĐ-CP quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ
quan trắc môi trường. Vì vậy, kết quả phân tích của Trung tâm là có giá trị pháp lý.
Về việc bà Hoàng Thị Nhân yêu cầu Tòa án tiến hành trưng cầu giám định hai kết
quả phân tích lấy mẫu ngày 11/11/2017 của phân của Trung tâm quan trắc kỹ thuật Tài
nguyên Môi trường và báo cáo kết quả phân tích ngày 20/5/2018 do Trung tâm ứng dụng
Khoa học Công nghệ - Sở Khoa học Công nghệ tỉnh B, chúng tôi có ý kiến như sau:
bà Hoàng Thị Nhân có yêu cầu Trung tâm ứng dụng khoa học và công nghệ tiến hành lấy
mẫu, phân tích mẫu tại sở mộc của đúng vì đó quyền của bà. Tuy nhiên, việc
bà đem kết quả phân tích ngày 20/5/2018 trên cơ sở lấy mẫu ngày 13/5/2018 để so sánh,
đánh giá tính hợp pháp của kết quả phân tích của phía Ủy ban ngày 15/11/2017 trên
sở lấy mẫu ngày 11/11/2017 không phù hợp. Bởi lẽ vì, thời gian lấy mẫu của hai Trung
m được thực hiện cách xa nhau khoảng gần 6 tháng (11/11/2017 13/5/2018), với
khoảng thời gian như vậy đã đủ cơ sở của Nhân khắc phục được các vi phạm trước đó.
Do vậy, việc đem kết quả phân tích của phía Bà Hoàng Thị Nhân sau này để so sánh với
kết quả của phía Ủy ban thực hiện trước đó khoảng 6 tháng là không phù hợp.
Từ những căn cứ nêu trên, việc ban hành Quyết định xử phạt VPHC số 44
của UBND TP.A là hợp pháp về thẩm quyền, thủ tục và nội dung.
Tại Biên bản lấy lời khai người khởi kiện, bà Nhân cho rằng ngày kiểm tra cơ sở
mộc (11/11/2017) không được biết con số đbụi, độ n trong Biên bản kiểm tra ngày
11/11/2017. Tuy nhiên, ngay trong ngày 11/11/2017, khi quan tiến hành lấy mẫu
không khí, đo tiếng ồn để phân tích thì bà Nhân có chứng kiến và ký tên vào Biên bản
9
thu mẫu (BL 42). Đến ngày 15/11/2017 thì cơ quan phân tích mẫu mới lập kết quả phân
tích và gửi cho Phòng TNMT TP.A để báo cáo cho UBND TP.A.
Mặt khác, Hoàng Thị Nhân cho rằng theo Biên bản ngày 11/11/2017 ghi
cho bà 15 ngày để khắc phục thiếu sót đã ghi trong biên bản nên mới đồng ý ký tên vào
biên bản. Tuy nhiên, đối chiếu Biên bản kiểm tra ngày 11/11/2017 thì thời hạn
Nhân đề cập thời hạn đoàn kiểm tra yêu cầu thực hiện các quy định về pháp luật
lao động, xây dựng vách riêng, làm thủ tục đăng ký phòng cháy chữa cháy, còn vấn đề
liên quan đến vi phạm trong lĩnh vực BVMT thì Nhân đã thống nhất với nội dung
kiểm tra và không có ý kiến phản đối nào.
Tôi cho rằng hành vi vi phạm của bà Nhân trong lĩnh vực BVMT là rõ ràng, tồn
tại trong thời gian dài, mặc đã nhiều lần yêu cầu khắc phục nhưng cơ sở của Nhân
vẫn không thực hiện, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, gây bức xúc, cản trở cuộc
sống bình thường của tập thể người dân sống xung quanh, khiến họ phải liên tục gửi
đơn phản ánh, khiếu nại đến các cấp chính quyền. Vì vậy, việc xử phạt đối với bà Nhân
ngoài mục đích răn đe chấp hành pháp luật n nhằm mục đích lâu dài hơn đó hạn
chế tác động xấu đến môi trường và sức khỏe của đa số người dân.
Nay tôi đề nghị Hội đồng xét xử TAND tỉnh B áp dụng quy định điểm a,
khoản 2 Điều 192 Luật TTHC 2015 tuyên bác yêu cầu khởi kiện của Hoàng Thị
Nhân đối với QĐ XPVPHC số 44/QĐ-XPHC ngày 27/01/2018 của UBND TP.A và
yêu cầu Bà Hoàng Thị Nhân chấp hành Quyết định xử phạt này.
KCH BN CHI TIT TH TC TRANH LUN
H SƠ HC 07
- TP: Nếu không ai yêu cu hi thêm, tôi tuyên b kết thúc phn th tc hi,
chuyn qua th tc tranh lun
Tranh lun
- TP: Đề ngh phía luật bảo v quyn và li ích hp pháp ca NKK phát biu
quan điểm bo v quyn và li ích hp pháp ca NKK.
- Luật sư bo v quyn và li ích hp pháp ca NKK đứng lên trình bày bn lun
c:…
- LS NKK: Thưa HĐXX, tôi đã trình bày xong
10
- TP: Mi LS ngi. Mi NKK Nhân có b sung ý kiến tranh luận đối vi phn
trình bày ca luật sư hay không?
- Bà Nhân đứng lên: Thưa HĐXX…
- TP: Mi bà ngi xung
- TP: Đề ngh luật bo v quyn và li ích hp pháp ca NBK phát biu quan
điểm bo v quyn và li ích hp pháp ca NBK
- Ông Năm đứng lên trình bày bn lun c:…
- Ông Năm: Thưa HĐXX, tôi đã trình bày xong.
- TP: Mi LS ngi xung. Mời Đại diện NBK ông Năm có bổ sung ý kiến tranh lun
đối vi phn trình bày ca luật sư hay không
- TP: Đ ngh Luật sư bo v quyn và li ích hp pháp ca NKK có ý kiến tranh
lun với quan điểm ca Luật sư bảo v quyn và li ích hp pháp ca NBK
- LS NKK trình bày ý kiến đối đáp:…
- LS NKK: Tôi đã trình bày xong.
- TP: Mi LS ngi xuống. Đề ngh Luật sư bảo v quyn và li ích hp pháp ca
NBK có ý kiến tranh lun với quan điểm ca Luật sư bảo v quyn và li ích hp
pháp ca NKK.
- LS NBK trình bày ý kiến đối đáp:… Tôi đã trình bày xong.
- TP: Mi LS ngi xung.
- TP: Mời Bà Nhân đng lên. Bà có ý kiến đối đáp gì thêm không.
- Bà Nhân: Tôi không có ý kiến gì thêm (hoc có thì trình bày).
- TP: Mi bà ngi xung
- TP: Mời Ông Năm đng lên. Ông có ý kiến đối đáp gì thêm không.
- Bà Nhân: Tôi không có ý kiến gì thêm (hoc có thì trình bày).
- TP: Mi Ông ngi xung.
- TP: Nếu không ai có ý kiến tranh lun gì thêm, xin mời đại din VKS phát biu
hướng x lý v án.
- ĐDVKS đứng lên trình bày bài phát biểu:
- TP: Thay mặt HĐXX tôi tuyên bố kết thúc phn tranh lun, HĐXX vào ngh án.
- TK: Mi mi ngưi đứng đậy
(Mi ngưi đều đứng dậy, HĐXX vào phòng nghị án)
| 1/11

Preview text:

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHÓA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn học: Hành chính cơ bản Hồ sơ : LS.HC.07 Họ và tên: Ngày sinh: Lớp: Khóa: Số báo danh:
Thành phố Hồ Chí Minh ngày tháng năm 2021 BẢN LUẬN CỨ
BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI BỊ KIỆN
LÀ CHỦ TỊCH UBND THÀNH PHỐ A Trong vụ án:
“Khiếu kiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPHC ngày
27/01/2018 của Chủ tịch UBND Thành phố A theo Thông báo thụ lý vụ án số
08/2018/TLST-HC ngày 06/4/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố A, tỉnh B”
Kính thưa: - Hội đồng xét xử;
- Đại diện Viện kiểm sát;
- Quý Luật sư đồng nghiệp
Tôi là Luật sư X thuộc Công ty Luật TNHH A, Đoàn Luật sư tỉnh B.
Tôi tham gia phiên tòa ngày hôm nay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho khách hàng của tôi là Chủ tịch UBND Thành Phố A - cũng là người
bị kiện trong vụ án hành chính này.
Trước hết cho phép tôi xin thay mặt người bị kiện và nhân danh cá nhân xin gửi
đến Hội đồng xét xử, Đại diện Viện kiểm sát và các luật sư đồng nghiệp lời chào trân
trọng và bày tỏ sự tin tưởng về việc xét xử công minh của quý Hội đồng xét xử.
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Ngày 21/03/2018, bà Hoàng Thị Nhân là chủ cơ sở mộc gia dụng Thái Sơn có
địa chỉ tại Lô 18 khóm Tân An, phường Tân Hội, Tp A có đơn khởi kiện đến Tòa án
nhân dân TP A đề nghị tuyên hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-
XPHC ngày 27/01/2018 của Chủ tịch UBND Thành phố A vì cho rằng Quyết định này
là trái quy định pháp luật và xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bà Nhân.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, và nghe phần trình bày của phía luật sư người
khởi kiện, tôi không đồng ý với các quan điểm mà luật sư người khởi kiện đưa ra và 1
không đồng ý với các yêu cầu của người khởi kiện đồng thời khẳng định Quyết định xử
phạt số 44/QĐ-XPHC ngày 27/01/2018 của Chủ tịch UBND Thành Phố B là phù hợp
với quy định của pháp luật.
Trước hết, tôi xin nêu ý kiến của mình về thẩm quyền xét xử vụ án, người bị kiện
trong vụ án này là Chủ tịch UBND TP A. theo khoản 1 điều 31 và khoản 4 điều 32 Luật
TTHC 2015 thì thẩm quyền thụ lý vụ án này thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân
Tỉnh B, chứ không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP A. Do đó, tôi
kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại.
Sau đây tôi xin nêu một số quan điểm để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ tôi – Chủ
tịch UBND Thành Phố B, như sau:
1. Về thẩm quyền ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPHC
ngày 27/01/2018 của Chủ tịch UBND Thành Phố B.
Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 38 Luật xử lý VPHC năm 2012:
“Điều 38. Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có quyền:
b) Phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định
tại Điều 24 của Luật này nhưng không quá 50.000.000 đồng; …”
Và theo Điều 24 của Luật này có quy định về mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực
môi trường là 30,000,000 đồng.
Thực tế quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPHC ngày
27/01/2018 do Phó chủ tịch UBND TPA ký thay Chủ tịch UBND TPA có tổng
mức phạt là 14.500.000 đồng với mức phạt này thì việc ra quyết định xử phạt
hành chính của chủ tịch UBND thành phố A là hoàn toàn đúng thẩm quyền. 2
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Luật XLVPHC 2012, người có
thẩm quyền xử phạt VPHC có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt.
“Điều 54. Giao quyền xử phạt
1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 38; …
của Luật này có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.…”
Bởi các căn cứ trên, chúng tôi khẳng định quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 44/QĐ-XPHC được ban hành đúng thẩm quyền theo quy định pháp luật.
2. Về Trình tự thủ tục ban hành quyết định xử phạt số 44/QĐ-XPHC:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật XP VPHC 2012 “1. Xử phạt vi phạm
hành chính có lập biên bản được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính không thuộc trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản
1 Điều 56 của Luật này.” Trường hợp vi phạm của Cơ sở mộc Thái Sơn thuộc trường
hợp phải lập biên bản vi phạm hành chính, theo đó vào ngày 14/01/2018 Đội quản lý
trật tự đô thị đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với cơ sở mộc Thái Sơn.
2.1 Thủ tục lập Biên bản vi phạm hành chính
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật XLVPHC 2012 quy định: “Trường hợp
vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp
vụ thì việc lập biên bản vi phạm hành chính được tiến hành ngay khi xác định được tổ
chức, cá nhân vi phạm.”
Tiếp theo, Biên bản VPHC được lập theo đúng quy định tại Khoản 2 Điều 58
Luật XL VPHC 2012 “…2. Biên bản vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm,
địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp
của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa
điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo
đảm việc xử lý; tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ; lời khai của người vi phạm
hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại
diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời khai của họ; quyền và thời 3
hạn giải trình về vi phạm hành chính của người vi phạm hoặc đại diện của tổ chức vi
phạm; cơ quan tiếp nhận giải trình….” Và mẫu biên bản số 01 quy định tại Nghị định
81/2013/NĐ-CP về hướng dẫn và biện pháp thi hành Luật XL VPHC.
Về thẩm quyền lập biên bản VPHC, căn cứ để Đội quản lý trật tự đô thị tiến hành
lập biên bản vi phạm hành chính này là tại thông báo của Đội quản lý trật tự đô thị (bút
lục 48) có đề cập “Thực hiện theo chỉ đạo của UBND Thành Phố A theo nội dung công
văn số 364/UBND-KT ngày 30/11/2017 văn số 364/UBND-KT ngày 30/11/2017 v/v xử
phạt vi phạm HC đối với cơ sở mộc bà Hoàng Thị Nhân, khóm Tân an, phường Tân
Hội, thành phố A và kết quả phân tích ngày 15/11/2017 của Trung tâm quan trắc và Kỹ
thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh B” theo đó, Đội Quản lý Trật tự đô thị đã phân
công ông Trần Văn Tuất (cán bộ kiểm tra) phối hợp với phường Tân Hội tiến hành lập
biên bản VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đối với hành vi vi phạm của bà Hoàng
Thị Nhân. Do vậy, biên bản VPHC này được lập đúng thẩm quyền.
Trên cơ sở kết luận của Phòng TNMT TP.A tại Báo cáo số 23/BC-TNMT ngày
26/11/2016 về kết quả kiểm tra cơ sở mộc Hoàng Thị Nhân (bút lục 45) có hành vi vi
phạm của cơ sở mộc Thái Sơn. Ngày 30/11/2017, UBND đã chỉ đạo Đội quản lý trật tự
đô thị TP.A lập biên bản vi phạm hành chính đối với cơ sở mộc Thái Sơn (theo nội dung
Thông báo phân công cán bộ số 24/TB-QLTTĐT (bút lục 48). Tại Thông báo này, biên
bản VPHC của Đội quản lý trật tự đô thị lập dựa vào kết quả phân tích ngày 15/11/2017
của Trung Tâm quan trắc và kỹ thuật TN và MT tỉnh B. Theo đó, kết quả phân tích này
thực hiện trên mẫu không khí được lấy tại ngày kiểm tra ngày 11/11/2017 của đoàn kiểm
tra theo quyết định số 16/QĐ.UBND ngày 8/11/2016 của UBND thành phố về việc kiểm
tra cơ sở mộc gia dụng và cửa sắt của bà Hoàng Thị Nhân (bút lục 43).
Đến ngày 02/01/2018, Đội quản lý TTĐT phân công cán bộ lập biên bản vi phạm
đối với cơ sở mộc của bà Nhân, sau đó, Đội quản lý TTĐT đã lập Biên bản vi phạm
hành chính ngày 14/01/2018 đúng quy định pháp luật, theo sự phân công, chỉ đạo của UBND TP.A.
Về vấn đề bà Nhân nói biên bản VPHC này bà không có ký tên nên không có giá
trị pháp lý là không đúng. 4
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 58 Luật XL VPHC có quy định: “…Trường hợp
người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình trốn
tránh hoặc vì lý do khách quan mà không ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký
của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người chứng kiến.”
Và theo quy định tại Khoản 3 Điều 58 Luật XLVPHC “3. Biên bản vi phạm hành
chính phải được lập thành ít nhất 02 bản, phải được người lập biên bản và người vi
phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký; trường hợp người vi phạm không ký được thì
điểm chỉ; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại
thì họ cùng phải ký vào biên bản; trường hợp biên bản gồm nhiều tờ, thì những người
được quy định tại khoản này phải ký vào từng tờ biên bản. Nếu người vi phạm, đại diện
tổ chức vi phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại
từ chối ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản.” theo quy định này,
trường hợp người đại diện tổ chức vi phạm từ chối ký tên thì người lập biên bản phải
ghi rõ lý do vào biên bản và ngay tại biên bản VPHC của Đội quản lý trật tự đô thị,
người lập biên bản đã có ghi rõ chỗ ký của bà Hoàng Thị Nhân là “có đọc lại biên bản
cho đương sự nghe rõ nhưng không đồng ý ký tên”.
Do vậy, biên bản VPHC vẫn có giá trị pháp lý theo quy định mặc dù người đại
diện cơ sở là bà Hoàng Thị Nhân không ký vào biên bản.
Từ các căn cứ trên cho thấy, biên bản VPHC của Đội quản lý trật tự đô thị là
hợp pháp theo quy định của pháp luật.
2.2 Thời hạn ra quyết định xử phạt
Vụ việc vi phạm của cơ sở mộc Thái Sơn có nhiều tình tiết phức tạp, cần thời
gian để thụ lý, xác minh do liên tục có nhiều đơn phản ánh, kiến nghị của tập thể các hộ
dân cư trú xung quanh và Phòng cảnh sát môi trường Công an tỉnh B chuyển đơn của
nhiều hộ dân đến UBND TP.A để phản ánh cơ sở của bà Nhân gây ô nhiễm môi trường,
làm phát sinh tiếng ồn, thải khí bụi, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của họ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật XLVPHC 2012, thời hạn ra quyết định
xử phạt đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp là tối đa 30 ngày kể từ ngày vi phạm. 5
Đội quản lý TTĐT lập BBVPHC ngày 14/01/2018, đến ngày 27/01/2018, UBND TP.A
ra QĐ xử phạt số 44/QĐ-XPHC là đúng thời hạn theo quy định pháp luật.
Do vậy, căn cứ vào biên bản VPHC trên và được sự giao quyền từ Chủ tịch UBND,
Phó chủ tịch UBND thành phố B ra quyết xử phạt số 44/QĐ-XPHC ngày 27/01/2018 về
xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường đối với Cơ sở mộc của Bà Hoàng Thị
Nhân là đúng với trình tự thủ tục luật định.
3. Về nội dung quyết định xử phạt số 44/QĐ-XPHC ngày 27/01/2018 Chủ tịch
UBND Thành phố A xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường:
Căn cứ để ra hình thức và mức xử phạt đối với cơ sở mộc của Hoàng Thị Nhân là
dựa vào biên bản VPHC của Đội Quản lý trật tự đô thị trên cơ sở biên bản kiểm tra ngày
11/11/2017 và kết quả phân tích mẫu ngày 15/11/2017, xác định cơ sở mộc của bà Hoàng
Thị Nhân có hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường và bị phạt tiền 14,500,000 VNĐ.
Chủ tịch UBND TP.A xử phạt vi phạm hành chính bà Hoàng Thị Nhân đối với các hành vi sau đây:
3.1 Hành vi “không thực hiện nội dung trong bản cam kết bảo vệ môi trường”
Bà Hoàng Thị Nhân đã đăng ký và cam kết thực hiện đề án bảo vệ môi trường
được Phòng TN-MT thuộc UBND TP.A xác nhận theo Giấy xác nhận đăng ký đề án bảo
vệ môi trường số 15/GXN-TNMT ngày 01/2/2017. Trong đó, có nội dung cam kết đáp
ứng quy chuẩn quốc gia về môi trường đối với khí thải, chất thải, tiếng ồn, độ rung…
Tuy nhiên, theo Biên bản kiểm tra cơ sở mộc Thái Sơn ngày 11/11/2017 (BL 40-
41), Đoàn kiểm tra ghi nhận cơ sở mộc của bà Hoàng Thị Nhân không thực hiện đầy đủ
trong Giấy xác nhận đăng ký đề án bảo vệ môi trường số 15/GXN-TNMT ngày 01/2/2017, cụ thể là:
+ Không thực hiện chương trình giám sát môi trường và định kỳ lập báo cáo gửi Phòng TN-MT theo cam kết;
+ Không trang bị thiết bị phòng cháy, chữa cháy;
+ Không lập bảng nội quy cơ sở. 6
Tại Biên bản kiểm tra nên trên, bà Hoàng Thị Nhân thống nhất với nội dung kiểm
tra và không có ý kiến phản đối hoặc giải trình đối với hành vi không thực hiện nội dung cam kết BVMT.
Vì vậy, UBND TP.A xử phạt bà Hoàng Thị Nhân đối với hành vi Không thực hiện
nội dung trong bản cam kết bảo vệ môi trường theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 8
Nghị định 155 với mức phạt tiền 4.000.000 đồng là đúng quy định pháp luật, cụ thể:
2. Hành vi vi phạm quy định về thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường thuộc thẩm
quyền xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp huyện và không thuộc trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều này bị xử phạt như sau:
a) Phạt tiền 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện không
đúng một trong các nội dung kế hoạch bảo vệ môi trường đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác nhận…
2.2. Hành vi gây tiếng ồn, thải bụi vượt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn, chất thải.
Ngày 11/11/2017 (ngày tiến hành kiểm tra cơ sở mộc Thái Sơn), Phòng TNMT
TP.A yêu cầu Trung tâm quan trắc và kỹ thuật tài nguyên môi trường B lấy mẫu xác định
chỉ tiêu bụi và tiếng ồn tại cơ sở mộc Thái Sơn. Căn cứ Biên bản thu mẫy ngày 11/11/2017
và Kết quả phân tích ngày 15/11/2017, Phòng TNMT TP.A đã lập Báo cáo số 23/BC-
TNMT ngày 26/11/2017 khẳng định cơ sở mộc Thái Sơn gây tiếng ồn vượt tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật về tiếng ồn, trong đó, độ ồn cho phép trong khu dân cư xen kẽ khu
vực TM, DV, SX từ 6h-18h là: 75dBA nhưng tiếng ồn do cơ sở mộc gây ra tối đa là 76-
90 dBA là vượt quá so với tiêu chuẩn, quy chuẩn về tiếng ồn.
Hành vi nêu trên của cơ sở mộc Thái Sơn vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 17
Nghị định 155 với mức phạt là từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Vì vậy, UBND
TP.A xử phạt cơ sở mộc của bà Nhân với mức phạt 3.000.000 đồng là hợp lý và đúng quy định pháp luật.
Cũng theo Báo cáo số 23/BC-TNMT ngày 26/11/2017 của Phòng TNMT TP.A,
cơ sở mộc của bà Nhân thải khí bụi vượt quá 1,2 lần so với quy chuẩn về chất thải bụi.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 15 Nghị định 155 (thải bụi vượt quy chuẩn từ 1,1 7
đến dưới 1,5 lần) thì mức phạt đối với hành vi này là từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000
đồng => việc UBND TP.A xử phạt cơ sở của bà Nhân với mức phạt tiền là 7.500.000
đồng là phù hợp, đúng quy định pháp luật.
Quy trình lấy mẫu phân tích: mẫu được lấy tại cơ sở mộc do đại diện của trung
tâm quan trắc và kỹ thuật tài nguyên môi trường tỉnh B tiến hành lấy và có biên bản thu
mẫu theo đúng quy trình quy định tại Khoản 7, 8, 9 Điều 44 Thông tư 24/2017/TT-
BTNMT ngày 1/9/2017 về quy định kỹ thuật quan trắc môi trường. Đồng thời, kết quả
phân tích mẫu ngày 15/11/2017 được thực hiện bởi Trung tâm quan trắc và kỹ thuật Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B – Trung tâm đáp ứng đủ điều kiện thành lập và hoạt động
theo quy định tại NĐ 127/2014/NĐ-CP quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ
quan trắc môi trường. Vì vậy, kết quả phân tích của Trung tâm là có giá trị pháp lý.
Về việc bà Hoàng Thị Nhân yêu cầu Tòa án tiến hành trưng cầu giám định hai kết
quả phân tích lấy mẫu ngày 11/11/2017 của phân của Trung tâm quan trắc và kỹ thuật Tài
nguyên Môi trường và báo cáo kết quả phân tích ngày 20/5/2018 do Trung tâm ứng dụng
Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh B, chúng tôi có ý kiến như sau:
bà Hoàng Thị Nhân có yêu cầu Trung tâm ứng dụng khoa học và công nghệ tiến hành lấy
mẫu, phân tích mẫu tại cơ sở mộc của bà là đúng vì đó là quyền của bà. Tuy nhiên, việc
bà đem kết quả phân tích ngày 20/5/2018 trên cơ sở lấy mẫu ngày 13/5/2018 để so sánh,
đánh giá tính hợp pháp của kết quả phân tích của phía Ủy ban ngày 15/11/2017 trên cơ
sở lấy mẫu ngày 11/11/2017 là không phù hợp. Bởi lẽ vì, thời gian lấy mẫu của hai Trung
tâm được thực hiện cách xa nhau khoảng gần 6 tháng (11/11/2017 và 13/5/2018), với
khoảng thời gian như vậy đã đủ cơ sở của bà Nhân khắc phục được các vi phạm trước đó.
Do vậy, việc đem kết quả phân tích của phía Bà Hoàng Thị Nhân sau này để so sánh với
kết quả của phía Ủy ban thực hiện trước đó khoảng 6 tháng là không phù hợp.
Từ những căn cứ nêu trên, việc ban hành Quyết định xử phạt VPHC số 44
của UBND TP.A là hợp pháp về thẩm quyền, thủ tục và nội dung.
Tại Biên bản lấy lời khai người khởi kiện, bà Nhân cho rằng ngày kiểm tra cơ sở
mộc (11/11/2017) bà không được biết con số độ bụi, độ ồn trong Biên bản kiểm tra ngày
11/11/2017. Tuy nhiên, ngay trong ngày 11/11/2017, khi cơ quan tiến hành lấy mẫu
không khí, đo tiếng ồn để phân tích thì bà Nhân có chứng kiến và ký tên vào Biên bản 8
thu mẫu (BL 42). Đến ngày 15/11/2017 thì cơ quan phân tích mẫu mới lập kết quả phân
tích và gửi cho Phòng TNMT TP.A để báo cáo cho UBND TP.A.
Mặt khác, bà Hoàng Thị Nhân cho rằng theo Biên bản ngày 11/11/2017 có ghi
cho bà 15 ngày để khắc phục thiếu sót đã ghi trong biên bản nên mới đồng ý ký tên vào
biên bản. Tuy nhiên, đối chiếu Biên bản kiểm tra ngày 11/11/2017 thì thời hạn mà bà
Nhân đề cập là thời hạn đoàn kiểm tra yêu cầu bà thực hiện các quy định về pháp luật
lao động, xây dựng vách riêng, làm thủ tục đăng ký phòng cháy chữa cháy, còn vấn đề
liên quan đến vi phạm trong lĩnh vực BVMT thì bà Nhân đã thống nhất với nội dung
kiểm tra và không có ý kiến phản đối nào.
Tôi cho rằng hành vi vi phạm của bà Nhân trong lĩnh vực BVMT là rõ ràng, tồn
tại trong thời gian dài, mặc dù đã nhiều lần yêu cầu khắc phục nhưng cơ sở của bà Nhân
vẫn không thực hiện, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, gây bức xúc, cản trở cuộc
sống bình thường của tập thể người dân sống xung quanh, khiến họ phải liên tục gửi
đơn phản ánh, khiếu nại đến các cấp chính quyền. Vì vậy, việc xử phạt đối với bà Nhân
ngoài mục đích răn đe chấp hành pháp luật còn nhằm mục đích lâu dài hơn đó là hạn
chế tác động xấu đến môi trường và sức khỏe của đa số người dân.
Nay tôi đề nghị Hội đồng xét xử TAND tỉnh B áp dụng quy định điểm a,
khoản 2 Điều 192 Luật TTHC 2015 tuyên bác yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị
Nhân đối với QĐ XPVPHC số 44/QĐ-XPHC ngày 27/01/2018 của UBND TP.A và
yêu cầu Bà Hoàng Thị Nhân chấp hành Quyết định xử phạt này.
KỊCH BẢN CHI TIẾT THỦ TỤC TRANH LUẬN– HỒ SƠ HC 07
- TP: Nếu không ai có yêu cầu hỏi gì thêm, tôi tuyên bố kết thúc phần thủ tục hỏi,
chuyển qua thủ tục tranh luận Tranh luận
- TP: Đề nghị phía luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NKK phát biểu
quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NKK.
- Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NKK đứng lên trình bày bản luận cứ:…
- LS NKK: Thưa HĐXX, tôi đã trình bày xong 9
- TP: Mời LS ngồi. Mời NKK bà Nhân có bổ sung ý kiến tranh luận đối với phần
trình bày của luật sư hay không?
- Bà Nhân đứng lên: Thưa HĐXX…
- TP: Mời bà ngồi xuống
- TP: Đề nghị luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBK phát biểu quan
điểm bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của NBK
- Ông Năm đứng lên trình bày bản luận cứ:…
- Ông Năm: Thưa HĐXX, tôi đã trình bày xong.
- TP: Mời LS ngồi xuống. Mời Đại diện NBK ông Năm có bổ sung ý kiến tranh luận
đối với phần trình bày của luật sư hay không
- TP: Đề nghị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NKK có ý kiến tranh
luận với quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBK
- LS NKK trình bày ý kiến đối đáp:…
- LS NKK: Tôi đã trình bày xong.
- TP: Mời LS ngồi xuống. Đề nghị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NBK có ý kiến tranh luận với quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NKK.
- LS NBK trình bày ý kiến đối đáp:… Tôi đã trình bày xong.
- TP: Mời LS ngồi xuống.
- TP: Mời Bà Nhân đứng lên. Bà có ý kiến đối đáp gì thêm không.
- Bà Nhân: Tôi không có ý kiến gì thêm (hoặc có thì trình bày).
- TP: Mời bà ngồi xuống
- TP: Mời Ông Năm đứng lên. Ông có ý kiến đối đáp gì thêm không.
- Bà Nhân: Tôi không có ý kiến gì thêm (hoặc có thì trình bày).
- TP: Mời Ông ngồi xuống.
- TP: Nếu không ai có ý kiến tranh luận gì thêm, xin mời đại diện VKS phát biểu hướng xử lý vụ án.
- ĐDVKS đứng lên trình bày bài phát biểu:…
- TP: Thay mặt HĐXX tôi tuyên bố kết thúc phần tranh luận, HĐXX vào nghị án.
- TK: Mời mọi người đứng đậy
(Mọi người đều đứng dậy, HĐXX vào phòng nghị án) 10